Nhanbkvn 2024
Chào Mừng Các Bạn Tham Gia Và Chia Sẽ Tại Diễn Đàn Nhanbkvn
Nhanbkvn 2024
Chào Mừng Các Bạn Tham Gia Và Chia Sẽ Tại Diễn Đàn Nhanbkvn
Nhanbkvn 2024
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Nhanbkvn 2024

Chia Sẽ Không Giới Hạn
 
Trang ChínhTrang Chính  Sự kiệnSự kiện  Latest imagesLatest images  PublicationsPublications  Tìm kiếmTìm kiếm  Đăng kýĐăng ký  Đăng NhậpĐăng Nhập  

 

 Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder

Go down 
Chuyển đến trang : Previous  1, 2, 3  Next
Tác giảThông điệp
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder   Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder - Page 2 Icon_minitimeSun Feb 03, 2019 9:09 pm


Chương 32

“Trông cô có vẻ khác.” Sử Trùng Minh quan sát tôi từ chiếc ghế xếp. Chiếc áo khoác ôm chặt lấy người, mái tóc bạc trắng được chải thẳng thớm, dài quá tai, hình như còn bôi cả dầu bóng, để lộ những mảng da đầu màu hồng hồng như bạch tạng. “Cô đang run kìa.”

Tôi nhìn xuống tay mình. Ông nói đúng. Hai tay tôi đang run lên. Vì đói. Sáng hôm qua, khi mặt trời mọc, Jason và tôi đã dùng bữa sáng với những thứ anh mua ở siêu thị. Hình như đó là thứ duy nhất mà tôi nhớ là mình đã ăn suốt hơn ba mươi tiếng đồng hồ qua.

“Tôi nghĩ là cô đã thay đổi.”

“Đúng vậy,” tôi nói. Một ngày rưỡi đã trôi qua và chỉ khi ông gọi điện cho tôi, tôi mới nhắc đến chuyện ở nhà Fuyuki. Sử Trùng Minh muốn đến gặp tôi ngay lập tức, nói rằng ông “sửng sốt” và “thất vọng” khi tôi đã không gọi điện cho ông sớm hơn. Tôi không biết làm thế nào để giải thích cho ông hiểu. Tôi không thể nào miêu tả cho ông cái mà ông không thể nhìn thấy, rằng chỉ trong một ngày, có một cái gì đó mạnh mẽ, ngọt ngào và quen thuộc chợt lan tỏa khắp người tôi giống như một nụ hôn vừa dịu dàng vừa nóng bỏng, và những phiền muộn trước đây đã không còn làm tôi nhức nhối. “Đúng vậy, tôi cũng cho là thế,” tôi nói khẽ.

Dường như ông đang đợi tôi nói thêm điều gì đó. Khi thấy tôi im lặng, ông thở dài, nhìn quanh khu vườn và nói: “Ở đây thật đẹp, người Nhật gọi vườn là Niwa, nơi thanh khiết. Không giống như khu vườn Eden trụy lạc của phương Tây. Đối với người Nhật, khu vườn là nơi sự hài hòa ngự trị. Một vẻ đẹp hoàn hảo.”

Tôi nhìn khu vườn. Nó đã thay đổi so với lần cuối cùng tôi xuống đây. Vẻ đẹp tinh tế của mùa thu đang hiện diện nơi đây. Những cây gỗ thích đã chuyển màu vàng sậm còn những cây bách xù đã bắt đầu rụng lá. Đám cây bụi trơ trụi trông như những bộ sưu tập xương chim khô quắt. Tôi hiểu ý ông nói. Đúng là có cái đó gì rất đẹp trong vẻ tự nhiên của khu vườn. Để nhìn thấy cái đẹp có lẽ cũng cần phải học. “Tôi cũng nghĩ thế.”

Tôi lại nhìn những phiến đá lát đường màu trắng chạy quanh co, nhìn viên đá đánh dấu khu vực cấm của khu vườn và đám cây bụi khẳng khiu. “Đúng là nó rất đẹp.” Tôi nói.

Ông gõ gõ mấy ngón tay lên thành ghế rồi nhìn tôi mỉm cười một cách tư lự. “Cuối cùng thì cô cũng có thể tìm thấy cái đẹp ở đất nước này?”

“Đó không phải là điều mà ông định làm hay sao? Không phải là ông đang muốn điều chỉnh cảm nghĩ của mình hay sao?”

Ông bật ra một tiếng kêu thích thú nho nhỏ. “Ái chà, tôi thấy cô đột nhiên trở nên rất khôn ngoan.”

Tôi khẽ xê dịch trên ghế để chỉnh lại phần thân dưới áo khoác. Tôi chưa kịp tắm và mỗi cử động nhỏ nhất của tôi đều phả ra chút mùi rất riêng của Jason. Bên trong áo khoác, tôi chỉ mặc độc một chiếc áo ngủ ngắn mà tôi mua từ mấy tuần trước ở Omotesando. Đó là một chiếc áo sọc, bó sát, dài quá bụng, ôm lấy hông, với những bông hoa nhỏ xíu bằng lụa đính xung quanh cổ. Tôi vẫn chưa có can đảm cho Jason xem những vết sẹo của mình và anh cũng không thúc ép tôi. Anh tin rằng một ngày nào đó tự tôi sẽ phơi bày mọi chuyện. Anh nói tôi nên tin rằng mỗi người trên hành tinh này đều có được một người hiểu họ. Giống như hai miếng ghép của một trò chơi xếp hình khổng lồ.

“Sao cô không gọi cho tôi?” Sử Trùng Minh hỏi.

“Gì cơ?”

“Sao cô không gọi cho tôi?”

Tôi rút một điếu thuốc, châm lửa hút và nhả khói vào bầu trời không một gợn mây. “Tôi, tôi không biết nữa. Tôi không chắc.”

“Khi cô ở nhà Fuyuki, cô có nhìn thấy gì không?”

“Có thể có. Có thể không.”

“Cô đã nhìn thấy? Cô đã nhìn thấy cái gì đó đúng không?” Ông hơi cúi người ra phía trước và hạ thấp giọng.

“Chỉ là thoáng qua.”

“Thoáng qua cái gì?”

“Tôi không chắc, một loại hộp kính.”

“Cô muốn nói là một cái bể chứa?”

“Tôi không biết. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy cái gì giống như vậy.” Tôi nhả một bụm khói vào không khí. Bây giờ tôi mới để ý những đám mây đang in hình trên khung cửa sổ bằng kính của hành lang. Jason đang ngủ trong phòng của tôi, nằm ngửa trên tấm đệm. Tôi có thể hình dung ra tư thế nằm ngủ của anh trong đầu tôi. Tôi có thể nhớ lại tất cả những chi tiết đó, cách anh khoanh tay trước ngực, hơi thở đều đặn của anh.

“Thế vườn thú thì sao?”

“Vườn thú á?” Tôi nhìn ông.

“Phải, thế cô có nhìn thấy cái gì giống như thế ở vườn thú không? Cái gì đó giống như hộp kính có điều hòa nhiệt độ?”

“Tôi không biết.”

“Nó có máy đo không? Để điều phối không khí bên trong, hay các dụng cụ như nhiệt kế, máy đo độ ẩm?”

“Tôi không biết. Đó là...”

“Là gì? Cô nói là cô nhìn thấy cái gì bên trong cái hộp kính đó.” Sử Trùng Minh nhổm người ra phía trước, nhìn tôi chăm chú.

Tôi chớp mắt nhìn ông. Ông đã nhầm. Tôi không hề nói thế.

“Có thể là cái gì đó... lớn chừng này.” Ông nói và giơ hai tay ra để diễn tả một vật có kích thước của một con mèo nhỏ.

“Không, tôi không nhìn thấy gì cả.”

Sử Trùng Minh mím chặt miệng lại và nhìn tôi một lúc lâu, nét mặt không hề thay đổi. Tôi có thể nhìn thấy mồ hôi bắt đầu vã ra trên trán ông. Ông thò tay vào túi rút ra một chiếc khăn mùi soa lau trán. “Đúng vậy, tôi thấy là cô đã thay đổi ý định, có đúng không?” Ông cất chiếc khăn mùi soa trở lại vào túi rồi thở dài nói.

Tôi búng tàn thuốc xuống đất và cau mày nhìn ông.

“Tôi đã tốn biết bao thời gian cho cô và giờ đây cô thay đổi ý định.”

Ông ra về bằng cửa chính và tôi trở về phòng của mình. Hai chị em sinh đôi đang quanh quẩn trong nhà nấu nướng và chành chọe nhau. Trong khi tôi nói chuyện với Sử Trùng Minh thì Jason đã đến quán One Stop Best Friend Bento mua cơm, cá và dưa góp. Khi tôi bước vào phòng thì anh đang nằm trên đệm đợi tôi, thức ăn bày trên bàn trang điểm cùng với một chai rượu mận và hai chiếc ly xinh xắn màu tím nhạt. Tôi khóa cửa và bước tới bên tấm đệm, vừa đi vừa cởi áo khoác.

“Thế nào? Ông bạn già đó là ai vậy?”

Tôi quỳ xuống ngay trước mặt anh. Tôi chỉ mặc độc chiếc áo ngủ mà không mặc quần nịt. Anh tách hai đầu gối của tôi ra và luồn tay vào giữa hai đùi tôi. Cả hai chúng tôi đều nhìn xuống khoảng da thịt mà anh vừa khai phá. Tôi nghĩ chúng hơi cổ điển, không giống như vẻ đẹp hiện đại bây giờ. Không hiểu sao Jason lại thích chúng đến thế.

“Ông bạn ở trong vườn là ai đấy?”

“Một người ở trường đại học.”

“Ông ta nhìn em như thể em đang nói những điều có cánh.”

“Không hẳn thế. Bọn em nói về công trình nghiên cứu của ông ấy. Không thể gọi đó là những lời có cánh.”

“Tốt. Anh không muốn em nói những lời có cánh với bất cứ ai. Em ở với ông ta quá lâu.”

“Quá lâu ư?”

“Đúng vậy.” Anh nói và xòe tay ra trước mặt tôi. “Thấy không?”

“Thấy gì?”

Anh từ từ gập những ngón tay vào lòng bàn tay, ánh đèn lờ mờ trong phòng lấp lánh trên những móng tay gẫy. Tôi nhìn những ngón tay của anh như bị thôi miên. Chúng từ từ vươn ra từ lòng bàn tay, nhẹ nhàng bay vào không khí, ngang dưới mắt tôi, rồi vỗ cánh như một con chim, bay chệnh choạng rồi bổ nhào xuống. Đó là con sếu ma thuật của Sử Trùng Minh. Con sếu của quá khứ.

“Anh theo dõi bọn em,” tôi nói, mắt vẫn không rời khỏi bàn tay giả làm con sếu của anh. “Lần gần đây nhất.”

Anh cười rồi làm con chim bay xuống một cách chậm rãi và duyên dáng. Con chim uốn lượn, bay lên rồi lại chao xuống. Tay anh giơ lên hạ xuống, uốn lượn, miệng huýt sáo. Đột nhiên, con chim quay đầu và bay tới trước mặt tôi, những ngón tay của anh chĩa ra phía trước, nhắm thẳng mặt tôi vỗ cánh. Tôi bật người ra sau, thở gấp.

“Đừng làm thế!” Tôi nói. “Đừng.”

Anh vẫn cười. Anh ngồi dậy, túm lấy tay tôi kéo lại gần. “Em có thích thế không?”

“Anh đang chọc em.”

“Chọc em à? Không. Anh không chọc em. Anh biết thế nào là nghiên cứu khoa học.”

“Không.” Tôi cố cưỡng lại vòng tay của anh. “Em không hiểu nổi anh nữa.”

“Em sẽ không làm nên trò trống gì đâu.” Anh cười và dịu dàng kéo tôi lại gần hơn nữa, thả đầu xuống tấm nệm cầm lấy tay tôi đưa lên miệng, dùng lưỡi liếm lòng bàn tay tôi rồi cắn nhẹ vào đó. “Em sẽ không làm nên trò trống gì nếu cứ giả vờ trước mặt anh.”

Tôi nhìn hàm răng trắng muốt và sạch bóng của anh, thán phục sự khỏe khoắn và sạch sẽ của chúng. “Em không giả vờ,” tôi lẩm bẩm.

“Em lại quên rồi đúng không?” Anh luồn hai tay vào giữa khe đùi, vuốt ve chỗ kín của tôi, mắt không rời khỏi gương mặt tôi. Tôi khẽ chạm tay lên môi anh khi anh nói: “Em lại quên rằng anh chỉ cần nhìn em là anh biết hết mọi thứ, mọi thứ đang diễn ra trong đầu em.”


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder   Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder - Page 2 Icon_minitimeSun Feb 03, 2019 9:09 pm


Chương 33

史 Nam Kinh, ngày 19 tháng Mười hai năm 1937 (ngày mười bảy tháng Mười một âm lịch)

Mấy trăm năm trước khi chiếc la bàn lớn bằng đồng dùng để đo phương vị được chuyển từ thành phố Lâm Phần tỉnh Sơn Tây tới núi Tử Kim thì nó đột nhiên bị hỏng một cách hết sức khó hiểu. Người ta sửa chữa bằng mọi cách nhưng chiếc la bàn vẫn không hoạt động. Mấy phút trước đây, khi hé mắt qua tấm chắn bên cửa sổ nhìn về núi Tử Kim tôi chợt nghĩ có khi là vì ngay khi được đặt lên sườn núi băng giá, dưới những vì sao trên bầu trời lạnh lẽo thì chiếc đồng hồ cũng đã đọc được những gì mà Thu Kim nhìn thấy. Tương lai của Nam Kinh. Và ngay sau khi nhìn thấy cái tương lai đó, nó đã quyết định bỏ rơi thành phố này.

Đủ rồi. Tôi phải ngừng suy nghĩ theo kiểu này, nào là các linh hồn, các thầy bói, các nhà tiên tri. Tôi biết tất cả những chuyện này đều hết sức điên rồ, nhưng dù đang đứng yên ổn trong chính thư phòng của mình nhưng tôi vẫn không khỏi rùng mình khi nghĩ tới việc bằng cách nào đó mà Thu Kim có thể nhìn thấy tất cả những chuyện này trong các giấc mơ của cô ấy. Đài phát thanh đưa tin rằng, đêm qua nhiều tòa nhà gần trại tị nạn đã bị thiêu cháy, vào lúc tôi và ông Lưu đang trốn trên mái nhà. Trung tâm y tế của thành phố Nam Kinh cũng nằm trong số đó. Không hiểu bệnh nhân sẽ phải dời đi đâu? Chúng tôi định sinh con ở đó, giờ thì không biết phải làm thế nào nữa.

Bất chấp những gì xảy ra sáng nay, tôi và ông Lưu vẫn không thể nói được một câu là: “Có lẽ chúng ta đã sai rồi.” Khi rời khỏi ngôi nhà hoang chiều hôm đó, sau khi lính Nhật bỏ đi và đường phố trở lại yên tĩnh, cả hai không ai nói với nhau câu nào. Chúng tôi chỉ còn biết cắm đầu cắm cổ chạy. Chưa bao giờ tôi chạy nhanh đến thế, trong đầu chỉ có độc một ý nghĩ: dân thường. Dân thường. Dân thường. Chúng đang giết hại dân thường. Tất cả những gì tôi đã tưởng tượng ra, tất cả những gì tôi tự thề với mình, đã bắt Thu Kim phải tin hóa ra đều sai cả. Quân Nhật không phải là những người văn minh. Chúng tàn sát dân thường. Đúng là không có người phụ nữ nào trong đám đông đó, nhưng ngay cả điều này cũng không khiến nỗi phiền muộn của tôi thuyên giảm được bao nhiêu. Không có người phụ nữ nào. Tôi cứ nhắc đi nhắc lại từ này trên đường về nhà. Không có người phụ nữ nào.

Khi tôi xô cửa bước vào nhà, thở hồng hộc, cả người đẫm mồ hôi, mắt tê dại, Thu Kim giật nảy người, đánh đổ cả cốc nước trên bàn. Cô ấy đã khóc suốt đêm hôm qua. Má cô ấy vẫn còn hoen nước mắt. “Em cứ nghĩ là mình đã chết rồi,” cô ấy nói rồi bước về phía tôi. Cô ấy sờ lên mặt tôi. Rồi cô ấy nhìn thấy vẻ mặt tôi và dừng lại. “Trùng Minh, có chuyện gì vậy?”

“Không có gì,” tôi khép cửa rồi đứng dựa lưng vào đó một lúc để lấy lại hơi.

“Em thì có. Em tưởng mình đã chết rồi.”

Tôi lắc đầu. Trông cô ấy tái nhợt và vô cùng yếu ớt. Bụng cô ấy rất to nhưng thân hình vẫn mảnh mai. Bản năng mới dễ làm chúng ta thương tổn làm sao, tôi nghĩ và nhìn xuống bụng của cô ấy, nơi con trai của chúng tôi đang lớn lên từng ngày. Chẳng bao lâu nữa con chúng tôi sẽ ra đời, nỗi lo lắng, sợ hãi, sự nguy hiểm sẽ nhân đôi và cả nỗi đau nữa, cũng sẽ được nhân đôi. Tôi sẽ phải bảo vệ thêm một sinh mạng nữa.

“Trùng Minh, chuyện gì đã xảy ra vậy?”

Tôi nhìn cô ấy và liếm môi.

“Chuyện gì thế Trùng Minh, lạy trời, xin mình hãy nói cho em biết chuyện gì đã xảy ra.”

“Không có thức ăn. Tôi không thể tìm thấy thức ăn.”

“Mình chạy như ma đuổi về đây chỉ để nói với em rằng mình không tìm thấy thức ăn?”

“Xin lỗi mình, tôi muốn xin lỗi mình.”

“Không đúng,” cô ấy nói và đứng sát lại gần tôi, nhìn thẳng vào mặt tôi. “Không đúng, có chuyện gì đó quan trọng hơn thế. Mình đã nhìn thấy nó. Mình đã nhìn thấy những gì mà em đã linh cảm từ trước, có đúng không?”

Tôi ngồi phịch xuống ghế thở hắt ra. Tôi cảm thấy mình là người đàn ông mệt mỏi nhất trên đời này. “Mình hãy ăn mấy quả trứng chào đời đó đi,” tôi nói. “Làm ơn, hãy ăn nó vì tôi, và vì mặt trăng bé bỏng của chúng ta.”

Thật bất ngờ là lần này cô ấy lại nghe lời tôi. Như thể cô ấy cảm nhận được nỗi tuyệt vọng của tôi. Cô ấy không ăn trứng nhưng cô ấy có một số hành động chứng tỏ cô ấy có nghĩ tới ý kiến của tôi. Thay vì lao vào một cơn cuồng tín như mọi khi, cô ấy ăn những hạt đỗ mà cô ấy để dành nhồi gối cho em bé. Cô ấy lấy gối từ trên gác xuống, rạch nó ra rồi trút các hạt đỗ vào chảo và nấu chín. Cô ấy đưa cho tôi một ít nhưng tôi từ chối. Tôi nhìn cô ấy ăn, mặt không có biểu hiện gì.

Bụng tôi đau không chịu nổi, giống như có một vết thương đang há mõm to bằng quả bầu nằm ngay dưới xương sườn. Đây chắc là triệu chứng của bệnh đói dù tôi mới phải nhịn đói có ba ngày. Nhưng rồi chắc chắn đây mới chính là điều tệ hại nhất, khi chúng tôi chuẩn bị đi ngủ thì cái mùi thức ăn ở đâu lại bay đến. Cái mùi thịt nướng thơm ngon, quyến rũ khủng khiếp, khiến tôi gần như phát điên. Tôi chỉ chực đứng phắt dậy và phi ra ngoài đường một lần nữa bất chấp những mối hiểm nguy đang chờ đợi tôi ở ngoài đó. Chỉ khi tôi nhớ lại gương mặt những tên sĩ quan Nhật đó, nhớ lại những chiếc xe tăng lao ầm ầm trên đường phố và âm thanh của những khẩu súng trường khi lên đạn thì tôi mới đành ngã vật xuống giường và hiểu rằng mình phải tìm một cách khác.

史 Nam Kinh, ngày 20 tháng Mười hai năm 1937

Chúng tôi ngủ chập chờn, chân vẫn đi nguyên giày. Gần sáng chúng tôi bị đánh thức bởi những tiếng la hét kinh hoàng. Dễ dàng nhận thấy đó là giọng của một người phụ nữ và dường như chỉ cách đây vài dãy phố. Tôi nhìn sang Thu Kim, cô ấy đang nằm im, gối đầu lên chiếc gối mây, mắt dán vào trần nhà. Trong suốt năm phút liền, tiếng la hét mỗi lúc một thảm thiết rồi nhỏ dần thành những tiếng nức nở trước khi tắt hẳn. Sau đó, chúng tôi nghe thấy tiếng một chiếc môtô gầm rú lao qua hẻm khiến các tấm cửa chớp rung lên và suýt làm đổ tách trà đặt ở đầu giường.

Cả tôi và Thu Kim đều nằm im không nhúc nhích khi nhìn thấy một vệt ánh sáng màu đỏ lướt trên trần nhà. Trước đó có thông báo nói rằng quân Nhật đã đốt cháy các ngôi nhà ở gần hồ Huyền Vũ nhưng chắc chắn đó không phải là những ngọn lửa tôi đang nhìn thấy di chuyển trên trần nhà mình. Một lúc lâu sau, Thu Kim ngồi dậy và đi xuống bếp. Tôi đi theo cô ấy và nhìn cô ấy không nói không rằng lấy tro bôi đầy lên mặt cho đến khi chính tôi cũng không nhận ra cô ấy nữa. Cô ấy còn bôi lên cả cánh tay, lên tóc và cả vào tai. Rồi cô ấy sang một phòng khác và trở lại với một chiếc kéo trên tay. Cô ấy ngồi vào góc phòng, mặt không chút biểu cảm, túm lấy một lọn tóc và bắt đầu cắt.

Mặc dù tiếng la hét đã tắt ngấm từ lâu và thành phố đã trở nên yên tĩnh, trong lòng tôi vẫn tràn ngập một nỗi bất an. Tôi ngồi bên chiếc bàn làm việc, cửa sổ mở hé, không biết phải làm gì. Bây giờ, chúng tôi vẫn có thể cố gắng bỏ trốn nhưng tôi biết là quá muộn, cả thành phố đã bị phong tỏa. Bên ngoài, trời bắt đầu sáng, những tia nắng mặt trời đang cố len lỏi qua làn chướng khí màu vàng u uất bao trùm lên cả thành phố trong những ngày qua. Không hiểu đám sương mù này từ đâu tới? Không phải từ ống khói của các nhà máy ở Hạ Quan lẫn với sương trên sông Dương Tử vì các nhà máy này đều đã bị đóng cửa. Thu Kim thể nào cũng nói rằng đó là một thứ khác: một tấm màn chất chứa toàn bộ động thái của cuộc chiến tranh này. Cô ấy sẽ nói rằng đó là những oan hồn vất vưởng không nơi chôn cất, là những tội ác ngút trời, tất cả đã hòa quyện lại trong cái làn không khí nóng bức bao trùm lấy thành phố bị nguyền rủa này. Và rằng ngay cả những đám mây trên bầu trời rồi cũng sẽ nhuốm đầy độc tố, rằng đây đúng là một đòn chí tử đánh vào thiên nhiên khi có quá nhiều oan hồn tụ về một nơi như thế.

Và tôi là ai mà lại dám cãi lại cô ấy. Những gì xảy ra chỉ chứng minh một điều, bất chấp những gì tôi đã nghi ngờ từ bao lâu nay, tôi không phải là một người dũng cảm, cũng không hề khôn ngoan.


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder   Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder - Page 2 Icon_minitimeSun Feb 03, 2019 9:09 pm


Chương 34

Đột nhiên, chỉ sau một đêm, tôi bỗng không còn cảm thấy sợ Tokyo nữa. Thậm chí thành phố này còn có nhiều điều khiến tôi ưa thích. Tôi thích cái quang cảnh phía bên dưới cửa sổ phòng mình, chỉ cần thấy bầu trời xâm xẩm là có thể đoán trước được một cơn dông sắp xuất hiện ở đằng Đông. Những ống khói trên nóc câu lạc bộ như đang co lại, xả lên bầu trời đen kịt những luồng khói màu đỏ. Những luồng khói này phả vào gió tạo nên tiếng rin rít ghê người cho đến khi ai đó trong tòa nhà nhớ ra và cắt điện các ống xả.

Năm đó các nhà đầu tư mạo hiểm đã cố tình phô trương sự giàu có trên các tòa nhà chọc trời của họ nhưng tôi vẫn nhận thấy sự suy thoái kinh tế đang gặm nhấm đất nước này. Ở đây tôi cảm thấy hạnh phúc. Tôi thích cái cách không ai tò mò nhìn tôi khi ở trên tàu điện. Tôi thích những cô gái vừa đi vừa nhảy trên đường phố, quần jean thêu đầy họa tiết ở phía sau, kính râm to đùng, lông mi chuốt nhũ đỏ lấp lánh tậu được từ các cửa hàng ở Omotesando. Tôi thích người dân nơi đây, ai cũng có cái gì đó lạ thường. Cái đinh nào nhô ra sẽ bị đóng vào ngay. Trước đây, tôi vẫn nghĩ về người Nhật như thế. Một dân tộc, một đạo lý. Thật buồn cười khi mọi chuyện không phải lúc nào cũng diễn ra như bạn đã hình dung.

Tôi bắt tay vào sửa sang lại căn phòng của mình, tống hết đống đồ đạc cũ ra ngoài, kể cả đống ga cũ trong góc phòng. Tôi lau chùi căn phòng sạch sẽ đến từng centimét, mua một tấm thảm tatami mới và thay cả bóng đèn trong phòng. Trong góc phòng, trên tấm lụa dán tường, tôi vẽ một bức tranh, trong đó Jason đang ngồi ngoài vườn bên cạnh chiếc đèn đá. Anh đang hút thuốc, mắt nhìn ai đó ngoài khuôn hình, ai đó đang di chuyển hay đang khiêu vũ dưới ánh mặt trời. Còn tôi thì đứng ngay sau lưng của anh, ngước nhìn lên những tán cây. Tôi vẽ mình rất cao với mái tóc óng ánh và một nụ cười trên môi. Trong tranh, tôi bận một chiếc váy xatanh màu đen do Suzie Wong thiết kế và một chân hơi quỳ xuống phía trước.

Tôi mua một bộ kim chỉ và một tá những hạt cườm màu vàng và bạc trong một cửa hàng có tên là La Droguerie. Vào một ngày thứ Bảy, tôi thắt khăn lên đầu, mặc chiếc quần công nhân Trung Quốc bằng vải lanh màu đen rồi đứng hàng tiếng đồng hồ để khâu những hạt cườm ấy thành chòm sao trên tấm lụa dán tường rách nát, ngay phía trên những tòa nhà Tokyo đen đúa mà tôi vẽ lần trước. Khi tôi khâu xong thì những vệt rách trên bầu trời đã biến mất, thay vào đó là những dòng sông màu vàng và bạc lấp lánh. Hiệu quả thật không ngờ, tôi có cảm giác mình đang sống dưới một vì sao đang chực nổ tung.

Buồn cười nhất là tôi có thể hạnh phúc dù câu chuyện giữa tôi và Sử Trùng Minh đang chẳng đi tới đâu. Hình như có cái gì đó đã thay đổi. Như thể cái tâm trạng bồn chồn, háo hức của tôi khi mới tới Tokyo đã biến mất và nhập vào người ông.

Ngày thứ Hai sau bữa tiệc của Fuyuki, tôi đã cố gắng thuyết phục Strawberry kể cho mình những câu chuyện mà bà ta nghe được. Tôi ngồi xuống trước mặt bà ta và nói: “Tôi có ăn một ít thịt trong bữa tiệc. Có cái vị gì đó rất lạ.” Khi bà ta không nói gì, tôi cúi người về phía trước, hạ giọng xuống thì thào: “Và rồi, tôi chợt nhớ ra là bà có dặn tôi không được ăn gì cả.”

Bà ta nhìn tôi chăm chú. Có vẻ như bà ta định nói gì đó nhưng lại thôi. Thay vào đó, bà ta đứng bật dậy, hất đầu về phía hình phản chiếu của bà ta trong tấm kính cửa sổ và nói giọng thản nhiên như tôi chưa hề hỏi han bà điều gì: “Nhìn này, đây là chiếc váy xinh đẹp trong bộ phim Bus Stop đấy.” Chiếc váy choàng bà ta đang mặc có màu xanh sẫm, với một lớp lưới màu đen ở bên ngoài, cổ viền lông và khuy ngực không cài để lộ bộ ngực đầy đặn nhờ thẩm mỹ. Bà ta đưa tay vuốt dọc hai bên váy. “Chiếc váy này đúng là hợp với tạng người của Strawberry đúng không? Còn hợp với Strawberry hơn là với Marilyn ấy chứ.”

“Tôi nói là tôi nghĩ mình đã ăn phải cái gì đó không ổn.”

Bà ta quay sang nhìn tôi, vẻ nghiêm trọng, đầu lắc lư do uống quá nhiều champagne. Tôi có thể nhìn thấy quai hàm của bà ta khẽ chuyển động dưới lớp da. Bà ta đặt một tay lên bàn rồi nghiêng người về phía trước, sát đến nỗi mặt chúng tôi gần như chạm vào nhau, và nói khẽ: “Cô nên quên chuyện này đi, Mafia Nhật Bản rất phức tạp. Cô không hiểu nổi đâu.”

“Nó có một cái vị mà tôi không thể nhận ra được. Mà không chỉ có tôi nghĩ thế, ông Bai cũng vậy, ông ta cũng cho rằng có cái gì đó rất lạ.”

“Ông Bai à? Cô nghe cái ông Bai đó à? Ông ta giống như con chó cảnh của Fuyuki. Như con chó mặc quần áo. Ông ta từng là một ca sĩ nổi tiếng nhưng giờ thì hết rồi. Mọi chuyện sẽ ổn cho đến khi...” Bà ta giơ tay lên cảnh cáo. “Cho đến khi ông ta phạm sai lầm.” Bà ta đưa tay lên kéo ngang cổ. “Ai cũng có thể phạm sai lầm. Hiểu chưa?”

Tôi nuốt nước bọt và nói rất từ tốn: “Tại sao bà lại bảo tôi đừng ăn gì?”

“Tất cả đều chỉ là tin đồn. Chuyện ngồi lê đôi mách ấy mà.” Bà ta vớ lấy một chai champagne rót đầy ly, uống một hơi cạn rồi ve vẩy chiếc ly rỗng trước mặt tôi. “Grey-san này, đừng bao giờ nhắc lại những gì tôi đã nói với cô. Hiểu không?” Bà ta lắc lắc chiếc ly, tôi có thể thấy là bà ta đang rất nghiêm túc. “Cô có muốn sống vui vẻ không? Muốn sống vui vẻ và làm việc trong một hộp đêm cao cấp không? Muốn ở Some Like It Hot không?”

“Ý bà là gì?”

“Cái miệng cô ấy. Nhớ giữ mồm giữ miệng, nghe chưa?”

Dĩ nhiên điều đó cũng có nghĩa là ngày hôm sau khi Sử Trùng Minh gọi điện đến, tôi chẳng có gì để kể cho ông. Ông tỏ ra không hài lòng chút nào: “Tôi thấy thái độ của cô rất kỳ quặc. Tôi cứ tưởng cô muốn xem đoạn phim của tôi đến mức tuyệt vọng cơ đấy.”

“Thì đúng là như thế.”

“Thế thì hãy làm ơn giải thích cho cái ông già này, người vốn không tài nào hiểu được cái thói thay đổi thất thường của đám thanh niên như cô là tại sao cô lại đột nhiên không muốn nói chuyện với tôi nữa?”

“Không phải là tôi không muốn, tôi chỉ không biết điều ông muốn nghe là gì. Tôi không thể bịa chuyện ra để nói được. Giờ tôi thật chưa có tin gì mới.”

“Đúng thế, đúng như tôi dự đoán, cô đã thay đổi ý định, hay là tôi sai?” Ông nói, giọng run lên vì giận dữ.

“Đúng vậy...”

“Tôi thấy chuyện này không thể chấp nhận được. Cô đã khiến tôi phải nỗ lực rất nhiều.” Tôi có thể nhận ra ông đang cố để không hét lên. “Và giờ thì cái thái độ thay đổi thất thường thế này đây. Mới thất thường làm sao khi lại còn nói là cô không còn liên quan gì tới chuyện này nữa.”

“Tôi đâu có nói thế...”

“Tôi nghĩ là có đấy.” Ông khẽ ho lên một tiếng và từ ống nghe phát ra một tiếng động rất lạ như thể ông vừa thở hắt ra. “Tôi tin là thế. Linh tính bảo tôi thế. Và tôi nên tin vào nó. Tạm biệt cô.” Và ông dập máy.

Còn lại một mình tôi trong căn phòng khách lạnh lẽo với chiếc ống nghe câm lặng trên tay, mặt đỏ bừng bừng. Không, tôi nghĩ. Ông đã nhầm rồi Sử Trùng Minh, ông đã nhầm rồi. Tôi nhớ lại cái bóng của mụ Y Tá đang leo lên cầu thang, còn tôi đứng đằng sau cánh cửa buồng tắm, tim như sắp rớt ra khỏi lồng ngực, đầu quay cuồng bởi bức ảnh hiện trường tội ác của mụ ta. Tôi nhắm mắt lại, lấy tay day day hai mí mắt. Tôi đã làm quá nhiều chuyện, đã đi quá xa và tôi không hề thay đổi ý định, chỉ là do cái bức ảnh đó, giống như tôi đang nhìn vào một cảnh tượng hết sức quen thuộc qua một cửa sổ mờ hơi nước. Không phải vậy sao? Tôi thả tay xuống và nhìn ra ngoài cửa, nhìn cái hành lang dài hun hút bụi bặm, lác đác vài tia nắng lấp lóa trên sàn. Jason đang ngủ trong phòng tôi. Chúng tôi đã thức đến gần năm giờ sáng, uống bia mua từ chiếc máy tự động trên phố. Có cái gì đó rất lạ kỳ đang hé mở trong lòng tôi. Một cái gì đó mà tôi không tài nào đoán ra được. Chuyện gì sẽ xảy ra, tôi nghĩ, rùng mình trước hơi lạnh buổi sáng, chuyện gì sẽ xảy ra nếu như tôi có thể tìm thấy sự thanh thản cho mình bằng một cách khác? Giờ đây, nó không phải là một cái gì đó sao.


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder   Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder - Page 2 Icon_minitimeSun Feb 03, 2019 9:09 pm


Chương 35

Những lời oán trách của Sử Trùng Minh xem ra cũng chả giúp ích được gì vì Fuyuki không hề xuất hiện ở hộp đêm trong nhiều ngày. Và rồi trong nhiều tuần, tôi bất chợt nhận ra mình không còn nhảy dựng lên mỗi khi nghe thấy tiếng chuông thang máy. Có cái gì đó đã trượt dần ra khỏi tiềm thức của tôi. Và suốt một thời gian dài tôi không làm gì cả, chỉ quan sát mọi chuyện với vẻ lãnh đạm, châm một điếu thuốc và nhún vai, nghĩ đến Jason, đến những cơ bắp trên cánh tay anh và cách chúng rung lên thế nào khi cả người anh ở phía trên tôi.

Tôi cũng không tài nào tập trung vào công việc ở hộp đêm. Tôi thường xuyên bừng tỉnh khi nghe ai đó gọi tên mình và bắt gặp một khách hàng nào đó đang nhìn mình hết sức lạ lùng hoặc Mama Strawberry đang cau mày nhìn tôi, và tôi biết rằng câu chuyện đã tàn và trông tôi giống như một kẻ thất thần vì còn bận thả hồn ở tận đẩu đâu với Jason. Đôi khi anh cũng nhìn tôi trong lúc làm việc. Nếu tôi bắt gặp thì anh sẽ lia lưỡi giữa hai hàm răng để trêu tôi. Anh luôn thích thú khi nhìn thấy cả người tôi nổi da gà. Hai chị em người Nga vẫn không ngừng nhắc nhở tôi về những bức ảnh kỳ dị của anh, đặt ngón tay lên môi cảnh báo và thì thầm vào tai tôi tựa đề những bộ phim kinh dị về giải phẫu tử thi. “Cứ tưởng tượng xem, một người phụ nữ bị xe tải nghiến làm hai mảnh.” Nhưng tôi không còn nghe họ nữa. Giữa đêm, nếu như tôi có bất chợt tỉnh giấc và nghe thấy hơi thở của một người khác bên cạnh tôi, tiếng Jason lấy tay dụi mặt trong giấc ngủ hay tiếng anh trở mình và lẩm bẩm những lời vô nghĩa thì tôi chỉ cảm thấy một cảm giác hạnh phúc đến nghẹt thở. Tôi tự hỏi không biết có phải mình đang yêu hay không. Ý nghĩ đó làm tôi cảm thấy choáng váng và ngạt thở. Điều đó là có thể sao? Những người như tôi cũng có thể yêu hay sao? Tôi cũng không dám chắc nữa. Đôi khi tôi nằm chong chong hàng tiếng đồng hồ chỉ nghĩ tới chuyện đó, hít thở sâu và cố giữ bình tĩnh.

Tôi vẫn giấu Jason về những vết sẹo trên bụng mình. Tôi luôn tìm ra một lý do nào đó để lần lữa việc thú nhận với anh về chuyện đó. Tôi đã mua tới mười chiếc áo ngủ, xếp gọn gàng trong tủ và lúc nào cũng mặc một cái trên người, ngay cả khi đi ngủ, nằm cuộn tròn và quay lưng lại phía anh. Tôi không biết phải bắt đầu như thế nào. Phải nói thế nào mới đúng? Jason, ngày xưa, lâu lắm rồi có một số người nghĩ là em bị điên. Em đã phạm phải một sai lầm... Nếu anh trở nên sợ hãi thì sao? Anh ấy cứ luôn miệng nói là anh ấy sẽ không sợ nhưng làm sao bạn có thể giải thích cho anh ấy rằng, chỉ cần hiểu được chuyện đó hay thậm chí chỉ cần ảo tưởng về chuyện đó cũng đủ mang lại cho bạn cảm giác tuyệt vời nhất mà bạn có thể nghĩ tới, nó cũng tuyệt vời như cái ý nghĩa là quyển sách màu da cam là có thật, bạn đã không hề tưởng tượng ra nó, và rồi nếu như bạn nắm lấy cơ hội và kể chuyện đó cho một người, và rồi nếu như kết quả lại không diễn ra theo như ý bạn muốn... thì, nó sẽ giống như, giống như bạn đang chết dần chết mòn đi. Giống như rơi vào một cái hố đen hết lần này tới lần khác.

Tôi bắt đầu có những giấc mơ kỳ lạ về làn da của mình. Trong những giấc mơ đó, làn da của tôi như tuột ra và bay lên, giống như nó được bóc ra khỏi cơ thể tôi bằng cách giật các lớp khuy bấm nằm dọc theo đốt sống và dưới hai cánh tay. Rồi cả mảng da đó bay lên không trung như một bóng ma và chỉ chực biến mất. Thế nhưng hình như luôn có cái gì đó giữ nó lại. Có cái gì đó khiến tôi rùng mình nhìn xuống và phát hiện ra cái dù lóng lánh tuyệt đẹp làm bằng da ấy đang bị buộc chặt vào những vết sẹo nằm chéo trên bụng tôi, máu me đầm đìa. Rồi tôi bắt đầu khóc và điên cuồng cào cấu để dứt bỏ đám da đó khỏi người mình cho đến khi cả người tôi đẫm máu và tôi bắt đầu run lên...

“Grey?”

Một đêm, tôi giật mình tỉnh giấc, mồ hôi vã ra như tắm, những hình ảnh trong cơn ác mộng vụt biến như bóng đêm. Mọi thứ xung quanh tôi tôi sẫm ngoại trừ ánh đèn từ bức quảng cáo Mickey Rourke, tôi đang nằm nghiêng, túm chặt lấy Jason, tim đập thình thịch. Hai chân tôi quắp chặt vào người anh, còn anh đang nhìn tôi với vẻ ngạc nhiên.

“Gì vậy? Em đã làm gì vậy?”

“Đang cọ vào người anh.”

Tôi quờ quạng dưới lớp chăn. Chiếc áo ngủ của tôi nhàu nát và ướt đẫm mồ hôi. Tôi kéo nó xuống quá hông rồi lấy hai tay ôm mặt, cố gắng lấy lại bình tĩnh.

“Này, đừng sợ.” Jason gạt mấy sợi tóc dính trên trán tôi rồi nhẹ nhàng nhấc tôi lên cao hơn một chút cho đến khi tôi có thể nhìn thấy mặt anh. “Nằm đây nào.” Anh hôn lên mặt tôi, rồi dịu dàng vuốt ve tôi. Chúng tôi cứ nằm như thế một lúc cho đến khi tim tôi không còn đập thình thịch nữa. “Em ổn chứ?” Anh ghé miệng vào tai tôi thì thầm.

Tôi gật đầu, đầu gối co lên gần chạm vào mắt. Trời tối và lạnh. Tôi có cảm giác như mình đang trôi nổi bồng bềnh. Jason lại hôn tôi. “Nghe này, cô bé lập dị,” anh dịu dàng nói, đặt tay lên gáy tôi, “anh có một ý kiến.”

“Một ý kiến?”

“Cực hay. Anh biết em cần gì. Anh sẽ kể cho em một chuyện làm em thích thú.”

“Thật không?”

Anh nắm lấy vai tôi và âu yếm xoay tôi nằm quay lưng lại phía anh. Tôi có thể cảm thấy hơi thở của anh phả trên gáy tôi. “Nghe này, em có muốn anh làm cho em hạnh phúc không?” Anh thì thầm.

“Có.”

“Được, nghe này, phải cực kỳ tập trung đấy.” Tôi nằm đó, ngây người nhìn tia sáng lọt dưới gầm cửa, nhìn đám bụi và tóc rối sót lại trên tấm thảm tatami và chú tâm lắng nghe giọng nói của Jason. “Nghe cho kỹ đây này.” Anh nhỏm dậy phía sau tôi, hai tay ôm lấy tôi, môi anh khẽ chạm vào gáy tôi. “Chuyện là thế này. Cách đây nhiều năm rồi, rất lâu trước khi anh tới đây, anh thường quan hệ với một cô gái Nam Mỹ. Cô ấy hơi điên, anh không thể nhớ nổi tên cô ấy, anh chỉ nhớ cái tư thế làm tình ưa thích của cô ấy.”

Anh đưa tay vuốt dọc đùi tôi, tách chúng ra và đặt lòng bàn tay vào phía trong háng trái của tôi rồi nhẹ nhàng nhấc đầu gối của tôi lên cho đến khi chúng chạm vào ngực tôi. Tôi cảm thấy cái đầu gối lạnh và cứng của mình lướt qua đầu vú khi anh chuyển động phía sau tôi.

“Cô ấy thích được anh đặt nằm nghiêng thế này,” anh thì thầm vào gáy tôi, “giống như bây giờ anh đang làm. Và nâng đầu gối của cô ấy lên để anh có thể đi vào trong cô ấy. Như thế này này.”

Tôi hít một hơi thật sâu và Jason mỉm cười sau gáy tôi.

“Em thấy chưa, em đã thấy là tại sao cô ấy lại thích anh làm thế rồi chứ?”

Mùa đông bắt đầu len lỏi vào mọi ngõ ngách trong ngôi nhà. Đám cây cối thưa thớt trong vườn gần như trơ trụi, chỉ còn lác đác vài chiếc lá mỏng tang như giấy treo lơ lửng trên cành, và cái lạnh xuyên qua vỉa hè thấm vào bên trong ngôi nhà. Ngoài đường, ở những nơi công cộng, người ta trồng những cây cải bắp trang trí màu đỏ và xanh như màu của Giáng sinh. Hệ thống sưởi trong nhà không hoạt động mà Jason thì quá bận rộn với tôi nên không có thời gian sửa chữa. Những chiếc quạt gió trong nhà thì hết kêu lạch cạch lại rì rầm, chỉ có tác dụng thổi đám bụi bay tung tóe chứ không giúp cho không khí nóng lên được chút nào.

Tôi không chắc đó là chuyện bình thường khi đêm nào các cô bạn gái cũ của Jason cũng lên giường với chúng tôi. Tôi không thích thế nhưng trong suốt một thời gian dài tôi chẳng nói gì. Nghe này, nghe này... anh thì thào trong bóng đêm. Anh sẽ kể cho em nghe một chuyện mà em sẽ rất khoái. Nhiều năm trước anh thường quan hệ với một cô gái người Hà Lan. Anh không thể nhớ tên của cô ấy nhưng anh nhớ cô ấy thích... Thế rồi anh bắt đầu điều chỉnh chân tay của tôi như một biên đạo múa đang thực hiện một vũ đạo riêng giữa hai cơ thể. Anh tỏ ra thích thú vì lúc nào tôi cũng sẵn sàng đáp ứng. Một lần anh nói với tôi, giọng đầy ngưỡng mộ: “Em thật dâm đãng. Em là người phụ nữ dâm đãng nhất mà anh biết.”

Một đêm, tôi buột miệng: “Anh này, chuyện này rất quan trọng. Anh cứ liên tục kể lể về những người phụ nữ đó. Em tin đó là sự thực vì bất cứ người phụ nữ nào gặp anh sẽ đều muốn làm chuyện đó.”

Anh nằm gối đầu lên đùi tôi, tay đặt nhẹ lên đùi tôi. “Anh biết.”

“Mama Strawberry. Tất cả các nữ tiếp viên khác.”

“Ừ.”

“Mụ Y Tá của Fuyuki. Mụ ta cũng muốn.”

“Mụ ta à? Đó là một người phụ nữ sao? Anh không thể không nghĩ tới chuyện đó.”

Anh lơ đãng ấn móng tay vào bắp chân tôi. Tôi nhận ra anh ấn quá mạnh. “Anh muốn khám phá chuyện này. Muốn xem khi khỏa thân trông mụ ta sẽ như thế nào. Đúng là anh thích làm thế thật, xem mụ ta khỏa thân và...”

“Jason.”

Anh quay đầu lại. “Ừm.”

Tôi chống cằm nhỏm dậy, nhìn anh chăm chăm. “Sao anh lại ngủ với em?”

“Gì cơ?”

“Sao anh lại ngủ với em? Có rất nhiều phụ nữ khác ở ngoài kia.”

Dường như anh định trả lời nhưng lại thôi. Tôi có thể cảm thấy các cơ bắp trong người anh co lại trong giây lát. Cuối cùng anh ngồi dậy, túm lấy gấu chiếc áo ngủ của tôi. “Hãy cởi cái này ra.”

“Không, không, không phải lúc này, em...”

“Ôi, vì Chúa.” Anh lăn sang bên cạnh rồi đứng bật dậy. “Chuyện này...” Anh rút một điếu thuốc từ chiếc quần jean vứt trên sàn nhà và châm lửa. Anh rít một hơi dài rồi quay sang nhìn tôi: “Hãy nhìn xem...” Anh nói, nhả một bụm khói rồi quay lại phía tôi. “Việc này đã trở thành một câu chuyện dài lê thê.”

“Một câu chuyện dài lê thê?” Tôi nhìn anh chằm chằm, miệng há hốc.

“Đúng, một câu chuyện kéo dài và bực mình.” Anh thở dài. “Anh đã rất kiên nhẫn nhưng em thì... Chuyện này cứ kéo dài mãi. Nó không còn thú vị nữa.”

Một cảm giác kỳ lạ bỗng xâm chiếm lòng tôi, một cảm giác khủng khiếp như thể tôi đang bị quay tròn trong một chiếc máy hút khổng lồ. Mọi chuyện đều sai bét. Những dải thiên hà trên bức tường sau lưng anh dường như đang chuyển động, bồng bềnh trôi ngang qua bầu trời phía trên Tokyo như một chiếc vòng ánh sáng. Khuôn mặt của Jason trông tới và mờ ảo. “Nhưng em...” Tôi ấn ngón tay lên cổ họng, cố giữ cho giọng của mình khỏi run. “Em đã muốn, em đã muốn cho anh xem. Thật lòng là em muốn. Chỉ là em…”

Tôi đứng dậy và lao tới chiếc bàn phấn để tìm thuốc lá, hất tung mọi thứ trên mặt bàn xuống đất. Tôi tìm thấy một bao thuốc, lập cập rút ra một điếu, châm lửa rồi đứng nhìn bức tường và rít liên tục, nước mắt giàn giụa. Chuyện này thật ngớ ngẩn. Phải hành động ngay. Giống như nhảy qua một mỏm đá. Giống như nhảy qua một mỏm đá. Đó là cách duy nhất để biết được mình sẽ có thể sống sót hay không.

Tôi dụi điếu thuốc vào chiếc gạt tàn trên bàn trang điểm rồi quay sang đối mặt với anh, thở gấp. Cổ họng tôi như nghẹn lại còn tim tôi dường như chỉ chực nhảy vọt ra ngoài.

“Thôi được, thế là chuyện gì?” Anh nói.

Tôi kéo chiếc áo ngủ qua đầu, vứt nó xuống sàn rồi đứng trước mặt anh, hai tay ôm lấy bụng, mắt nhìn thẳng vào một điểm ngay trên đầu Jason. Tôi hít một hơi dài, tưởng tượng ra hình ảnh của mình lúc này trong mắt anh, gầy gò, nhợt nhạt và chằng chịt những mạch máu.

“Hãy hiểu cho em,” tôi thì thầm như đang đọc một câu thần chú. “Xin hãy hiểu cho em.”

Và tôi bỏ tay xuống.

Tôi không rõ là tôi hay Jason vừa thở gấp vì rõ ràng trong phòng vừa có một sự thụ khí. Tôi đứng đó, hai tay nắm lại hai bên sườn, mắt nhìn lên trần như thể đầu của tôi sắp nổ tung. Jason vẫn im lặng, và cuối cùng khi tôi có đủ can đảm cúi xuống nhìn anh, thì trông anh bình tĩnh, lặng lẽ, nét mặt không hề có bất cứ biểu hiện gì khi quan sát những vết sẹo trên bụng tôi.

“Lạy Chúa,” rất lâu sau anh thở hắt ra. “Chuyện gì đã xảy ra với em thế?” Anh bước lại gần, tò mò đưa tay sờ lên bụng tôi như thể những vết sẹo đang tỏa sáng. Đôi mắt anh tĩnh lặng và trong trẻo. Khi chỉ còn cách tôi một bước chân, anh dừng lại và áp tay vào những vết sẹo.

Tôi rùng mình và nhắm mắt lại.

“Chuyện quái quỷ gì đã xảy ra ở đây vậy?”

“Một đứa bé.” Tôi trả lời giọng không được tự tin cho lắm. “Đó là chỗ của một đứa bé, con của em.”


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder   Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder - Page 2 Icon_minitimeSun Feb 03, 2019 9:10 pm


Chương 36

Ở bệnh viện, họ dạy tôi về bao cao su khi mọi chuyện đã quá muộn. Vài tháng trước khi tôi được ra viện, khi người ta luôn miệng nhắc đến bệnh AIDS, chúng tôi phải tham gia một nhóm nâng cao nhận thức về HIV. Tại đó, một nữ y tá tên là Emma, một cô gái có đôi chân cứng cáp và đeo khuyên ở mũi, ngồi trước mặt chúng tôi, mặt đỏ bừng vì ngượng khi hướng dẫn chúng tôi cách tròng bao cao su vào một quả chuối. Một chiếc áo mưa, cô ấy gọi thế bởi vì thời đó báo chí đều dùng từ này và khi nói về quan hệ tình dục qua đường hậu môn thì cô ấy gọi là “tình dục qua đường ruột”. Trong khi nói, cô ấy thường quay mặt về phía cửa sổ như thể cô ấy đang diễn thuyết cho đám cây cối ngoài vườn. Những người tham dự cười đùa và cợt nhả trong khi tôi ngồi im ở phía cuối, mặt đỏ rần lên như Emma khi phải nhìn chằm chằm vào chiếc bao cao su. Một chiếc bao cao su. Tôi chưa bao giờ nghe nói tới bao cao su. Quả thực, sao một người kém hiểu biết như tôi lại có thể xoay xở sống trên đời lâu tới vậy?

Chẳng hạn như cái ý nghĩa của thời gian chín tháng. Trong nhiều năm tôi hay nghe mọi người thì thào nói đùa: “Giờ thì con mèo đang sướng rửng mỡ, nhưng cứ chờ chín tháng xem mặt mũi nó thế nào sẽ rõ”. Những câu nói đùa đại loại như thế. Nhưng tôi đã không hiểu. Ngớ ngẩn nhất là nếu người ta hỏi tôi về thời gian mang thai của con voi thì có thể tôi sẽ trả lời được nhưng những thực tế về con người thì tôi hoàn toàn mù tịt. Bố mẹ tôi đã làm rất tốt việc gạn lọc tất cả các thông tin trước khi chúng đến được với tôi. Dĩ nhiên là chỉ ngoại trừ trường hợp quyển sách màu cam, khi mà họ đột nhiên mất cảnh giác hơn thường lệ.

Cô gái giường bên đã nhìn tôi chòng chọc khi tôi thú nhận là tôi không biết gì về những chuyện nói trên.

“Cậu nói nghiêm túc đấy chứ?”

Tôi nhún vai.

Cô ấy kêu lên sửng sốt: “Ôi trời, thật không tin được, đúng là cậu đang nói nghiêm túc.”

Trong cơn hốt hoảng, các nữ y tá đã đi tìm cho tôi một quyển sách với những kiến thức về cơ thể con người. Quyển sách đó có tựa đề Mẹ ơi, cái gì ở trong bụng mẹ thế? Với một lớp bìa màu hồng nhạt vẽ hình một cô bé đang ngước nhìn một cái bụng bầu mặc váy hoa. Một trong những lời bình phía sau cuốn sách viết: “Nhẹ nhàng, nhiều thông tin, bao gồm tất cả những gì bạn cần biết để giải đáp những thắc mắc của con bạn”. Tôi đã đọc quyển sách đó rất kỹ và cất nó trong một chiếc túi màu nâu, giấu ở phía trong cùng ngăn tủ của mình. Tôi ước giá như mình được đọc nó sớm hơn. Như thế thì tôi đã hiểu được chuyện gì sẽ xảy ra với mình.

Tôi không hé răng với bất cứ ai trong bệnh viện về những tuần lễ tiếp theo sự cố xảy ra trên chiếc xe tải. Tôi đã mất nhiều tháng để chắp nối các thông tin mà tôi thu được từ những lời xì xào của người lớn, những lời ám chỉ, những bóng gió lạ lùng trên các tờ báo cũ nát ở nhà để hiểu được tình cảnh của mình. Tôi cũng không dám nói với ai về cảm giác của mình khi biết rằng sẽ có một em bé ra đời và mẹ chắc chắn sẽ giết tôi hoặc con tôi hoặc cả hai. Với tôi, đó chính là cái giá thực sự của sự thiếu hiểu biết.

Ngoài kia, dưới căn hẻm nhỏ, có tiếng ai đó đóng cửa xe ôtô. Tôi nghe thấy tiếng chìa khóa leng keng và tiếng cười khúc khích của một phụ nữ giọng cao và nhẹ. “Tôi thề tôi sẽ không uống gì cả.” Tiếng cười của họ xa dần khi họ đang đi về phía cuối hẻm, ra phía đường Waseda. Tôi vẫn nín thở và đứng im một chỗ nhìn Jason chăm chú, chờ xem anh nói gì.

“Em là một cô gái tốt,” cuối cùng anh lùi lại một bước, trao cho tôi nụ cười chậm rãi và ranh mãnh quen thuộc. “Em là một cô gái tốt, em có biết không? Và từ nay mọi chuyện sẽ tốt đẹp.”

“Tốt đẹp ư?”

“Đúng vậy,” anh lia lưỡi vào giữa hai hàm răng. Những ngón tay anh lần theo vết sẹo lớn nhất trên bụng tôi, bắt đầu từ phía dưới rốn tới tận chỗ xương hông. Anh khẽ bấm móng tay vào đoạn giữa, nơi các vết khâu hơi lồi lên và vuốt ve chúng. “Sao lại nhiều thế này. Cái gì đã để lại những vết sẹo như thế này?”

“Một...” Tôi những muốn trả lời nhưng hàm cứng lại. Tôi phải lắc đầu để có thể mở được miệng. “Một con dao. Một con dao làm bếp.”

“À, một con dao,” anh nói, giọng méo xệch. Anh nhắm mắt lại, vừa chậm rãi liếm môi, vừa tiếp tục sờ tay lên những đường gân nổi lên từ các vết sẹo ở giữa bụng. Nơi rạch nhát dao đầu tiên. Tôi khẽ lùi lại một bước. Jason mở mắt nhìn tôi chăm chú: “Thế dao có thọc sâu vào tận đây không? Hừm, hay là đây?” Anh ấn ngón tay vào bụng dưới của tôi. “Có phải là cảm giác này không. Như thể nó đi rất sâu.”

“Sâu?” Tôi hỏi lại. Có cái gì đó trong giọng nói của anh, cái gì đó vừa phấn khích vừa man dại như thể anh đang cực kỳ khoái trá. Không khí trong phòng đột nhiên trở nên ẩm mốc không giống như mấy phút trước đây.

“Em...” Tôi không nói nên lời. “Tại sao anh lại muốn biết dao thọc sâu chừng nào? Sao anh lại hỏi em chuyện đó?”

“Có sâu không? Dao có thọc vào sâu không?”

“Có,” tôi trả lời yếu ớt. Anh khẽ rùng mình khoan khoái như thể có cái gì đó vừa chạy qua vai anh.

“Nhìn này,” anh nói, đưa tay này vuốt dọc cánh tay kia. “Nhìn xem, lông tay anh dựng đứng hết cả lên rồi. Những chuyện kiểu này luôn làm anh đờ đẫn hết cả người. Cái cô gái mà anh kể cho em ấy? Ở Nam Mỹ ấy?” Anh xoa xoa bắp tay của mình, mắt nhắm hờ như đang hồi tưởng chuyện xưa. “Cô ấy bị cụt một tay. Và cái đoạn người ta cắt nó đi trông giống như một...” Anh chụm các ngón tay lại như thể đang giữ một thứ quả mềm mại, mỏng mảnh nhất trên đời. “Nó rất đẹp, tựa như một trái mận chín. Wow!”

Anh toét miệng ra cười với tôi. “Nhưng em vẫn luôn biết về anh, đúng không nào?”

“Luôn biết? Không, em...”

“Đúng mà.” Anh quỳ xuống trước mặt tôi, tay đặt lên hông và phà hơi thở nóng hổi vào bụng tôi. “Em biết mà. Em luôn biết cái gì thu hút anh.” Anh ta bắt đầu chạm cái lưỡi khô và uốn éo vào da thịt tôi. “Em biết là anh chỉ thích làm tình với những kẻ kỳ quặc.”

Trạng thái tê liệt của tôi chấm dứt. Tôi đẩy anh ta ra và bước lùi lại phía sau. Anh ta đứng dậy trên hai gót chân và nhìn tôi với vẻ hơi ngạc nhiên khi tôi chộp lấy chiếc áo ngủ và lập cập trùm nó qua đầu. Tôi những muốn chạy khỏi phòng trước khi mình bật khóc nhưng anh ta lại đứng chắn ngay trước cửa ra vào nên tôi đành phải đổi hướng và chui vào góc phòng, ngồi quay mặt vào tường. Mọi thứ bắt đầu quay trở lại với tôi, những bức ảnh trong phòng anh ta, những cuộn băng video mà hai chị em người Nga kể, cái cách anh ta nói về mụ Y Tá. Và tôi là một kẻ trong số họ, một đứa quái đản. Ở tôi có cái gì đó xấu xa, nham nhở, khiến anh ta thích thú, giống như những nhân vật trong các bộ phim mà anh ta xem.

“Chuyện gì vậy?”

“Ừm...” Tôi lí nhí trả lời, dùng lòng bàn tay quệt mắt. “Ừm, em nghĩ là có thể em...” Nước mắt bắt đầu chảy tràn xuống má khiến tôi phải vội đưa tay lên chùi trước khi chúng rơi xuống sàn nhà để anh ta không nhìn thấy. “Không có gì cả.”

Anh ta đặt tay lên vai tôi rồi nói: “Thấy chưa? Anh bảo em là mọi chuyện sẽ ổn thôi mà. Anh đã nói là anh hiểu hết mà.”

Tôi không đáp lại, chỉ cố gắng để khỏi òa khóc.

“Đó chính là nguyên nhân tại sao hai chúng ta lại đến với nhau một cách hòa hợp đến thế, đúng không nào? Anh đã biết ngay khi anh nhìn thấy những thứ này, những bức tranh em vẽ, những bức ảnh kỳ dị trong quyển sách của em, anh biết là anh và em... Anh biết là chúng ta giống nhau.” Tôi nghe tiếng anh ta dò dẫm châm một điếu thuốc khác và tưởng tượng ra nét mặt anh ta lúc này, đang mỉm cười suồng sã, đầy tự tin vì anh ta đã tìm thấy sự gợi tình từ những thứ này, từ những vết sẹo mà tôi đã cố che giấu bấy lâu nay. Tôi cũng tưởng tượng ra hình ảnh của mình trong mắt anh ta lúc này, thu lu trong một góc, đôi tay mảnh mai, lạnh giá ôm lấy đầu gối. “Em chỉ cần thêm một chút thời gian nữa,” anh ta nói. “Một chút thời gian nữa để nhận ra rằng chúng ta đúng là một cặp. Một đôi biến thái. Một cặp trời sinh.”

Tôi đứng dậy, vớ lấy đống quần áo vắt trên ghế mặc vào người, tránh không nhìn về phía anh ta, hai chân run lên bần bật. Tôi choàng chiếc áo khoác ra ngoài rồi thò tay vào túi xách lục tìm chìa khóa, vừa làm vừa thở gấp để ngăn nước mắt không trào ra. Anh ta không nói gì cũng chẳng tìm cách ngăn tôi lại. Anh ta chỉ im lặng quan sát, trầm tư hút thuốc, khuôn mặt thoáng một nụ cười.

“Em ra ngoài,” tôi nói rồi mở toang cửa.

“Sẽ ổn thôi,” tôi nghe thấy tiếng anh ta ở sau lưng. “Sẽ ổn thôi. Em sẽ sớm ổn thôi.”

Thậm chí cho tới tận những năm 1980, ở Anh vẫn có thể xảy ra chuyện các hài nhi không được chôn cất. Con bé đã không được chôn cất trong một nấm mồ tử tế, mà thay vào đó, người ta đã cho nó vào một cái túi rác màu vàng và đốt cùng với những chất thải khác của bệnh viện. Thậm chí xảy ra chuyện mẹ nó, một đứa trẻ vị thành niên ngờ nghệch đã để đứa bé ra đi mà không dám mở miệng hỏi người ta đã đưa nó đi đâu. Mọi chuyện đều có thể, chỉ vì một sự cố nhỏ về mặt thời gian: con tôi đã không nằm trong bụng mẹ đủ hai mươi tám tuần tuổi. Nó chỉ ra đời sớm có một ngày, nhưng pháp luật quy định nó sẽ không được chôn cất, chỉ vì nó còn thiếu hẳn một ngày để được coi là con người, để được có một đám tang và một cái tên, và như thế nó mãi mãi chỉ được gọi là một bào thai. Đây là một cái tên nghe đầy bệnh tật và chẳng có gì giống với đứa con gái nhỏ của tôi khi nó chào đời.

Đó là một đêm cuối tháng Mười hai, trăng rất tròn và tuyết phủ dày đám cây cối bên ngoài. Các nữ y tá trong phòng cấp cứu cho rằng tôi không nên khóc nhiều như thế. “Hãy cố gắng thả lỏng nào.” Vị bác sĩ phẫu thuật cũng chẳng thèm nhìn vào mắt tôi khi tôi bước vào phòng, nằm lên bàn đẻ và nhìn ông xử lý những vết thương trên bụng. Ông ta làm việc với một sự im lặng đến rợn người. Và cuối cùng khi phải thông báo kết quả, ông ta cũng chẳng thèm nhìn tôi mà quay nghiêng mặt vào tường như thể ông ta đang nói với bức tường.

Tôi cố nhỏm dậy, không hiểu ông ta nói gì. “Cái gì ạ?”

“Chúng tôi rất lấy làm tiếc.”

“Không. Con bé không chết. Nó...”

“Vậy đấy, dĩ nhiên là có. Dĩ nhiên là nó đã chết.”

“Nhưng nó không thể chết. Nó cần phải...”

“Xin cô,” ông ta đặt tay lên vai tôi, ấn tôi nằm xuống bàn. “Thực sự cô cũng đâu có mong muốn gì khác, đúng không? Giờ thì nằm xuống. Nghỉ ngơi đi.”

Họ cố gắng giữ chặt tôi xuống giường và cố không để tôi nhìn thấy nó. Nhưng tôi đã đánh lừa họ. Tôi đã nhìn được. Và tôi đã thấy một thứ mà suốt đời này tôi sẽ không bao giờ quên: rằng dù trên đời này đầy rẫy những điều không thể, thì ta vẫn có thể, trong một phút giây ngắn ngủi, nhìn thấy tất cả những gì mà một đứa bé có thể trở thành, nhìn xuyên qua làn da mỏng mảnh gần như trong suốt và thấy tâm hồn bé bỏng của nó, giọng nói của nó, cái tôi thật sự và đầy phức cảm và cả sự sống đang xa dần của nó. Tất cả chuyện đó đều có thể.

Chỉ có duy nhất một nữ y tá, người không biết hoặc không thèm quan tâm tới việc tại sao tôi lại lâm vào hoàn cảnh này là người hiểu được tâm trạng của tôi lúc đó. Cô ấy là người duy nhất đã thấm nước mắt cho tôi và vỗ vào tay tôi để an ủi. “Ôi đứa bé tội nghiệp đáng thương, đứa bé tội nghiệp đáng thương.” Cô ấy nhìn về phía hình hài nhỏ bé nằm còng queo phía góc phòng với đôi vai nhỏ cong cong và những đốm tóc màu sẫm. “Cục cưng ạ, không cần phải lo lắng cho con bé nữa. Đừng nghĩ ngợi gì nhiều. Dù cho linh hồn con bé có ở đâu thì Chúa cũng sẽ tìm thấy cháu.”

Trăng vẫn treo lơ lửng trên bầu trời khi tôi rời khỏi nhà, vội vã bước về phía cuối hẻm, vừa đi vừa siết chặt cổ áo khoác vì lạnh. Nhưng khi tôi tới được đường Shiba Koen thì bình minh đã bắt đầu ló rạng. Bạn có thể nhìn thấy bình minh lên giữa những tòa nhà cao tầng. Bầu trời có màu hồng nhạt, đâu đó một luồng gió ấm chợt ùa đến, xuyên qua các dãy phố như một cơn gió hạt nhân[3] thổi từ phía Tây tới, khiến những tán cây trụi lá trong đền Zojoji lay động và kêu răng rắc. Tôi dừng lại trước bát nước thánh đặt trước các bức tượng hài nhi đứng xếp hàng một cách im lặng và kín đáo dưới những chiếc mũ bê rê màu đỏ và múc một gáo nước lạnh buốt giội lên tay trái, rồi tới tay phải, theo đúng nghi lễ. Tôi bỏ mấy đồng yên vào chiếc hòm công đức, tháo giày và bước lên bãi cỏ còn ướt sương, tha thẩn quanh những hàng tượng đá.

Bóng của những tờ bùa màu trắng treo lủng lẳng trên cây nhảy nhót trên đầu tôi. Tôi tìm thấy một chỗ trong góc vườn, giữa hai hàng tượng đá nơi người ta không thể nhìn thấy tôi từ ngoài đường, và ngồi xuống, siết chặt áo khoác quanh người. Bạn phải chắp tay lại khi cầu nguyện. Còn có một câu khấn đặc biệt nhưng tôi không tài nào nhớ nổi, nên cuối cùng tôi đành cầu nguyện theo cách người ta vẫn làm ở đất nước tôi, một đất nước Thiên Chúa giáo. Tôi nắm hai tay, để trán chạm vào các đốt ngón tay rồi nhắm mắt lại.

Có lẽ cô y tá đã nói đúng. Có lẽ “Chúa” hay các vị thần, hoặc thế lực nào đó vĩ đại hơn bất kỳ ai trong số chúng ta sẽ biết được linh hồn của con tôi đang phiêu bạt nơi đâu. Nhưng tôi thì không. Tôi không biết con bé đã được chôn cất ở đâu nên tôi không biết phải bắt đầu từ nơi nào nữa. Vì con bé không có lấy một nấm mồ để thăm viếng nên tôi đã phải học cách tưởng tượng ra nó không tồn tại trên đời này, hoặc là nó ở khắp mọi nơi, đang bay lượn đâu đó xung quanh tôi. Đôi khi tôi nhắm chặt mắt lại và hình dung ra con bé trên bầu trời đêm lốm đốm sao, cao xa vời vợi tới mức đầu của nó có thể chạm tới đỉnh trời. Trong những giấc mơ của tôi, con bé có thể bay tới chỗ nào mà nó muốn. Thậm chí từ Anh tới Tokyo. Con bé sẽ phải bắt đầu hành trình từ phía Đông, khởi hành rất nhanh, chốc chốc lại quay đầu nhìn xuống những dải đèn đường lấp lánh bên dưới: châu Âu với những chiếc cầu được thắp sáng và trang hoàng không khác gì bánh cưới. Con bé sẽ biết khi nào nó đang bay trên biển nhờ những dải màu sẫm tối, những đường gợn sóng lấp lánh ánh trăng hay những dải ngọc trai óng ánh. Sau châu Âu nó sẽ phải bay nhanh qua vùng mặt trời mọc. Qua những thảo nguyên của nước Nga, qua hồ Baikal sâu thẳm với những con cá nước ngọt và những con hải cẩu lạ lùng. Và xa hơn, qua những cánh đồng lúa, những ống khói công nghiệp, những hàng trúc đào mọc ven đường, qua bề mặt cứng và dài của quê hương Sử Trùng Minh. Rồi tới Tokyo, và cuối cùng là Takadanobaba nơi con bé sẽ nhìn thấy những mái hiên cong cong của ngôi nhà cổ. Con bé có thể sẽ bay qua bên ngoài cửa sổ phòng tôi và cuối cùng...

Nhưng dĩ nhiên con bé đã không đến. Ngay cả vào dịp lễ O-Bon khi linh hồn của những người chết quay trở lại thăm thân nhân, khi tôi ngồi im bên cửa sổ ngắm ánh nến lung linh trôi nổi trên sông Kanda mà người Nhật cho là sẽ dẫn đường chỉ lối cho các linh hồn, mù quáng tin là con bé sẽ tới tìm mình. Nhưng nó đã không tới. Tôi tự bảo mình không nên hy vọng quá nhiều, vì có thể con bé đã cố gắng hết sức nhưng đi từ Anh tới đây quả là một đoạn đường dài. Quá dài cho một linh hồn bé bỏng, con bé có thể đã bị lạc hoặc kiệt sức.

Tôi đã cầu nguyện xong và ngẩng đầu lên. Xung quanh tôi, những cái chong chóng của lũ trẻ bắt đầu quay trong làn gió ấm, những cánh quạt bằng gỗ mỏng kêu phần phật. Mỗi chiếc mũ nhỏ, mỗi chiếc yếm dãi, mỗi thứ đồ trang trí trên các bức tượng đều được làm bằng tay, và đặt lên đây bởi các bà mẹ, những người đã cầu nguyện giống như tôi vừa làm. Trời bắt đầu sáng và những nhân viên công sở đầu tiên đang vội vàng rảo bước trên con phố cạnh ngôi đền.

Jason, tôi vừa nghĩ tới Jason vừa đứng dậy và vuốt lại áo. Jason, hãy tin em, anh là một kẻ xa lạ, xa lạ và điên rồ hơn em rất nhiều. Những gì em đã làm là sai và ngu ngốc nhưng sai lầm của em không bao giờ có thể so sánh với anh. Tôi hít thật sâu thứ không khí trong lành nơi đây và ngửa đầu lên trời. Dù sao thì anh ta cũng đã mang tôi trở lại với một thực tế mà tôi gần như lãng quên. Anh ta đã nhắc tôi nhớ lại rằng tôi chỉ có một con đường để đi. Luôn chỉ có một con đường mà thôi.


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder   Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder - Page 2 Icon_minitimeSun Feb 03, 2019 9:10 pm


Chương 37

史 Nam Kinh, ngày 20 tháng Mười hai năm 1937 (ngày mười tám tháng Mười một âm lịch)

Đây chính là bài học của tôi.

Khi mặt trời bắt đầu nhô lên, tôi bật đài để nghe tin tức. Vẫn chưa có tuyên bố chính thức nào về việc người dân có thể an toàn đi ra ngoài phố. Chờ khi trời sáng bạch, tôi uống vài ngụm trà rồi lẳng lặng mặc quần áo, khoác chiếc jacket nhồi lông ra ngoài rồi rời khỏi nhà, khép cánh cửa lại sau lưng và dừng lại một lát để nghe ngóng xung quanh xem có động tĩnh gì không. Bên ngoài, tuyết rơi nhẹ, những bông tuyết trắng mỏng manh rơi trùm lên đống tuyết bẩn thỉu cũ kỹ của ngày hôm trước. Tôi nhẹ nhàng di chuyển giữa các ngôi nhà và chẳng bao lâu thì tới được nhà ông Lưu, vòng ra phía cổng hậu và gõ cửa theo ám hiệu quy định. Một lúc sau vợ ông Lưu ra mở cửa rồi đứng nép sang một bên nhường đường cho tôi, không nói một lời nào. Bà mặc trên người rất nhiều lớp quần áo, trên cùng là một chiếc áo dài của nam giới rách tả tơi, mắt đỏ au.

Bên trong nhà rất lạnh và ngay lập tức tôi có thể cảm thấy bầu không khí căng thẳng đang bao trùm. Nhìn điệu bộ ông Lưu khi ra đón thì tôi biết ngay là có chuyện gì đó đã xảy ra.

“Có chuyện gì vậy?”

Ông không trả lời. Ông ra hiệu cho tôi đi theo vào một căn phòng nhỏ bừa bãi nơi cậu con trai đang ngồi với dáng vẻ vô cùng thiểu não, đầu cúi gằm. Thằng bé mặc một chiếc áo khoác nhà binh kiểu Tôn Trung Sơn rách tả tơi, rộng quá khổ so với đôi vai gầy guộc khiến nó trông càng nhếch nhác và nhem nhuốc một cách đáng thương hơn bao giờ hết. Trên chiếc bàn trước mặt thằng bé là một chiếc túi bẩn thỉu, và hình như từ đó vãi ra một ít bột mì kiều mạch.

“Nó ở bên ngoài suốt đêm,” ông Lưu nói. “Mang thức ăn về nhà.”

Tôi nhìn túi thức ăn một cách đói khát. “Ôi sư phụ Lưu, tôi kính phục sự dũng cảm của già đấy. Đây thực sự là một tin tốt. Đúng là tin tốt.”

Bà Lưu mang tới cho chúng tôi những chiếc bánh bao làm từ bột kiều mạch, một đĩa để tôi ăn ngay và thêm vài chiếc bọc khăn vải đặt trong một cái vỉ hấp bằng nan để mang về cho Thu Kim. Bà đặt chúng xuống trước mặt tôi không nói một lời, thậm chí cũng không nhìn tôi rồi bỏ luôn về phòng. Tôi ăn ngấu nghiến, ăn trong khi vẫn đứng, thức ăn nhét đầy miệng, vừa nhai vừa nhìn lên trần nhà một cách vô định. Ông Lưu và con trai ý tứ quay đi chỗ khác. Nhưng dù đang hưng phấn vì có thức ăn, tôi vẫn không thể không để ý đến thái độ giữa hai cha con họ.

“Chuyện gì vậy?” Tôi nói, miệng vẫn nhồm nhoàm thức ăn. “Có chuyện gì thế?”

Ông Lưu khẽ lấy chân huých vào chân thằng bé: “Hãy kể cho chú ấy nghe chuyện gì đã xảy ra đi.”

Thằng bé ngước lên nhìn tôi. Mặt nó trắng bệch và nghiêm trang. Như thể nó vừa đánh mất tuổi thơ của mình vào đêm hôm trước. “Cháu đã đi ra ngoài,” nó thì thào.

“Sao nữa?”

Thằng bé hếch cằm lên chỉ ra phía ngoài đường rồi nói tiếp: “Ngoài đó. Cháu đi lang thang suốt đêm và nói chuyện với mọi người.”

Tôi nuốt vội miếng bánh cuối cùng, có cảm tưởng như nó mắc lại ở giữa họng. “Và cháu vẫn có thể về nhà một cách yên ổn. Đường phố đã an toàn rồi sao?”

“Không ạ,” nước mắt chợt trào ra trên mặt thằng bé. Tim tôi như chùng xuống. “Không đâu ạ. Đường phố không an toàn chút nào. Quân Nhật là những con quỷ dữ. Những tên riben guizi.” Thằng bé ngước mắt lên nhìn cha nó với một vẻ hết sức dằn vặt. “Bố đã nói là chúng chỉ giết quân nhân thôi. Sao bố lại nói thế?”

“Bố đã tin là thế. Bố cứ nghĩ chúng sẽ để chúng ta yên. Rằng chúng ta sẽ được coi như dân tị nạn.”

“Tị nạn.” Thằng bé lấy tay áo chùi mắt. “Có một chỗ dành cho những người mà họ gọi là dân tị nạn.”

“Ở trường đại học đúng không? Thế cháu có tới chỗ đó không?” Tôi hỏi.

“Không chỉ có cháu. Không phải chỉ có cháu ở đó. Còn có cả bọn Nhật nữa. Chúng mang ‘những người tị nạn’ đi. Cháu đã nhìn thấy tất cả. Chúng xiên họ lại với nhau.” Thằng bé lấy tay chỉ vào phần mềm trên cổ. “Chúng dùng dây thép gai xuyên qua chỗ này và xâu họ lại với nhau, giống như, giống như một cái vòng chuỗi. Một cái vòng chuỗi, xâu toàn người.”

“Cháu thực sự đã chứng kiến chuyện đó à. Ở khu tị nạn?”

Thằng bé lại dụi mắt khá mạnh khiến mặt nó trở nên nhem nhuốc vì những dòng nước mắt và bụi đóng cáy lại. “Cháu đã nhìn thấy tất cả. Tất cả mọi thứ. Và cháu đã nghe thấy tất cả mọi chuyện.”

“Hãy cho chú biết,” tôi nói rồi ngồi xuống một chiếc ghế ọp ẹp bên cạnh và nhìn thằng bé với vẻ nghiêm trang, “thế cháu có nghe thấy một tiếng la hét không? Khoảng một tiếng trước. Tiếng một phụ nữ la hét. Cháu có nghe thấy không?”

“Có ạ.”

“Thế cháu có biết đã xảy ra chuyện gì không?”

“Có ạ,” thằng bé ngước nhìn cha nó rồi quay sang tôi, bồn chồn cắn môi. Nó thò tay vào túi rồi lôi ra một cái gì đó, chìa ra cho chúng tôi xem. Cả tôi và ông Lưu đều nhoài người ra để xem. Trong lòng bàn tay nó là một chiếc bao cao su của Nhật. Tôi cầm lấy chiếc bao cao su và xem xét. Trên chiếc bao cao su là hình một tên lính Nhật đang tiến về phía trước, súng ống sẵn sàng, dưới đó là chữ Totsugeki. Nạp đạn! Tôi và ông Lưu nhìn nhau. Mặt ông trở nên xám ngoét và căng thẳng, những nếp nhăn hằn rõ xung quanh miệng.

“Cưỡng hiếp, chúng cưỡng hiếp phụ nữ.” Thằng bé lên tiếng.

Ông Lưu nhìn ra phía bậu cửa. Vợ ông đang ở phía sau nhà nên không thể nghe thấy câu chuyện của chúng tôi, tuy nhiên ông vẫn thò chân ẩy cánh cửa khép lại. Tim tôi đập một cách yếu ớt. Khi tôi mười ba tuổi, tôi không hề biết thế nào là cưỡng hiếp thế mà cậu bé này lại nhắc tới từ đó một cách thản nhiên như thể đó là chuyện xảy ra hàng ngày.

“Săn gái,” thằng bé tiếp tục. “Đó là thú tiêu khiển được ưa chuộng của lính Nhật. Chúng dùng những chiếc xe tải chở than ở Hạ Quan tới các làng quê lùng bắt phụ nữ.” Cậu bé ngẩng mặt lên nhìn tôi. “Chú có biết cháu còn nhìn thấy gì nữa không?”

“Không,” tôi trả lời một cách yếu ớt. “Còn gì nữa?”

“Cháu còn nhìn thấy chỗ ở của tên diêm vương đó.”

“Diêm vương?” Một nỗi sợ hãi mơ hồ chợt bóp nghẹt tim tôi. Tôi nhìn sang ông Lưu, lúc này đang quan sát đứa con trai với một vẻ vừa sợ hãi vừa bối rối. Diêm vương. Quỷ dữ. Chúa tể của thần chết. Người cai quản địa ngục trong thế giới của Phật giáo. Thường thì tôi và ông Lưu sẽ đảo mắt cười nhạo trước những biểu hiện tôn giáo kiểu này nhưng trong mấy ngày gần đây, có cái gì đó trong chúng tôi đã thay đổi. Chỉ cần nghe thấy cái danh từ đó vang lên trong ngôi nhà lạnh lẽo cũng đủ khiến chúng tôi rùng mình.

“Con đang nói gì vậy,” ông Lưu lên tiếng, ghé sát vào con trai. “Diêm vương? Cha có dạy con thứ vớ vẩn đó đâu? Con đã nói chuyện với ai vậy?”

“Hắn ta đang ở đây,” thằng bé nói khẽ, và bắt gặp ánh mắt của cha nó. Tôi có thể cảm thấy cả người nó đang sởn da gà. Tôi nhìn lên những chiếc cửa sổ đã khóa chặt. Bên ngoài rất yên tĩnh, tuyết vẫn đang rơi khiến ánh đèn nhấp nháy lúc trắng lúc đỏ. “Diêm vương đã tới Nam Kinh.” Cậu bé không nhìn cha mình nữa và từ từ đứng dậy. “Nếu cha không tin thì cha có thể đi với con tới chỗ đó.” Nó chỉ ra phía cửa và cả hai chúng tôi đều im lặng quay ra hướng đó. “Con sẽ chỉ cho hai người chỗ ở của hắn.”


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder   Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder - Page 2 Icon_minitimeSun Feb 03, 2019 9:10 pm


Chương 38

Sử Trùng Minh có vẻ ngạc nhiên khi thấy tôi. Ông mở cửa cho tôi với một thái độ lịch sự nhưng xa cách và mời tôi bước vào trong phòng. Ông bật chiếc lò sưởi ba lá và kéo nó lại gần chiếc sofa thấp, sờn cũ kê ngay phía bên dưới cửa sổ rồi rót nước sôi vào bình trà Thermos trên bàn làm việc. Tôi quan sát mọi chuyện một cách hờ hững, hơi cảm thấy kỳ lạ khi nhớ lại hành động dập điện thoại của ông trong cuộc nói chuyện gần đây nhất giữa hai chúng tôi.

“Tốt rồi, giờ thì... Có phải hành động này cho thấy chúng ta đang giao dịch trở lại hay không?” Ông lên tiếng khi tôi đã ngồi xuống ghế và nhìn tôi một cách hiếu kỳ. Tôi đã đi thẳng từ ngôi đền tới đây nên váy vẫn còn ướt do ngồi quá lâu trên cỏ.

Tôi không trả lời. Tôi cởi áo khoác, găng tay và mũ rồi đặt chúng lên đầu gối.

“Cô có tin gì mới không? Có phải cô tới đây để cho tôi biết cô vừa gặp Fuyuki?”

“Không.”

“Hay là cô nhớ ra điều gì? Về cái hộp kính mà cô trông thấy lần trước?”

“Không.”

“Rất có thể Fuyuki đang bảo quản cái gì đó trong chiếc hộp? Khi nghe cô miêu tả chiếc hộp thì người ta nghĩ ngay tới chuyện đó.”

“Thế ạ?”

“Đúng vậy. Cho dù Fuyuki đang uống cái gì đi chăng nữa thì ông ta cũng tin rằng nó cứu sống ông ta.” Sử Trùng Minh khẽ xoay bình trà. “Ông ta phải rất thận trọng với liều lượng mà ông ta dùng. Nhất là khi việc tìm kiếm nguồn thuốc thay thế rất nguy hiểm hoặc vô cùng khó khăn. Từ những giả thuyết của mình, tôi có thể chắc chắn rằng cái hộp đó chính là nơi ông ta bảo quản thuốc của mình.” Ông rót trà cho tôi, mắt không rời khỏi tôi lấy một giây như đang nghiên cứu để tìm ra một câu trả lời. “Hãy cho tôi biết ý kiến của cô về chuyện này?”

Tôi lắc đầu. Cả người tê dại tới mức tôi chả buồn đóng kịch trước mặt ông nữa. Tôi cầm lấy tách trà mà ông đưa, giữ chặt nó bằng cả hai tay và nhìn chằm chằm vào lớp cặn màu xám lờ mờ dưới đáy. Một sự im lặng vụng về và kéo dài bao trùm lấy căn phòng cho tới khi cuối cùng tôi cũng đặt ly trà xuống.

“Ở Trung Quốc,” tôi nói dù biết đó không phải là điều ông muốn nghe, “chuyện gì sẽ xảy ra nếu như ai đó không được chôn cất tử tế? Linh hồn của họ sẽ ra sao?”

Những lời của tôi khiến ông khựng lại khi đang định ngồi xuống ghế thưởng thức tách trà của mình. Ông nhấp nhổm trên ghế, đầu hơi cúi xuống, ngó qua ngó lại, cố gắng tiêu hóa câu hỏi của tôi. Cuối cùng ông cũng lên tiếng nhưng giọng nói của ông đã hoàn toàn đổi khác. “Thật là một câu hỏi lạ lùng. Điều gì đã khiến cô nghĩ như thế?”

“Chuyện gì sẽ xảy ra với linh hồn của họ?”

“Chuyện gì sẽ xảy ra với linh hồn của họ à?” Ông ngồi, sửa lại tư thế, kéo thẳng áo rồi di chuyển tách trà tới lui trước mặt. Mãi sau ông mới nhìn tôi, gãi gãi miệng, cả vùng xung quanh mũi đỏ ửng. “Những người không được chôn cất? Ở Trung Quốc? Để tôi nghĩ xem. Nói một cách đơn giản là chúng tôi tin vào sự tồn tại của các hồn ma. Những hồn ma quấy quả có thể quay lại chọc phá người đang sống. Do đó chúng tôi chôn cất người chết rất cẩn thận. Chúng tôi chôn tiền cùng với họ để họ có thể đi sang thế giới bên kia. Đó chính là...” Ông khẽ hắng giọng, bồn chồn gõ tay lên thành ghế. “Đó chính là điều luôn khiến tôi lo lắng khi nghĩ tới Nam Kinh. Tôi vẫn luôn lo sợ khi nghĩ tới hàng nghìn hồn ma quấy quả vẫn còn sót lại ở Nam Kinh.”

Tôi đặt tách trà xuống và quay sang nhìn ông. Chưa bao giờ ông nói về Nam Kinh như thế.

“Đúng vậy,” ông nói, tay vuốt nhẹ xung quanh miệng tách trà. “Nó vẫn thường khiến tôi lo nghĩ. Không có đủ đất ở Nam Kinh để xây nghĩa địa. Phần lớn người chết phải chờ tới hàng tháng mới được chôn. Trong số đó, có người không chờ được đã phải chôn đại đâu đó hay... hay chôn chung với người khác trước khi có cơ hội...” Ông lưỡng lự, dừng lại nhìn chăm chăm vào tách trà của mình và đột nhiên trông già hẳn đi. Tôi thậm chí còn nhìn thấy cả những đường gân xanh dưới lớp da nhăn nheo của ông. Tôi dường như còn cảm nhận được cả xương của ông cũng đang nhô lên. “Có một lần tôi nhìn thấy một đứa trẻ,” ông nói tiếp, giọng rất khẽ. “Con bé bị... bị người Nhật xẻo đi một ít thịt, ở đây, ngay dưới xương sườn. Ai cũng nghĩ là con bé đã chết nhưng chẳng ai buồn chôn cất nó. Nó nằm đó nhiều ngày giữa phố đông, nhưng không ai ra khỏi nhà để chôn cất nó. Tôi vẫn không hiểu tại sao họ lại không làm gì. Ở Nam Kinh, chôn cất người khác đem lại vận may...” Rồi ông chìm dần vào im lặng, mắt nhìn chằm chằm vào những ngón tay đang xoay quanh tách trà.

Khi thấy ông có vẻ không muốn nói gì thêm, tôi nhoài người ra phía trước, hạ thấp giọng thành một tiếng thầm thì. “Sử Trùng Minh. Xin ông hãy nói cho tôi biết chuyện gì đã xảy ra trong cuộn phim đó?”

Ông lắc đầu.

“Xin hãy làm ơn.”

“Không.”

“Tôi cần phải biết, tôi rất cần.”

“Tôi xin lỗi. Nếu cô muốn biết đến vậy thì cô sẽ phải giúp đỡ việc nghiên cứu của tôi. Đó chính là lý do cô tìm tới đây, đúng không?” Ông nhìn tôi.

Tôi thở dài và ngồi thụt vào trong ghế. “Vâng, đúng thế.”

Ông mỉm cười buồn bã. “Tôi cứ tưởng là tôi đã mất cô rồi. Trong một thời gian dài, tôi nghĩ là cô đang trôi nổi ở đâu đó.” Ông ném cho tôi một cái nhìn dịu dàng và buồn bã, không giống với bất kỳ cái nhìn nào mà ông từng dành cho tôi. Đây là lần đầu tiên kể từ khi chúng tôi gặp nhau tôi mới có cảm giác là ông cũng quý tôi. Chắc tôi sẽ chẳng bao giờ biết được ông đã trải qua những gì trong mấy tuần lễ chúng tôi không liên lạc với nhau. “Cái gì đã khiến cô quay lại thế?”

Khi tôi đứng dậy để ra về, tôi chỉ cần mở cửa và bỏ đi. Nhưng tôi không kiềm chế nổi. Tôi dừng lại trước cửa, quay lại hỏi ông. “Ông Sử Trùng Minh?”

“Hừm, cái gì nữa?” Lúc này ông đang ngồi bên bàn làm việc. Nghe tôi hỏi, ông ngẩng đầu lên nhìn như thể tôi vừa cắt ngang dòng suy nghĩ của ông.

“Ông từng nói với tôi rằng sự thiếu hiểu biết và tội ác không giống nhau. Ông có nhớ không?”

“Có. Tôi nhớ.”

“Có đúng thế không? Ông có nghĩ thế không? Rằng sự thiếu hiểu biết không phải là một tội ác?”

“Dĩ nhiên rồi,” ông nói. “Dĩ nhiên đó là sự thật.”

“Ông thực sự nghĩ thế chứ?”

“Tất nhiên là tôi nghĩ thế. Sự thiếu hiểu biết có thể được tha thứ. Nó không bao giờ giống như tội ác. Tại sao cô lại hỏi thế?”

“Bởi vì, bởi vì...” Một cảm giác kỳ lạ chợt xâm chiếm lấy tôi khiến tôi cảm thấy mình trở nên mạnh mẽ và thanh thản tới lạ lùng. “Vì đó là một trong những câu hỏi quan trọng nhất trên đời.”


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder   Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder - Page 2 Icon_minitimeSun Feb 03, 2019 9:10 pm


Chương 39

Trời càng về trưa càng lạnh và có vẻ như muốn mưa. Trên phố, xe ôtô xếp thành từng dãy dài trước đèn đỏ, cửa kính đóng chặt, hơi nước bốc lên nghi ngút. Gió xoáy vào từng góc phố, tưởng như mất hút rồi bỗng chốc lại ùa ra, cuốn phăng mọi thứ trên đường đi và ném chúng vào các ga tàu điện ngầm. Tôi xuống tàu đoạn gần nhà Fuyuki, vừa siết chặt áo khoác vừa rảo bước, lấy tòa tháp Tokyo màu trắng đỏ sừng sững giữa trời làm cột mốc dẫn đường, băng qua một loạt những đường phố xa lạ với rất nhiều nhà hàng và tiệm mì nhỏ. Khi đi qua một khu chợ bán buôn có tên là Meat Rush, tôi bước chậm lại và nhìn chòng chọc vào bãi để xe nơi khách hàng đang chất những đống chân giò nặng tới mười kí vào trong những chiếc ôtô. Thịt. Cả người Nhật và người Trung Quốc đều trải qua một thời kì mà thứ protein duy nhất người ta có được là nhờ ăn những con nhộng, châu chấu, rắn, ếch và chuột. Bây giờ, họ có cả những khu chợ bán buôn tên là Meat Rush.

Thịt, tôi nghĩ, dừng chân trước hàng rào sắt bên ngoài căn hộ của Fuyuki. Thịt. Một gara ôtô để mở và một người đàn ông mặc quần yếm công nhân đang đánh bóng một trong những chiếc xe hơi màu đen của Fuyuki. Cửa xe mở toang, chìa khóa tra trong ổ và chiếc đài trên xe hình như đang phát một bài hát của Beatles. Một người làm vườn đang dùng vòi phun nước để làm sạch lối đi. Tôi bám vào các thanh sắt trên hàng rào và thò đầu vào nhìn khu căn hộ. Tất cả các cửa sổ đều lắp kính đen. Chẳng nhìn thấy gì ngoài bóng của những đám mây lạnh lẽo. Sử Trùng Minh cho rằng dù là gì đi nữa thì thứ mà Fuyuki giấu trong căn hộ của ông ta cũng cần được bảo quản kỹ càng. Nhất là khi việc tìm kiếm nguồn thuốc thay thế rất nguy hiểm hoặc vô cùng khó khăn...

Có một trạm điện thoại ngay phía đối diện khu nhà nên tôi đi tới đó, chui vào trong và thấy ảnh của các cô gái Nhật mặc quần lót được gài khắp nơi phía sau hộp đút tiền. Tôi lục ví và lôi ra tấm danh thiếp của Fuyuki. Cây Mùa đông. Cây Mùa đông. Tôi gạt mấy sợi tóc vương trên mặt rồi quay số của ông ta, cắn móng tay chờ đợi. Rồi tôi nghe thấy một tiếng click và giọng một phụ nữ Nhật trả lời: “Xin lỗi, số máy này hiện không liên lạc được. Xin vui lòng kiểm tra và gọi lại sau.”

Phía bên trong tòa nhà, người làm vườn bắt đầu cuộn vòi nước lại. Nước chảy tràn xuống những luống hoa, nơi những cây cải bắp dùng để trang trí được buộc chặt lại để tạo dáng và khỏi nở bung trong suốt mùa đông. Tôi gác máy, nhét tấm danh thiếp vào túi và trở về nhà. Tối nay người ta sẽ giao đồ uống mà Mama Strawberry đặt riêng.

Những ngày như thế này Mama Strawberry thường khá vui vẻ và dễ dãi. Tối nay tôi nhất định sẽ phải hỏi lại là tại sao bà ta bảo tôi không nên ăn gì ở nhà Fuyuki.

Khi tôi gặp lại Jason tại hộp đêm tối hôm đó, giữa chúng tôi dường như không có chuyện gì xảy ra. Tôi đang kiểm tra lại lớp trang điểm trong phòng thay đồ thì anh ta đi qua và dừng lại nói: “Anh biết em cần gì và anh biết làm thế nào để em thấy dễ chịu hơn.” Rồi anh ta chỉ tay vào bụng tôi, nháy mắt với vẻ ranh mãnh: “Em chỉ cần làm thế nào để vượt qua nỗi thất vọng cỏn con ấy là được. Chúng ta sẽ tìm ra cách giải quyết khi chúng ta về nhà.” Khi anh ta đi khỏi, tôi nhìn lại mình trong gương và ngạc nhiên khi thấy rằng tôi chẳng có cảm giác gì. Không gì cả. Có cái gì đó thật ghê gớm trong việc tôi đột nhiên có khả năng trở lại chính mình một cách nhanh chóng đến vậy. Chắc là nhờ thực hành.

Đó là một buổi tối rất lạ lùng. Tôi không chuyện trò gì mấy với khách hàng. Các nữ tiếp viên thỉnh thoảng lại hỏi xem tôi có được khỏe không. Thỉnh thoảng khi các cuộc đối thoại lắng xuống, tôi lại bắt gặp Jason đang đứng ở quầy bar, nhìn tôi chằm chằm với một vẻ hết sức tự tin. Có một lần, anh ta khẽ nhướng mày và mấp máy môi nói gì đó mà tôi không hiểu. Tôi không đáp lại.

Mama Strawberry nhấm nháp tequila suốt buổi tối. Tôi quan sát bà bằng đuôi mắt, thấy bà châm thuốc rồi lại quên bẵng mất, để chúng lụi dần đi trong gạt tàn. Bà ta hay ngồi vắt vẻo trên đầu gối khách hàng và mỗi khi bước đi là lại đong đưa từ bên này sang bên kia. Trong một lúc nghỉ chờ khách, tôi đi tới bên bàn của Strawberry và ngồi xuống trước mặt bà. “Strawberry, tôi vẫn cần phải biết. Tôi cần phải biết bà đã nghe những chuyện gì về Fuyuki.”

“Suỵt!” Bà ta rít lên, ném một cái nhìn rờn rợn về phía tôi, đôi mắt kính áp tròng màu xanh da trời của bà ta hút lấy ánh đèn từ các tòa nhà chọc trời bên ngoài và phản chiếu thành những tia lấp lánh như kim cương. “Cô hãy quên đi tất cả những gì mà Strawberry nói. Được không. Tất cả.”

“Tôi không tài nào quên được. Tại sao bà lại bảo tôi không được ăn bất cứ thứ gì?”

Bà ta nuốt thêm một ngụm tequila và lập cập nhét một điếu thuốc vào chiếc đót nhưng phải tới lần thứ ba, thứ tư mới thành công. Bà ta châm thuốc, đôi mắt ướt rượt nhìn khắp mặt tôi. “Nghe này,” cuối cùng bà ta lên tiếng, giọng nhẹ nhàng và rất khác lạ. “Tôi sẽ kể cho cô nghe một chuyện. Tôi sẽ kể cho cô nghe về mẹ của Strawberry.”

“Tôi không muốn nghe chuyện về mẹ của...”

“Mẹ của Strawberry,” bà ta điềm tĩnh nói. “Một người phụ nữ rất thú vị. Khi bà ấy còn là một bé gái, nhỏ bằng chừng này này, thì ở Tokyo, mọi người không có gì để ăn.” Tôi mở miệng định ngắt lời thì bà ta giơ tay lên để ra hiệu cho tôi im lặng. Giọng bà ta căng thẳng, như đang tập trung cao độ, mắt đảo xung quanh một điểm nào đó phía trên đầu tôi. “Cô biết chuyện đó chứ, Grey? Tất cả mọi người đều bị đói.”

“Tôi biết. Người ta chết vì đói.”

“Đúng. Đúng. Chết đói. Thật khủng khiếp. Nhưng rồi đã xảy ra một chuyện. Đối với mẹ tôi, đó là một chuyện kỳ diệu. Các khu chợ của yakuza đột nhiên xuất hiện.”

“Các khu chợ đen.”

“Không ai ở Tokyo gọi đó là đen. Họ gọi đó là xanh. Những khu chợ Trời Xanh.” Bà ta đột nhiên mỉm cười mơ hồ, hai tay dang ra như thể đang miêu tả cảnh mặt trời mọc. “Gọi là Trời Xanh vì đó là nơi duy nhất ở Tokyo không có mây. Nơi duy nhất ở Tokyo có thức ăn.” Bà ta nhìn ra ngoài cửa sổ, qua chiếc xích đu của Marilyn. Tối hôm đó trời mưa. Hệ thống đèn neon từ tòa nhà Yotsuya Sanchome kêu phùn phụt hắt những chùm ánh sáng yếu ớt xuống đường phố ẩm ướt phía dưới hàng trăm mét. Trong màn mưa, chân trời bỗng hiện ra thấp thoáng, lung linh như một bức tranh minh họa trong chuyện cổ tích. “Cái chợ to nhất nằm ở phía đó.” Bà ta chỉ ra phía ngoài trời đêm. “Ở Shinjuku. Ánh sáng bao trùm Shinjuku.”

Tôi có đọc về khu chợ do mafia điều hành ở Shinjuku. Tôi vẫn luôn tưởng tượng đó là một nơi kỳ diệu giữa thành phố Tokyo điêu tàn vì bom đạn với tấm biển hiệu được làm từ hàng trăm ngọn đèn có thể nhìn thấy từ xa hàng cây số tỏa sáng lấp lánh trên những mái nhà cháy đen của thành phố như mặt trăng treo trên rừng thẳm. Ở đó có những gian hàng bán thịt cá voi đóng hộp, xúc xích hải cẩu, đường, và hẳn phải có không khí của một lễ hội đường phố với những chiếc đèn lồng treo trên cây, tiếng than reo vui trong lửa và những người đàn ông đứng dựa vào các quầy hàng, uống rượu kasutori và nhổ phì phì xuống đất. Hồi đó, kasutori là thứ duy nhất có thể tìm thấy ở Tokyo để uống thay sake, người ta nói rằng uống tới ly thứ ba có thể sẽ bị mù nhưng ai thèm quan tâm tới chuyện đó cơ chứ. Mù một tí thì ăn thua gì khi mà mọi người đều đang hấp hối cả?

“Mẹ của Strawberry rất thích khu chợ Trời Xanh. Bà ấy thường cùng những đứa trẻ khác tới đó để xem chiếc xe hơi của ông trùm yakuza. Đó là chiếc ôtô duy nhất mà người ta thấy ở Tokyo thời đó và đối với mẹ tôi, Trời Xanh là một nơi giống như thiên đàng. Ở đó bà ấy có thể mua quần áo, bánh mì và món thịt hầm zanpan.” Strawberry ngừng lại và nhìn tôi. “Grey-san có biết món thịt hầm zanpan là gì không?”

“Không ạ.”

“Thức ăn thừa. Nấu từ những gì lính Mỹ bỏ lại. Từ bếp ăn của họ. Thật ra trong món đó chả có nhiều thịt lắm. Nếu yakuza cho thêm thịt vào đó thì họ sẽ lấy thêm tiền. Tất cả chỉ xoay quanh tiền và tiền.” Bà ta bắt chước tiếng động sột soạt khi người ta nhét tiền vào ngăn kéo. “Tiền và tiền. Vậy là yakuza vào sâu trong đất liền, tới Gumma và Kanagawa, và lấy trộm thịt của nông dân...” Bà ta ngước mắt lên nhìn tôi. Đột nhiên trông bà ta trẻ hẳn ra, như một đứa bé con ngồi trước mặt tôi, hai tay khoanh lại trên bàn vẻ hối lỗi.

“Gì cơ? Bà định nói gì?”

“Zanpan.” Bà ta nói khẽ, đôi môi tô son đỏ bóng nhẫy khẽ rung lên. “Đó là thứ tôi muốn kể cho Grey-san. Mẹ của Strawberry đã phát hiện ra một thứ rất kỳ lạ trong cái món zanpan mua ở chợ Shinjuku.”

“Kỳ lạ?” Tôi thì thào hỏi lại.

“Grey-san có biết ai điều hành chợ Ánh sáng bao trùm Shinjuku không? Là băng Fuyuki.”

“Thế mẹ bà đã tìm thấy cái gì trong món thịt hầm đó?”

“Những miếng mỡ có mùi vị rất kinh khủng. Không bình thường. Và cả những mẩu xương nữa.” Bà ta nói, gần như không thành tiếng. Bà ta hơi nhoài ra phía trước, nhìn tôi mắt long lanh. “Những đoạn xương rất dài, dài hơn xương lợn và to hơn xương bò.” Trong đôi mắt của bà ta có cái gì đó u uất, như thể đang thấy lại những hình ảnh mà bà ta vốn lấy làm hổ thẹn. Phía sau lưng bà ta, ngoài cửa sổ, nàng Marilyn vẫn đung đưa từ phía trước ra phía sau, như đang bay vào chiếc màn hình vô tuyến quảng cáo sáng đèn của tòa nhà đối diện.

“Thế con vật gì mà lại có xương dài như thế?” Tôi hỏi.

Bà ta nheo mắt và ném cho tôi một nụ cười mỉa, gượng gạo. “Ở chợ Trời Xanh, người ta có thể mua được bất cứ thứ gì. Kể cả oshaka.”

Oshaka, tôi đã đọc thấy từ này ở đâu đó. Oshaka.

Strawberry đang định nói tiếp thì chiếc thang máy pha lê đổ chuông báo hiệu có khách vừa lên khiến cả hai chúng tôi giật mình quay lại nhìn về phía cánh cửa vừa mở tung ra và thấy cái dáng gù gù, lừ đừ không lẫn vào đâu được của mụ Y Tá đang di chuyển trong tiền sảnh, đầu mụ hơi cúi xuống để cho mái tóc bóng lộn che khuất gương mặt. Mụ ta mặc một chiếc áo mưa màu nâu vàng, găng tay cùng màu và rõ ràng là đang đợi ai đó tới nghênh đón.

Strawberry đứng vụt dậy, nhanh như điện, mặt biến sắc dưới lớp son phấn. “Chết tiệt! Cô có nhìn thấy mụ ta tới không?” Bà ta rít lên.

“Không ạ.” Tôi không rời khỏi mắt mụ Y Tá nhưng vẫn cố nhoài người qua bàn sang phía Strawberry và thì thầm vội vã: “Bà nói oshaka nghĩa là gì? Oshaka là cái gì?”

“Suỵt.” Bà ta nói và khẽ rùng mình rụt người lại trong chiếc áo khoác như thể vừa bị giội nước lạnh vào lưng. “Đừng có nói to thế. Ngậm miệng lại ngay. Ở đây không an toàn.”

Fuyuki cử mụ Y Tá tới để chọn một số tiếp viên cho bữa tiệc tại nhà ông ta. Tin tức chẳng mấy chốc lan khắp hộp đêm. Tôi vẫn ngồi bên chiếc bàn mạ vàng của Mama Strawberry, quan sát mụ Y Tá đang trao đổi khẽ với bà ta. Mama Strawberry vừa đứng vừa ghi lại tên các nữ tiếp viên, mặt tối sầm, đầu cúi gằm, vẻ nhẫn nhục. Một lúc sau mụ Y Tá chỉ vào bên trong hộp đêm và nói gì đó. Chiếc bút nhỏ bằng vàng của Mama Strawberry như khựng lại, trượt ra ngoài trang giấy ghi chép. Mắt bà ta lướt qua tôi, và tôi có cảm giác như bà ta định nói gì đó. Nhưng cuối cùng bà ta lại thay đổi ý định, mím chặt môi và viết thêm một cái tên nữa vào danh sách.

“Em đã được chọn,” Jason lướt tới bên bàn và bảo tôi. Vẫn chưa tới giờ đóng cửa nhưng anh ta đã tháo chiếc nơ cà vạt và tay cầm một điếu thuốc. Anh ta đăm chiêu nhìn về phía mụ Y Tá. “Một bữa tiệc nữa. Không thể nào tốt hơn với chúng ta.” Khi thấy tôi không trả lời, anh ta lại thì thào: “Hãy nhìn đôi giày gót nhọn của mụ ta. Em có hiểu anh đang nói gì không?” Mắt anh chậm rãi di chuyển từ chân, tới đùi rồi tới chiếc váy bó sát của mụ ta. “Mụ ta đã mang đến cho anh những ý tưởng lớn, cô bé lập dị ạ. Những ý tưởng mà chắc chắn em sẽ rất khoái.”

Anh ta bỏ đi để bắt kịp mụ Y Tá phía bên ngoài chiếc thang máy pha lê. Anh ta đứng rất gần mụ, mặt anh ta sát vào mặt mụ. Trông mụ ta có vẻ im lặng một cách bất thường khi mụ nghe anh ta nói. Tôi không thể rời mắt khỏi đôi tay đeo găng dài ngoẵng của mụ.

“Cô có nghĩ là anh ta sẽ thò tay vào trong váy của Ogawa không?”

Mama Strawberry quay lại ghé sát vào tai tôi nói, mắt vẫn nhìn về phía Jason. Tôi có thể ngửi thấy mùi tequila trong hơi thở của bà ta. “Cá với tôi đi nào, Grey. Cá là khi anh ta thò tay vào trong váy của Cô Ogawa thì anh ta sẽ tìm thấy cái gì? Hả?” Bà ta loạng choạng túm lấy tay tôi để giữ thăng bằng vì đã ngà ngà say. “Hả? Nếu cô hỏi Strawberry, thì Jason sẽ tìm thấy một cái chin chin trong quần lót của mụ ta. Nếu cô hỏi Strawberry, thì Ogawa trông giống như một người đàn ông.”

“Strawberry, thịt ở trong zanpan là thịt gì?”

Bà ta níu chặt tay tôi và rít lên: “Đừng có quên đấy, tất cả chỉ là tin đồn thôi. Chớ có nhắc lại với ai.”


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder   Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder - Page 2 Icon_minitimeSun Feb 03, 2019 9:11 pm


Chương 40

史 Nam Kinh, ngày 20 tháng Mười hai năm 1937

Ba chúng tôi mang bánh bao về cho Thu Kim rồi mới đi. Chúng tôi đi qua các con phố còn đang ngái ngủ, nhìn những ngôi nhà cửa giả bịt kín xung quanh với đôi mắt cảnh giác. Nam Kinh, ngươi là một thành phố ma. Những cư dân của ngươi đâu hết cả rồi? Rúm ró trong im lặng, chui rúc trong những căn nhà khép chặt cửa? Hay trốn dưới các tầng hầm và chuồng nuôi gia súc? Tuyết vẫn rơi lặng lẽ trên vai chúng tôi, lên mũ và áo khoác, rơi xuống đường vào đúng bãi phân dê bên rãnh nước và biến thành màu vàng. Không một bóng người.

“Mọi người nhìn này!” Đi được khoảng mười phút thì chúng tôi đến được một con ngõ nhỏ thông ra đường Trung Ương. Thằng bé chỉ tay lên một dãy nhà ám khói. Chắc hẳn những ngôi nhà này chỉ vừa mới trải qua cơn hỏa hoạn, vì khói vẫn đang bốc lên nghi ngút. “Là hắn đấy. Tên diêm vương. Hắn luôn làm thế mỗi khi đi lùng sục.”

“Lùng sục?” Tôi và ông Lưu đưa mắt nhìn nhau.

“Lùng sục phụ nữ. Đó là thói quen của hắn.”

Chúng tôi vừa định mở miệng hỏi tiếp thì thằng bé đặt một ngón tay lên môi và ra hiệu cho chúng tôi im lặng. “Không phải lúc này.”

Thế rồi nó rón rén bước đi, dẫn chúng tôi đi xa hơn và cuối cùng dừng lại trước một nhà máy có cánh cổng đôi, mái tôn, cao như một tòa nhà hai tầng. Tôi đã đi ngang qua chỗ này tới hàng trăm lần mà chẳng thèm để ý xem đó là tòa nhà gì. Chúng tôi đứng tụm lại với nhau, giậm chân cho tuyết rơi xuống và vỗ hai tay vào nhau cho máu lưu thông trở lại, mắt vẫn nhìn xung quanh với vẻ đề phòng.

Thằng bé lại đặt tay lên môi. “Đây là nơi hắn sống,” nó thì thầm. “Đây là nhà của hắn.” Nó đẩy cánh cửa kêu két một tiếng. Bên trong tòa nhà rất lạnh, tôi chỉ thấy lờ mờ các thứ máy móc, những bức tường bê tông ẩm ướt, và một băng chuyền sản xuất. Một đống giỏ đan bằng vỏ cây sậy kiểu cổ chất đống cạnh tường.

“Cái gì thế này?” Ông Lưu hỏi khẽ và qua giọng nói của ông, tôi có thể thấy là cũng giống như tôi, ông không muốn đi vào bên trong. Cái không khí trong nhà máy này khiến tôi nhớ tới một trong những lò sát sinh ở ngoại ô. “Con đưa chúng ta tới đây làm gì?”

“Hai người muốn biết tại sao người phụ nữ đó lại la hét.”

Hai chúng tôi nhìn vào cánh cửa và do dự.

“Đừng lo.” Thằng bé nhìn thấy vẻ mặt của chúng tôi và nghiêng đầu về phía cả hai. “An toàn mà. Giờ này hắn không có ở đây.”

Thế rồi nó đẩy cánh cửa thêm chút nữa. Một tiếng rít ghê người vang lên khắp tòa nhà sâu hun hút rồi thằng bé bước vào và biến mất sau cánh cửa. Ông Lưu và tôi nhìn nhau. Mắt tôi mờ đi vì sợ, thật phi lí, tôi tự bảo mình, trên đời này làm gì có ma quỷ. Tuy nhiên, cũng phải mất một lúc lâu tôi mới gom đủ dũng khí để mở cửa và bước vào trong. Ông Lưu bước theo tôi, và chúng tôi dừng lại một lúc để cho mắt quen dần với bóng tối.

Đây hẳn là một nhà máy dệt. Tôi có thể nhìn thấy một cái bể lớn để luộc tằm, bốn năm cái máy dệt công nghiệp và hàng tá ống chỉ hình thoi. Thằng bé đang đứng ở góc phòng, bên cạnh một cánh cửa nhỏ, ra hiệu cho chúng tôi đi theo. Chúng tôi đi tới chỗ nó, tiếng bước chân vang lên một cách lạc lõng và trống trải trong ngôi nhà có trần cao như nhà thờ này. Thằng bé đẩy cánh cửa rồi đứng im, tay vẫn đặt trên núm cửa, chỉ cho chúng tôi thấy một căn phòng, có lẽ trước đây là phòng của quản đốc. Chúng tôi bước tới sau lưng thằng bé. Tôi nhìn vào bên trong căn phòng và lập tức phải đưa tay lên che miệng và vịn vào bức tường bên cạnh, cố gắng giữ cho đầu gối không khuỵu xuống.

“Trời ơi, chuyện gì đã xảy ra ở đây vậy? Chuyện gì đã xảy ra ở đây?” Ông Lưu thì thào.



Chương 41

Đó là một thứ hãi hùng, khủng khiếp hơn bất cứ cái gì bạn có thể tưởng tượng. Đang ở trong ôtô trên đường tới nhà Fuyuki thì tôi chợt nhớ ra oshaka có nghĩa là gì và tôi đã đọc thấy nó ở đâu. Tôi ngồi phắt dậy trong xe, cố hít thở thật sâu để khỏi run lên bần bật. Lẽ ra tôi phải yêu cầu lái xe dừng lại. Lẽ ra tôi phải mở cửa, và bước ra khỏi xe ngay lập tức. Nhưng tôi như bị tê liệt vì cái ý nghĩ khủng khiếp đó cứ lan ra khắp người tôi. Khi xe dừng lại trước khu căn hộ thì mồ hôi đã đọng thành vệt lấp loáng trên gáy và dưới khuỷu chân tôi.

Xe ôtô chở chúng tôi là chiếc xe cuối cùng nên khi tôi lên tới nhà trên thì mọi người đã ngồi hết vào bàn chuẩn bị ăn tối. Bên ngoài trời rất lạnh, bể bơi đóng băng, phản chiếu muôn vàn ánh sao lấp lánh, vì vậy chúng tôi được dẫn vào một phòng ăn có trần thấp nhìn ra bể bơi. Tháp Tokyo ngay bên cạnh tòa nhà gần tới mức những sọc ánh sáng màu đỏ và màu trắng của nó hắt lên bàn ăn thành những vòng tròn lớn.

Tôi đứng quan sát căn phòng một lúc. Mọi thứ dường như vô hại. Fuyuki, nhỏ bé và trông giống như một bộ xương trong chiếc áo khoác màu đỏ của dân đua xe với dòng chữ BUD bên ngoài, ngồi ở đầu bàn trong chiếc xe lăn, vừa hút thuốc vừa gật đầu thân ái với đám khách khứa. Chỉ có vài chỗ trống còn sót lại ở chiếc bàn bên cửa sổ. Tôi chui vào đó ngồi, cúi đầu chào hai người đàn ông lớn tuổi ngồi cùng rồi vớ lấy một chiếc khăn ăn, giả vờ loay hoay với nó.

Ở phía góc phòng, đằng sau chiếc tủ trưng bày là một gian bếp nhỏ nơi các nhân viên phục vụ đang tíu tít với đám khay và ly cốc. Mụ Y Tá đứng ngay giữa khu chuẩn bị đồ ăn, cực kỳ ung dung và không chút sao nhãng bởi các hoạt động xung quanh. Mụ vẫn mặc bộ váy đen như thường ngày, đứng hơi xoay người lại với khách khứa trong phòng khiến mái tóc giả bóng lộn che bớt một phần khuôn mặt của mụ. Mụ đang thái thịt trên một chiếc thớt rộng bằng gỗ, cánh tay phủ phấn trắng xóa đưa lên hạ xuống cực kỳ khéo léo, như đang làm ảo thuật. Jason đang quan sát mụ từ cửa bếp, một tay tì lên khung cửa. Anh ta cầm một điếu thuốc cháy dở và chỉ né người sang bên mỗi khi có nhân viên phục vụ mang rượu hay đồ ăn ra ngoài. Tôi trải chiếc khăn ăn lên đùi. Mọi cử động của tôi đều trở nên máy móc và cứng nhắc do tôi không tài nào rời mắt khỏi đôi bàn tay của mụ Y Tá. Tôi thầm nghĩ không hiểu thứ thịt gì đặc biệt tới mức mụ ta phải tự tay chuẩn bị? Làm sao mụ ta có thể lấy hết nội tạng của một người đàn ông ra mà không hề làm suy chuyển tới đồng hồ đeo tay của anh ta? Các nữ tiếp viên ngồi ở chiếc bàn cạnh bếp cũng liên tục ném về phía mụ ta những cái nhìn lo ngại. Đúng là không thể chờ đợi người ta cư xử một cách bình thường khi phải chứng kiến cái cách mụ ta cầm dao và di chuyển hai tay nhanh như chớp.

Một nhân viên phục vụ đi tới góc tường phía tôi ngồi và dừng lại ở bàn chúng tôi. Anh ta bật ngón tay tanh tách vài lần rồi đột nhiên phụt ra một ngọn lửa màu xanh khiến các nữ tiếp viên nhảy chồm lên và cười như nắc nẻ. Tôi nhìn anh ta châm lửa vào chiếc bếp ga để trên bàn, điều chỉnh ngọn lửa rồi đặt lên đó một chiếc nồi đựng nước dùng bằng thép không gỉ. Những vệt tro màu đen ẩm ướt bắt đầu cháy lem nhem ở đáy nồi, và khi những bong bóng nước trắng lóa trông giống như những viên đá nhỏ xíu màu bạc bắt đầu tìm cách nổi lên trên mặt nước thì anh ta nhấc chiếc đĩa bạc bày đầy cà rốt, nấm, bắp cải và những miếng đậu phụ mịn màng xắt hình vuông, và trút vào nồi. Anh ta đảo đều mọi thứ rồi đậy nắp lại và đi sang bàn bên cạnh.

Tôi nhìn xuống tấm lót đĩa trước mặt mình. Một chiếc khăn ăn bằng vải lanh được gấp gọn gàng, một chiếc kẹp thịt bằng tre, và một chén nước sốt nhỏ, sóng sánh mỡ.

“Đây là món gì vậy? Chúng ta sẽ dùng món gì vậy ạ?” Tôi hỏi người đàn ông ngồi bên tay phải tôi.

Ông ta nhe răng cười và nhanh chóng gài chiếc khăn ăn vào cổ. “Món shabu shabu. Cô có biết món shabu shabu không?”

“Shabu shabu? Có, tất nhiên là tôi có biết món này.” Tôi trả lời, xung quanh miệng như có kiến bò.

Đó là món thịt bò thái lát. Thịt tươi nguyên mang tới tận bàn, không tẩm ướp gì. Mama Strawberry hẳn sẽ không muốn thưởng thức món shabu shabu ở đây. Bà ta chắc sẽ không ăn bất cứ thứ gì trong cái nhà này vì những tin đồn đó, những câu chuyện về thứ thịt kỳ lạ có xuất xứ từ chính những gian hàng trước đây đã bán oshaka. Oshaka. Đây là một từ rất lạ, chỉ những thứ đã dùng rồi, những thứ bỏ đi, mà những thứ này thì rất ít thấy trong một thành phố hậu chiến như Tokyo ngày đó khi mà bất cứ cái gì có thể ăn được hay dùng để đun nấu hoặc đổi lấy thức ăn thì không bị vứt đi bao giờ. Nhưng khi ngồi trong ôtô, tôi chợt nhớ ra từ này còn có một nghĩa xấu khác. Các yakuza đã chơi chữ khi dùng shaka và osaka, theo quan điểm Phật giáo thì từ shaka chỉ đích danh một thứ “đồ bỏ đi” rất cụ thể. Khi Strawberry nói oshaka, bà ta muốn nói về những gì còn lại của người chết.

Người phục vụ bàn nhấc vung nồi, một cột hơi nước màu hồng nhạt, hương thơm ngào ngạt bay lên. Những miếng đậu phụ nổi phềnh và lộn tùng phèo trên mặt nước đang sôi sùng sục.

Cuối cùng thì những miếng thịt bò thái lát cũng được mang tới, mỏng tang như món bò carpaccio, tới mức có thể nhìn thấy đáy của chiếc đĩa xuyên qua các lát thịt. Tôi để người phục vụ đặt một đĩa xuống bên tay trái mình nhưng không gắp thịt lên ngay như những người ngồi bên cạnh. Thay vào đó, tôi ngồi im nhìn chúng chằm chằm, cổ họng như thắt lại. Mọi người bắt đầu ăn uống rào rào, gắp miếng thịt lên, giơ ra trước mặt, để ánh đèn lấp lánh trên miếng thịt màu đỏ thắm với những đường gân màu trắng, rồi nhúng vào nồi nước sôi, trụng tới trụng lui. Sau đó dìm vào bát nước sốt rồi ngửa đầu ra sau và nhét cả miếng thịt vào trong miệng. Những giọt mỡ đọng lại dưới cằm.

Sợ mọi người phát hiện ra là mình không ăn gì, tôi đành gắp vài miếng thịt nhúng vào nồi lẩu rồi đưa lên miệng, cắn một miếng nhỏ xíu ở bên rìa. Tôi nuốt chửng, không dám thưởng thức xem cái vị của nó như thế nào vì đột nhiên nghĩ tới cảnh Sử Trùng Minh sẽ đau khổ biết bao khi buộc phải ăn những thứ này. Tôi thả chỗ thịt còn lại vào trong bát nước sốt và uống vội một ngụm rượu vang đỏ. Phía bên bàn Fuyuki, Bison cũng không ăn uống gì. Nét mặt ông ta có cái gì đó không được thoải mái khi nhìn hai chị em người Nga ngồi bên cạnh nhiệt tình đút miếng thịt bò vào miệng nhai ngấu nghiến. Đó là vì ông cũng biết chuyện đó, Bison, tôi thầm nghĩ. Ông biết tất cả những chuyện về oshaka, về món thịt hầm zanpan và về thứ thuốc mà Fuyuki tin rằng sẽ làm ông ta bất tử. Đúng thế không nào? Ông đã biết sự thật.

Những người phục vụ không còn đi ra đi vào khu vực nhà bếp nữa nên Jason chui hẳn vào trong đó. Có lúc anh ta đứng sát vào mụ Y Tá thì thầm gì đó. Mỗi lần tôi ngẩng đầu lên là lại thấy anh ta đứng đó, nói liến thoắng như đang cố thuyết phục mụ ta làm gì đó. Nhưng mụ ta không hề dừng tay, cứ như thể anh ta không hề tồn tại. Một lần anh ta quay ra bên ngoài và bắt gặp tôi đang nhìn anh ta chằm chằm. Lúc đó trông tôi hẳn trắng bệch và hoảng hốt, ngồi thẳng đơ trên ghế. Anh ta mở miệng định nói gì đó rồi đảo mắt về phía mụ Y Tá rồi kín đáo cười với tôi, như thể tôi là đồng lõa của anh ta. Anh ta thè lưỡi liếm môi dưới, miệng của anh ta hé mở trong giây lát vẻ dâm đãng.

Tôi lại nhìn xuống miếng thịt đã nguội. Một lớp mỡ trắng đã đông lại trên bề mặt. Bụng tôi đau cuộn lại, cả người óc ách khó chịu.

Ở bàn bên kia, Bison và Fuyuki đang nói về gã thanh niên gầy nhẳng, tóc nhuộm vàng hoe và da lỗ chỗ những vết rỗ đậu mùa. Là tay chân mới nên trông hắn có vẻ sốt ruột chờ được triệu tới bên bàn của Fuyuki. “Tới đây, chimpira,” Fuyuki nói. “Lại đây, chimpira, lại đây.” Chimpira là một từ tôi chưa từng nghe nói tới. Nhiều tháng sau tôi mới biết đó là một từ lóng chỉ những tay mafia mới gia nhập băng đảng. Từ này, nói một cách bỗ bã có nghĩa là “thằng cu”. Tên chimpira ra trình diện trước mặt Fuyuki, lúc này ông ta đã xoay chiếc xe lăn ra phía ngoài và dùng gậy khều khều vào chiếc áo vest màu tím nhạt rộng thùng thình của tên lính mới để lộ ra bên trong một chiếc áo thun màu đen thay vì một chiếc sơ mi như lệ thường. “Nhìn cái thứ này xem,” Fuyuki nói với Bison. “Giờ họ ăn mặc thế đấy!” Bison mỉm cười yếu ớt. Fuyuki hạ chiếc gậy xuống rồi lắc đầu như đang luyến tiếc. “Những người trẻ tuổi này. Mới thất lễ làm sao!”

Ông ta ra hiệu cho một người phục vụ quay trở vào bếp. Người ta mang tới một cái ghế và khách khứa dạt sang hai bên để tên chimpira ngồi xuống bên cạnh Fuyuki. Tên này luống cuống siết chặt hai tà áo vét để che chiếc áo thun bên trong, mặt tái mét, liếc nhìn đám khách khứa xung quanh. Chỉ khi người phục vụ quay trở ra với một chiếc khay trên có hai chiếc ly nhỏ, một bình rượu sake, một thếp giấy màu trắng và ba chiếc bát nhỏ đựng gạo và muối thì hắn mới có vẻ bớt căng thẳng. Người phục vụ còn đặt lên bàn một con cá với đôi mắt trũng sâu ngửa lên trần nhà. Tên chimpira chăm chú quan sát những thứ đồ chuẩn bị cho lễ sakazuki. Đó là một tin tốt. Fuyuki đang chào đón hắn gia nhập băng đảng. Khi nghi lễ kết nạp được bắt đầu, với việc thả vảy cá vào bình rượu, muối được vãi ra thành hình những kim tự tháp, sau đó Fuyuki và tên chimpira tuyên thệ, tôi nhận thấy tất cả mọi người trong phòng đều tập trung quan sát. Không ai nhìn về phía khu bếp nơi mụ Y Tá đã bỏ dao xuống và đang rửa tay.

Tôi hạ thấp ly rượu của mình và lặng lẽ quan sát mụ ta lau tay bằng một chiếc khăn bông rồi đưa bàn tay to xù vuốt lại mớ tóc giả từ đỉnh đầu xuống gáy. Sau đó, mụ ta thò tay vào ngăn kéo và lôi ra một chiếc hộp thiếc lớn. Mụ ta mở nắp, thò tay vào trong khoắng một lúc rồi rút ra. Cả hai tay mụ ta được bao phủ bởi một lớp bột trắng mịn. Mụ khẽ vẩy tay để phần lớn chỗ bột rơi trở lại trong hộp rồi ngẩng mặt lên và nói một câu gì đó với Jason. Tôi nhoài người ra mép ghế để cố đọc xem mụ nói gì nhưng mụ ta lại quay đi chỗ khác, đôi tay trắng bệch giơ ra phía trước như kiểu bác sĩ phẫu thuật đi vào phòng mổ. Mụ dùng lưng ẩy cánh cửa phía cuối bếp rồi biến mất. Không ai chú ý tới mụ hay Jason khi anh ta dụi tắt điếu thuốc rồi nhướng mày nhìn tôi, mặt phảng phất một nụ cười. Tôi nhìn anh ta, mặt đỏ rần lên. Anh ta hất đầu về hướng mụ Y Tá vừa đi khỏi và lại thè lưỡi ra với tôi một lần nữa. Sau đó anh ta giơ tay và mấp máy môi ra hiệu “năm” rồi biến mất sau cánh cửa nơi mụ Y Tá vừa bước qua, để tôi ngồi lại câm lặng một mình, đầu óc rối bời.

Jason không giống bất cứ thứ gì tôi từng nghĩ tới. Với anh ta, tôi luôn phải đối mặt với những chuyện nằm ngoài sự hiểu biết của mình. Anh ta muốn tôi đi theo. Anh ta muốn tôi chờ khoảng năm phút rồi đi theo hai người đó và thấy cảnh họ đang cởi quần áo cho nhau. Anh ta muốn tôi quan sát họ, sẽ nhìn thấy cái hình ảnh mà anh ta vẫn thường hay tưởng tượng ra, cảnh âu yếm giữa dị nhân và người tình của mụ. Và rồi có thể tôi sẽ phải nhập bọn. Tôi chợt nghĩ tới hình ảnh rùng rợn của một điệu vũ Nhật Bản mà tôi được nghe kể. Đó là một vũ điệu trong suối nước nóng biểu diễn bởi các cô gái điếm, người ta gọi nó là vũ điệu bên dòng suối. Cô gái sẽ bước từng bước khoan thai xuống dòng nước, mỗi lúc lại kéo chiếc kimono lên cao hơn một chút để khỏi bị ướt. Da thịt trần trụi cũng từ từ lộ ra. Bắt đầu là một bắp chân trắng xanh với những vết bầm tím. Tất cả mọi người đều nín thở chờ đợi quang cảnh tiếp theo. Gấu áo nhấc cao lên thêm một chút, một chút. Mụ Y Tá trông như thế nào khi không mặc quần áo? Anh ta sẽ nghĩ gì khi anh ta chạm vào mụ? Và mụ, mụ sẽ nghĩ gì khi chạm vào anh ta? Khi chạm vào da thịt của một người đang sống, liệu mụ có phân biệt được nó với thứ da thịt của người chết mà mụ vẫn giã nhuyễn ra thành bột cho Fuyuki? Liệu anh ta có thì thầm với mụ những lời mà anh ta vẫn thì thầm với tôi: Tôi chỉ muốn làm tình với những kẻ quái dị...

Tôi châm một điếu thuốc, đẩy chiếc ghế kêu két một tiếng rồi bước về phía chiếc cửa kính dẫn ra bể bơi. Cánh cửa khép hờ còn hồ bơi thì tĩnh lặng đến lạ kì, ngoại trừ tiếng ro ro của hệ thống lọc nước và tiếng xe cộ rì rầm phía bên đường cao tốc số một gần đó. Chỉ có hai tròng mắt của tôi khẽ co giật. Còn cả người tôi bất động. Không một tiếng động. Tầm nhìn của tôi di chuyển chậm rãi như một con rắn, trải dọc suốt các dãy hành lang xung quanh và từ từ, từ từ hướng về phía bên kia sân. Người ta đặt xung quanh hồ bơi những ngọn đèn nhỏ. Tôi khẽ tì tay vào ô cửa kính trước mặt. Những ngọn đèn ngoài kia khiến tôi nhớ tới các ngọn đèn nhỏ đặt bên cạnh xác chết theo nghi lễ Phật giáo.

Jason và mụ Y Tá đã đi đâu? Cho dù họ có đi đâu thì những chỗ không có họ bỗng trở nên an toàn. Mỉa mai thay, Jason không hề biết là anh ta đang giúp tôi. Tôi tưởng tượng ra những căn phòng in bóng phía dưới hồ bơi như thể có một tấm bản đồ chi tiết vẽ ra trước mặt. Tôi nhìn thấy mình, hay đúng hơn là bóng ma của mình, đang bước trong những hành lang nằm dưới hồ bơi đó rồi rẽ vào một căn phòng. Tôi nhìn thấy mình cúi xuống một chiếc hộp kính và nhấc một thứ gì đó lên bằng cả hai tay...

Tôi liếc nhìn về phía sau. Fuyuki lúc này đang chén món shabu shabu với tên chimpira vừa tuyển mộ, Bison thì đứng nói chuyện với một nữ tiếp viên mặc váy quây. Không ai chú ý tới tôi. Tôi khẽ đẩy cánh cửa kính và bước ra bên ngoài trời đêm ẩm ướt. Căn phòng lần trước tôi nhìn thấy dưới hồ bơi giờ tối sẫm. Tôi hít một hơi thật sâu rồi bước thêm một bước về phía trước, nghe rõ tiếng gót giày kim loại nện trên nền đá hoa cương. Tôi đang định đi tiếp thì nghe thấy ở đằng sau ai đó đang ho dữ dội.

Tôi quay lại. Tên chimpira đang vỗ nhẹ vào lưng Fuyuki, đầu cúi thấp vẻ lo lắng và khẽ thì thầm gì đó vào tai ông ta. Chiếc xe lăn lại được xoay ra phía ngoài. Fuyuki ngồi trong xe, đầu và vai hơi cúi về phía trước, đôi chân đi giày đắt tiền thò ra ngoài, cả người ông ta trông giống y như một chiếc kẹp tóc. Tiếng chuyện trò trong phòng tắt ngấm, mọi con mắt đều đổ dồn về phía Fuyuki khi ông ta đưa tay ra quắp lấy cổ. Tên chimpira kéo ghế đứng lên vẫy tay một cách vô vọng, hết nhìn cửa trước lại nhìn cửa sau như chờ đợi ai đó xuất hiện. Miệng Fuyuki há hốc, đầu từ từ ngật ra đằng sau, rồi hai tay bất thình lình duỗi thẳng ra đằng trước còn ngực thì bật lại sau như một cái cung tên.

Lập tức trong phòng mọi người di chuyển tán loạn. Họ lao tới bên cạnh ông ta. Người thì la hét ra lệnh, người thì đánh đổ lọ hoa trên bàn, ly tách rơi loảng xoảng, một nhân viên phục vụ ấn nút báo động cấp cứu. Trên bức tường trước mặt tôi, chiếc đèn báo động màu đỏ bắt đầu nhấp nháy. Fuyuki đang cố đứng dậy, cả người run bần bật, hai tay rũ ra một cách thảm hại. Đứng cạnh ông ta là một nữ tiếp viên, miệng rên rỉ một thứ âm thanh kỳ quặc, nhấp nhổm định vỗ lưng cho Fuyuki nhưng thật ra lại cản mất lối của ông ta.

“Đi ra, đi ra.” Tên chimpira bắt đầu đẩy các cô gái về phía hành lang. Các nữ tiếp viên bị dồn lại một cách đột ngột nên va vào nhau như những quân cờ domino. Tất cả bị đẩy về phía trước, mặt mũi ngơ ngác, va vào nhau lạch bạch và kêu quang quác như một đàn ngỗng. Tên chimpira liếc nhìn về phía Fuyuki lúc này đang quỳ trên sàn nhà, cả người co giật, tay vẫn quờ quạng sờ lên cổ. “Đi ra,” hắn ta lại quát đám tiếp viên. “Đi ra. Ngay lập tức.”

Tôi run rẩy. Thay vì đi theo đám đông tôi tiếp tục bước về phía bể bơi để sang hành lang bên kia. Trong sân mọi thứ đều yên tĩnh, ánh đèn báo động màu đỏ nhấp nháy trên mặt nước. Trong căn phòng phía sau lưng tôi, điện thoại bắt đầu đổ chuông và ai đó đang gào lên ra lệnh cho những người khác.

“Ogawa. Ogawa!” Đó là lần đầu tiên tôi nghe thấy ai đó gọi mụ Y Tá bằng tên riêng. “Ogawa, mụ đang chết giẫm ở đâu thế?”

Tôi vẫn lặng lẽ tiến về những cánh cửa phía xa kia, đầu ngẩng cao, hoàn toàn tỉnh táo, ánh đèn và mọi thứ âm thanh khác dần lùi lại sau lưng. Khi tôi vừa đi hết chiều dài bể bơi và sang được phía sân bên kia thì cánh cửa ngay trước mặt tôi bật mở và mụ Y Tá từ đâu xuất hiện. Mụ bước về phía tôi, vừa đi vừa chỉnh lại mái tóc giả và mớ áo quần xộc xệch.

Dường như mụ cũng chỉ vừa nhận thức được tính nghiêm trọng của vấn đề nên mụ lao về căn phòng phía sau lưng tôi với cái vẻ của một người trong cơn mộng du. Lúc đầu tôi còn nghĩ là mụ ta không để ý tới tôi nhưng khi tới gần chỗ tôi thì mụ đột nhiên thò tay ra và lôi tôi trở lại phòng khách. Tôi lùi lại vài bước theo mụ ta nhưng vẫn giữ khoảng cách để có thể chuồn khỏi tầm nhìn của mụ và biến vào đêm tối. Tôi đảo mắt ra xung quanh, nhìn lên một loạt cửa ra vào và cửa sổ tìm một chỗ thoát thân. Nhưng trước khi kịp định thần thì không hiểu tên chimpira bỗng từ đâu chui ra, hắn tóm lấy tay tôi như tóm một đứa trẻ con. “Bỏ tay tôi ra,” tôi nói và nhìn chằm chằm xuống tay hắn. Nhưng hắn vẫn lôi xềnh xệch tôi trở lại phòng khách với mụ Y Tá. “Hãy buông tôi ra.”

“Ra khỏi đây ngay. Ra với những người khác. Ngay lập tức!”

Hắn đẩy tôi trở lại phòng khách lúc này đang rất náo loạn và ầm ĩ. Những người đàn ông lạ xuất hiện trên ngưỡng cửa, bên ngoài hành lang mọi người chạy nháo nhác. Tôi bị đẩy ra cùng với các cô gái khác, đứng túm tụm chen chúc nhau không biết phải làm gì. Mụ Y Tá vẫn đang lao phăm phăm, dùng khuỷu tay gạt khách khứa túa sang hai bên. Ở phía cuối phòng một chiếc đèn bàn bị hất đổ xuống sàn kêu chát chúa.

“Túi của tôi!” Irina rên rỉ, nhận ra chúng tôi sắp sửa bị tống ra khỏi đây. “Túi của tôi để ở kia. Làm sao bây giờ?”

Mụ Y Tá cúi xuống và nhấc bổng Fuyuki lên, dễ dàng như bế một đứa trẻ lên hai rồi mang ông ta tới một chiếc ghế sofa gần cửa sổ, đặt ông ta ngồi gập người trên đó, hai chân duỗi ra trước. Mụ Y Tá vòng hai tay ra đằng trước, quàng lấy bụng Fuyuki ngay phía dưới xương ức, mặt áp vào lưng ông ta và bắt đầu siết chặt đột ngột theo hướng từ trước ra sau và từ dưới lên. Hai bàn chân của Fuyuki chợt co lên, lủng lẳng một lúc rồi thõng xuống y như một con rối. Mụ Y Tá lặp lại động tác trên. Mỗi lần như vậy hai bàn chân của Fuyuki lại co giật. Cho tới lần thứ ba thì có cái gì đó từ miệng ông ta bắn phọt ra ngoài rơi xuống sàn nhà, một người phục vụ kín đáo lấy khăn ăn nhặt lên, một người khác đứng gần đó ôm lấy thái dương rồi lảo đảo ngồi xuống.

“Arigate-e!” Một tên tay chân của Fuyuki kêu lên, hai tay ôm lấy ngực thở phào. “Yokatta!”

Fuyuki đã bắt đầu thở lại bình thường. Mụ Y Tá đặt ông ta trở lại chiếc xe đẩy. Từ chỗ đang đứng, tôi có thể nhìn thấy ông ta rất rõ, lúc này đang rũ ra vì kiệt sức, hai tay buông thõng ra phía trước, đầu ngoẹo sang một bên. Người phục vụ đang cố nài ông ta uống một ly nước còn mụ Y Tá thì quỳ ở bên cạnh bắt mạch cho ông ta. Tôi không có cơ hội chứng kiến những gì diễn ra sau đó vì một người đàn ông to béo, mặt đầy nếp nhăn xuất hiện ở ngưỡng cửa và lùa tất cả chúng tôi ra ngoài hành lang về phía thang máy.


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder   Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder - Page 2 Icon_minitimeSun Feb 03, 2019 9:11 pm


Chương 42

Tương truyền hơn hai nghìn năm trước có một nàng công chúa xinh đẹp tên là Diệu Thiện, con gái út của Diệu Trang Vương. Nàng không muốn lấy chồng, làm trái với ý nguyện của vua cha khiến ngài nổi giận bắt nàng đi đày tại một ngọn núi có tên Hương Sơn hay còn gọi là núi Hương. Ở đây, để sống qua ngày nàng phải ăn các loại hoa trái và uống nước từ những dòng suối ngát hương thơm. Không lâu sau, nhà vua ốm nặng. Ngài mắc một thứ bệnh ngoài da kỳ lạ, phải nằm liệt giường. Như các cô gái Trung Hoa hiếu thảo khác, ngay khi nghe được tin này, nàng Diệu Thiện đã không ngần ngại móc đôi mắt của mình ra và sai người hầu cắt cụt hai cánh tay để gửi về cung điện làm thuốc chữa bệnh cho vua cha. Nhờ thứ thuốc đó, nhà vua đã hồi phục.

Diệu Thiện chính là một mắt xích đẹp đẽ, một sợi chỉ thêu hoàn hảo nhất trong tấm thảm mà tôi sắp gỡ tung ra.

Hai chị em người Nga nghĩ là tôi đang say hoặc không được khỏe. Trong lúc cuống quýt, cả ba chúng tôi chui đại vào chiếc taxi vừa dừng lại trước cửa căn hộ. Suốt trên đường về, tôi ngồi thụt vào trong góc, đầu cúi gằm, hai tay ôm mặt. “Đừng có mà nôn ra đấy, tôi ghét nhất là khi người ta nôn ra trước mặt mình.”

Trong nhà rất lạnh. Tôi cởi giày rồi đi về phòng. Tôi lôi tất cả đống tài liệu của mình xuống, tháo dây cho chúng bay lả tả khắp phòng như những bông tuyết. Một vài trang giấy nằm quay những khuôn mặt già nua lên trên như đang nhìn tôi. Tôi lấy tất cả đám sách vở của mình chặn thành một bức tường xung quanh đống tài liệu giống như một khu rào kín ở giữa phòng. Tôi bật lò sưởi điện, trùm áo khoác lên người rồi chui vào ngồi ngay chính giữa nhìn chằm chằm vào bức vẽ núi Tử Kim đang bốc cháy và những cột thống kê số xác chết chất thành cầu vắt qua kênh Giang Đông Môn. Ngày mai tôi sẽ quay trở lại chỗ của Fuyuki. Bạn luôn cảm nhận được khi nào bạn đang tiến gần tới sự thật, nó khiến không khí dường như nóng ran lên. Tôi đã quyết định. Tôi phải được chuẩn bị sẵn sàng.

Ai đó mở cửa trước ầm ĩ rồi loẹt xoẹt đi lên cầu thang. Chúng tôi đã bỏ lại Jason ở chỗ Fuyuki. Tôi thoáng nhìn thấy anh ta trong tiền sảnh mù mịt khói thuốc, đứng lặng lẽ giữa các nữ tiếp viên, chiếc túi quen thuộc đeo chéo trước ngực. Lúc đó, người gác cổng đang nháo nhác gọi taxi cho khách còn bốn nhân viên cấp cứu thì đang tìm cách lách qua đám đông để vào được bên trong, giơ những chiếc túi y tế ra trước mặt để lấy chỗ trong thang máy. Thế nhưng giữa cái đám hỗn độn ấy, Jason lại có cái vẻ gì đó hết sức bình tĩnh, mặt anh ta trông rất lạ, nước da tái mét, và khi mắt chúng tôi gặp nhau thì trong một thoáng ngắn ngủi, dường như anh ta đã không nhận ra tôi. Rồi anh ta lóng ngóng giơ hai tay lên vẫy và bắt đầu loay hoay tìm cách thoát ra khỏi đám đông. Tôi quay đi và chui vào chiếc taxi cùng hai chị em người Nga. Tôi có nghe thấy tiếng anh ta gọi giật phía sau nhưng khi anh ta thoát ra khỏi đám đông đó thì chiếc taxi đã lao đi mất.

Lúc này, tôi có thể nghe thấy tiếng bước chân nặng nề của anh ta đang di chuyển trong hành lang. Tôi nhảy bổ ra phía cửa nhưng không kịp. Trước khi tôi có thể chạm tay vào ổ khóa thì cánh cửa bật mở và anh ta xuất hiện dưới ánh sáng lờ mờ của hành lang. Anh ta thậm chí không thèm dừng lại ở phòng mình để cởi giày và cất túi mà tới thẳng phòng tôi. Mặt anh ta đầm đìa mồ hôi, trên cổ tay áo có mấy vết bẩn.

“Anh đây,” anh ta đặt tay lên ngực, có vẻ như đang say. “Là anh đây.”

“Tôi biết.”

Anh ta bật ra một tiếng cười khô khốc. “Em biết không? Anh không hề biết là em lại hoàn hảo đến vậy? Cho tới tối nay. Em đúng là một người hoàn hảo!” Anh ta lóng ngóng đưa tay lên chùi mặt rồi liếm môi và nhìn xuống chiếc áo sơ mi và chiếc váy nhung bó tôi đang mặc. Cả người anh ta có vẻ gì đó nhớp nhúa. Tôi ngửi thấy mùi thuốc lá, mùi mồ hôi và một thứ mùi gì đó giống như mùi nuớc bọt của một con vật. “Cô gái lập dị, anh xin ngả mũ trước em. Chúng ta xấu xa hệt như nhau. Bệnh hoạn y như nhau. Như những mảnh ghép của một trò chơi xếp hình, chúng ta đều có đúng cái mà người kia cần. Và anh,” anh ta giơ hai tay lên trời, “anh sẽ kể cho em một chuyện mà em sẽ rất thích.” Anh ta túm lấy vạt áo sơ mi của tôi. “Hãy cởi cái áo này ra và cho anh xem...”

“Đừng,” tôi đẩy tay anh ta ra. “Đừng đụng vào tôi.”

“Thôi nào...”

“Không!”

Anh ta có vẻ ngỡ ngàng, rõ ràng là sửng sốt trước phản ứng của tôi.

“Nghe này,” tôi nói, cổ họng như thắt lại, máu bắt đầu dồn lên mặt. “Nghe tôi nói này. Tôi có chuyện quan trọng muốn nói với anh. Anh đã sai khi nói rằng chúng ta giống nhau. Chúng ta không hề giống nhau. Hoàn toàn không.”

Anh ta phá ra cười, lắc đầu. “Ôi, thôi nào,” anh ta ngoắc ngón tay về phía tôi. “Đừng cố nói với anh là em không bệnh hoạn chút nào...”

“Chúng ta không giống nhau,” tôi rít lên, “vì sự thiếu hiểu biết, Jason ạ, sự thiếu hiểu biết không đồng nghĩa với sự điên rồ. Chưa bao giờ.”

Anh ta nhìn tôi chằm chằm. Trên mặt anh ta xuất hiện những đốm nhỏ màu hồng, dấu hiệu của sự giận dữ. “Cô đang định cố tỏ ra là mình thông minh đấy hả?”

“Sự thiếu hiểu biết,” tôi nhắc lại, cảm thấy mạch đập thình thịch hai bên thái dương, “không giống như sự điên rồ. Nó cũng không giống với sự bệnh hoạn, sự xấu xa hay bất cứ cái gì mà anh gán cho tôi. Có những người điên, có những người bệnh hoạn, xấu xa hay kỳ quái, hoặc bất cứ thứ gì mà anh nghĩ ra nhưng hãy nhớ rằng,” tôi dừng lại hít một hơi rất sâu trước khi nói tiếp, “những thứ đó không giống với sự thiếu hiểu biết.”

“Hiểu rồi,” anh ta nói và thở hắt ra. Mặt anh ta đỏ lựng và tôi chợt hình dung ra một Jason nhiều tuổi hơn trong tương lai, to béo, chậm chạp. Anh ta nghiêng đầu ra phía sau vẻ lưỡng lự rồi lại cúi về phía trước, cố tạo ra một khoảng cách lý tưởng giữa hai chúng tôi, nơi anh ta có thể quan sát được kỹ những mạch máu đang đập dồn trên cổ tôi. “Tôi hiểu rồi. Cô đột nhiên biến thành một con chó cái.” Anh ta đặt một chân lên trên ngưỡng cửa, gí sát mặt vào mặt tôi. “Mẹ kiếp, tôi đã quá kiên nhẫn với cô. Không phải thế sao? Dù một phần nào đó trong tôi luôn tự hỏi, Jason, thứ cặn bã nhà ngươi sao lại tốn quá nhiều thời gian cho con nhỏ ngu ngốc đó vậy? Thế nhưng, tất cả những gì tôi làm chỉ là kiên nhẫn. Vậy mà đổi lại, tôi được cái gì nào? Cô. Trở nên hết sức quái đản và đối xử với tôi một cách kỳ quặc.”

“Thì thế,” tôi trả lời một cách gay gắt, “hẳn là kết quả… của việc tôi... là một đứa quái dị.”

Anh ta định mở miệng nói gì đó xong lại thôi. “Chuyện này là gì vậy? Một trò đùa à?”

“Không. Đó không phải là một trò đùa.” Tôi thò tay ra kéo cửa lại. “Chúc ngủ ngon.”

“Đồ chó cái…” Anh ta gườm gườm nói, “đồ khốn kiếp...”

Tôi đẩy cánh cửa ra một chút để lấy đà đóng sập nó lại trước mũi anh ta khiến anh ta nhảy dựng ra phía đằng sau.

“Chó chết!” Anh ta hét lên. Tôi đóng chặt cửa và khóa lại.

“Làm được đấy, đồ bẩn thỉu.” Anh ta đá vào cánh cửa. “Con ranh dở hơi!” Tôi nghe thấy tiếng anh ta đi tới đi lui trong hành lang, không biết phải làm gì với cơn thịnh nộ của mình. Tôi sợ anh ta sẽ đạp đổ cánh cửa hay lao vào đó với hai nắm đấm. Tôi châm một điếu thuốc rồi ngồi xuống giữa đống sách của mình, một tay ôm lấy đầu chờ đến khi anh ta bỏ cuộc.

Anh ta đá vào cánh cửa lần nữa, một cú tạm biệt. “Cô vừa phạm phải một sai lầm lớn, đồ đầu đất. Sai lầm lớn nhất đời cô. Cô sẽ phải hối hận cho tới khi xuống mồ.”

Rồi tôi nghe tiếng anh ta bỏ về phòng, vừa đi vừa cằn nhằn và đấm bùm bụp vào các cánh cửa sổ dọc hành lang.

Sau khi anh ta bỏ đi, ngôi nhà trở nên im lặng. Tôi ngồi im một chỗ, hút hết điếu thuốc này tới điếu thuốc khác, hít thật sâu khói thuốc vào trong phổi để lấy lại bình tĩnh. Khoảng nửa tiếng đồng hồ sau, khi đã trấn tĩnh trở lại, tôi đứng dậy.

Tôi đi lấy hộp bút vẽ và nhặt trên sàn một tờ giấy, vuốt cho nó phẳng ra. Tôi ngồi xổm giữa đống sách vở và tranh vẽ của mình, hai tay chạm vào hai mắt cá chân, nhìn lên bức hình Mickey Rourke đang chiếu sáng ngoài cửa sổ. Tôi đang cố gắng hình dung ra việc ăn thịt đồng loại thì như thế nào. Ở trường đại học tôi đã phải đọc rất nhiều loại sách và cái mớ kiến thức hỗn độn tích lũy trong nhiều năm đó giờ đang xáo trộn trong đầu tôi. Tôi cần phải tập trung cao độ để nhớ ra cái gì là cần thiết cho mình trong lúc này.

Một lúc sau tôi dụi điếu thuốc và bắt đầu pha màu, một hỗn hợp màu vàng son, màu hồng gỗ, và màu trắng kẽm. Tôi vẽ rất nhanh, để lớp màu vẽ chảy và đọng một cách tự nhiên. Chỉ có một lý do để ăn thịt người, tôi nghĩ, một lý do hợp lý. Một khuôn mặt từ từ hiện ra sau nhát vẽ của tôi, đôi gò má hốc hác, cổ giống như cây sậy, một thân hình da bọc xương tiều tụy, hai bàn tay nhọn hoắt tì trên nền đất lạnh ngắt. Một người đang chết đói.

Tôi biết thế nào là chết đói. Đó là một trong những bóng ma lạnh lùng, giống như bệnh dịch, đi vòng quanh trái đất theo bước chân của chiến tranh. Dưới thời Stalin ở Liên Xô có hai nạn đói lớn, hàng trăm người Nga đã phải ăn thịt người để sống sót. Hồi còn ở trường đại học tôi có tham dự bài giảng của một vị giáo sư, người đã tìm thấy trong các tài liệu cũ ở St. Petersburg những bằng chứng về việc người dân Leningrad đã phải ăn thịt người chết trong một lần cả thành phố bị bao vây thời Chiến tranh Thế giới II. Tôi tiếp tục vẽ trên giấy một đoạn xương khô dài, phía cuối mọc ra một bàn chân. Bạn hẳn phải rất đói và tuyệt vọng thì mới có thể ăn thịt đồng loại. Những cái tên khó nhớ khác lại lần lượt hiện ra trong đầu tôi, sự kiện đèo Donner, những cuộc thám hiểm của John Franklin, Nottingham Galley, Medusa và vụ rơi máy bay của đội bóng rugby Old Christan trên dãy núi Andes. Và người Trung Quốc có ý gì khi họ nói Dĩ tử nhi thực. “Chúng tôi đói tới mức có thể ăn thịt trẻ con?”

Tôi vẽ một chữ kanji cho từ đó.

Đói.

Tôi châm một điếu thuốc nữa và gãi đầu. Bạn sẽ không tưởng tượng được bạn có thể làm gì khi bị đói. Nhưng cũng còn những lý do khác, người ta có thể trở thành những kẻ ăn thịt người vì những nguyên nhân khác. Tôi đổi sang một chiếc cọ chuyên dùng cho thư pháp, nhúng nó vào nghiên mực rồi chậm rãi viết thêm một chữ kanji khác, giống như một con số chín với một cái phẩy nhẹ ở đuôi.

Năng lượng.

Ở trường đại học có một nghiên cứu sinh rất say mê với đề tài các bộ lạc chiến tranh ở châu Phi. Tôi nhớ anh ta đã rải tờ rơi khắp trường để kêu gọi mọi người tới tham dự cuộc nói chuyện của anh ta về cái gọi là Hiệp hội Người-Báo ở Sierra Lione và về lính đánh thuê trẻ em ở Poro, Liberia. Tôi không tham dự cuộc nói chuyện này nhưng tôi có nghe mọi người kể về nó: “Tin tôi đi, anh ta nói những chuyện kỳ quặc như họ xẻo thịt kẻ thù để ăn, và nếu đó chính là kẻ đã bại dưới tay họ, thì việc ăn thịt kẻ đó sẽ giúp họ trở nên mạnh hơn.” Một số nhân chứng còn nhắc đến việc tìm thấy trên đường phố Nam Kinh các thi thể đã bị mất các bộ phận như tim, gan. Người ta đồn rằng lính Nhật đã lấy đi những bộ phận này vì tin rằng chúng sẽ khiến họ mạnh mẽ hơn khi giao chiến.

Tôi nhìn xuống chữ “năng lượng” vừa mới vẽ rồi lại nhúng cọ vào mực viết thêm hai chữ nữa, chữ “cách thức” và chữ “của Trung Hoa”. Kampo. Y dược Trung Hoa.

Chữa bệnh.

Những thứ tôi đã đọc có thể giúp gì trong chuyện này? Tôi lôi đống sách y học mà tôi mua ở Kinokuniya và giở chúng ra trước mặt. Một tay thì giữ lấy những trang cần xem lại, một tay thì tiếp tục giở các cuốn sách khác, cây cọ vẽ ngậm ngang miệng. Ánh đèn từ bức quảng cáo Mickey Rourke chiếu thành những hình vuông màu vàng trên tấm thảm tatami.

Thật kỳ diệu. Tất cả đều được nhắc đến trong những cuốn sách này. Tôi đã đọc chúng suốt nhiều tuần lễ, đọc đi đọc lại mà vẫn không tìm thấy bất cứ cái gì hữu ích. Vậy mà, bây giờ, tôi đột nhiên thấy mọi thứ hết sức rõ ràng. Đầu tiên là câu chuyện về Diệu Trang Vương ăn mắt và tay của con gái. Vì sao? Để chữa bệnh. Sau đó tôi cũng tìm thấy trong một bản dịch về những đơn thuốc của thế kỷ XVI. Bản thảo cương mục, thành phần thuốc bao gồm ba mươi lăm vị khác nhau, lấy từ các bộ phận trên cơ thể người. Bánh mì nhúng máu người dùng để chữa bệnh viêm phổi và bất lực ở nam giới, mật ngâm rượu để chữa bệnh thấp khớp. Thịt của các tử tù bị hành quyết được dùng để chữa chứng biếng ăn. Tôi cũng tìm thấy những câu chuyện ăn thịt người rùng rợn ở thôn Lang Sói trong truyện Nhật ký của Lỗ Tấn và những ghi chép của ông về cái chết của một người bạn có tên là Từ Tích Lân khi bị lính canh của Ân Minh, tuần vũ tỉnh An Huy móc tim gan ra ăn. Trong một quyển sách viết về cách mạng văn hóa ở Trung Quốc cũng có nhắc đến một cách khá tỉ mỉ một tập tục cũ có tên gọi là koku thể hiện sự hiếu thảo của con cái khi tự nguyện lóc thịt để nấu canh cho cha mẹ ăn chữa bệnh.

Tôi nhặt ba bức thư pháp kanji gồm ba chữ đói, năng lượng và chữa bệnh mà tôi vừa vẽ và ghim chúng lên tường, ngay dưới chân trời của thành phố Tokyo, rồi nhìn chúng chăm chú. Lịch sử của Nhật Bản luôn có một mối liên hệ với Trung Quốc, biết bao nhiêu thứ đã được chuyển giao giữa hai nước, vậy tại sao cái này lại không? Nếu các bộ phận trên cơ thể con người có thể được sử dụng làm thuốc chữa bệnh ở Trung Quốc thì tại sao lại không được sử dụng ở Nhật? Tôi quay trở lại với quyển sách giáo khoa. Ắt hẳn phải có một cái gì đó. Tôi lờ mờ nhớ ra một chi tiết nào đó... Một chi tiết nào đó mà tôi đã từng đọc ở trường đại học.

Tôi lấy ra những tài liệu nghiên cứu về thời kỳ hậu chiến ở Nhật, trong đó có một số bản ghi chép về các phiên tòa chiến tranh ở Tokyo. Tôi vội châm một điếu thuốc và ngồi khoanh chân trên sàn đọc lướt qua chúng một lần nữa. Được khoảng hai phần ba chỗ tài liệu thì tôi phát hiện ra cái mình cần tìm: lời khai của một phụ nữ Nhật Bản phục vụ cho Đơn vị 731 tai tiếng trong thời gian chiến tranh. Tôi ngồi im trong ánh sáng lờ mờ, chân tay đột nhiên trở nên lạnh ngắt khi đọc tới chỗ: “Những tù nhân chiến tranh của quân đồng minh được đặt cho biệt hiệu Maruta (hay những kẻ đần độn) và là đối tượng để thực hiện các cuộc giải phẫu sống và các thí nghiệm trên con người.”

Bên cạnh là bức ảnh của người cho khẩu cung. Đó là một phụ nữ trẻ đẹp và tôi có thể hình dung ra sự im lặng tuyệt đối và rợn người tại phiên tòa, khi mọi người đều nín thở và bất động nghe người phụ nữ này kể lại một cách rõ ràng và rành mạch cái ngày cô ta ăn gan của một quân nhân Mỹ. “Vì sức khỏe của tôi.”

Tôi ngồi đó rất lâu, nhìn chằm chằm vào bức hình người phụ nữ ăn thịt người xinh đẹp đó. Vào năm 1944, ít nhất đã có một người ở Nhật Bản cho rằng việc ăn thịt người có thể có lợi cho sức khỏe. Đã đến lúc phải nghĩ tới Fuyuki một cách nghiêm túc hơn bao giờ hết.


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder   Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder - Page 2 Icon_minitimeSun Feb 03, 2019 9:12 pm


Chương 43

Tôi trằn trọc rất lâu, chiếc chăn cuốn quanh người như một tấm vải liệm, và đến khi ngủ được thì tôi mơ thấy tất cả mọi thứ trong căn phòng được sắp đặt hệt như ngoài đời. Tôi nằm nghiêng trên đệm trong bộ quần áo pyjama quen thuộc, đầu gối co lại. Chỉ khác có một điều là trong giấc mơ thì tôi không nhắm mắt, tôi đang thức và dỏng tai lên nghe ngóng. Có một tiếng động êm ái và đều đặn vang lên từ phía ngoài hành lang, hơi nghẹt lại, giống như tiếng nói chuyện thì thào. Ở cửa sổ phía bên kia, có tiếng con gì đó đang gặm lớp lưới chống muỗi.

Ý nghĩ đầu tiên của cái tôi trong giấc mơ là một con mèo cho tới khi tôi nghe thấy tiếng dây thép bị xoắn mạnh, rít lên ken két và một khối nặng trĩu giống như một trái bowling lăn vào trong phòng tôi. Khi tôi hé mắt nhìn xuống đó là một đứa trẻ sơ sinh. Nó nằm ngửa trên sàn nhà, kêu khóc, tay chân khua khoắng, hết giơ lên lại hạ xuống như cái piston. Trong một phút sung sướng mê mẩn, tôi nghĩ rằng đó chính là con gái của tôi, cuối cùng nó đã vượt qua các lục địa để tới với tôi, nhưng ngay khi tôi sắp chạm vào nó thì đứa bé lăn sang bên cạnh và dò dẫm vươn tới chỗ tôi. Tôi cảm thấy hơi thở nóng bỏng và cái lưỡi nhỏ xíu của nó chạm vào gan bàn chân tôi. Rồi, nhanh như cắt, con bé ngoạm lấy ngón chân của tôi.

Tôi nhảy dựng lên trên giường, lay đứa bé và vỗ vào người nó, túm lấy đầu nó và cố cậy hai hàm răng ra nhưng đứa bé vẫn cứ bám lấy tôi, gầm gừ, cắn chân tôi không buông và giãy giụa một cách giận dữ, sùi cả bọp mép. Cuối cùng tôi phải đạp cho nó một cái và đứa bé bay vào tường, kêu rít lên rồi tan thành một cái bóng trôi tuột trên sàn nhà trước khi lướt ra ngoài cửa sổ. Dường như tôi nghe văng vẳng giọng nói của Sử Trùng Minh khi con bé biến mất: Một người sẽ phải làm gì để được trường sinh? Sẽ phải kiêng ăn những thứ gì?

Tôi giật mình tỉnh dậy, chăn đệm xộc xệch, tóc dính bết trên mặt. Mới có năm giờ sáng. Bên ngoài cửa sổ, tôi có thể nghe thấy tiếng Tokyo đang gồng mình chống đỡ những phút giây giãy chết của một cơn bão và trong giây lát, tôi dường như còn nghe thấy lẫn trong gió cả những tiếng la hét của đứa bé, như thể nó vẫn đang lao băng băng qua những căn phòng bị bỏ hoang ở tầng dưới. Tôi ngồi im, tay nắm chặt lấy cái chăn. Căn phòng tràn ngập một thứ ánh sáng màu xám kỳ quái, tiếng kêu ro ro của máy sưởi cùng tiếng lách cách của chiếc quạt thông hơi. Và giờ khi tôi nhớ lại, thì rõ ràng trong nhà lúc ấy còn có một âm thanh khác nữa. Một âm thanh kỳ quái không liên quan gì tới giấc mơ của tôi cũng như cơn bão bên ngoài. Vang lên từ đâu đó ở cánh bên kia của ngôi nhà.



Chương 44

史 Nam Kinh, ngày 20 tháng Mười hai năm 1937

Mọi tri thức đều có cái giá của nó. Hôm nay tôi và Lưu Nhuận Đức đã chứng kiến những chuyện mà cả hai chúng tôi đều ước gì có thể quên đi. Kê sát bức tường trong căn phòng nhỏ của nhà máy dệt là một chiếc giường xếp quân đội, một tấm đệm nhơ nhuốc, vấy máu được ném lên trên một cách cẩu thả. Trên giường còn có một chiếc đèn dầu đã tắt của Trung Quốc, như thể có ai đó đã dùng nó để chiếu sáng bất kỳ hành động tàn bạo nào từng được thực hiện tại đây, những hành động khiến tường và sàn nhà ngập ngụa những bãi máu đông. Dường như thứ duy nhất trong căn phòng không dính máu là đống đồ chất ở góc tường: một đôi ủng tabi đế rời, một chiếc ba lô quân nhân làm bằng da bò, thô đến mức vẫn còn dính lông. Trên chiếc bàn nhỏ, bên cạnh chiếc bàn tính của quản đốc nhà máy là một dãy những chai thuốc nhỏ màu nâu niêm phong bằng giấy sáp, tên thuốc được viết bằng tiếng Nhật; vài lọ thuốc đựng các loại bột thô; một cái chày và một cái cối giã, những hộp giấy hình vuông dùng cho việc bào chế thuốc. Đằng sau đống chai lọ là ba chiếc hộp thiếc bẩn thỉu dùng trong quân đội, một biđông nước có đóng dấu quốc huy hình hoa cúc. Ông Lưu đặt một ngón tay lên chiếc hộp thiếc và khẽ đẩy nghiêng nó sang một bên. Tôi cúi xuống và nhìn thấy những mảnh vải vụn nổi lềnh bềnh trong một thứ hỗn hợp kỳ quặc của máu và nước.

“Ôi trời ơi.” Ông Lưu bỏ tay ra khỏi chiếc hộp thiếc. “Chuyện quái gì đã xảy ra ở đây vậy?”

“Hắn ta bị bệnh,” cậu bé nói, rầu rĩ chỉ vào những lọ thuốc ở trên bàn. “Bị sốt.”

“Cha không định nói về mấy lọ thuốc! Cha muốn nói tới cái này. Máu. Ở đâu ra nhiều máu thế?”

“Máu là... Máu đó là... Bọn trẻ con ở trên phố nói máu đó là...”

“Sao?” Ông Lưu nghiêm nghị nhìn cậu con trai.

“Chúng nói sao?”

Đứa bé lo lắng tới thụt cả lưỡi. Mặt nó đột nhiên tái xanh. “Không, chắc là chúng nhầm.”

“Chúng nói gì?”

“Chúng nó lớn hơn con,” thằng bé nói, cụp mắt xuống. “Bọn chúng lớn hơn con nhiều. Con chắc là chúng bịa chuyện ra với con...”

“Chúng nói gì?”

Thằng bé miễn cưỡng quay mặt về phía cha nó và thì thào: “Bọn nó nói rằng những người phụ nữ đó...”

“Sao? Những người phụ nữ đó thì sao?”

“Bọn nó nói rằng hắn...” Thằng bé gần như không nói nên lời. “Hắn xẻo thịt họ. Lột da họ. Hắn ta nạo họ.”

Bụng tôi quặn lên cảm giác buồn nôn khó tả. Tôi ngồi sụp xuống đất, hai tay ôm lấy mặt, đầu óc choáng váng như người bị ốm. Ông Lưu hít một hơi thật sâu rồi túm lấy áo khoác của thằng bé và lôi nó ra ngoài. Hai cha con không nói không rằng lẳng lặng ra khỏi tòa nhà, một lúc sau tôi cũng ra theo, bụng vẫn đau quặn lên từng cơn.

Đi được khoảng trăm mét thì tôi bắt kịp họ. Ông Lưu đang tra hỏi thằng bé trước cửa một ngôi nhà. “Con nghe thấy những tin này từ đâu?”

“Bọn trẻ con đường phố đứa nào chẳng biết chuyện này.”

“Hắn ta là ai? Cái tên diêm vương ấy? Hắn ta là ai?”

“Con không biết.”

“Hắn ta là người, tất nhiên rồi. Nhưng là người như thế nào? Người Nhật à?”

“Vâng. Một trung úy.” Thằng bé sờ vào chiếc cổ áo, nơi sỹ quan Nhật đeo quân hàm. “Tên diêm vương ấy mặc quân phục trung úy.” Thằng bé quay sang nhìn tôi. “Sáng nay chú có nghe thấy tiếng xe máy không?”

“Có.”

“Là hắn đấy. Mọi người nói là hắn sẽ không bao giờ hết đói khát vì không gì có thể ngăn cản hắn. Bọn trẻ con nói là hắn ta đang ở trong một cuộc kiếm tìm không bao giờ kết thúc.”

Khi viết tới những dòng này tôi phải dừng lại vì chợt nhớ ra một cảnh tượng, một cảnh tượng hết sức sống động, một cuộc nói chuyện giữa tôi và ông Lưu trước khi quân Nhật chiếm đóng thành phố. Chúng tôi ngồi trong phòng khách nhà ông Lưu, trước mặt là mấy ly rượu và một đĩa nhỏ thịt vịt muối Nam Kinh thái mỏng, và ông đang kể cho tôi nghe về những xác chết mà ông nhìn thấy ở Thượng Hải, những xác chết đã bị quân Nhật mạo phạm. Tôi không tài nào tưởng tượng ra cái cảnh ông đã kể cho tôi tối hôm đó. Rõ ràng là ở Thượng Hải, bất cứ cái gì cũng có thể được sử dụng như những chiến tích: một cái tai, một mảng da đầu, một quả thận hay một bên ngực. Những chiến tích này sẽ được treo vào thắt lưng hay đính trên mũ, những người lính mà có những vật như mảng da đầu hay bộ phận sinh dục của kẻ thù để phô trương được coi là kẻ mạnh. Họ đứng cùng với những chiến tích đó, chờ đến lượt mình được đồng đội chụp ảnh. Ông Lưu đã nghe tin đồn về một nhóm quân nhân chuyên khâu những mảng da đầu của người Trung Quốc lại thành những cái đuôi sam theo kiểu Mãn Châu rồi gắn sau mũ như một dạng phù hiệu của đơn vị. Trong số họ có một người từ đơn vị khác tới, lúc nào cũng mang theo người một chiếc máy quay phim, chắc là trấn lột của một nhà báo hay cướp được trong một trận cướp bóc nhà dân trong khu định cư dành cho người nước ngoài. Những người lính khác đã khoe chiến tích này với anh ta, vừa cười ha hả vừa vắt những chiếc đuôi sam ra trước ngực và bắt chước dáng đi của các cô phục vụ tại các quán bar trên đại lộ Edward VII. Họ không những không xấu hổ về những hành vi lố bịch của mình mà còn lấy làm tự hào và háo hức được thể hiện chúng.

Giờ đây, khi tôi dừng bút, tất cả những gì tôi nghe thấy chỉ là tiếng tim mình đang đập thình thịch. Tuyết vẫn lặng lẽ rơi ngoài cửa sổ. Chuyện lột da là thế nào? Lột da người ư? Tên diêm vương đó đang muốn thu hoạch loại chiến tích bí ẩn gì vậy?

“Đây là một trong những nạn nhân của hắn.”

Đứa bé còn rất nhỏ, có lẽ chỉ mới ba hoặc bốn tuổi. Con trai ông Lưu dẫn chúng tôi tới chỗ nó. Con bé nằm cách chúng tôi một đoạn, ở góc phố bên cạnh nhà máy, mặt úp xuống, tóc tai rũ rượi, nằm đè lên hai tay.

Tôi nhìn thằng bé. “Chuyện này xảy ra khi nào?”

Thằng bé nhún vai. “Nó ở đây từ đêm hôm qua.”

“Cần phải chôn cất con bé.”

“Vâng,” thằng bé trả lời. “Vâng.” Nhưng nó không hề cử động.

Tôi lại gần để nhìn con bé cho rõ hơn. Ngay khi bước đến bên cạnh, tôi chợt thấy chiếc áo khoác đầy bụi của nó phập phồng. Con bé vẫn còn thoi thóp thở. “Nó vẫn còn sống,” tôi nói và nhìn cha con ông Lưu.

“Vẫn còn sống?” Ông Lưu ném cho cậu con trai một cái nhìn dữ dội. “Con có biết điều này không?”

“Không ạ,” cậu bé nói và lùi lại phía sau thủ thế. “Con thề, con thề là con tưởng nó chết rồi.”

Ông Lưu nhổ một bãi nước miếng xuống đường. Ông quay người và ra đứng cạnh tôi. Chúng tôi cúi xuống xem con bé thế nào. Nó mặc một chiếc áo khoác lông và trông bé tí xíu, nhưng không ai bế nó lên. Chân nó được bó bằng một mảnh vải len màu ôliu, một mẩu chăn quân dụng của Nhật.

Tôi cúi xuống gần con bé: “Quay mặt lại đây,” tôi nói, “nằm ngửa ra nào bé con.”

Con bé vẫn nằm bất động, chỉ thấy bóng của những nhánh cây thích khẽ chuyển động trên lưng nó. Tôi cúi xuống, lấy tay lật con bé lại. Nó nhẹ như một thanh củi, tóc nó xõa ra trên tuyết, hai cánh tay cũng rũ ra theo. Tôi lùi lại một bước, cổ hơi nghẹn lại. Phía trước chiếc quần của con bé bị cắt đi một mảng, ai đó đã khoét một cái lỗ sâu hoắm to như chiếc bát ăn cơm ngay phía dưới sườn phải của nó, đúng chỗ buồng gan. Tôi có thể nhìn thấy những vệt đen, dấu hiệu của sự hoại thư, quanh miệng vết thương của con bé, chúng bốc mùi đến nỗi tôi phải túm vội lấy ống tay áo để che mũi và miệng. Đây là mùi của thứ hoại thư nặng nhất. Hoại thư sinh hơi. Dù có đưa được con bé đến bệnh viện thì nó cũng sẽ không sống được.

Tôi đứng đó, tay che ngang mặt, nhìn chòng chọc vào cái lỗ trên bụng con bé và cố nghĩ xem tại sao người ta lại làm thế. Đây không phải một tai nạn. Không phải một vết thương do bị đâm. Việc cái lỗ này rõ ràng đã bị cố ý khoét khiến máu tôi như đông lại. “Thế này là thế nào?” Tôi lẩm bẩm với ông Lưu. “Đây có phải là một chiến tích không?” Tôi không thể nghĩ ra được lý do nào khác để diễn tả cái hành động phanh thây xẻ thịt này. “Có phải đây chính là một chiến tích của hắn không?”

“Sử Trùng Minh, đừng hỏi tôi chuyện đó. Tôi chưa bao giờ chứng kiến cái gì giống như thế này...”

Và rồi đứa bé mở mắt và nhìn tôi. Tôi không kịp hạ thấp tay xuống. Con bé nhìn thấy sự kinh tởm trên khuôn mặt tôi, bắt gặp tôi lấy tay áo che miệng để khỏi nhận thấy cái mùi bốc ra từ người nó. Con bé hiểu rằng nó đang làm tôi phát bệnh. Nó chớp mắt, đôi mắt trong trẻo và sinh động. Tôi bỏ tay xuống và cố gắng thở bình thường. Tôi không thể để sự ghê tởm của mình trở thành ấn tượng cuối cùng mà con bé nhận được trước khi từ giã cõi đời.

Tôi khổ sở quay sang hỏi ông Lưu. Tôi phải làm gì bây giờ? Tôi có thể làm gì bây giờ?

Ông Lưu nặng nhọc lắc đầu rồi đi sang phía bên kia đường. Khi nhìn theo hướng đi của ông, tôi đã hiểu. Ông đi đến chỗ một viên đá lát đường to đã bị long ra ở chân của tòa nhà.

Khi mọi chuyện đã xong xuôi, khi con bé đã chết hẳn và tảng đá đã nhuốm máu của nó thì chúng tôi rửa sạch tay, cài lại cúc áo và đi ra chỗ thằng bé. Ông Lưu túm lấy tay nó và hôn túi bụi lên trán nó cho đến lúc thằng bé trở nên ngượng ngập và vùng vẫy tránh ra. Tuyết lại rơi và ba người chúng tôi im lặng trở về nhà.

Ngọc Hoàng Thượng đế, xin hãy tha thứ cho con. Tha thứ cho con vì không còn đủ sức để chôn cất cho con bé một cách tử tế. Con bé vẫn nằm trên tuyết, bóng của những cành cây và những đám mây vẫn đang trôi trong đôi mắt đứng tròng của nó. Dấu vết của con bé vẫn còn vương trên chiếc áo khoác ngoài, và dưới các móng tay của tôi. Tôi chắc chắn những dấu vết của nó vẫn còn trong cả trái tim tôi nữa, nhưng tôi không thể cảm nhận được nó. Tôi không còn cảm nhận được bất cứ cái gì nữa. Bởi vì đây là Nam Kinh, và cái chết này không còn là điều mới lạ. Một cái chết thì có gì đáng nói trong một thành phố mà quỷ dữ vẫn đang hiên ngang đi lại săn mồi.


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder   Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder - Page 2 Icon_minitimeSun Feb 03, 2019 9:12 pm


Chương 45

Xung quanh tôi, căn phòng bắt đầu hiện ra lờ mờ trong bóng tối. Tôi vẫn đang ngồi im trên tấm đệm, tim đập thình thịch, dỏng tai lên nghe những âm thanh từ phía bên ngoài. Nhưng mỗi lần tôi tưởng mình sắp phát hiện ra đó là âm thanh gì thì sấm chớp lại át đi mất. Ngồi im trong căn phòng tranh tối tranh sáng này, ngắm nhìn bóng của những chiếc lá cây bị gió thổi bay phần phật ngoài cửa sổ khiến tôi bắt đầu tưởng tượng ra đủ thứ: tôi có ảo giác về ngôi nhà này giống như một chiếc bè gỗ đang trôi nổi bập bềnh trên những ngọn sóng, trong bóng đêm vô tận, và bên ngoài cả thành phố đã biến mất, đã nổ tung trong một cuộc tấn công bằng bom nguyên tử.

Âm thanh đó lại vang lên. Là tiếng gì vậy? Tôi nhìn ra phía cửa. Tôi nghĩ ngay lập tức đến mấy con mèo trong vườn. Tôi đã nhìn thấy lũ mèo con vài lần, bám vào tấm lưới chống muỗi giống như lũ khỉ và kêu chí chóe như lũ chim non. Có thể một con mèo con đã lạc vào một căn phòng nào đó và đang bò như ếch trên tấm lưới chống muỗi. Hoặc có thể đó là...

“Jason?” Tôi hỏi khẽ, ngồi thẳng dậy, khắp người như có kiến bò.

Lần này nó đã trở nên rõ hơn, một âm thanh kỳ lạ giống như tiếng tru, xuyên khắp căn nhà. Tôi chống tay xuống đất và bò lại gần phía cửa ra vào, mở hé nó ra một chút, cẩn thận để không gây ra tiếng động. Tôi nhìn ra phía ngoài. Mấy tấm cửa chớp đã được kéo ra, còn cửa sổ đối diện với phòng Jason mở toang như thể cuộc tranh cãi của chúng tôi mới chỉ xảy ra cách đây vừa đủ thời gian hút một điếu thuốc, và anh ta đã đứng đó hút thuốc từ bấy đến giờ. Bên ngoài, gió quất mạnh, cả khu vườn như đang lồng lên, cành cây gẫy răng rắc, và gần cửa sổ, một chiếc túi nylon Lawson’s Station bị gió thổi đến mắc vào cành cây bay phần phật thỉnh thoảng lại kêu loạt soạt và rách toạc đôi chỗ. Cái bóng kỳ dị méo mó của nó đung đưa, lởn vởn khắp hành lang, trên tường và trên cả những tấm thảm tatami.

Nhưng cơn bão không phải là nguyên nhân khiến tôi tỉnh giấc. Càng nhìn vào cái hành lang quen thuộc thì tôi càng cảm thấy có cái gì đó không ổn. Ánh sáng không bình thường. Mọi khi ngôi nhà không tối thế này. Thường chúng tôi hay để đèn trần sáng suốt đêm nhưng lúc này, nguồn ánh sáng duy nhất trong hành lang là từ bức hình quảng cáo Mickey Rourke ở bên ngoài, và dãy bóng đèn gắn trên trần cũng không còn nữa, chỉ còn lại những mảnh kính vỡ nham nhở lóng lánh. Tôi chớp mắt vài cái và cố gắng trấn tĩnh lại để suy nghĩ cho tỉnh táo. Những bóng đèn trong hành lang rõ ràng đã bị đập vỡ như thể có một bàn tay khổng lồ đã bóp nát chúng.

Có ai đó đang ở trong nhà, tôi nghĩ, nhưng vẫn bình tĩnh một cách lạ lùng. Có ai đó cũng đang ở trong nhà. Tôi hít một hơi thật sâu rồi lặng lẽ bước ra ngoài hành lang. Tất cả các phòng trong hành lang đều đóng cửa im ỉm, kể cả phòng bếp. Thường chúng tôi không đóng cửa bếp bao giờ phòng khi giữa đêm có ai đó đói bụng hay khát nước. Cửa nhà vệ sinh cũng khép chặt, tối om một cách ma quái. Tôi nhón chân bước qua những mảnh kính vỡ, cố phớt lờ tiếng gió hú bên ngoài để tập trung lần theo cái tiếng động kia. Nó xuất phát từ đầu hồi hành lang phía bên kia, nơi có phòng của Jason. Tôi dừng lại, không dám thở mạnh, bắt đầu phân biệt được tiếng động kỳ lạ kia với tiếng gió, nhưng ngay khi nhận ra tiếng động đó thì cả người tôi chợt run bắn lên. Đó là tiếng một người đang yếu ớt rên rỉ vì đau.

Tôi bước sang bên và khẽ mở một cửa sổ. Từ phía hành lang bên kia còn phát ra một tiếng động khác, tiếng lục soát kỳ quái, lén lút, như thể tất cả lũ chuột trong nhà đang túm tụm trong một căn phòng. Cây cối gập xuống vì gió quất, nhưng từ đây tôi có thể nhìn xuyên qua khu vườn, sang hành lang bên kia. Khi mắt tôi bắt đầu quen với những bóng cây chuyển động trên ô kính cửa sổ thì những gì tôi nhìn thấy trong hành lang bên đó khiến đầu gối tôi khuỵu xuống, hai tay run rẩy bám lấy thành cửa sổ, thận trọng nhòm qua bậu cửa.

Cửa phòng Jason mở toang. Dưới ánh sáng lờ mờ, tôi nhìn thấy trong phòng anh ta có một khối gù gù, gớm ghiếc, trông giống như một cái bóng. Như một con linh cẩu đang cúi xuống con mồi và chuẩn bị xé xác nó ra, quắp lấy con mồi trong một tư thế quái dị như thể nó vừa rơi thẳng từ trên trần nhà xuống con mồi. Tóc tai tôi lập tức dựng đứng hết cả lên. Mụ Y Tá. Mụ Y Tá đang ở trong nhà... Rồi tôi nhìn thấy một bóng người khác trong phòng, đứng hơi nghiêng và cúi xuống như đang tìm kiếm cái gì đó trên sàn nhà. Người này cũng đứng khuất trong bóng tối, quay lưng lại phía tôi nhưng đôi vai hắn có cái gì đó khiến tôi cho rằng đó chính là tên mới làm lễ gia nhập băng của Fuyuki tối hôm qua: tên chimpira.

Tôi chớp mắt lia lịa, không tài nào suy nghĩ một cách tỉnh táo được. Chuyện gì thế này? Tại sao chúng lại ở đây? Hay đây là một trò đùa? Tôi đứng thẳng lên chút nữa và nhìn thấy đầu và vai của Jason. Tên chimpira đang để một chân lên gáy Jason gí mặt anh ta xuống đất. Mụ Y Tá khẽ cử động, đổi sang tư thế ngồi, hai đầu gối to và vạm vỡ dưới lớp tất màu đen từ từ giạng ra ngang với vai, hai tay thòng xuống phía trước. Tiếng động yếu ớt và khủng khiếp mà tôi nghe thấy lúc nãy chính là tiếng Jason rên rỉ cầu xin. Mụ Y Tá không thèm nghe anh ta mà vẫn tiếp tục công việc của mình với một sự tập trung cao độ, vai mụ co lại, lưng mụ bình thản nhô ra sau rồi chúi về phía trước. Tay mụ ta ở dưới tầm mắt của tôi nên tôi chỉ có thể thấy hai cánh tay chuyển động một cách dè dặt, thận trọng như thể mụ ta đang thực hiện một ca mổ cầu kỳ và phức tạp. Không hiểu sao tôi lại đoán ra được nhưng trong một phút tỉnh táo hiếm hoi, tôi đã nhận ra: Mày đang chứng kiến một vụ cưỡng hiếp. Mụ ta đang cưỡng hiếp Jason.

Cơn mộng du của tôi chợt tan biến. Tôi đứng vụt dậy mở miệng định hét lên, mồ hôi ròng ròng sau lưng. Dường như đánh hơi thấy sự hiện diện của tôi nên mụ Y Tá đột nhiên ngước mắt lên. Mụ dừng lại. Đôi vai vạm vỡ của mụ nhô lên, mớ tóc giả bóng lộn lắc lư nhưng cái đầu cứng đờ của mụ vẫn hơi cúi xuống như con thú dữ đang ngắm nhìn con mồi ăn dở. Người tôi cứng đờ ra như thể cả thế giới này bỗng biến thành một chiếc kính viễn vọng với một đầu là tôi và một đầu là mụ Y Tá. Cho tới giờ tôi vẫn băn khoăn không hiểu lúc đó mụ nhìn thấy gì từ phía tôi, một cái bóng chuyển động hay một đôi mắt lóe lên từ một cửa sổ tối om phía bên kia tòa nhà bỏ hoang.

Lúc này, một cơn gió mạnh dữ tợn lao vào khu vườn, gầm lên như tiếng động cơ máy bay, khiến cả căn nhà rung chuyển. Mụ Y Tá ngẩng đầu lên nói khẽ gì đó với tên chimpira. Tên này ngay lập tức sững lại, từ từ đứng thẳng lên và quay ra nhìn về phía hành lang tôi đang đứng. Hắn ta ưỡn vai, vặn các khớp tay. Hắn chậm rãi tiến về phía tôi.

Tôi lùi lại và bỏ chạy về phòng, đóng sập cửa rồi khóa lại, bước giật lùi trong phòng như một con cua, hết vấp phải mớ sách vở và tài liệu ngổn ngang trong bóng tối lại va vào đống đồ đạc tối om. Tôi đứng lại, dựa lưng vào tường nhìn chằm chằm ra phía cửa, ngực thắt lại như vừa bị ai đó thụi vào mạng sườn. Jason, tôi luống cuống nghĩ. Jason, chúng đến để tìm anh. Anh đã chơi trò gì với mụ ta vậy?

Không thấy ai xuất hiện. Dường như nhiều phút đã trôi qua, đủ thời gian để đám người kia hoàn tất những gì chúng muốn làm với Jason và đủ để cho tôi mở cửa, chạy ra ngoài gọi điện thoại cho cảnh sát. Nhưng đúng lúc tôi nghĩ rằng tên chimpira sẽ không xuất hiện, rằng hắn và mụ Y Tá hẳn đã lẳng lặng bỏ đi thì tôi nghe thấy trong tiếng gió vang lên tiếng bước chân của hắn cọt kẹt ở hành lang bên ngoài.

Tôi lao về phía cửa sổ bên hông, điên cuồng cào cấu vào các cạnh của tấm lưới chống muỗi đến gãy cả móng tay. Một cái móc bật ra. Tôi giật tấm lưới chống muỗi xuống, mở tung cửa sổ và nhìn ra bên ngoài. Khoảng hơn một mét ở phía dưới có một cục điều hòa nhiệt độ thò ra từ tòa nhà đối diện, có lẽ chịu được trọng lượng của tôi. Hai tòa nhà chỉ cách nhau một khoảng rất hẹp. Tôi quay lại và nhìn chằm chằm vào cánh cửa ra vào. Tiếng bước chân đã dừng lại và trong cái khoảnh khắc im lặng tới rợn người đó, tôi nghe thấy tên chimpira lẩm bẩm gì đó. Rồi một cú đá xé toang cánh cửa mỏng manh. Tôi nghe thấy tiếng hắn ta bám tay vào thành cửa để lấy đà, đạp xuyên thủng cánh cửa.

Tôi leo lên thành cửa sổ. Trước khi nhảy ào xuống, tôi vẫn còn kịp nhìn thấy hắn thò tay qua lỗ hổng trên cửa, dò dẫm lần ổ khóa phía dưới ống tay áo vét màu tím nhạt, chiếc máy điều hòa rung chuyển dưới sức nặng của tôi, có cái gì đó cứa vào chân tôi. Tôi rơi xuống trong một tư thế vụng về, bụng úp xuống, hai chân lơ lửng trong bóng tối, bộ quần áo pyjama bay phần phật. Tôi chống tay rồi nhảy vụt xuống đất, người hơi chúi về phía trước, mặt tôi đập vào chiếc bảng dự báo thời tiết bằng nhựa của tòa nhà bên cạnh nghe đánh cộp.

Một tiếng động chát chúa nữa vang lên từ căn phòng phía trên, như tiếng then cửa hay bản lề bị phá. Tôi hít một hơi thật sâu rồi đứng thẳng lên và lao vào con hẻm, chui vào một khe hở giữa hai tòa nhà đối diện và núp ở đấy, máu chảy rần rật trong huyết quản. Một lúc sau tôi mới dám di chuyển về phía trước, chống tay lên hai bức tường đối diện và ngước lên nhìn ngôi nhà của mình trong nỗi kinh hoàng không thể thốt nên lời.

Tên chimpira đang ở trong phòng tôi. Ánh sáng hắt ra từ hành lang phía sau lưng chiếu rõ mọi chi tiết trên người hắn, giống như qua một chiếc kính hiển vi, tới từng cọng tóc và cả cái bóng trên đầu hắn. Tôi kéo cổ áo pyjama lên tận miệng, hai tay nắm chặt lấy nó, răng va vào nhau lập cập, mắt mở to nhìn hắn trừng trừng như thể tôi vừa nhỏ vào đó mấy giọt adrenaline. Hắn có đoán ra là tôi đã bỏ trốn bằng cách nào hay không? Hắn ta có nhìn thấy tôi không?

Hắn có vẻ do dự trước khi thò đầu ra ngoài cửa sổ. Tôi nép mình vào tường. Hắn kiên nhẫn nhìn rất lâu xuống phía dưới cửa sổ. Cuối cùng, hắn cũng rụt đầu lại, bóng hắn chập chờn một lúc, rồi hắn biến mất khỏi tầm nhìn, chuyển động gần như chậm rãi, bỏ lại căn phòng trống không với những ánh đèn nhảy nhót. Tôi bắt đầu thở bình thường trở lại.

Bạn có thể dũng cảm và tự tin như bạn muốn, bạn có thể tự thuyết phục mình rằng bạn không dễ đối phó, rằng bạn biết bạn đang đối mặt với cái gì. Bạn tin rằng mọi chuyện sẽ không bao giờ trở nên thực sự nghiêm trọng, rằng sẽ luôn có một dấu hiệu nào đó cảnh báo trước khi mọi chuyện đi quá xa, một đoạn nhạc gay cấn chẳng hạn, như ta thường thấy khi xem phim. Nhưng dường như đối với tôi, tai họa không đến theo cách ấy. Tai họa là những cuộc phục kích bất ngờ của số phận: chúng nhảy xổ vào bạn khi bạn đang mải quan sát những thứ khác.

Mụ Y Tá và tên chimpira còn ở lại trong nhà hơn một tiếng nữa. Tôi quan sát chúng lùng sục các hành lang, lục lọi từng phòng, giật tung các cánh cửa ra khỏi bản lề. Kính vỡ tan và cửa bị xé toạc. Chúng lật tung đồ đạc, bứt dây điện thoại ra khỏi tường. Suốt thời gian đó, tôi ngồi xổm như đông cứng lại trong con hẻm giữa hai tòa nhà, cổ áo pyjama kéo lên quá miệng, trong đầu chỉ có độc một ý nghĩ: Sử Trùng Minh, ông không nên để tôi dính vào chuyện này. Ông không nên để tôi dính vào những chuyện nguy hiểm thế này. Cái giá của nó còn đắt hơn bất cứ những gì mà tôi từng mặc cả.


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder   Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder - Page 2 Icon_minitimeSun Feb 03, 2019 9:12 pm


Chương 46

Những gì mà tôi nhớ về cái đêm hôm đó giống như một trong những đoạn phim quay chậm mà đôi khi bạn vẫn được xem, ghi lại cảnh một bông hoa đang nở hay cảnh mặt trời trôi lững lờ qua một con phố với những con người đột ngột xuất hiện, tỏa đi khắp nơi. Chỉ khác ở chỗ cuộn phim của tôi đẫm một màu vàng xỉn như thuốc súng, màu của tai họa, còn tiếng động thì rè rè, như được thu ở dưới nước với tiếng kẽo kẹt tương tự như âm thanh phát ra từ những con tàu lớn. Cận cảnh là cái bóng gớm ghiếc của mụ Y Tá và Jason khiến tôi nghĩ tới một nhân vật trong một cuốn sách nào đó, một con quái vật có hai lưng, một con quái vật có hai lưng. Tiếp tục cận cảnh! Lần này là tôi đang thu mình trong con hẻm giữa hai tòa nhà, hai mắt ướt nhòe, các cơ bắp liên tục co giật vì mệt mỏi. Tôi thấy mụ Y Tá và tên chimpira rời khỏi căn nhà, dừng lại một lúc trước cửa quan sát con phố, tên chimpira ve vẩy chùm chìa khóa còn mụ Y Tá thì siết chặt đai lưng chiếc áo mưa rồi cả hai từ từ mất hút vào bóng tối. Cả người tôi tê cóng, và khi sờ vào chỗ mặt bị va chạm lúc trước, tôi không cảm thấy đau như mình tưởng. Tôi chỉ bị chảy một ít máu mũi và máu miệng do răng bập vào môi. Lại cận cảnh, và mụ Y Tá không thấy quay lại nữa, cả con hẻm trở nên yên tĩnh, cửa ra vào của căn nhà đã bị giật tung ra khỏi bản lề, vẫn đang mở toang. Tôi trèo lên cầu thang một cách nặng nhọc, người vẫn run bần bật, ngập ngừng trước mỗi bước đi. Và rồi tôi ở trong phòng của mình, sững sờ nhìn cảnh tan hoang của nó, quần áo vứt vung vãi trên sàn, cửa bị phá, tất cả các ngăn tủ và ngăn kéo đều bị lục lọi. Rồi cận cảnh... vào khuôn mặt kinh hoàng của tôi. Tôi đứng ở giữa phòng, nhìn chiếc túi xách rỗng không, tim tôi chùng xuống, vì đó là nơi tôi cất tất cả tiền nong dành dụm được trong mấy tháng qua. Cho tới tận lúc này, tôi chưa bao giờ nghĩ tới chuyện phải giấu chúng ở một nơi nào đó an toàn, nhưng giờ thì tôi đã có thể nhận ra rằng mụ Y Tá và tên chimpira không chỉ tới đây để tra tấn Jason mà còn để vơ vét bất cứ thứ gì chúng tìm thấy trong chuyến viếng thăm này.

Tôi đứng ngoài căn phòng một lúc và nhìn khắp chiều dài hành lang. Bình minh đang lên. Ánh sáng xuyên qua những ô cửa kính vỡ chiếu thành những hình xiên xẹo trên tấm thảm tatami lót sàn bụi bặm. Mọi thứ đều yên tĩnh đến kỳ quái, trừ tiếng nước nhỏ tong tong từ chiếc vòi nước trong bếp. Tất cả các phòng đều bị lục soát, cửa giả toang hoác, lạnh lẽo, những đống đồ đạc cũ kỹ, bụi bặm, nằm ngổn ngang. Như thể quả tạ bê tông của những nhà phát triển bất động sản đã tới viếng thăm sớm hơn dự định. Phần lớn các cửa phòng đều mở. Trừ phòng Jason. Có cái gì đó ở căn phòng này khiến người ta chú ý. Cái gì đó tội lỗi và xấu hổ trong cái cách cánh cửa bị đóng lại rất chặt.

Thay vì gõ cửa, tôi đi tới phòng của Irina. Tôi cũng chỉ là một đứa nhát gan. Khi tôi kéo cửa ra thì thấy hai thân hình đang ôm chặt lấy nhau trong bóng tối: Svetlana và Irina, đang đi giật lùi về phía tường như muốn trèo lên đó như những con chuột, miệng lắp bắp nói không nên lời vì sợ hãi. “Là tôi đây mà,” tôi nói khẽ và giơ tay lên trấn an họ. Cả căn phòng ngập một thứ mùi của sợ hãi. “Là tôi đây mà.”

Mất một lúc hai chị em họ mới hoàn hồn, ngồi bệt xuống phòng nhưng vẫn không rời nhau. Tôi ngồi xuống bên cạnh họ. Irina trông rất khủng khiếp, hai má đẫm nước mắt, son phấn nhòe nhoẹt khắp mặt. “Tôi muốn về nhà,” cô thều thào, mặt méo đi. “Tôi muốn về nhà.”

“Chuyện gì đã xảy ra? Mụ ta đã làm gì?”

Svetlana vỗ vỗ vào lưng Irina và rít lên: “Nó. Phải gọi là nó chứ không phải là người. Nó tới đây, dồn hai chúng tôi vào đây, còn tên kia thì lấy tiền của chúng tôi. Lấy hết mọi thứ.”

“Mụ ta có làm hai người bị đau không?”

Svetlana khịt mũi ầm ĩ. Cô ấy cố tỏ ra không có chuyện gì. Nhưng sự bạo dạn thường ngày của cô ấy đã biến mất. “Không, nhưng nó chả cần động vào chúng tôi cũng đã khiến chúng tôi kinh hãi rồi.” Cô lấy tay chỉ vào góc nhà và diễn tả hình ảnh hai chị em co quắp nằm trong đó vì sợ hãi.

Irina kéo áo chùi mắt để lại hai vệt mascara đen sì trên vạt áo phông. “Đó đúng là một con quái vật. Một con d’yavol thực sự.”

“Nhưng sao chúng biết là chúng ta có tiền cơ chứ?”

Svetlana đang cố châm một điếu thuốc nhưng hai tay cứ run lên bần bật. Cuối cùng cô chịu thua và quay sang nhìn tôi. “Cô có nói cho ai biết chúng ta kiếm được bao nhiêu tiền không?”

“Chúng không tới đây vì tiền,” tôi nói.

“Tất nhiên là vì tiền, cái gì chả dính đến tiền.”

Tôi không trả lời. Tôi cắn móng tay, vừa nhìn ra phía cửa vừa nghĩ: Không. Các cô không hiểu. Chính Jason đã mang chúng tới đây. Chúng ta đang phải trả giá cho những gì mà anh ta đã nói hay làm với mụ Y Tá tại bữa tiệc.

Sự im lặng trong căn phòng khiến máu tôi như đông lại. Chúng tôi sẽ thấy gì khi mở cửa phòng Jason? Chuyện gì sẽ xảy ra nếu... Tôi chợt nhớ tới bức ảnh trong đống hồ sơ của Sử Trùng Minh, chuyện gì sẽ xảy ra nếu chúng tôi kéo cửa và nhìn thấy...

Tôi đứng dậy. “Chúng ta phải tới phòng của Jason.”

Svetlana và Irina không nói gì. Họ quay sang nhìn tôi vẻ nghiêm trọng.

“Chuyện gì vậy?”

“Cô không nghe thấy anh ta gây ra tiếng động gì à?”

“Chỉ một chút thôi, lúc đó tôi đang ngủ.”

“Ra thế, còn chúng tôi...” Svetlana cuối cùng đã châm được điếu thuốc. Cô hít một hơi sâu rồi nhả khói ra. “Chúng tôi nghe thấy hết.” Cô liếc mắt sang phía Irina như để khẳng định điều đó. “Hừm, nên giờ người phải đi vào đó để xem sẽ không phải là chúng tôi.”

Irina khịt mũi và lắc đầu. “Không. Không phải là chúng tôi.”

Tôi nhìn vào mặt từng người bọn họ, tim tôi chùng xuống. “Không, dĩ nhiên là không rồi.” Tôi cố lấy giọng cứng rắn rồi bước ra cửa nhìn về phía phòng Jason. “Dĩ nhiên nên là tôi rồi.”

Svetlana bước tới sau lưng tôi, đặt tay lên vai tôi và nhòm ra ngoài hành lang. Trước cửa phòng Jason là một chiếc vali bị mở tung, đồ đạc bên trong bị ném tung tóe trên sàn, quần áo, hộ chiếu, giấy tờ. “Lạy Chúa tôi, hãy nhìn vào cái đống lộn xộn kia,” cô thì thào bên tai tôi.

“Tôi biết.”

“Cô chắc là chúng đã bỏ đi rồi chứ?”

Tôi liếc nhìn về phía cầu thang yên tĩnh. “Chắc chắn.”

Irina cũng ra với chúng tôi, vừa đi vừa lấy vạt áo chùi mặt. Ba chúng tôi đứng túm tụm lại với nhau nhìn về phía cuối hành lang một cách e dè. Có một mùi gì đó, một mùi không thể nào quên được, một thứ mùi khiến tôi liên tưởng tới mùi thịt thối rữa trong thùng rác của cửa hàng thịt. Tôi nuốt nước bọt. “Nghe này, có lẽ chúng ta phải...” Tôi dừng lại. “Bác sĩ thì sao nhỉ? Có lẽ chúng ta phải đi tìm một bác sĩ.”

Svetlana cắn môi vẻ lưỡng lự và trao đổi ánh mắt với Irina. “Nếu chúng ta mang anh ta đi bác sĩ thì họ sẽ muốn biết chuyện gì đã xảy ra, Grey ạ, cảnh sát sẽ tới đây khám xét và rồi...”

“Chuyện nhập cư,” Irina khẽ liếm môi. “Chuyện nhập cư.”

“Và rồi, hừm, ai sẽ trả tiền đây?” Svetlana quay điếu thuốc và nhìn chăm chăm vào đầu thuốc đang cháy như thể nó đang nghe cô nói. “Chẳng còn xu nào.” Cô gật đầu. “Chẳng còn xu nào sót lại trong cái nhà này.”

“Davai.” Irina đặt tay lên lưng tôi, khẽ ẩy tôi đi. “Cô đi xem tình hình thế nào, rồi chúng ta bàn bạc sau.”

Tôi bước đi một cách chậm rãi, ngang qua chiếc vali và dừng lại trước cửa phòng anh ta, hai tay cứng đờ, mắt nhìn chằm chằm vào cái nắm cửa, chìm trong một sự im lặng ghê sợ. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu tôi không tìm thấy thi thể của anh ta? Chuyện gì sẽ xảy ra nếu những giả thuyết của tôi về Fuyuki và thứ thuốc chữa bệnh của ông ta là đúng. Tôi chợt nghĩ tới từ “đi săn”. Có phải mụ Y Tá tới đây để săn mồi? Tôi liếc nhìn về phía hai chị em người Nga đang đứng, hai tay Irina giữ chặt lấy tai như thể chờ nghe một tiếng nổ.

“Sẽ ổn thôi,” tôi lẩm bẩm với chính mình. Tôi quay người, bồn chồn đặt một tay lên nắm đấm cửa và hít một hơi thật sâu. “Sẽ ổn thôi.”

Tôi bắt đầu đẩy nhưng cánh cửa không hề di chuyển.

“Sao vậy?” Svetlana rít lên.

“Tôi không biết.” Tôi lắc mạnh nắm đấm cửa. “Cửa khóa,” tôi áp miệng lên cánh cửa. “Jason?”

Tôi chờ đợi, dỏng tai nghe ngóng.

“Jason, anh có nghe thấy tôi không?” Tôi gõ lên cánh cửa. “Jason, anh có nghe thấy tôi không? Anh có...”

“Biến đi.” Giọng anh ta nghèn nghẹt, như thể anh ta đang nằm trong chăn. “Ra khỏi cửa phòng tôi và biến đi.”

Tôi lùi lại một bước, chống một tay lên tường để trấn tĩnh lại, đầu gối run lẩy bẩy. “Jason, anh...” Tôi hít thở thật sâu. “Anh có cần bác sĩ không? Tôi sẽ đưa anh tới Roppongi nếu anh muốn...”

“Tôi nói là biến đi.”

“Chúng ta có thể bảo họ là chúng ta sẽ trả tiền vào tuần sau khi...”

“Cô có bị điếc không?”

“Không,” tôi nói, dán ánh mắt vô hồn vào cánh cửa. “Không, tôi không điếc.”

“Anh ta không sao chứ?” Svetlana rít lên.

Tôi ngẩng lên nhìn cô. “Gì cơ?”

“Anh ta không sao chứ?”

“Ừm, chắc là thế, tôi nghĩ là anh ta không sao.” Tôi nói, đưa tay quệt ngang mặt và nhìn vào cánh cửa phòng Jason một cách ngờ vực.

Phải rất lâu sau chúng tôi mới tin là mụ Y Tá sẽ không trở lại. Và phải mất thêm một khoảng thời gian lâu hơn nữa để chúng tôi có đủ can đảm đi kiểm tra ngôi nhà. Căn nhà bị xáo trộn một cách khủng khiếp. Chúng tôi dọn dẹp một chút rồi thay nhau chui vào buồng tắm. Tôi tắm rửa trong tình trạng mê mụ, chườm khăn lên khuôn mặt sưng vù. Chân tôi bị xước nhiều chỗ khi tôi nhảy ra ngoài cửa sổ. Thật trùng hợp là những vết xước này nằm ngay trên chỗ tôi mơ thấy đứa bé cắn mình. Chúng có thể là những vết răng trẻ con. Tôi nhìn chúng rất lâu tới khi cả người tôi run lên bần bật và răng va vào nhau lập cập.

Irina tìm thấy một ít tiền còn sót lại trong túi áo khoác mà tên chimpira không để ý và cho tôi vay một nghìn yên. Tắm xong, tôi dọn dẹp lại phòng mình, cẩn thật quét sạch mảnh kính vụn và những mảnh vỡ từ chiếc cửa ra vào bị đạp thủng, cất sách vào tủ và sắp xếp lại đống tranh ảnh và tài liệu, rồi nhét tiền của Irina đưa cho vào trong túi và bắt tàu điện ngầm tới Hongo.

Khu khuôn viên đại học trong cơn mưa trông khác hẳn so với lần cuối cùng tôi tới đây. Những đám lá cây rậm rạp đã biến mất, và bạn có thể nhìn thấy toàn cảnh những con đường dẫn ra hồ nước, khu nhà liên hợp và lớp mái ngói trang trí cầu kỳ của cung thể thao vươn lên sau những hàng cây. Giờ này vẫn còn sớm thế mà Sử Trùng Minh đã tiếp sinh viên, một thanh niên cao ráo, mặt lốm đốm tàn nhang, vận một chiếc áo len màu da cam có in chữ Bathing Ape ở đằng trước. Cả hai ngừng nói khi thấy tôi xuất hiện. Mặt tôi bầm tím, máu đóng khô lại dưới mũi, hai tay nắm chặt, còn người thì run lên. Tôi đứng sững lại giữa phòng và chỉ thẳng vào Sử Trùng Minh. “Ông đã bắt tôi đi một đoạn đường dài,” tôi nói. “Ông đã bắt tôi đi một đoạn đường dài, nhưng tôi không thể nào đi xa hơn được nữa. Đã đến lúc ông phải cho tôi xem bộ phim đó.”

Sử Trùng Minh từ từ đứng dậy. Ông tì vào chiếc gậy rồi giơ tay ra hiệu cho cậu sinh viên lúc này đang ngồi chết trân trên ghế nhìn tôi. “Giờ thì đi ra ngoài, nhanh lên.” Cậu sinh viên đứng dậy, mặt mũi căng thẳng, mắt nhìn xoáy vào tôi khi cậu ta thận trọng bước ra khỏi phòng, khép cánh cửa lại sau lưng.

Sử Trùng Minh không quay lại ngay lập tức. Ông đứng đó một lúc lâu, tay đặt trên cánh cửa, quay lưng lại phía tôi. Đã gần một phút trôi qua kể từ khi chỉ còn hai chúng tôi ở lại trong phòng, và khi không còn trì hoãn thêm được nữa, ông quay lại phía tôi. “Giờ thì cô đã bình tĩnh lại chưa?”

“Bình tĩnh? Có chứ, tôi bình tĩnh chứ. Rất bình tĩnh.”

“Ngồi xuống đi. Ngồi xuống và kể cho tôi nghe chuyện gì đã xảy ra.”


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder   Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder - Page 2 Icon_minitimeSun Feb 03, 2019 9:15 pm


Chương 47

史 Nam Kinh, ngày 20 tháng Mười hai năm 1937

Không có gì đau đớn và tê tái hơn khi một người đàn ông kiêu hãnh phải thú nhận rằng mình đã sai lầm. Chúng tôi rời khỏi khu nhà máy, bỏ lại đứa bé nằm chết bên vệ đường. Tới đoạn phải rẽ về nhà tôi, ông Lưu vỗ vỗ lên tay tôi. “Về nhà đi và chờ tôi,” ông thì thầm. “Tôi đưa thằng Lưu bé về nhà rồi sẽ tới gặp cậu ngay. Chúng ta phải làm gì đó thôi.”

Khoảng hai mươi phút sau, khi nghe thấy tiếng gõ cửa theo ám hiệu, tôi ra mở cửa thì thấy ông đang đứng đó với một ống quyển bằng tre kẹp dưới nách.

“Chúng ta cần phải nói chuyện,” ông thì thào rồi nhìn quanh để chắc là Thu Kim không nghe thấy. “Tôi có một kế hoạch.”

Ông cởi giày ra theo phép lịch sự và bước vào căn phòng nhỏ mà chúng tôi dùng làm phòng khách. Căn phòng vốn luôn được Thu Kim dọn dẹp một cách cẩn thận, có đặt mấy chiếc ghế và một chiếc bàn sơn mài màu đỏ với những hình rồng và hoa mẫu đơn khảm xà cừ lóng lánh. Chúng tôi ngồi xuống bàn. Thu Kim không thắc mắc gì về sự hiện diện của ông Lưu. Cô ấy đi lên gác chải lại tóc và vài phút sau tôi nghe thấy tiếng cô ấy đun nước trong bếp.

“Chỉ có trà và vài chiếc bánh mà vợ già cho chúng tôi để mời già thôi, già Lưu Nhuận Đức ạ,” tôi nói. “Chúng tôi chẳng còn gì hơn. Thành thật xin lỗi già.”

Ông cúi đầu. “Đừng bận tâm chuyện đó.”

Trong ống quyển của ông Lưu có một tấm bản đồ Nam Kinh mà ông đã nghiên cứu rất kỹ lưỡng. Chắc ông đã nghiền ngẫm nó suốt mấy hôm nay. Khi Thu Kim mang trà đến và rót đầy vào cốc của chúng tôi thì ông trải tấm bản đồ ra trước mặt tôi.

“Đây là nhà của một người bạn cũ,” ông nói và khoanh một chấm phía bên ngoài khu vực Xóa Lộ Khẩu. “Một thương gia buôn muối rất giàu có, nhà của ông rất rộng, có giếng nước sạch, một vườn lựu và rất nhiều lương thực dự trữ. Không cách núi Tử Kim quá xa. Và đây,” ông đánh một dấu thập cách đó vài cây số, phía gần thành phố. “Đây là cổng Thái Bình, nghe nói tường thành ở đây gần như bị phá sập hết, nên có thể dễ dàng vượt qua để chạy về phía Tây, quân Nhật lại không có đủ người để canh gác chỗ này. Cứ cho là chúng ta vượt qua được cửa ải này, chúng ta sẽ tiếp tục đi dọc theo các con phố nhỏ phía sau đường Xóa Lộ Khẩu tới bên bờ sông ở phía Bắc của thành phố. Xóa Lộ Khẩu không có vị trí chiến lược quan trọng đối với quân Nhật nên nếu may mắn, chúng ta có thể tìm được thuyền vượt sông sang tới tỉnh An Huy.” Hai chúng tôi im lặng một lúc, nghĩ tới cảnh dắt díu cả gia đình qua tất cả những nơi nguy hiểm đó. Một lúc sau như thể đọc thấy sự nghi ngờ của tôi, ông Lưu gật đầu. “Đúng vậy, tôi biết. Mọi chuyện đều phải phụ thuộc vào việc quân Nhật sẽ tập trung mọi sự chú ý về phía thượng nguồn ở Hạ Quan và Mi Đàm.”

“Thấy đài nói là nay mai sẽ có thông cáo về việc thành lập các ủy ban tự quản.”

Ông nhìn tôi với một vẻ nghiêm trọng không hề che giấu. “Thầy Sử thân mến, cũng như tôi, cậu biết rõ là nếu chúng ta ở lại, chúng ta sẽ giống như một lũ chuột cống, chui rúc chờ bọn Nhật đến tìm.”

Tôi sờ tay lên đầu, miệng mấp máy. “Vâng, đúng vậy.” Nước mắt tôi chợt trào ra, những giọt nước mắt tôi vốn không muốn ông Lưu nhìn thấy. Nhưng ông đã quá già và từng trải nên ngay lập tức ông biết chuyện gì đã xảy ra với tôi.

“Thầy Sử này, đừng có tự giày vò bản thân mình nhiều quá, có biết không? Tôi cũng chẳng giỏi giang gì hơn. Chính tôi cũng mắc tội quá kiêu hãnh.”

Một giọt nước mắt lăn xuống má tôi và rơi xuống bàn, đúng vào mắt của con rồng. Tôi nhìn nó đờ đẫn. “Tôi đã làm gì thế này,” tôi thì thào. “Tôi đã làm gì với vợ tôi? Với con tôi?”

Ông Lưu nhoài người ra, nắm lấy tay tôi. “Chúng ta đã mắc sai lầm. Tất cả chúng ta đều mắc sai lầm. Chúng ta là những con người nhỏ bé, thiếu hiểu biết, nhưng tất cả chỉ có thế. Chỉ là một chút thiếu hiểu biết thôi, cả cậu và tôi.”



Chương 48

Đôi khi người ta quên mất thế nào là sự cảm thông mà chỉ nhăm nhăm chỉ trích bạn về mọi việc, cả những việc bạn trót làm do không biết đó là sai. Khi tôi giải thích chuyện gì đã xảy ra ở ngôi nhà thì việc đầu tiên Sử Trùng Minh muốn biết là liệu tôi có gây nguy hiểm gì cho cuộc tìm kiếm của ông không? Rằng tôi có buột miệng nói cho ai biết về những gì ông đang theo đuổi hay không? Ngay cả khi tôi kể lại cho ông lần nữa, với các lời giải thích gần xa về những hành động của Jason tối hôm đó và việc anh ta dẫn mụ Y Tá tới nhà thì Sử Trùng Minh vẫn không tỏ ra cảm thông như tôi mong đợi. Ông muốn biết nhiều hơn nữa.

“Sao bạn cô lại làm chuyện kỳ quặc thế. Anh ta nghĩ gì không biết nữa?”

Tôi không trả lời. Nếu tôi kể cho ông nghe về Jason, về những chuyện đã xảy ra giữa hai chúng tôi thì sẽ lại giống như ngày xưa ở bệnh viện, người ta lại bắt đầu thắc mắc về những hành vi của tôi, nhìn tôi và liên tưởng tới cảnh những kẻ mọi rợ, bẩn thỉu đang giao phối trong rừng.

“Cô có nghe tôi nói gì không?”

“Xem này,” tôi nói và đứng dậy. “Tôi sẽ giải thích mọi chuyện một cách kỹ càng.” Tôi bước lại gần cửa sổ. Bên ngoài trời vẫn mưa, những giọt nước mưa rỏ xuống từ cành cây thấm đẫm những hình nộm mục tiêu bằng rơm trong khu bắn cung. “Việc mà ông yêu cầu tôi làm là một việc rất, rất, rất nguy hiểm. Một trong hai chúng ta có thể chết vì nó, tôi không hề phóng đại đâu. Giờ tôi sẽ kể cho ông nghe một chuyện rất quan trọng...” Tôi khẽ rùng mình rồi xoa lên cánh tay đang nổi da gà. “Chuyện này nghiêm trọng hơn rất nhiều so với những gì ông có thể tưởng tượng ra. Tôi đã có những phát hiện. Những phát hiện khó tin.” Sử Trùng Minh ngồi bất động bên bàn, lắng nghe tôi nói, mặt cau lại vì căng thẳng. “Có những câu chuyện,” tôi hạ thấp giọng, “về việc người ta cắt rời các bộ phận trên thi thể người chết để dùng làm thuốc chữa bệnh, uống nó. Ông có hiểu tôi đang nói gì không? Ông có hiểu không?” Tôi lấy hơi. “Ăn thịt người.” Tôi đợi một lúc để ông tiêu hóa được từ này. Ăn thịt người. Ăn thịt người. Bạn có thể cảm thấy những từ này tự nó vang lên, sinh sôi trên bốn bức tường, nhung nhúc và nhơ nhuốc trên tấm thảm lót sàn. “Ông sẽ bảo là tôi bị điên. Tôi biết là ông sẽ nói thế nhưng tôi đã quá quen với điều đó rồi và tôi thật sự chẳng quan tâm vì tôi đang nói với ông rằng: cái thứ mà ông tìm hiểu bấy lâu nay ấy, giáo sư Sử ạ, chính là thịt người.”

Một vẻ bất an chậm rãi lan dần trên gương mặt Sử Trùng Minh. “Ăn thịt người,” ông nói giọng sắc lạnh, những ngón tay di chuyển tới lui trên bàn. “Đó là ý cô muốn nói à?”

“Đúng vậy.”

“Một phỏng đoán khác thường.”

“Tôi không mong đợi ông tin tôi, ý tôi là, nếu cái công ty ở Hồng Kông nghe được tin này, họ sẽ...”

“Nếu cô có bằng chứng thì đưa nó cho tôi.”

“Đó chỉ là những điều tôi nghe được. Fuyuki từng cai quản một khu chợ đen. Ông có bao giờ nghe nói tới zanpan không? Tất cả mọi người ở Tokyo đều nói rằng cái món thịt hầm bán ở chợ này là…”

“Nhưng cô tận mắt thấy được những gì? Hừm? Cô có thấy Fuyuki uống máu không? Người ông ta có bốc mùi khủng khiếp hay da ông ta có màu đỏ không? Đó là những dấu hiệu để nhận biết một kẻ ăn thịt người, cô có biết không?” Trong giọng ông ta có cái gì đó đầy cay đắng. “Tôi tự hỏi, liệu căn hộ của ông ta có cái gì đó giống như những gian bếp kinh hoàng trong truyện Thủy Hử? Với chân tay người treo lủng lẳng khắp nơi. Da người thì căng ra khắp tường, sẵn sàng để bỏ vào nồi.”

“Ông đang cười nhạo tôi.”

Chân mày ông lấm tấm mồ hôi và yết hầu nơi cổ họng ông lên xuống liên tục dưới lớp cổ áo.

“Xin đừng chế giễu tôi,” tôi nói. “Xin đừng chế giễu.”

Ông hít một hơi dài, hơi nghiêng người trên ghế. “Không, tất nhiên là tôi sẽ không làm thế.” Ông đẩy chiếc ghế đứng dậy và tiến về phía lavabo, vặn vòi nước và táp vào miệng. Rồi ông đứng đó một lúc nhìn nước chảy, quay lưng lại phía tôi. Cuối cùng ông khóa vòi nước, trở lại ghế của mình và ngồi xuống. Mặt ông đã dịu lại một chút. “Tôi xin lỗi.” Ông nhìn vào đôi bàn tay mảnh dẻ của mình trên bàn. Chúng đang xoắn vào nhau như thể chúng có cuộc sống của riêng mình. “Vậy đấy,” cuối cùng ông nói. “Ăn thịt người, đúng không? Nếu cô tin như thế thì cô sẽ mang tới cho tôi bằng chứng về chuyện đó.”

“Cái gì cơ? Ông không thể đòi hỏi hơn được. Tôi đã làm tất cả mọi thứ. Tất cả những gì ông yêu cầu.” Tôi nghĩ tới ngôi nhà, tới những cửa sổ và cửa ra vào bị đập phá, tới số tiền đã bị cướp đi. Tôi nghĩ tới bóng của mụ Y Tá in trên Tòa nhà Muối, đang làm những gì với Jason? Con quái vật có hai lưng... “Ông đã không giữ lời. Ông đã nuốt lời. Và giờ lại nuốt lời thêm một lần nữa!”

“Chúng ta có một thỏa thuận. Tôi cần có bằng chứng chứ không phải những lời nói suông.”

“Ông không hề nói thế.” Tôi tiến tới chiếc máy chiếu phim, kéo nó ra khỏi góc tường, giật tung lớp nylon bọc ngoài, lật nắp ra để tìm chỗ giấu cuộn phim. “Tôi cần cuộn phim đó.” Tôi lại gần giá sách, rút các quyển sách ra khỏi ngăn, ném nó xuống sàn, thò tay vào những cái hốc đằng sau. Tôi đẩy đống tài liệu rơi tung tóe, giật tấm màn che cửa sang một bên. “Ông giấu nó ở đâu? Ở đâu?”

“Làm ơn ngồi xuống và chúng ta sẽ nói chuyện.”

“Không, ông không hiểu. Ông là một kẻ lừa đảo.” Tôi nắm chặt hai tay lại và hét lên. “Ông là kẻ lừa đảo.”

“Cuộn phim đã được cất giữ cẩn thận. Tôi không có chìa khóa ở đây. Dù muốn thì giờ tôi cũng không thể lấy nó ra được.”

“Đưa nó cho tôi.”

“Đủ rồi đấy!” Ông đứng dậy, thở dồn, mặt đỏ bừng và chĩa cây gậy về phía tôi. “Đừng,” ông nói, ngực phập phồng. “Đừng có xúc phạm tôi khi cô chưa hiểu cô đang đối mặt với chuyện gì. Giờ thì ngồi xuống.”

“Cái gì cơ?” Tôi nói, đột nhiên trở nên mất cảnh giác.

“Ngồi xuống. Ngồi xuống và nghe cho kỹ.”

Tôi im lặng nhìn ông chằm chằm. “Tôi không hiểu nổi ông nữa.” Tôi thì thào, lấy ống tay áo chùi mặt và chỉ vào mặt ông. “Ông. Tôi không tài nào hiểu nổi ông.”

“Tất nhiên là cô không hiểu rồi. Giờ thì ngồi xuống.”

Tôi ngồi xuống nhìn ông ta gườm gườm.

“Giờ thì làm ơn.” Sử Trùng Minh đẩy chiếc ghế lùi ra phía sau rồi ngồi xuống, thở một cách nặng nhọc, cố lấy lại bình tĩnh, kéo lại hai tà áo khoác và vuốt phẳng như thể hành động đó sẽ giúp xua đi cơn giận dữ trong ông. “Hãy làm ơn... Cô nên biết rằng đôi khi phải trả giá khi suy xét những vấn đề vốn nằm ngoài sự nhận thức tức thời của mình...” Ông lấy khăn mùi soa dấp dấp mồ hôi trên trán. “Giờ để tôi thú nhận với cô chuyện này.”

Tôi sốt ruột thở hắt ra. “Tôi không cần sự thú nhận của ông, tôi cần...”

“Hãy lắng nghe,” ông giơ hai cánh tay run rẩy lên. “Tôi muốn thú nhận rằng, cô đã nói đúng. Hay chính xác hơn là cô gần đúng. Khi cô đoán là, khi cô đoán là Fuyuki đã dùng...” Ông đút chiếc khăn mùi soa vào túi, đặt hai tay lên bàn, hết nhìn tay này lại sang tay kia như cố lấy lại sự tập trung. “Khi cô đoán là...” Ông dừng lại, rồi nói tiếp bằng giọng đều đều, “... ăn thịt người, cô đã gần đúng.”

“Không phải là ‘gần đúng’! Tôi có thể đọc thấy điều đó trên nét mặt của ông. Tôi đã đúng, có phải thế không?”

Ông lại giơ hai tay lên. “Cô đã đúng ở một số điểm. Nhưng không phải là tất cả. Có thể cô đã đúng về những lời đồn đại rùng rợn rằng thịt người được bán trong các khu chợ ở Tokyo. Các thần linh từng chứng kiến những chuyện khủng khiếp mà yakuza đã làm trong thời gian xảy ra nạn đói ở thành phố này và vào thời điểm đó thì ở Tokyo, tìm thấy một xác chết không phải là chuyện khó. Nhưng ăn thịt người để chữa bệnh à?” Ông nhặt một chiếc ghim và vặn, xoắn nó một cách máy móc. “Đây lại là một chuyện khác hẳn. Nếu nó đang tồn tại trong thế giới ngầm ở Nhật thì có nghĩa là nó đã xuất hiện trong một tầng lớp xã hội nào đó ở Nhật từ nhiều thế kỷ trước và tái hiện lại vào những năm bốn mươi, sau cuộc chiến tranh Thái Bình Dương.” Chiếc kẹp giấy giờ đã được xoắn thành hình một con sếu. Sử Trùng Minh đặt nó lên bàn và nhìn nó chăm chú. Sau đó ông nắm chặt hai tay lại với nhau và quay sang nhìn tôi: “Và đây là lý do tại sao cô cần phải lắng nghe. Tôi sẽ nói cho cô biết đích xác lý do tại sao tôi vẫn chưa thể trao cho cô cuộn phim đó.”

Tôi lầm bầm trong họng rồi ngồi xuống, hai tay khoanh lại. “Ông biết không, cái giọng nói của ông làm tôi bực mình. Nhiều lúc tôi ghét phải nghe nó.”

Sử Trùng Minh nhìn tôi một lúc lâu. Đột nhiên gương mặt ông sáng lên, một nụ cười thoáng qua khóe miệng. Ông vứt chiếc kẹp ghim hình con sếu vào sọt rác, đẩy chiếc ghế lùi lại rồi đứng lên và lôi ra một chùm chìa khóa từ chiếc hộp trên bàn. Ông mở ngăn kéo và lấy ra một quyển sổ ghi chép có lớp bìa da mỏng, được cột lại bằng dây, trông có vẻ cũ kỹ. Ông tháo dây ra, những trang giấy vàng úa rơi xuống bàn. Trên đó chi chít những chữ Trung Quốc nhỏ li ti và rất khó đọc. “Nhật ký của tôi,” ông nói. “Vào thời gian tôi ở Nam Kinh.”

“Ở Nam Kinh?”

“Cô nhìn thấy gì?”

Tôi nhoài người ra phía trước, băn khoăn, liếc nhìn những dòng thư pháp nhỏ xíu và cố đoán ra ý nghĩa của một từ hay một câu nào đó.

“Tôi hỏi là cô nhìn thấy gì?”

Tôi ngước nhìn ông. “Tôi thấy một quyển nhật ký.” Tôi định thò tay ra để chạm vào nó thì ông giật nó lại và giữ chặt lấy.

“Không, cái cô nhìn thấy không phải là một quyển nhật ký. Nhật ký chỉ là một khái niệm, giống như một câu chuyện. Cô không thể nhìn thấy một câu chuyện.” Ông vuốt ve trang đầu tiên của quyển sổ. “Cái này là cái gì?”

“Giấy. Tôi có thể đọc nó ngay bây giờ không?”

“Không. Thế trên giấy có gì?”

“Thế ông có định cho tôi mượn không?”

“Nghe này. Tôi đang cố gắng giúp đỡ. Trên giấy là cái gì?”

“Chữ viết, mực.”

“Chính xác.” Ánh sáng xám nhạt hắt từ cửa sổ khiến khuôn mặt của Sử Trùng Minh gần như trong suốt. “Cô nhìn thấy giấy và cô nhìn thấy mực. Nhưng rồi một ngày chúng không còn chỉ là giấy và mực nữa, chúng đã trở thành một cái gì đó quan trọng hơn thế nhiều. Chính những suy nghĩ và đức tin của tôi đã chuyển hóa chúng. Chúng đã trở thành nhật ký.”

“Tôi không biết gì về nhật ký và mực hay giấy,” tôi nói, mắt vẫn dán vào quyển nhật ký. “Nhưng tôi biết là tôi đúng. Fuyuki đang làm những thí nghiệm về ăn thịt người.”

“Tôi quên mất là người phương Tây không hiểu về nghệ thuật lắng nghe. Nếu cô lắng nghe một cách cẩn thận với cái kiểu bớt phương Tây đi một chút thì cô sẽ biết là tôi không hề phản đối những quan điểm của cô.”

Tôi đứng ngây ra nhìn ông định buột miệng hỏi thêm nhưng rồi tôi bắt đầu hiểu ra ý của ông. “Ôi, ôi, tôi nghĩ là...” Tôi yếu ớt thốt lên.

“Cô nghĩ?”

“Tôi...” Tôi ngồi xuống ghế, chìm trong dòng suy nghĩ của riêng mình, đầu nghiêng sang một bên, miệng mấp máy không thành tiếng. Trong đầu tôi hiện ra một loạt hình ảnh về những cậu bé ở Poro, Liberia, đang ngồi chồm hỗm trong bụi cây trên kẻ thù của mình một cách dữ tợn, về Hiệp hội Người-Báo, về tất cả những kẻ từng ăn thịt kẻ thù trên thế giới này, một thứ gì đó mà ý niệm và đức tin của họ đã chuyển hóa. Chữ năng lượng mà tôi vẽ bằng chữ kanji tối hôm trước quay trở lại trong đầu tôi. “Tôi nghĩ,” tôi nói một cách chậm rãi. “Tôi nghĩ, thịt người cũng có thể được chuyển hóa, đúng không? Thịt của một số người có thể có một, một thứ năng lượng nào đó...”

“Đúng vậy.”

“Một thứ năng lượng, nó có thể được chuyển hóa bởi... bởi một quá trình? Hay bởi...” Tôi chợt hiểu ra tất cả. Tôi nhìn ông. “Không phải ăn thịt ai cũng được. Mà phải là một người nào đó rất đặc biệt. Một người nào đó có ý nghĩa đặc biệt đối với Fuyuki, có đúng thế không?”

Sử Trùng Minh xốc lại quyển nhật ký rồi buộc nó bằng sợi dây thun, miệng mím lại. Ông nói mà không nhìn tôi. “Đó chính là điều cô cần phải tìm ra.”


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder   Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder - Page 2 Icon_minitimeSun Feb 03, 2019 9:16 pm


Chương 49

Tôi ngồi im lặng, tay ôm đầu khi chiếc tàu cao tốc trên không đưa tôi đi xuyên qua Tokyo, dưới bầu trời xanh vợi, giữa những tấm biển quảng cáo bằng đèn neon, những tòa nhà cao tầng màu vàng trắng lấp lánh, giữa cái ồn ào náo nhiệt của thành phố. Tôi ngây nhìn những tòa công sở mười tầng với những cô thư ký mặc áo sơ mi tề chỉnh, đi tất da chân đang nhìn lại tôi qua cửa sổ. Đôi khi, Sử Trùng Minh đòi hỏi ở tôi quá nhiều. Đôi khi, ông ta làm tôi đau đầu. Tới Shinjuku, đoàn tàu đi ngang qua một tòa nhà cao tầng với hàng trăm màn hình tivi đưa hình ảnh một người đàn ông trong bộ vest tuxedo màu vàng đang hát trước camera. Tôi ngây người nhìn ông ta một lúc. Rồi tôi nhận ra.

Bison?

Tôi đứng dậy, đi về phía cửa sổ và nhìn lên tòa nhà. Chính là ông ta, một Bison trẻ trung và mảnh mai hơn người mà tôi đã biết, ông ta đang hát, đầu nghiêng nghiêng, tay giơ về phía camera, hình ảnh của ông ta được phát đi phát lại, hàng trăm lần, rồi các màn hình được nhân lên cho tới khi cả tòa nhà được bao bọc bởi hình ảnh của ông ta. Dưới mỗi màn hình phía bên trái đều có logo của hãng truyền hình NHK. Bản tin thời sự. Bison xuất hiện trong bản tin thời sự. Ngay khi đoàn tàu sắp đi qua khỏi tòa nhà chọc trời, khuôn mặt ông ta trên màn hình được thay thế bằng hình ảnh một chiếc xe cảnh sát đỗ ngoài một ngôi nhà ở Tokyo. Cảnh sát. Tôi tì tay vào cửa sổ, cố ngoái lại nhìn tòa nhà cao tầng đang biến mất phía sau. Hơi thở của tôi phả mờ tấm kính trước mặt. Bison? Tại sao ông lại xuất hiện trên bản tin?

Khi tôi về tới nhà thì trời đã tới nhưng cả ngôi nhà chẳng có đèn đóm gì trừ chỗ cầu thang lên xuống. Svetlana đang đứng bên ngoài nhìn chằm chằm vào cái gì đó trên mặt đất, sau lưng cửa mở toang. Cô ấy đi một đôi ủng cao, một chiếc áo khoác lông mịn màu hồng dài tới gối, tay ôm một túi quần áo bỏ đi.

“Cô có xem tin tức không?” Tôi hỏi. “Cô có xem vô tuyến không?”

“Tivi muỗi lắm.”

“Cái gì cơ?”

“Nhìn đây này.”

Đám cây leo, cây bụi bao quanh ngôi nhà bị giẫm đạp tả tơi. Có thể mụ Y Tá và tên chimpira đã đứng đây theo dõi chúng tôi qua cửa sổ. Svetlana lấy mũi ủng màu hồng gạt một đám cây bụi ra và chỉ vào một con mèo nằm chết cạnh đó, cái đầu nát bét của nó còn nguyên dấu vết của đế giày. “Suka, đúng là đồ chó cái. Chỉ là một con mèo nhỏ thôi mà. Đâu có gì nguy hiểm.” Svetlana lẩm bẩm, ném túi rác ra vệ đường rồi leo lên gác. “Đồ chó cái.”

Tôi đi theo cô ấy lên nhà, đột nhiên rùng mình. Đống bóng đèn vỡ và vài mảnh vụn từ những chiếc cửa bị đạp thủng vẫn lăn lóc trên sàn. Tôi nhìn hành lang im ắng vẻ đề phòng.

“Cô có xem tin tức không?” Tôi hỏi lại và bước vào phòng khách. “Vô tuyến vẫn xem được chứ?” Chiếc tivi bị hất đổ kềnh sang một bên, nhưng nó vẫn hoạt động khi tôi đặt nó lại ngay ngắn và thử bật lên. “Baisan vừa xuất hiện trên vô tuyến.” Tôi cúi xuống chiếc tivi và ấn nút chuyển kênh. Chỉ có hoạt hình, quảng cáo đồ uống tăng lực, những cô gái mặc bikini. Cả những con sóc hoạt hình nhảy múa. Nhưng không có tin gì về Bison. Tôi lại lướt qua tất cả các kênh một lần nữa, bắt đầu thấy sốt ruột. “Đã xảy ra chuyện gì đó. Tôi vừa thấy ông ta hai mươi phút trước đây. Thế cô không xem...” Tôi ngoái lại nhìn. Svetlana đứng im lặng, khoanh tay bên ngưỡng cửa. Tôi đứng thẳng người dậy. “Có chuyện gì vậy?”

“Chúng tôi chuyển ra ngoài.” Cô ấy chỉ tay quanh căn phòng. “Nhìn xem.”

Những chiếc túi du lịch Matusya màu xám và trắng nhét đầy hành lý nằm la liệt khắp nơi. Tôi nhìn thấy những chiếc mắc áo, mấy cuộn giấy vệ sinh và một cái quạt sưởi thò ra ngoài. Trên ghế sofa là những túi nylon chật cứng quần áo. Tôi đã không để ý tới chúng. “Tôi và Irina. Chúng tôi đã tìm thấy một câu lạc bộ khác. Ở Hiroo.”

Và rồi Irina xuất hiện trong hành lang, kéo theo một kiện quần áo dán băng dính chằng chịt. Cô ấy cũng đã mặc áo khoác và tay cầm một điếu thuốc lá Nga nặng mùi. Cô ấy thả kiện quần áo xuống và lại đứng đằng sau Svetlana, tựa cằm lên vai cô chị và nhìn tôi vẻ rầu rĩ. “Một câu lạc bộ tốt.”

Tôi chớp mắt. “Các cô đang chuyển nhà à? Các cô sẽ sống ở đâu?”

“Cái căn hộ mà chúng tôi sẽ ở, cô gọi nó là gì nhỉ? Nó ở trên tầng thượng của câu lạc bộ?” Cô ấy chụm tay lại, hôn lên đầu ngón tay của mình rồi nói tiếp. “Cao cấp.”

“Nhưng bằng cách nào?” Tôi hỏi một cách ngây ngô. “Bằng cách nào mà các cô…”

“Do khách hàng của tôi giúp. Ông ấy sẽ đưa chúng tôi tới đó bây giờ.”

“Grey, đừng nói bất kỳ điều gì với ai nhé, được chứ? Đừng nói với Mama Strawberry là chúng tôi sẽ đi đâu, đừng nói gì với bất cứ cô gái nào, được không?”

“Được.”

Một chút ngập ngừng rồi Svetlana cúi người về phía tôi, đặt tay lên vai tôi và nhìn vào mắt tôi với một vẻ khiến tôi hơi hoảng sợ. “Nghe này, Grey, cô nên nói chuyện với anh ta.” Cô ấy hất đầu về phía phòng Jason lúc này vẫn đóng im ỉm. “Chuyện nghiêm trọng đấy.”

Irina gật đầu. “Anh ta bảo chúng tôi, ‘Đừng có nhìn tôi’, nhưng chúng tôi đã nhìn thấy anh ta.”

“Đúng, chúng tôi nhìn thấy anh ta cố gắng di chuyển, cố gắng... tiếng Anh gọi là gì nhỉ, bò lê? Bằng cả bốn chi, giống như con chó ấy? Gọi là bò à?”

“Bò à? Ý cô nói là anh ta phải bò đi?” Một linh cảm xấu chợt lan khắp người tôi.

“Đúng thế. Bò. Anh ta cố gắng bò.” Cô ấy trao cho Irina một cái nhìn bất an. “Grey, nghe này.” Cô liếm môi. “Chúng tôi nghĩ rằng đúng là anh ta cần phải gặp bác sĩ. Anh ta nói anh ta không cần, nhưng... Anh ta đã gặp phải chuyện gì đó tồi tệ. Chuyện gì đó rất tồi tệ.”

Hai cô gái đã đi, một chiếc xe Nissan màu trắng, có ghế bảo hiểm dành cho trẻ em ở băng sau, tới đón họ đi, lái xe là một người đàn ông mặt mũi trông căng thẳng. Họ đi rồi, căn nhà trở nên lạnh lẽo và hoang vắng như thể nó bị khóa lại vào mùa đông. Cánh cửa phòng Jason vẫn khép chặt, ánh sáng le lói hắt ra từ phía dưới bậu cửa, nhưng tuyệt nhiên không nghe thấy tiếng động gì. Tôi đứng đó, giơ tay lên định gõ, cố nghĩ xem mình sẽ phải nói gì. Một lúc sau, tôi vẫn không biết làm thế nào nên cứ gõ đại. Lúc đầu, không thấy ai trả lời. Khi tôi gõ thêm lần nữa thì nghe thấy một tiếng nghèn nghẹt: “Gì đấy?”

Tôi kéo cửa ra. Căn phòng lạnh cóng, nguồn sáng duy nhất trong căn phòng phát ra từ màn hình màu xanh của chiếc ti vi nhỏ đặt trên cửa sổ. Trong bóng tối lờ mờ, tôi nhìn thấy trên sàn ngổn ngang những thứ linh tinh, chai lọ rỗng, quần áo bỏ đi, và cái gì đó giống như thùng rác cao bằng nhôm hay để trong bếp. Trên tivi, một cô gái người Nhật trong trang phục cổ động viên bóng chày đang nhảy qua những hòn đảo nổi trong một bể bơi, mỗi cú nhảy như thế, chiếc váy ngắn của cô ta lại tung bay phấp phới. Đó là dấu hiệu duy nhất của sự sống trong căn phòng. Ở cửa ra vào chắn ngang lối đi là chiếc bàn của Jason.

“Trèo qua đi,” anh ta nói. Giọng nói dường như phát ra từ chiếc tủ quần áo.

Tôi thò đầu vào, cố nghển cổ nhìn xem Jason ở đâu. “Anh ở đâu?”

“Trèo vào đi, vì Chúa.”

Tôi ngồi lên bàn, thu hai chân lên, xoay cả người vào phía trong rồi thả chân xuống.

“Đóng cửa vào.”

Tôi tì vào bàn với tay kéo cửa lại rồi ấn vào công tắc đèn.

“Không! Tắt đèn đi.”

Trên sàn nhà ngổn ngang những mảnh vải vụn, những chiếc khăn giấy nhuốm máu. Trong sọt rác cũng đầy những miếng giẻ sũng máu. Dưới tấm đệm máu me, tôi có thể nhìn thấy chiếc cán màu vàng của một con dao dùng để chạm khắc, một chiếc tuốcnơvit và một bộ đục. Trước mắt tôi là một kho vũ khí thực sự. Jason ở trong một hàng rào.

“Tôi bảo, tắt đèn đi. Cô muốn mụ ta nhìn thấy chúng ta ở đây à?”

Tôi làm như anh ta nói rồi cả hai chúng tôi im lặng một lúc lâu. Mãi sau tôi mới lên tiếng: “Jason, hãy để tôi tìm cho anh một bác sĩ. Tôi sẽ gọi đến Bệnh viện Quốc tế.”

“Tôi đã bảo là không mà! Tôi không muốn mấy tên bác sĩ chỉnh hình đó chạm vào tôi.”

“Tôi sẽ gọi đến đại sứ quán của anh.”

“Chả giúp được gì đâu.”

“Jason,” tôi bước một bước ngang qua sàn nhà. Tôi có thể cảm nhận được tiếng lép nhép khi nhấc chân lên khỏi sàn nhà nhớp nhúa. “Anh đang bị chảy máu.”

“Thì sao?”

“Anh chảy máu ở đâu?”

“Chảy máu ở đâu? Câu hỏi gì mà ngớ ngẩn thế?”

“Hãy cho tôi biết anh chảy máu ở đâu? Vết thương có thể rất nghiêm trọng.”

“Cô đang nói linh tinh gì thế?” Anh ta thò chân đạp vào cái cửa tủ quần áo khiến các bức tường rung rinh. “Tôi không biết là cô nghĩ gì, nhưng dù cô có nghĩ gì đi nữa thì đó cũng chỉ là sự tưởng tượng của riêng cô mà thôi.” Anh ta dừng lại thở hồng hộc. “Cô cứ tự tưởng tượng ra. Cô và những cái phát hiện ngớ ngẩn của cô. Đầu óc cô đúng là quái đản.”

“Đầu óc tôi chẳng làm sao cả,” tôi bình tĩnh nói. “Tôi cũng chẳng bịa ra chuyện gì.”

“Ôi cưng ơi, rõ ràng chính là cô đã tưởng tượng ra chuyện đó. Chúng không chạm vào tôi, nếu đó là điều cô đang nói.” Lúc này tôi đã có thể nhìn thấy Jason, đang nằm trong tủ quần áo kê sát tường. Tôi chỉ thấy lờ mờ hình dáng của anh ta. Anh ta nằm nghiêng sang một bên như để giữ ấm, chăn quấn quanh người. Cảnh tượng mới ma quái làm sao, tôi đứng đây trong ánh sáng tù mù, nghe giọng nói sin sít của anh ta phát ra từ tủ quần áo.

“Tôi thậm chí không muốn nghe cô nhắc tới chuyện đó. Cô nghĩ cô là ai chứ? Đừng có lại gần cái tủ quần áo!”

Tôi lùi lại một bước.

“Đứng đó, và đừng có nhìn tôi.” Tôi có thể nghe thấy tiếng anh ta thở một cách nặng nhọc như thể có cái gì đó nghẽn lại trong khí quản anh ta. “Giờ nghe này, cô phải tìm người tới giúp tôi.”

“Tôi sẽ đưa anh tới bác sĩ và...”

“Không!” Tôi có thể nhận ra anh ta đang cố gắng giữ cho giọng nói mạch lạc và suy nghĩ tỉnh táo. “Không được. Nghe này, có... có một số điện thoại viết trên tường. Gần công tắc đèn. Thấy chưa? Đó là số điện thoại của... của mẹ tôi. Hãy gọi cho bà ấy. Tới trạm điện thoại công cộng, chọn dịch vụ người nghe trả tiền. Bảo mẹ tôi cử ai đó tới đây giúp tôi. Bảo bà đừng cử ai ở Boston mà chọn một trong những người làm cho nhà chúng tôi ở Palm Springs. Gần hơn.”

Palm Springs? Tôi nhìn chằm chằm về phía tủ quần áo. Jason với một gia đình có các dinh cơ ở California? Những người giúp việc? Tôi vẫn luôn nghĩ anh ta như một dân du lịch balô thực sự, những người tôi vẫn thường thấy ở sân bay, quyển sách hướng dẫn du lịch Lonely Planet nhàu nát trên tay, cuộn giấy vệ sinh thò ra khỏi balô. Tôi tưởng tượng ra cảnh anh ta đi rửa bát, dạy tiếng Anh, ngủ vạ vật trên bãi biển với độc một chiếc chiếu cói và một lò sưởi bằng ga. Lúc nào tôi cũng tin rằng anh ta chẳng có gì đáng giá để mất, giống như ba đứa chúng tôi.

“Gì vậy, có cái gì cô không hiểu à? Sao cô vẫn còn đứng đây?”

Một quảng cáo bánh sôcôla Pocky xuất hiện trên màn hình. Tôi nhìn nó mấy giây rồi thở dài và quay ra phía cửa. “Thôi được, tôi sẽ đi gọi điện.”

Tôi chưa bao giờ gọi điện thoại kiểu này nên khi tổng đài tự động hỏi tên tôi, suýt nữa tôi đã nói, “Kẻ lập dị”. Cuối cùng tôi bảo tôi gọi vì chuyện của Jason. Mẹ anh ta nhấc điện thoại, chỉ lắng nghe mà không nói gì. Tôi nhắc lại hai lần các chi tiết như địa chỉ, cách tìm ra ngôi nhà, và việc anh ta đang cần bác sĩ khẩn cấp và làm ơn - tôi do dự một chút khi nói điều này, thật kỳ cục biết bao khi nói về Jason theo kiểu này - làm ơn cử ai đó từ phía Tây đến để tiết kiệm thời gian. “Còn cô, tôi có thể được biết cô là ai không?” Bà nói bằng giọng Anh dù bà đang ở Boston. “Cô có thể cho tôi biết quý danh không?”

“Tôi nói nghiêm túc đấy.” Tôi nói rồi dập máy.

Trời lúc này đã tối hẳn, và khi trở về nhà, tôi không dám bật quá nhiều đèn, không thể không băn khoăn liệu nó sẽ trông như thế nào nếu nhìn từ bên ngoài vào, sáng rực lên giữa khung cảnh tối đen xung quanh. Tôi không quen khách hàng nào có thể cho tôi vay tiền, ngủ ngoài công viên thì quá lạnh và tôi cũng không dám chắc là Mama Strawberry sẽ đồng ý ứng trước lương cho tôi, nếu có thì chắc cũng chẳng đủ để thuê khách sạn. Tôi cũng không thể nài nỉ Sử Trùng Minh giúp đỡ. Sau giờ làm, chắc tôi phải quay lại đây để ngủ. Nghĩ tới điều đó, cả người tôi lạnh toát.

Tôi nhanh chóng kiếm được một mớ dụng cụ dùng để tự vệ trong nhà kho của ngôi nhà, một cái vồ, một cái đục, một cái nồi cơm điện to đùng để ném vào mặt đối phương khi cần thiết. Tôi cầm thử cái vồ lên, nó nặng và có vẻ tiện lợi. Tôi mang chúng về phòng, để dựa vào tường rồi nhét vài thứ cần thiết vào chiếc túi du lịch, một chiếc áo len dày, tất cả những ghi chép, bản thảo về Nam Kinh, hộ chiếu và phần còn lại của số tiền mà Irina đưa cho tôi. Giống như tôi chuẩn bị hành trang sơ tán khi có báo hiệu động đất. Tôi lại gần cửa sổ, nắm lấy quai túi rồi thả nó lủng lẳng ở bên ngoài một cách nhẹ nhàng, hết sức nhẹ nhàng, cho tới khi tay tôi căng ra. Rồi tôi buông tay cho chiếc túi rơi xuống. Nó rơi xuống chiếc máy điều hòa nhiệt độ với một tiếng bụp rất nhỏ. Từ ngoài hẻm sẽ không ai nhìn thấy nó.

Khi tôi đang đứng bên cửa sổ thì trời đột nhiên đổ tuyết. Tôi nhìn lên trời, nghĩ tới Giáng sinh không còn bao xa nữa. Những bông tuyết mềm mại quay tít trong khoảng trời màu xám giữa những tòa nhà, che lấp khuôn mặt của Mickey Rourke. Giáng sinh sắp tới cũng có nghĩa là đã gần mười năm trôi qua kể từ khi đứa con gái bé bỏng của tôi qua đời. Mười năm. Kỳ diệu làm sao, thời gian có thể biến mất như người ta khép lại một chiếc đàn accordion. Một lúc sau tôi khép cửa sổ lại, lồng một chiếc túi nylon vào tay rồi đi ra ngoài trời tuyết rơi. Tôi nhón mấy ngón tay bọc trong giấy bóng nhặt con mèo lên rồi đem nó chôn dưới gốc cây hồng trong vườn.


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder   Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder - Page 2 Icon_minitimeSun Feb 03, 2019 9:16 pm


Chương 50

史 Nam Kinh, ngày 20 tháng Mười hai năm 1937

Tôi viết những dòng này dưới ánh nến. Tay phải tôi bị đau, một vết bỏng nhẹ chạy chéo trên lòng bàn tay. Tôi đang ngồi xếp chân vòng tròn trên giường, kéo rèm kín mít để không tia sáng nào, tuyệt đối không một tia sáng nào, có thể lọt ra ngoài ngõ. Thu Kim ngồi đối diện với tôi, vẫn còn kinh sợ vì những gì xảy ra tối nay. Cô ấy túm chặt lấy tấm rèm, và liếc nhìn về phía ngọn nến sau lưng. Tôi biết là cô ấy muốn tôi tắt chúng đi nhưng nhất định đêm nay tôi phải viết. Tôi có một linh cảm mạnh mẽ rằng bất cứ câu chuyện nào tôi ghi lại ngày hôm nay, dù nhỏ bé và vô vị tới đâu, vào một ngày nào đó sẽ trở nên hết sức quan trọng. Mỗi tiếng nói đều quan trọng, vì không một ai thể biết được hết hay xác minh được hết những gì đã xảy ra ở Nam Kinh. Lịch sử sẽ thất bại, người ta sẽ không bao giờ nói đến việc Nam Kinh bị xâm lược.

Tất cả những gì tôi vốn tin tưởng đã biến mất. Trong tim tôi dường như có một lỗ hổng, trần trụi và thối rữa như thi thể của đứa trẻ bên ngoài nhà máy, và tất cả những gì tôi có thể nghĩ được là chúng tôi sẽ phải trả giá bao nhiêu cho cuộc chiến này? Nó có nghĩa là sự kết thúc của một đất nước Trung Hoa mà hàng bao năm nay tôi chưa hề nghĩ tới. Đó là cái chết của tất cả những tín ngưỡng, là sự kết thúc của những thổ ngữ, những ngôi đền, những chiếc bánh trung thu và thú săn chim cốc dưới chân núi. Là cái chết của những chiếc cầu duyên dáng bắc qua hồ sen, những viên đá cuội vàng óng ánh phản chiếu trên mặt nước vào những đêm yên tĩnh. Thu Kim và tôi sẽ là những mắt xích cuối cùng. Chúng tôi đứng trên một mỏm đá, níu giữ một Trung Hoa đang rơi vào cõi hư vô. Đôi khi tôi giật thót mình như vừa choàng tỉnh sau một cơn ác mộng mà trong đó tôi cũng đang rớt xuống cùng với tất cả những gì thuộc về nước Trung Hoa đó, những cánh đồng, núi non, sa mạc, những ngôi mộ cổ, những lễ Thanh Minh, lễ hội cầu mùa vụ, những ngôi chùa và những con cá heo trắng trên sông Dương Tử, và cả điện Thiên Đường.

Chưa đầy mười phút sau khi ông Lưu đi khỏi, trước khi tôi có cơ hội nói cho Thu Kim về kế hoạch bỏ trốn thì tôi nghe thấy tiếng động cơ xe máy gào rú đâu đó từ một góc phố bên mé phải ngôi nhà.

Tôi ra ngoài hành lang vớ lấy một thanh sắt rồi đứng sau bức tường chắn ma, chân dang rộng, thanh sắt giơ lên quá đầu. Thu Kim bước ra khỏi bếp, đến đứng bên cạnh tôi, không nói năng gì chỉ nhìn tôi vẻ dò xét. Chúng tôi đứng yên như thế, cánh tay run rẩy của tôi giơ cao, đôi mắt Thu Kim dán chặt vào mắt tôi, bên ngoài tiếng động cơ xe máy tiếp tục gào rú ầm ĩ. Âm thanh ngày càng gần hơn, như thể chúng đang vang lên từ trong đầu chúng tôi. Thế rồi khi tôi tưởng chiếc xe máy sẽ đâm xuyên qua cổng và lao thẳng vào trong nhà thì đột nhiên tôi nghe thấy tiếng máy kêu lách tách và tiếng động cơ trở nên nhỏ dần.

Hai chúng tôi nhìn nhau chằm chằm. Tiếng xe máy xa dần về phía Nam, rồi mất hút. Sự yên tĩnh lại bao trùm lấy chúng tôi. Tiếng động duy nhất lúc này chính là những tiếng vang từ hơi thở dồn dập và hụt hẫng của hai chúng tôi.

“Cái gì vậy? Đó là cái gì?” Thu Kim hỏi khẽ.

“Suỵt. Đứng yên đây.” Tôi ra hiệu cho Thu Kim đứng nguyên tại chỗ.

Tôi đi vòng qua bức tường chắn ma, gí tai vào cánh cửa trước nghe ngóng. Tiếng động cơ đã tắt nhưng tôi có thể nghe thấy những tiếng động khác vẳng lại từ phía đằng xa, rất nhỏ nhưng không thể nhầm lẫn được: tiếng củi cháy lốp bốp. Chắc là tên diêm vương lại đang tiến hành những trò ma quỷ của hắn. Đâu đó, trong các dãy phố gần đây, có cái gì đó đang cháy.

“Đợi ở đấy. Đừng có lại gần cổng.” Tôi đi lên gác, trèo hai bậc một lúc, thanh sắt vẫn trong tay. Tôi gỡ một tấm ván mỏng ở cánh cửa phòng ngoài và hé mắt nhìn xuống con hẻm. Bên trên những ngôi nhà đối diện, bầu trời đỏ lựng với những cột khói bốc cao ngùn ngụt tới hơn mười mét. Những mảnh tro nhỏ xíu bay lả tả, lốm đốm, vằn vện tựa như những con bướm ma. Tên diêm vương chắc hẳn đang ở rất gần ngôi nhà của chúng tôi.

“Cái gì vậy?” Thu Kim hỏi. Cô ấy đã leo lên gác và đứng cạnh tôi, mắt mở to. “Chuyện gì đã xảy ra vậy?”

“Tôi không biết,” tôi nói khẽ, mắt vẫn dán vào những bông tuyết đang rơi bên ngoài. Xen lẫn với tuyết là những dằm gỗ nhỏ đen bóng, và từ những cột khói bốc ra một thứ mùi quen thuộc. Mùi thịt nướng. Thứ mùi vẫn ám ảnh tôi bấy lâu nay. Trước đó chúng tôi đã ăn mì, nhưng không có chút protein nào trong đó để cân bằng âm dương với tinh bột. Tôi vẫn thèm thịt tới phát điên lên. Tôi hít trọn thứ khói kia vào trong phổi và chợt ứa nước miếng. Lần này, cái mùi ấy trở nên gay gắt hơn bao giờ hết, nó luồn vào mọi ngõ ngách trong ngôi nhà, ám vào mọi thứ và át cả mùi gỗ cháy.

“Tôi không hiểu,” tôi lẩm bẩm. “Không thể nào.”

“Cái gì không thể?”

“Ai đó đang nấu nướng.” Tôi quay sang nhìn Thu Kim. “Sao lại có thể thế được nhỉ? Hàng xóm xung quanh không còn ai cả, ngay cả gia đình ông Lưu cũng chẳng có thịt mà nấu nướng...” Những chữ tiếp theo chợt chết cứng trong miệng tôi. Cột khói bốc lên đúng từ phía ngõ nhà ông Lưu. Tôi đứng bất động, nhìn chằm chằm về phía đó như một người trong cơn mộng du, thậm chí không dám thở mạnh, một mối nghi ngờ khủng khiếp không thể nói thành lời đang dần thít chặt lấy cổ họng tôi.



Chương 51

Tối hôm đó khi tôi tới câu lạc bộ thì chiếc thang máy pha lê không thấy đậu dưới mặt đất mà đang dừng ở tầng năm mươi. Tôi đứng chờ một lúc trong khoang thang máy rỗng, túi quặp dưới tay, mắt ngước lên trên để ngóng chiếc thang máy đi xuống. Phải mất một lúc lâu sau tôi mới phát hiện ra một tờ giấy thông báo khổ A4 dán trên tường.

Some Like It Hot vẫn đang mở cửa!!! Mong được đón tiếp quý khách! Xin liên lạc với số máy sau để vào cửa.

Tôi bước tới buồng điện thoại phía trước mặt và quay số. Trong khi chờ đợi tôi ngước mắt nhìn lên câu lạc bộ, ngắm tuyết rơi thành đống ngay trước cặp đùi hớ hênh của Marilyn rồi sau vài cú di chuyển của chiếc xích đu, những chồng tuyết này lại vỡ ra và rụng lả tả, lấp lánh dưới ánh đèn neon, và tôi, giống như những đứa trẻ thích nghịch tuyết, sẽ tưởng tượng ra rằng đó là những bông tuyết rơi xuống từ chiếc xe trượt của ông già Noel.

“Moshi moshi?”

“Ai đấy ạ?”

“Mama Strawberry. Ai ở đầu dây đấy? Có phải Grey-san không?”

“Đúng ạ.”

“Strawberry sẽ cho thang máy xuống ngay bây giờ.”

Khi thang máy dừng ở tầng thứ năm mươi, tôi bước ra ngoài một cách thận trọng. Cô gái lễ tân ngoài sảnh trong chiếc đầm màu vàng và đen vẫn tỏ ra vồn vã như mọi khi nhưng ngay khi cánh cửa câu lạc bộ khép lại sau lưng, tôi lập tức cảm thấy có cái gì đó không ổn. Máy sưởi không đủ ấm khiến các nữ tiếp viên ngồi rải rác tại các bàn run rẩy trong những chiếc váy dạ tiệc mỏng manh, những bông hoa rũ xuống một cách đáng thương và nước trong lọ hoa dường như bốc lên một mùi khó chịu. Khách khứa mặt mũi đều kín bưng, khó đăm đăm, còn Strawberry thì đang ngồi gù lưng bên bàn của mình trong một chiếc áo khoác lông thú màu trắng bó sát, một chai tequila để bên cạnh, lơ đễnh nhìn chăm chăm vào danh sách các nữ tiếp viên. Dưới gọng kính viền kim cương kiểu những năm 1950, bộ mặt trang điểm của bà ta hơi nhòe nhoẹt. Có vẻ như bà ta đã nốc rượu suốt mấy tiếng đồng hồ vừa qua.

“Có chuyện gì vậy?”

Bà ta chớp mắt ngước nhìn tôi. “Một số khách hàng bị cấm đến câu lạc bộ này. Cấm. Có hiểu không, tiểu thư?”

“Ai cấm?”

“Cô Ogawa.” Bà ta đấm mạnh tay xuống bàn khiến chai rượu nảy bật lên, các nhân viên phục vụ và tiếp viên trong câu lạc bộ đều phải quay ra nhìn. “Tôi đã nói với cô đúng không? Tôi đã nói gì, hả?” Bà ta giơ một ngón tay chỉ thẳng vào mặt tôi và gầm gừ trong miệng, vẻ tức giận. “Có nhớ tôi bảo cô rằng cô Ogawa ấy có cái chin chin trong quần lót không? Thế nhưng, Grey-san ơi, tin buồn là cô ta còn có cả đuôi nữa cơ, ở sau đít ấy. Cô cởi quần lót của cô Ogawa ra và đầu tiên...” Bà ta khẽ mở hai đầu gối ra rồi trỏ một ngón tay vào giữa hai đùi. “Trước hết, cô sẽ nhìn thấy một cái chin chin ở đây. Và quanh đây, ở đoạn này,” bà ta xoay người và vỗ vào mông mình trước khi nói tiếp, “cô sẽ thấy một cái đuôi. Vì mụ ta là một con thú. Rất đơn giản. Ogawa, con thú.” Chắc bà ta sẽ tiếp tục rít lên nếu không có gì ngăn bà ta lại. Bà ta đặt chiếc bút xuống bàn, kéo kính trễ xuống mũi rồi nhìn tôi khắp lượt. “Mặt cô sao vậy? Mặt cô bị làm sao thế?”

“Strawberry, nghe này, Jason sẽ không đi làm đâu, cả hai chị em người Nga cũng thế. Họ bảo tôi nói với bà là họ bỏ đi chỗ khác. Tôi cũng không biết là họ đi đâu nữa.”

“Lạy Chúa tôi.” Mắt bà ta xoáy vào những vệt thâm tím trên mặt tôi. “Hãy nói thật cho tôi biết, Ogawa cũng tới chỗ Grey-san có đúng không?” Khi nói những từ này bà cẩn thận ngó xung quanh để chắc chắn không có ai nghe lén.

Tôi chớp mắt. “Cũng?”

Bà ta rót một ly tequila khác và uống cạn ngay lập tức. Mặt bà ta đỏ dần lên sau lớp phấn hóa trang. “Được rồi,” bà ta nói, khẽ chùi miệng bằng một chiếc khăn tay thêu ren. “Đã đến lúc phải nói chuyện thẳng thắn. Ngồi xuống đây, ngồi xuống đây.” Bà ta chỉ cho tôi một chiếc ghế, vỗ vỗ tay vẻ ra lệnh. Tôi kéo ghế ngồi xuống, cả người như tê dại, hai chân kẹp chặt lấy chiếc túi xách. “Grey-san, hãy nhìn xung quanh mà xem.” Bà ta chỉ tay vào những chiếc bàn trống trong câu lạc bộ. “Hãy nhìn câu lạc bộ của Strawberry mà xem! Biết bao nhiêu nữ tiếp viên đã vắng mặt! Cô có muốn biết tại sao không tiểu thư? Hừm, cô có muốn biết không? Bởi vì tất cả bọn họ đều đang nằm nhà! Đang khóc lóc.” Bà ta giơ danh sách tiếp viên lên, giận dữ dứ dứ trước mặt tôi như thể tôi chính là nguyên nhân khiến họ vắng mặt. “Tất cả các cô gái có mặt tại bữa tiệc của Fuyuki đêm hôm qua đều tỉnh giấc giữa đêm và nhìn xem họ thấy ai nào, tiểu thư Ogawa hay một trong những con Gorilla của Fuyuki ở trong nhà. Cô là người duy nhất có mặt trong bữa tiệc hôm qua mà hôm nay vẫn tới chỗ làm đấy!”

“Nhưng...” Tôi toan lên tiếng nhưng trong đầu tôi mọi thứ bỗng trở nên rối rắm. “Hãy nói cho tôi biết,” tôi nói khẽ. “Hãy nói cho tôi biết, từ từ thôi. Ý bà muốn nói gì? Có phải bà muốn nói là không chỉ có nhà chúng tôi, không chỉ có mình Jason...?”

“Tôi đã bảo cô rồi! Ogawa là thú vật,” bà ta rít lên và hất mặt về phía tôi. “Mụ ta tới nhà tất cả những ai có mặt trong bữa tiệc đêm qua. Chắc mụ ta nghĩ mình là ông già Noel.”

“Nhưng mà... tại sao? Mụ ta muốn gì chứ?”

“Strawberry không biết.” Bà ta nhấc chiếc điện thoại kiểu cổ với hai màu hồng và vàng đang đặt trên bàn rồi quay số. Bà ta lấy tay bịt ống nghe lại và rít lên với tôi: “Cả tối nay, tôi đang cố tìm hiểu chuyện này đây.”

Vào khoảng mười giờ đêm, một đàn quạ bị gió cuốn đâm nhào vào cửa sổ của câu lạc bộ. Cho đến giờ, đôi khi tôi vẫn nghĩ tới những con quạ đó. Thường thì giờ này chúng đã phải nằm trong ổ của mình, và đây là một trong những việc khiến bạn có thể cho rằng mình đã quá nhạy cảm khi xem đó là một điềm báo. Một con quạ lao vào lớp cửa kính mạnh tới mức gần như tất cả mọi người trong câu lạc bộ đều giật bắn mình. Tôi thì không: tôi ngồi im lặng, thờ ơ nhìn đàn quạ bay trượt ra khỏi quỹ đạo của chúng, đầu óc tôi đang bận rộn đoán xem ai trong số những người quen với Fuyuki trước đây có thể có khả năng chuyển đổi năng lượng như Sử Trùng Minh nói. Có lẽ tôi là người duy nhất trong câu lạc bộ không có phản ứng gì khi con chim đâm sầm vào cửa kính rồi rơi xuống như một viên đạn.

Strawberry giúp tôi trang điểm che đi những vết bầm tím trên mặt rồi để tôi ra tiếp khách. Tôi ngồi đờ đẫn, không nghe gì và cũng chẳng nói năng gì, chỉ cử động khi người ta mang thức ăn tới bàn. Tôi ăn tất cả những gì có thể, chăm chú và trật tự, che miệng bằng một chiếc khăn ăn để không ai nhìn thấy tôi ăn nhanh như thế nào. Sau khi trả tiền vé để đi tới chỗ Sử Trùng Minh thì tôi chỉ còn lại rất ít tiền. Trong suốt hai mươi tư giờ qua tôi chỉ ăn độc có một mẩu shabu shabu và một bát xúp loãng ngoài vỉa hè ở Shinjuju.

Không khí trong câu lạc bộ rất căng thẳng. Nhiều khách hàng, thậm chí cả những khách quen cũng cảm nhận được điều đó nên đã bỏ về sớm. Một sự im ắng lạnh lẽo, lạ thường bao trùm lấy câu lạc bộ khiến đôi lúc tôi dường như còn nghe thấy cả tiếng kẽo kẹt từ chiếc xích đu của Marilyn vọng lại. Tôi dám chắc không chỉ vì sự vắng mặt của quá nhiều nữ tiếp viên. Tôi dám chắc những câu chuyện xảy ra xung quanh sự việc đêm qua đang lan truyền và khiến mọi người bất an.

Gần như suốt buổi tối, Strawberry dính vào máy điện thoại để thu thập thông tin từ các mối quan hệ của bà ta. Tôi nghĩ đến cả dây những sĩ quan cảnh sát thỉnh thoảng vẫn lui tới câu lạc bộ vào những giờ rất muộn. Ai cũng biết Strawberry quan hệ rất rộng. Nhưng hàng tiếng đồng hồ trôi qua mà dường như bà ta vẫn chưa moi được tin tức nào liên quan tới những chuyện vừa xảy ra và nguyên nhân những vụ tấn công của mụ Ogawa. Cuối cùng thì chính tôi lại là người đầu tiên ở câu lạc bộ phát hiện ra thông tin mới.

Là do một chữ kanji phát ra từ màn hình vô tuyến quảng cáo trên tòa nhà đối diện bỗng đập vào mắt tôi. Tôi nhận ra chữ này ngay lập tức. Satsujin-jiken. Một cuộc điều tra án mạng. Cạnh dòng chữ đó là hình ảnh không rõ nét của một gương mặt rất quen thuộc: Bison đang mỉm cười rạng rỡ trong bầu trời đêm.

Tôi đứng phắt dậy và sơ ý hất đổ một ly rượu ra bàn. Vị khách của tôi giật mình ngồi thụt vào trong ghế để tránh chỗ whisky đổ trên bàn dây vào quần. Tôi cũng chẳng buồn dừng lại lấy khăn ăn cho ông ta. Tôi rời khỏi bàn như một kẻ mộng du, bước thẳng tới khung cửa sổ bằng kính nơi một Bison trẻ trung, thon thả và nhiều tóc hơn đang hát, hai tay chìa ra trước máy quay. Dưới bức hình xuất hiện thêm những chữ kanji in đậm. Phải mất một lúc tôi mới luận ra ý nghĩa của chúng nhưng cuối cùng thì tôi cũng hiểu ra rằng Bai-san đã qua đời vào lúc 8h30 tối. Chỉ vài tiếng trước đây. Nguyên nhân ư? Nội thương nghiêm trọng.

Tôi tì hai tay lên lớp kính, hơi thở phả thành khói trong giá lạnh. Ngoài trời, tuyết vẫn rơi lặng lẽ, cùng màu với lớp phông nền trên màn hình vô tuyến, giờ đang chia thành các khung hình nhỏ với những hình ảnh khác nhau của Bison khi đang rời nhà nghỉ ngoại ô, khi đang hát trước micro trong những ngày hoàng kim với áo sơ mi viền đăng ten và hàm răng trắng bóng kiểu Mỹ. Rồi sau đó là hình ảnh của một bệnh viện, một vị bác sĩ đang trả lời phỏng vấn của đông đảo cánh nhà báo giữa những ánh đèn flash nhấp nháy. Tôi nhìn chăm chăm vào màn hình, miệng há hốc, cố đoán các chữ kanji thỉnh thoảng lại xuất hiện trên đó. Ca sĩ - được hâm mộ - bốn mươi bảy tuổi - từng lưu diễn với ban nhạc Spyders - số một trên bảng xếp hạng Oricon - vụ scandal câu lạc bộ golf Bob Hope. Tôi bắt đầu suy nghĩ. Bison ư? Bị sát hại? Và tay chân của Fuyuki tới thăm nhà của tất cả các nữ tiếp viên có mặt trong buổi tối hôm qua...

Một tiếng chuông điện thoại chợt reo lên sau lưng tôi. Tôi giật nảy người. Tôi không nhận ra là cả câu lạc bộ đã trở nên im ắng hoàn toàn, nhưng khi tôi quay đầu lại nhìn thì tuyệt không thấy ai chuyện trò hay tán gẫu gì, mọi con mắt đều dán vào màn hình vô tuyến bên ngoài. Strawberry cũng đang đứng không cách xa tôi là bao, im lặng nhìn chằm chằm ra bên ngoài, những ánh đèn phản chiếu trên gương mặt bà ta. Trong một thoáng, dường như bà ta không nghe thấy tiếng chuông điện thoại, phải đợi tới hồi chuông thứ ba bà ta mới như bừng tỉnh và trở lại bàn của mình. Bà ta nhấc ống nghe và quát: Moshi moshi?

Mọi con mắt trong câu lạc bộ lúc này lại đổ dồn vào Strawberry khi bà ta nghe điện thoại. Đôi khi gần như bạn có thể đọc được những từ mà người nghe điện thoại nhận được qua thái độ và những biểu hiện trên nét mặt của họ. Rất lâu sau mới thấy bà ta lên tiếng, và khi bà ta nói thì giọng của bà ta nghe đều đều và vô cảm. “Có chắc không? Có chắc không đấy?”

Bà ta lắng nghe thêm một lúc nữa trước khi bỏ máy xuống, mặt biến sắc. Bà ta chống hai tay lên bàn như để giữ thăng bằng. Sau đó bà ta đưa tay quệt lên thái dương vẻ mệt mỏi, mở ngăn kéo lấy ra một khay tiền và rút một nắm tiền giấy nhét vào trong túi. Tôi toan rời khỏi cửa sổ thì bà ta đứng thẳng dậy và rảo bước về phía tôi, nhanh tới mức chiếc áo khoác bằng lông thú màu trắng bay phần phật xung quanh bà ta như một cái chuông. Miệng bà ta hơi cau lại và trên chiếc cổ áo lông thú có dính một vệt son.

“Lại đây.” Vẫn không hề dừng lại, bà ta túm lấy tay tôi, kéo tôi ra khỏi cửa sổ, lôi tôi qua mấy dãy bàn với những khuôn mặt đang nhìn chúng tôi chăm chú. “Cô ta đã làm gì vậy?” Tôi nghe thấy tiếng một khách hàng thì thào. Tôi bị đưa đi qua cánh cửa bằng nhôm nơi cô gái lễ tân đứng kiễng chân thò đầu vào xem chuyện gì đang diễn ra bên trong câu lạc bộ. Strawberry tiếp tục lôi tôi vào một hành lang nơi có các nhà kho và khu vệ sinh. Bà ta đưa tôi đi qua phòng vệ sinh nam nơi ai đó đã cố gắng dùng thuốc tẩy để đánh bạt mùi nôn ọe, và dừng lại trong một căn phòng nhỏ nơi chúng tôi thường dùng để làm phòng hóa trang. Bà ta kéo cánh cửa lại sau lưng và hai chúng tôi đứng đó mặt đối mặt. Bà ta run rẩy, thở ra một cách nặng nhọc đến mức hai vai như trồi lên dưới lớp áo khoác.

“Nghe này, tiểu thư.”

“Gì cơ ạ?”

“Cô phải biến thôi.”

“Gì ạ?”

“Biến khỏi chỗ này.” Bà ta túm lấy tay tôi. “Cô và Jason hãy biến khỏi nhà. Biến khỏi Tokyo. Đừng khai báo gì với cảnh sát. Cứ lẳng lặng mà đi. Strawberry không muốn biết cô cậu đi đâu.”

“Không,” tôi vừa nói vừa lắc đầu. “Không đâu, không. Tôi sẽ không đi đâu cả.”

“Grey-san, chuyện này rất nghiêm trọng đấy. Ở Tokyo đang xảy ra một chuyện rất xấu. Và nó đang lan rộng, đang lan rộng.” Bà ta dừng lại và nhìn tôi với vẻ hiếu kỳ. “Grey-san, cô có hiểu chuyện gì đang xảy ra không? Cô có hiểu bản tin lúc nãy không?”

Tôi liếc nhìn cánh cửa đóng kín sau lưng. “Bà muốn nói về Bai-san. Bà muốn nói về chuyện đã xảy ra với ông.” Tôi chợt thấy lạnh toát hai cánh tay khi nghĩ tới những chữ kanji lúc nãy. Nội thương. “Đó là mụ Ogawa làm, có đúng không?”

“Suỵt!” Bà ta thì thầm nói nhanh. “Nghe tôi nói này. Bai-san cũng được viếng thăm. Ông ta được đưa tới bệnh viện và kịp nói vài lời với cảnh sát trước khi chết. Chắc ông ta điên nên mới khai báo với cảnh sát hoặc hẳn là ông ta biết mình sẽ chết chắc...”

“Viếng thăm bởi Ogawa?”

Strawberry gỡ kính xuống. “Grey-san, trong bữa tiệc đêm qua tại nhà Fuyuki có một tên trộm.”

“Một tên trộm?”

“Đó là lý do khiến Ogawa phát rồ. Một con sâu đã lẩn vào nhà của Fuyuki đêm qua và giờ đây ông ta rất không hài lòng.”

Một cảm giác kỳ lạ chợt xâm chiếm lấy tôi. Tôi có một ấn tượng huyền bí rằng một phát hiện khủng khiếp đang dần hiện ra, ở ngay bên trên những tòa nhà chọc trời giống như chiếc cũi của Godzilla. “Hắn đã lấy đi cái gì.”

“Cô nghĩ sao hả Grey?” Bà ta gật gù và nhìn tôi bằng đôi mắt của một người hiểu biết. “Hừm, cô nghĩ sao? Cô không thể đoán ra hay sao?”

“Ôi,” tôi thì thào, mặt đột nhiên tái nhợt.

Bà ta gật đầu. “Đúng thế. Ai đó đã đánh cắp thuốc của Fuyuki.”

Tôi ngồi phịch xuống chiếc ghế gần nhất và thở hắt ra. “Ôi… Không. Đó không phải là… Không phải là điều tôi chờ đợi.”

“Nghe này,” Strawberry cúi xuống sát đến nỗi tôi có thể ngửi thấy cả mùi tequila lẫn trong mùi nước hoa hương chanh của bà ta. “Tên trộm là một trong số những người có mặt tại bữa tiệc đêm qua. Mụ Y Tá đã tới nhà của tất cả mọi người, khám xét mọi nơi nhưng Bai-san nói với cảnh sát rằng mụ ta vẫn chưa tìm thấy cái saga shimoro của mụ ta. Thứ mà mụ ta đang tìm.” Bà ta liếm liếm mấy đầu ngón tay rồi đưa lên vuốt tóc, không quên ngó về phía cánh cửa như thể sợ ai đó xuất hiện sau lưng chúng tôi. “Cô có biết là,” bà ta nói khẽ, cúi sát hơn nữa vào mặt tôi, má chúng tôi gần như chạm nhau và tôi có thể nhìn thấy cái miệng đỏ chót của bà chuyển động ngay cạnh miệng tôi, “nếu tôi mà là Ogawa và tôi nghe thấy những điều thỉnh thoảng vẫn tuôn ra từ cái miệng lắm chuyện của cô...” Ở đâu đó, phía dưới năm mươi tầng lầu, một tiếng còi báo động ré lên. “... Tôi sẽ nghĩ rằng, Grey-san, rằng cô chính là tên trộm đã...”

“Không ai biết là tôi đã hỏi bà những gì,” tôi rít lên và quay sang nhìn thẳng vào mắt bà ta. “Chỉ có bà.”

Bà ta đứng thẳng lên và nhướng mày một cách hoài nghi. “Có thật thế không? Thật thế không hả Grey? Đúng là như thế chứ?”

Tôi nhìn bà ta, toàn thân đột nhiên buốt lạnh. Tôi nhớ lại cái vẻ thủ thế của Fuyuki khi tôi tỏ ý muốn đi tham quan căn hộ của ông ta. Nhớ lại việc mụ Y Tá đột ngột xuất hiện trong hành lang. Mụ ta đã bắt gặp tôi đang cố tình lẩn đi khi Fuyuki lên cơn tắc thở. Khi bạn nhìn lại những việc đã làm, đôi khi bạn không thể tin được rằng bạn lại có những lúc liều mạng và ngu ngốc đến thế.

“Đúng thế,” tôi lập cập trả lời. “Đúng là như thế. Tôi muốn nói rằng tôi...” Tôi điên cuồng giơ tay ôm đầu. “Không ai biết cả. Tôi, tôi chắc chắn.”

“Grey-san, nghe này, mụ Ogawa đang phát rồ. Mụ ta sẽ quay trở lại từng nhà cho tới khi tìm thấy tên trộm đó. Từng nhà một. Và lần này thì mụ ta sẽ không tử tế đâu.”

“Nhưng tôi...” Tôi đờ đẫn nhìn vệt son dính trên cổ áo của Strawberry. Nó khiến tôi nghĩ tới máu, nghĩ tới những con thú bị sập bẫy, những con cáo vẫn thường tru lên phía sau nhà bố mẹ tôi vào mùa săn bắn. Tôi nghĩ tới việc mụ Y Tá đã lẻn vào nhà chúng tôi một cách lặng lẽ như thế nào. Tôi nghĩ đến bàn tay đeo đồng hồ thò ra bên ngoài cốp xe. Tôi chà xát hai cánh tay vì cả người bắt đầu nổi da gà. “Tôi không thể rời khỏi Tokyo. Tôi không thể. Bà không hiểu...”

“Thế để Strawberry nói cho cô hay. Cô phải biến khỏi Tokyo ngay. Cô bị đuổi việc. Nghe rõ chưa? Bị đuổi việc. Và đừng có quay trở lại.” Bà ta thò tay vào túi lôi ra cọc tiền và giơ ra trước mũi tôi. “Đây là món quà tạm biệt của Strawberry. Cho cả Jason nữa.” Tôi đưa tay ra lấy tiền, nhưng khi tôi vừa chạm vào chúng thì Strawberry siết chặt các ngón tay lại. “Grey-san.” Mắt bà ta chạm vào mắt tôi và tôi có thể nhìn thấy khuôn mặt mình phản chiếu trên mắt kính áp tròng màu xanh. Khi bà ta nói tiếp, thì đó là bằng tiếng Nhật, một thứ tiếng Nhật giàu âm điệu và có lẽ trong một tình huống khác thì sẽ rất gợi cảm. “Cô vẫn hiểu khi tôi nói tiếng Nhật chứ?”

“Vâng.”

“Hãy hứa với tôi một chuyện có được không? Hứa với tôi rằng một ngày nào đó tôi sẽ nhận được một bức thư của cô. Một bức thư tốt lành, nói rằng cô đang vô cùng hạnh phúc. Một bức thư do chính tay cô viết, từ một đất nước khác, nơi cô đang sống yên ổn...” Bà ta đột ngột dừng lại và quan sát phản ứng của tôi. “Hứa nhé?”

Tôi không trả lời.

“Thôi được rồi, tôi nghĩ là cô đồng ý.” Bà ta nói, vẫn nhìn tôi chăm chú như thể đang cố đọc những ý nghĩ trong đầu tôi. Bà ta đưa tiền và mở cửa cho tôi. “Giờ thì đi đi, ra khỏi đây. Lấy áo khoác và đi đi. Và Grey này...”

“Gì ạ?”

“Đừng có đi bằng cái thang máy bằng kính. Tốt hơn là dùng cái thang máy phía sau ấy!”


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder   Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder - Page 2 Icon_minitimeSun Feb 03, 2019 9:17 pm


Chương 52

史 Nam Kinh, ngày 20 tháng Mười hai năm 1937

Đám cháy không kéo dài, quầng lửa trôi dạt trên bầu trời như những con rồng lửa trong cơn giận dữ. Tuyết rơi trở lại gần như ngay lập tức, thánh thiện và bao dung, lất phất xung quanh trong khi tôi đứng yếu ớt và thảng thốt bên cạnh đống hoang tàn từng là ngôi nhà của Lưu Nhuận Đức, khăn che miệng, nước mắt giàn giụa. Ngọn lửa đã thiêu rụi tất cả trên đường đi của nó, chỉ để lại một đống tro tàn nghi ngút khói và những cột nhà xám đen. Khi cơn hỏa hoạn kết thúc, ở giữa ngôi nhà chỉ còn một ngọn lửa leo lét, âm u.

Cả khu hẻm lặng ngắt như tờ. Tôi là kẻ duy nhất bén mảng tới đây. Có lẽ tôi và Thu Kim là hai kẻ duy nhất còn ở lại Nam Kinh cũng nên.

Mùi dầu hỏa vẫn còn phảng phất, tên diêm vương hẳn đã tưới dầu xung quanh nhà trước khi phóng hỏa, nhưng một thứ mùi khác nữa, cái mùi vẫn lan tỏa khắp con hẻm, cái mùi vốn trêu ngươi tôi suốt mấy ngày qua, cái mùi mà giờ đây tôi đã nhận ra và tim tôi chùng xuống. Tôi đưa tay quệt nước mắt rồi đi vòng sang bên hông của ngôi nhà. Gia đình ông Lưu chắc vẫn còn ở đây. Nếu họ trốn thoát được thì chúng tôi đã biết, họ hẳn sẽ đi thẳng tới nhà chúng tôi. Có lẽ họ đã bị kẹt lại bên trong như toan tính của tên diêm vương.

Một màn khói đang lững lờ trôi, bao bọc lấy ngôi nhà và chỉ khi nó tan biến một vài giây sau đó, tôi mới nhìn thấy họ. Hai vật thể đứng sát nhau như hai thân cây đen đúa sau trận cháy rừng, bị thiêu tới mức không còn hình hài, chỉ còn lờ mờ hình dạng của hai cái đầu. Họ đứng chen chân trong cái hành lang nhỏ dẫn ra cửa hậu như đang cố bỏ trốn. Một lớn, một nhỏ. Tôi không cần phải xem kỹ cũng biết rằng đó là ông Lưu và con trai. Tôi nhận ra những cái khuy trên chiếc áo khoác Trung Sơn đã cháy đen của ông. Nhưng vợ ông Lưu không có ở đây, chắc bà đã bị tên diêm vương chủ ý lôi đi khỏi nhà.

Tôi lấy khăn che mũi rồi bước lại gần hơn. Cái mùi vẫn làm tôi thèm thuồng trước đây giờ trở nên gay gắt và khó chịu. Dưới thi thể của hai người, mỡ đọng lại thành vũng và bắt đầu đông lại trắng xóa trên bề mặt giống y như thứ mỡ đôi khi tôi vẫn nhìn thấy trong nồi của Thu Kim. Tôi áp chặt chiếc khăn lên mũi và biết rằng từ lúc này trở đi, tôi sẽ luôn sợ hãi, tôi biết rằng tôi sẽ luôn sợ hãi đối với những gì tôi phải ăn. Tôi sẽ không bao giờ còn thấy thoải mái khi nuốt một thứ gì đó nữa.

Giờ đây, chỉ một tiếng sau, tôi đã ngồi đây, run rẩy trên giường, một tay cầm bút, một tay giữ chặt nắm tóc của Lưu Nhuận Đức đã dính vào tay tôi khi tôi chạm vào thi thể đang bắt đầu lạnh dần của ông. Tuy nhiên, nó vẫn còn nóng tới mức khiến lòng bàn tay tôi bỏng rát sau lớp găng. Kỳ lạ thay, những sợi tóc của ông dường như vẫn không hề hấn gì, nguyên vẹn một cách kỳ quái.

Tôi lấy tay ôm đầu, cả người run lẩy bẩy. “Chuyện gì vậy?” Thu Kim hỏi khẽ nhưng tôi không thể trả lời vì tôi liên tục nghĩ tới cái mùi của ông Lưu và cậu con trai bị thiêu cháy. Trong đầu tôi cứ hiện lên khuôn mặt nhăn nhở không rõ nét của một tên sĩ quan người Nhật trong ánh lửa bập bùng của trại lính. Gương mặt hắn bóng nhẫy do uống nhiều thuốc amphetamine của quân đội và ăn một thứ thịt không tên nào đó. Tôi nghĩ đến chỗ thịt bị khoét ra từ người bé gái nằm chết bên cạnh khu nhà máy. Không hiểu việc lóc thịt người chỉ là một hành động thu thập chiến tích hay còn để phục vụ một mục đích nào khác? Nhưng quân đội Thiên hoàng vốn được ăn uống đầy đủ, nhiều dinh dưỡng, ai cũng cơ bắp và săn chắc. Không có lý do gì để đi nhặt nhạnh và kiếm ăn giống như những con kền kền trên sa mạc Gobi. Và tôi chợt liên tưởng tới một thứ khác, liên tưởng đến những chai thuốc ở nhà máy dệt...

Đủ rồi. Nghĩ ngợi thế đủ rồi. Tôi đang ngồi ở đây, cuốn nhật ký đặt trên đầu gối, Thu Kim nhìn tôi không nói một lời, nhưng đôi mắt rõ ràng đang trách móc tôi. Đã đến lúc rồi. Đã đến lúc nói với cô ấy chuyện gì sắp xảy ra.

“Thu Kim.” Tôi kết thúc trang nhật ký, bỏ bút xuống, để lọ mực sang bên cạnh rồi bò sang bên kia giường nơi cô ấy đang ngồi. Mặt cô ấy trắng bệch, ngây dại, bập bùng dưới ánh nến. Cô ấy không hỏi gì về già Lưu nhưng tôi đoán là cô ấy đã biết khi nhìn vào mặt tôi và ngửi thấy cái mùi trên quần áo của tôi. Tôi quỳ trước mặt cô ấy, chỉ cách vài phân, hai tay để trên đầu gối. “Thu Kim?” Tôi ngập ngừng đưa tay lên chạm vào tóc cô ấy, chúng dày và cứng như vỏ cây.

Cô ấy không rụt người. Đôi mắt cô ấy bình tĩnh chạm vào mắt tôi. “Mình định nói gì với em hả Trùng Minh?”

Tôi muốn nói rằng tôi yêu mình. Tôi muốn nói với mình như cách những người đàn ông châu Âu nói với vợ của họ. Tôi muốn nói rằng tôi xin lỗi. Tôi muốn chạm vào cánh cửa thời gian và quay chúng trở lại.

“Xin mình đừng nhìn em như thế.” Cô ấy cố gạt tay tôi ra. “Mình muốn nói gì?”

“Tôi...”

“Gì ạ?”

Tôi thở dài rồi buông tay, cụp mắt xuống. “Thu Kim...” Giọng tôi nghẹn lại. “Thu Kim, mình đã đúng. Lẽ ra chúng ta phải đi khỏi Nam Kinh từ lâu rồi. Tôi xin lỗi mình.”

“Em biết.”

“Và...” Tôi do dự, “tôi cho là giờ đây chúng ta nên làm điều đúng đắn nhất. Chúng ta nên tìm mọi cách để trốn khỏi đây.”

Cô ấy vẫn bình thản nhìn tôi và lần này tôi không còn có thể giấu cô ấy được điều gì. Tôi đứng đó, thành thật, tuyệt vọng và đầy hối lỗi, để mặc cho mọi nỗi sợ hãi của tôi trở nên trần trụi dưới mắt của cô ấy. Cuối cùng cô ấy khẽ mím môi lại, vươn tay lấy ngọn nến và thổi tắt nó. “Tốt rồi,” cô ấy nói rồi đặt tay lên tay tôi. “Cảm ơn mình, Trùng Minh, cảm ơn mình.” Cô ấy vén rèm rồi rời khỏi giường. “Em sẽ đi nấu mì và chuẩn bị cơm cháy. Giờ chúng ta phải ăn, sau đó em sẽ đi xếp đồ.”

Tim tôi nặng trĩu. Cô ấy đã tha thứ cho tôi. Nhưng tôi cảm thấy sợ hãi, sợ tới đứng tim rằng đây có thể sẽ là lần cuối cùng tôi đặt bút viết vào cuốn nhật ký này. Sợ rằng chính tôi là kẻ sẽ giết chết cô ấy. Chúng tôi còn có hy vọng gì không? Có thể Trời Phật sẽ phù hộ cho chúng tôi. Có thể Trời Phật sẽ phù hộ cho chúng tôi.


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder   Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder - Page 2 Icon_minitimeSun Feb 03, 2019 9:17 pm


Chương 53

Bên ngoài trời lạnh cóng. Tuyết rơi xối xả như đang trong một cơn bão. Chỉ trong khoảng thời gian ngắn ngủi tôi ở trong câu lạc bộ mà tuyết đã kịp rơi kín vỉa hè và phủ đầy trên nóc những chiếc ôtô đang đỗ bên vệ đường. Tôi đứng trong một góc khuất của tòa nhà, ngay cạnh chiếc cầu thang máy và nhìn ra bên ngoài. Trong màn tuyết trắng xóa, tôi chỉ có thể nhìn thấy những gì ở cách tôi từ hai mươi mét trở lại nhưng tôi có thể cảm nhận được cả khu phố đang im lặng một cách bất thường. Không thấy ai đi trên vỉa hè, không thấy chiếc xe ôtô nào trên phố, chỉ có con quạ chết đóng băng bên miệng cống. Như thể Mama Strawberry đã đúng khi nói có một điềm xấu đang luồn lách khắp Tokyo.

Tôi giở tiền ra đếm. Tay tôi run bắn khiến tôi phải đếm đi đếm lại hai lần mà vẫn nghĩ là mình nhầm. Tôi đứng lặng đi một lúc, nhìn chằm chằm vào đống tiền trên tay. Đó không phải là tiền lương cho một tuần như tôi đoán. Strawberry đã đưa cho tôi ba trăm nghìn yên, gấp năm lần số tiền bà phải trả. Tôi nhìn xuyên qua màn tuyết lất phất lên tầng thứ năm mươi của tòa nhà, lên cái câu lạc bộ nơi nàng Marilyn vẫn đang đung đưa trên chiếc xích đu. Tôi nghĩ tới Strawberry trong bản sao những chiếc đầm của Marilyn Monroe và một cuộc đời vây quanh bởi những tay găngxtơ và những người bồi bàn trẻ tuổi. Tôi chợt nhận ra tôi chẳng biết gì về bà. Tất cả những gì tôi biết là bà có một người mẹ đã qua đời, một người chồng đã chết và ngoài hai người đó ra thì bà hoàn toàn đơn độc trên thế giới này. Có lẽ bạn sẽ không bao giờ thật sự nhận ra những người vẫn quan tâm tới bạn cho tới tận khi họ đột ngột ra đi.

Ở ngã tư, một chiếc xe hơi đang từ từ lướt qua, tuyết bay rào rào trước đèn pha. Tôi thụt sâu vào gần tường, kéo cổ áo khoác lên và siết chặt lớp vải mỏng quanh cổ, người run lên vì lạnh. Strawberry có ý gì khi bảo tôi không nên dùng chiếc thang máy bằng kính? Bà có thật sự nghĩ rằng tay chân của Fuyuki đang rình mò trên phố? Chiếc xe ôtô biến mất sau tòa nhà và phố xá lại trở nên yên tĩnh. Tôi ngó ra ngoài. Cần phải suy nghĩ một cách bình tĩnh và mạch lạc. Hộ chiếu, sách vở và mọi ghi chép của tôi vẫn nằm trong con hẻm bên hông ngôi nhà. Tôi không thể gọi điện cho Jason vì chắc là mụ Y Tá sẽ nghe trộm. Tôi phải quay trở lại ngôi nhà đó. Chỉ một lần thôi.

Tôi vội vã đếm lại số tiền của Strawberry và chia nó ra làm hai phần, mỗi bên một trăm năm mươi ngàn yên và để vào hai bên túi áo khoác. Rồi tôi đút tay vào túi và rời khỏi tòa nhà. Tôi bước nhanh ra khu phố phía sau và có cảm giác như mình đang lạc vào một thế giới kỳ diệu, những bông tuyết trắng rơi lất phất trên những cục điều hòa gắn bên ngoài, trên những hộp thức ăn bằng sơn mài xếp bên ngoài cửa hậu để những người giao hàng tới lấy đi. Tôi lại ăn mặc không phù hợp, áo khoác thì quá mỏng cộng thêm đôi giày cao gót để lại những dấu vết kỳ quặc phía sau. Đây là lần đầu tiên tôi đi giày cao gót trên tuyết.

Tôi bước đi lặng lẽ, băng qua ngã tư gần đền Hanazoro với những chiếc đèn lồng màu đỏ ma quái rồi lại chui vào một ngõ nhỏ. Tôi đi qua những cửa sổ sáng đèn, những chiếc quạt sưởi bốc hơi. Tôi nghe thấy tiếng tivi và tiếng người trò chuyện, nhưng suốt cả quãng đường tôi chỉ nhìn thấy một hoặc hai người. Tokyo dường như đang đóng kín mọi cánh cửa. Ai đó trong thành phố này, ai đó ở sau một trong những khung cửa kia, đang có trong tay thứ mà tôi tìm kiếm. Một thứ gì đó không lớn lắm. Chỉ nằm vừa vặn trong một chiếc lồng kính nhỏ. Thịt người. Nhưng không phải là cả một cái xác. Có lẽ chỉ là một bộ phận nào đó. Người ta có thể giấu một miếng thịt người ở đâu chứ? Và tại sao? Tại sao lại có người muốn đánh cắp nó? Tôi chợt nhớ đến một câu trong cuốn sách ngày xưa tôi đã đọc, hình như là của Robert Louis Stevenson thì phải: “Những kẻ đi cướp xác, không coi những quy luật tự nhiên ra gì vẫn thường bị hấp dẫn bởi tính an toàn và dễ dàng của việc làm này...”

Tôi đi theo một đường vòng cung quanh Takadanobaba để về nhà bằng con hẻm nhỏ nằm giữa hai tòa nhà. Tôi dừng lại, nấp sau một chiếc máy giải khát tự động Calpis đang phát ra những quầng sáng màu xanh nhấp nháy, thận trọng thò đầu ra quan sát con hẻm. Con hẻm vắng ngắt. Tuyết vẫn rơi lặng lẽ, lấp lánh dưới ánh sáng của những ngọn đèn lồng treo bên ngoài một nhà hàng xúp ramen. Ở phía bên trái tôi là ngôi nhà tối om và lạnh lẽo, che kín cả bầu trời. Tôi chưa bao giờ nhìn ngôi nhà từ vị trí này, nó có vẻ lớn hơn tôi nghĩ, sừng sững như một khối núi, lớp ngói cong cong trông gần như gớm ghiếc. Tôi nhận ra mình đã quên kéo rèm cửa sổ phòng, và tôi nghĩ tới chiếc đệm đang nằm trong im lặng, nghĩ tới những bức tranh Tokyo trên tường, tới hình ảnh câm lặng của tôi và Jason đang đứng dưới những dải thiên hà.

Tôi thò tay vào túi lôi ra chùm chìa khóa. Tôi cẩn thận nhìn quanh lần nữa trước khi bước vào con hẻm nhỏ, đi sát vào bên hông của ngôi nhà. Tôi nhìn lên khe hở giữa hai tòa nhà và ngó lên chiếc máy điều hòa. Chiếc túi du lịch của tôi vẫn nằm đó, chìm trong bóng tối và phủ đầy tuyết. Tôi tiếp tục bước đi sát ngôi nhà, ngay dưới cửa sổ phòng tôi. Khi chỉ còn cách khúc ngoặt khoảng mười mét thì có cái gì đó khiến tôi dừng lại. Tôi nhìn xuống chân mình.

Tôi đang đứng trong một cái rãnh dài và đen màu nhựa đường. Tôi chớp mắt nhìn. Không hiểu sao linh tính lại mách bảo tôi đứng lại. Và rồi tôi nhận ra, dĩ nhiên, đó là một vệt bánh xe ôtô. Một chiếc ôtô vừa đỗ ở đây không lâu. Mạch tôi đổ dồn. Các dấu vết bắt đầu hiện ra một cách rõ ràng. Chiếc xe hơi hẳn đã đỗ ở đây khá lâu vì vết bánh xe còn hằn lại rất rõ, một đống đầu lọc thuốc nằm trên mặt đất, ngay dưới vị trí cửa sổ của lái xe, như thể những người trong xe đã cố tình chờ đợi cái gì đó. Tôi vội vàng quay trở lại trong bóng tối, máu đông lại. Vệt bánh xe chạy dài ra đằng trước về hướng phố Waseda nơi thường có một hoặc hai chiếc xe ôtô im lìm chạy dưới tuyết. Ngoài vệt bánh xe này ra thì cả con hẻm vắng hoe. Tôi thở phào và ngước nhìn những ô cửa sổ trên ngôi nhà cũ kỹ xiêu vẹo, chỉ thấy thấp thoáng những ánh đèn vàng lấp lóe. Mọi chuyện có vẻ bình thường. Không có gì nghiêm trọng, tôi tự nhủ, liếm đôi môi nhức nhối và nhìn chằm chằm xuống vệt bánh xe trên mặt đất. Chẳng có gì đáng phải lo. Mọi người vẫn thường đỗ xe trong ngõ đấy thôi vì tìm được một chỗ vắng vẻ riêng tư ở Tokyo đâu phải chuyện dễ.

Tôi tiếp tục men theo con hẻm, tránh cái bóng của chiếc xe ôtô như thể nó là một cái bẫy ma quái. Tôi đi sát vào tường, vai quệt vào những đám tuyết đậu trên hàng rào sắt của tầng trệt ngôi nhà. Tới khúc rẽ, tôi nép vào tường, hé mắt nhìn ra phía cửa chính của ngôi nhà. Cửa đóng im ỉm y như lúc tôi bỏ đi, tuyết chất thành đống ở đằng trước. Tôi liếc nhìn con phố vắng tanh trước mặt thêm lần nữa. Dù không nhìn thấy một bóng người, tôi vẫn không khỏi run lập cập khi bước tới cửa ngôi nhà và hấp tấp tra chìa khóa vào ổ.

Jason vẫn để tivi. Từ dưới bậu cửa phòng Jason tuôn ra một dòng ánh sáng màu xanh nhấp nháy, nhưng chiếc đèn hành lang đã bị mụ Y Tá đập nát nên ngôi nhà tối om một cách bất thường. Tôi chậm rãi leo lên cầu thang, trống ngực đập thình thịch, lúc nào cũng tưởng tượng ra có cái gì đó đang từ trong hành lang lao vút về phía mình. Tới đầu cầu thang, tôi dừng lại dưới ánh đèn mờ ảo, thở hắt ra, những ký ức đêm qua chợt hiện về, giống như những chiếc bóng đang chạy dài trên bức tường trước mặt. Cả ngôi nhà im ắng. Không một hơi thở hay một tiếng cót két. Ngay cả tiếng lá cây xào xạc trong vườn cũng bị vùi trong tiếng tuyết rơi.

Tôi tới phòng của Jason, răng va vào nhau lập cập. Tôi nghe thấy tiếng anh ta thở trong chiếc tủ đựng quần áo, một tiếng thở tắc nghẽn, đặc máu, trở nên gấp gáp hơn khi tôi đẩy cánh cửa. “Jason?” Tôi gọi khẽ. Căn phòng lạnh ngắt và tràn ngập một thứ mùi hữu cơ rất khó chịu, giống như mùi phân của động vật. “Anh có nghe thấy không.”

“Ừ.” Tôi có thể nghe thấy tiếng anh ta xê dịch một cách đau đớn trong tủ quần áo. “Cô có nói chuyện được với ai không?”

“Họ đang trên đường tới đây,” tôi nói khẽ rồi trèo qua chiếc bàn và lặng lẽ thả người vào trong phòng. “Nhưng anh không thể ngồi đây mà đợi, Jason, anh phải ra khỏi đây ngay bây giờ. Mụ Y Tá đang quay trở lại.” Tôi đứng cạnh tủ quần áo, đặt tay lên cánh cửa. “Đi nào, tôi sẽ giúp anh xuống cầu thang và...”

“Cô định làm gì thế? Cô định làm cái chết tiệt… Lùi lại ngay. Tránh xa cái tủ quần áo ra.”

“Jason! Anh phải đi khỏi đây ngay lập tức!”

“Cô nghĩ là tôi không nghe thấy cô nói gì sao. Tôi nghe thấy rồi. Giờ thì tránh xa cái cửa tủ khốn kiếp này ra!”

“Nếu anh tiếp tục la hét tôi sẽ không đi đâu cả. Tôi chỉ muốn giúp anh.”

Anh ta phát ra một âm thanh giận dữ rồi tôi nghe thấy tiếng anh ta lùi sâu vào phía trong, hơi thở gấp gáp. Một lúc sau khi đã bình tĩnh hơn một chút, anh ta ghé miệng gần cánh cửa. “Nghe này, hãy nghe cho kỹ...”

“Chúng ta không có thời gian để mà...”

“Tôi nói là hãy nghe đây! Tôi muốn cô đi vào trong bếp. Có một đống giẻ ở dưới bồn rửa bát. Hãy lấy cho tôi càng nhiều càng tốt, rồi lấy cho tôi cả khăn tắm hay bất cứ cái gì cô tìm thấy.” Anh ta đang cố gắng đứng lên. Từ phía trong tủ quần áo một vũng nhầy nhầy, sền sệt lẫn cả với tóc, trượt xuống sàn nhà rồi đóng băng lại. Tôi không thể rời mắt khỏi chúng. “Rồi lấy chiếc túi ở trên móc treo quần áo, và vali của tôi nữa, nó vẫn còn ở ngoài cửa chứ?”

“Vâng.”

“Mang cho tôi tất cả mọi thứ trong cái vali rồi tôi muốn cô tắt đèn và rời khỏi đây. Tôi sẽ tự lo liệu phần còn lại.”

“Tắt đèn à?”

“Đây không phải là một cuộc triển lãm quái dị. Tôi không cần cô giương mắt ra nhìn tôi.”

Lạy Chúa, tôi nghĩ rồi trèo qua chiếc bàn ra ngoài. Mụ ta đã làm gì anh? Có phải giống như mụ ta đã làm với Bison. Ông ta đã chết. Chết vì những gì mụ ta đã làm. Trên các cửa sổ, những cánh cửa chớp đều mở tung. Ngoài vườn, tuyết vẫn rơi, những bông tuyết màu xám to như nắm đấm xoay tròn và rơi chồng lên nhau, bóng chúng trải dài trên sàn nhà. Chiếc túi nylon vắt trên cành cây chiếu trên tường một cái bóng dài, như hình chiếc đèn lồng. Tôi không thể nhớ nổi ngôi nhà đã bao giờ lạnh đến thế này chưa, như thể không khí đã đóng băng trong các phòng. Tôi ôm lấy một đống giẻ trong bếp rồi đi lấy khăn tắm trong phòng tắm. Tôi run rẩy trèo qua chiếc bàn.

“Để chúng ở gần tủ. Tôi đã nói là đừng có nhìn về phía tôi.”

“Còn tôi thì nói là đừng có hét lên!” Tôi lại trèo ra ngoài kéo chiếc vali của anh ta về phía cửa, nhấc nó lên bàn rồi thả xuống sàn. Sau đó tôi ra chỗ mắc áo ở đầu cầu thang để lấy chiếc túi treo phía dưới những chiếc áo khoác. Trong khi nhấc đống áo khoác và jacket ra khỏi mắc để lấy chiếc túi, tôi vẫn dỏng tai lên nghe mọi âm thanh vang lên từ phía con hẻm bên ngoài, lúc nào cũng tưởng tượng ra cảnh mụ Y Tá lặng lẽ đi dọc theo con phố tới trước cửa nhà chúng tôi nhìn lên các cửa sổ và quyết định sẽ làm gì để...

Tôi chợt sững lại.

Chiếc túi của Jason.

Tôi đứng bất động nhìn chăm chăm vào chiếc túi, chỉ có lồng ngực phập phồng theo hơi thở dưới lớp áo khoác. Một ý nghĩ kỳ lạ bỗng siết chặt lấy tôi. Ngôi nhà vẫn im ắng, ngoại trừ tiếng sàn nhà kêu lách cách vì giá lạnh và tiếng Jason cựa quậy trong tủ quần áo. Anh ta đã đeo chiếc túi này trong bữa tiệc tại nhà Fuyuki. Người như mụ đi, tôi bàng hoàng nhìn dọc cái hành lang im ắng, dài hun hút rồi quay về phía cửa phòng của anh ta. Jason ư? Tôi chợt nghĩ, máu như đông lại trong huyết quản. Jason ư?

Tôi sờ tay lên chiếc túi và nhìn nó đăm chiêu. Nghe này, anh ta nói khi tới phòng tôi sau khi trở về từ bữa tiệc. Lúc đó anh ta cũng đeo chiếc túi này. Tôi nhớ rất rõ. Hai chúng ta đều có đúng cái mà người kia cần. Và anh sẽ kể cho em một chuyện mà em sẽ rất thích. Đột nhiên tôi không còn tưởng tượng ra mụ Y Tá đang lảng vảng ngoài ngõ nữa, mà thay vào đó, là cảnh mụ đang vội vàng đi qua một bể bơi phản chiếu bầu trời đêm đen thẫm, một chiếc đèn báo động màu đỏ nhấp nháy phía trên đầu mụ ta. Đêm hôm qua, tôi đã không nhìn thấy Jason đi cùng mụ Y Tá khi Fuyuki lên cơn sốc. Đúng là chỉ có vài phút thôi, nhưng trong lúc rối loạn, mọi chuyện đều có thể xảy ra…

Thận trọng, chậm rãi, tôi rón rén mở khóa và thò tay vào bên trong chiếc túi. Tay tôi chạm vào những chiếc khăn giấy, những bao thuốc lá và một đôi tất. Tôi thò tay vào sâu hơn. Một chùm chìa khóa và một cái bật lửa. Và rồi trong góc túi có cái gì đó giống như lông thú. Tôi dừng tay lại. Một vật gì đó có lông và rất lạnh, cỡ bằng con chuột. Tôi đứng im, tóc gáy dựng ngược lên. Jason? Đây là cái gì vậy? Tôi sờ vào vật đó lần nữa, chạm phải một lớp bề mặt giống như da của động vật chết và rồi tôi chợt nhớ ra một chuyện. Tôi hít một hơi dài rồi kéo cái vật đó ra ngoài, kinh ngạc nhìn nó chằm chằm. Đó là một con gấu nhồi bông làm bằng da thật dài khoảng mười lăm centimet. Ở mũi nó có xỏ một chiếc nhẫn tết bằng dây màu vàng và đỏ, và tôi nhận ra ngay đó là con gấu chiến bị mất của Irina. Anh chàng đó là một người rất kỳ lạ. Tôi nhớ có lần cô ấy nói. Anh ta toàn xem những bộ phim kinh khủng và anh ta còn có tật ăn trộm. Cô có biết không? Lấy trộm con gấu của tôi, găng tay của tôi, thậm chí cả bức ảnh của ông bà tôi nữa...

“Này, chuyện quái quỷ gì ở đó thế?” Jason đột nhiên kêu lên.

Tôi không trả lời. Tôi vụng về nhấc chiếc túi ra rồi quay trở lại phòng của anh ta. Tôi dừng lại trước cửa, nhìn chằm chằm vào chiếc vali đang nằm trên sàn. Tôi nhớ lại mấy tuần trước đây, anh ta đã xòe tay vào mặt tôi để bắt chước con rồng đang nổ tung của Sử Trùng Minh. Anh ta biết là tôi đang tìm kiếm một cái gì đó. Nhưng - Tôi không hề biết em là một người hoàn hảo đến thế, cho tới đêm nay...

Dĩ nhiên rồi, đó là Jason. Tôi nghĩ, đầu gối như khuỵu xuống. Dĩ nhiên là thế rồi. Nếu anh tìm thấy thuốc của Fuyuki, thì đó đúng là thứ anh thích... Anh là một tên trộm, có đúng thế không? Một kẻ chỉ lấy trộm vì khoái cảm.

Chiếc vali của anh ta vẫn chưa được sắp xếp lại, đồ đạc bên trong thòi cả ra ngoài, một chiếc quần thể thao, quần jean và một chiếc thắt lưng. “Đúng vậy,” tôi lẩm nhẩm một mình khi mọi chuyện bắt đầu trở nên rõ ràng trước mắt tôi. “Giờ thì tôi đã hiểu.” Các câu hỏi và câu trả lời đang đan cài vào nhau một cách hợp lý. Sáng hôm nay, trong đống đồ vứt vung vãi ngoài hành lang của Jason, có cái gì đó đã đập vào mắt tôi, máy ảnh, giấy tờ, vài cái ảnh. Hộ chiếu của anh ta. Hộ chiếu của anh ta?

“Jason,” tôi thì thào, “tại sao tất cả những thứ này...” Tôi chỉ vào chiếc vali. “Những thứ này... Anh đã sắp xếp hành lý từ đêm hôm qua đúng không? Sắp xếp hành lý. Tại sao anh lại xếp hành lý nếu anh không biết trước rằng...”

“Cô đang nói cái chết tiệt gì vậy?”

“Nếu anh không biết trước là mụ ta sẽ tới?”

“Đặt các thứ xuống đất rồi đi đi.”

“Đúng là như thế, có phải không? Anh đã nhận thức được việc làm của mình. Anh đột nhiên nhận ra sự nghiêm trọng của nó, biết là mụ ta sẽ tìm tới đây vì anh đã đánh cắp...”

“Tôi nói là để các thứ...”

“Bởi vì anh đã ăn trộm,” tôi cao giọng. “Anh đã ăn trộm của Fuyuki. Anh đã ăn trộm của ông ta. Đúng không?”

Tôi gần như có thể nghe thấy sự do dự của anh ta, môi anh ta mấp máy, lầm bầm những lời giận dữ. Trong một giây tôi nghĩ anh ta sẽ lao ra ngoài, nhảy bổ vào tôi với vẻ khiêu khích. Nhưng anh ta không làm thế. Thay vào đó, anh ta chỉ gắt gỏng: “Thì sao? Đừng có lên giọng giảng giải đạo đức với tôi. Tin tôi đi, nó chỉ làm tôi nghẹt thở mà thôi. Nghẹt thở vì cô và tất cả những vấn đề, những nỗi ám ảnh kỳ quặc chết tiệt của cô.”

Tôi buông chiếc túi rớt xuống đất, hai tay ôm lấy đầu. “Anh...” Tôi thở gấp, cả người run lên bần bật. “Anh... anh... Tại sao? Tại sao anh lại...”

“Bởi vì!” Anh ta nói vẻ điên tiết. “Chỉ bởi vì, vì nó ở đó. Đột nhiên cái thứ chết tiệt mà cô vẫn...” Anh ta nín thở. “Nó ở đó. Ngay trước mắt tôi, và tin tôi đi, tôi không hề biết rằng mình đã tự lao đầu vào lửa khi lấy nó, và giờ thì càng không phải lúc để phán xét tôi, hãy đặt các thứ xuống cái sàn chết tiệt đó và...”

“Ôi, Jason,” tôi choáng váng nói, “đó là cái gì?”

“Chắc chắn cô sẽ không muốn biết đâu. Giờ hãy đặt...”

“Làm ơn, làm ơn nói cho tôi biết đó là cái gì và anh đã giấu nó ở đâu.” Tôi quay ra nhìn khu hành lang vắng ngắt, trải dài rồi mất hút trong bóng đêm. “Làm ơn, điều đó đối với tôi rất quan trọng. Nó ở đâu vậy?”

“Đặt cái túi xuống sàn...”

“Nó ở đâu?”

“Và dịch chỗ khăn tắm lại gần tủ.”

“Jason, nó ở đâu?”

“Tôi nói, đẩy đống khăn tắm lại gần tủ và...”

“Nói cho tôi biết không tôi sẽ...”

“Câm đi!” Anh ta đập ầm ầm vào cửa tủ khiến nó rung lên bần bật, suýt bật ra khỏi rãnh kéo. “Quỷ tha ma bắt cô đi, quỷ tha ma bắt cô đi và quỷ tha ma bắt cái cuộc săn tìm kho báu khốn kiếp của cô. Nếu cô không muốn giúp tôi thì hoặc là xông vào mà đánh tôi bởi vì tôi sẽ nện cho cô một trận, tôi chả sợ gì mà không nện cho cô một trận, hoặc là cô biến đi và tự đi mà âu yếm một mình.”

Tôi đứng nhìn chằm chằm vào cánh cửa tủ một lúc, tim đập thình thịch. Rồi tôi quay lại nhìn về phía cuối hành lang. Phần lớn các phòng đều đóng cửa. Nhưng hành lang vẫn được chiếu sáng bởi những mảnh kính vỡ lấp lánh và những mảng giấy dán tường bị xé rách. “Thôi được, thôi được.” Tôi nói, quờ tay ra đằng trước, chuyển động những ngón tay như thể tôi sẽ túm được câu trả lời trong không khí. “Tôi sẽ đi tìm. Không cần anh giúp. Anh vừa mang nó về đêm qua, nó vẫn ở đâu đó quanh đây.”

“Hãy câm miệng lại và tắt đèn đi!”

Tôi như bừng tỉnh sau cơn mộng du. Mồ hôi túa ra sau gáy tôi. Tôi lôi cuộn tiền trong túi áo bên phải ném vào phòng cho Jason. Cuộn tiền rơi xuống đất, các tờ tiền bay lên trong ánh sáng lờ mờ. “Strawberry gửi cho anh ít tiền,” tôi nói. “Và, Jason này...”

“Gì?”

“Chúc anh may mắn!”


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder   Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder - Page 2 Icon_minitimeSun Feb 03, 2019 9:17 pm


Chương 54

Vài hôm trước, trước khi mụ Y Tá viếng thăm ngôi nhà, một buổi sáng thức dậy tôi nhìn xuống dưới cửa sổ và bắt gặp một người đàn ông mặc áo vét, đầu đội chiếc mũ cứng của ngành xây dựng, tay cầm một tập hồ sơ đang đứng, quan sát ngôi nhà, có lẽ ông ta là một kỹ sư hoặc một người chuyên vẽ bản đồ địa hình. Điều đó khiến tôi buồn biết bao khi nghĩ tới ngôi nhà, sau tất cả những gì nó đã trải qua, chiến tranh, động đất, nạn đói lại bị rơi vào tay những chuyên viên phát triển bất động sản. Những bức tường dán giấy thanh mảnh và khung gỗ của ngôi nhà đã được thiết kế đặc biệt để dù cho động đất có khiến nó đổ xuống như những que diêm thì người sống bên trong vẫn có cơ hội thoát thân. Khi người ta tới phá hủy ngôi nhà, khi họ chằng những tấm nylon màu xanh nước biển xung quanh nó rồi kết thúc nó bằng một quả cầu bê tông, nó sẽ ra đi không một lời trăng trối, mang theo tất cả những ký ức và bí mật đã được chôn vùi bên trong.

Người kỹ sư và tôi nhìn nhau một lúc lâu, ông ta ngoài trời giá lạnh còn tôi ấm áp trong chiếc chăn quấn quanh người, cho đến khi tay bắt đầu tê cóng và má đỏ ửng thì tôi đóng cửa sổ lại. Lúc đó, tôi bâng quơ nghĩ rằng sự hiện diện của ông ta có nghĩa là hồi kết của chúng tôi trong ngôi nhà này đã tới gần. Tôi không hề nghĩ rằng đoạn kết lại đến theo một cách khác, hoàn toàn bất ngờ.

Tôi vớ lấy một chiếc đèn pin trong bếp rồi lặng lẽ đi dọc theo hành lang, tắt hết đèn đóm dọc đường đi. Có một vài phòng mở cửa toang hoác, phần lớn cửa sổ đều không có cửa chớp hay rèm cửa. Ánh đèn từ tấm biển quảng cáo có hình Mickey Rourke bên ngoài soi chiếu tất cả những gì xảy ra bên trong những căn phòng tĩnh lặng này. Người bên ngoài có thể nhìn thấy mọi chuyện nên tôi phải khom người xuống và di chuyển một cách lẹ làng. Trong phòng mình, tôi rón rén lại gần chiếc cửa sổ, cố thò đầu ra ngoài, cổ vươn ra như sếu để nhìn xuyên qua bãi đất trống giữa hai tòa nhà ra phía con hẻm bên ngoài. Con hẻm vắng tanh, không một tiếng người, không tiếng xe cộ, chỉ có những bông tuyết vẫn đang rơi lặng lẽ. Vệt bánh xe ôtô và vết giày của tôi đã biến mất dưới lớp tuyết mới. Tôi lôi cuộn tiền ra và ném nó lên trên chiếc túi. Nó rơi xuống một cách khẽ khàng nhưng cũng đủ làm cho đám tuyết phía dưới văng tung tóe. Tôi quay vào và quờ quạng tìm quần áo để thay trong bóng tối, ném chiếc váy đi làm ra rồi mặc quần dài, đi giày đế bằng, áo len và áo jacket kéo khóa lên tận cổ.

Anh để nó ở đâu hả Jason? Ở đâu? Tôi nên bắt đầu từ đâu?

Tôi luồn ra cửa, tay vẫn giữ khư khư chiếc đèn pin, răng va vào nhau lập cập. Từ phía phòng của Jason tôi nghe thấy những tiếng thình thịch. Tôi không muốn tưởng tượng ra những hành động bí ẩn và có lẽ rất đau đớn mà anh ta đang trải qua. Nhưng chắc là không phải trong phòng của anh, Jason, như thế thì quá dễ dàng. Ánh sáng từ chiếc đèn pin của tôi đang đùa giỡn trên những cánh cửa im lặng. Tôi để chiếc đèn trong căn phòng dùng làm nhà kho ở bên cạnh phòng tôi. Thậm chí khi bạn không có bản đồ và không có chút dấu vết nào trong tay thì bạn cũng phải bắt đầu cuộc tìm kiếm từ đâu đó. Tôi lom khom tiến về phía cửa nhà kho rồi lẻn vào bên trong, từ từ kéo cánh cửa lại sau lưng để tránh gây tiếng động. Căn phòng trông giống như một bãi chiến trường. Mụ Y Tá và tên chimpira rõ ràng đã mó tay vào mọi thứ, từ những tấm đệm rách nát, những đống vải lụa bị gián nhấm, mốc meo, cũ kỹ, một chiếc hộp đựng khung ảnh, bên trong là những bức chân dung đen trắng của một người phụ nữ lớn tuổi trong trang phục kimono truyền thống. Lớp kính bên ngoài những tấm ảnh này đều đã rạn nứt. Tôi ngồi xổm xuống giữa phòng và bắt đầu lôi các thứ ra xem. Một chiếc nồi cơm điện, một hộp giấy bìa màu vàng, một chiếc thắt lưng obi bằng lụa, trước đây có màu xanh và màu bạc giờ đã vàng ố ở nhiều chỗ và bị gián nhấm thủng lỗ chỗ. Khi tôi chạm tay vào đó, chiếc thắt lưng bở ra, vô số những hạt bụi lóng lánh như những vảy màu trên cánh bướm cụm vào nhau rồi bay lên trong không khí.

Tôi xem xét mọi thứ, càng lúc càng hoang mang, mồ hôi túa ra. Khi tôi sắp kiểm tra hết căn phòng thì có cái gì đó khiến tôi phải dừng lại và ngước mắt nhìn. Những ánh đèn pha đang di chuyển trên trần nhà.

Một nỗi sợ hãi bao trùm lấy tôi. Tôi tắt đèn pin, nhét nó vào trong túi rồi chống tay lên sàn nhà trong tư thế của một vận động viên điền kinh ở vạch xuất phát, mọi thớ thịt trên người căng ra. Tai tôi dỏng lên, hướng ra ngoài căn phòng, tiến vào con hẻm, cố gắng đoán xem chuyện gì đang diễn ra bên ngoài. Ánh đèn bắt đầu di chuyển xuống tường rồi nhanh chóng hợp thành một đường thẳng đứng giống như những vệt sáng phát ra từ con tàu vũ trụ. Con hẻm vẫn im ắng. Rồi đúng lúc tôi nghĩ là mình sắp tắt thở thì tôi nghe thấy tiếng xe ôtô khởi động. Ánh đèn hậu phản chiếu trên cửa sổ, một thứ ánh sáng màu vàng cam. Chiếc ôtô đã dừng lại trong màn tuyết, chờ rẽ trái sang phố Waseda. Tôi nhắm mắt và ngồi thụp xuống, lưng dựa vào tường. “Ôi Chúa ơi, Jason,” tôi thì thào, tay dụi trán. “Tôi đến chết mất thôi.”

Tìm kiếm kiểu này thật vô ích. Mụ Y Tá đã lục lọi tất cả các phòng mà chẳng tìm thấy gì. Vậy thì tôi có thể hy vọng gì chứ? Nhưng tôi có quyết tâm và có đầu óc. Tôi sẽ phải tìm ra cách nhìn xuyên qua trần nhà, qua những bức tường và kết cấu của ngôi nhà. Tôi sẽ phải xem xét những nơi mà mụ ta chưa tìm kiếm. Cố lên nào, tôi đặt hai ngón tay lên mí mắt, hãy cố hình dung ra ngôi nhà bằng một đôi mắt khác. Hình dung ra nó bằng đôi mắt của Jason đêm hôm trước. Hình dung ra bộ xương của ngôi nhà. Anh ta đã nghĩ gì? Khi về nhà đêm hôm qua, anh ta nhìn cái gì trước tiên?

Hình ảnh của ngôi nhà lần lượt hiện lên trong đầu tôi. Tôi nhìn xuyên qua lớp da của nó, tôi thấy những rầm nhà, một khung nhà bằng gỗ với những dây dợ cuốn quanh. Tôi nhìn thấy những cửa sổ. Những chiếc cửa sổ. Những chiếc cửa sổ trong hành lang đang thì thầm điều gì đó rất quan trọng. Chúng đang nói rằng hãy nghĩ cho thật kỹ. Chúng đang nói rằng hãy nhớ lại anh ta trong đêm hôm qua, nhớ lại anh ta ở trước cửa phòng của cô. Chúng tôi đang tranh cãi. Rồi sao nữa? Anh ta bỏ đi. Anh ta cực kỳ tức giận và vẫn còn đang ngà ngà say, rồi anh ta đâm vào những cánh cửa chớp. Anh ta dừng lại một lúc nhìn ra ngoài vườn, khi ra khỏi phòng tôi có nhìn thấy một cửa sổ mở tung, anh ta đứng đó hút thuốc. Rồi anh ta quay vào, đi về phòng và bắt đầu sắp xếp hành lí...

Tôi mở choàng mắt. Sau những cánh cửa chớp mở tung, tuyết vẫn đang rơi xối xả ngoài vườn, lấp lánh và lạnh giá, biến thành những tác phẩm tạo hình ngẫu nhiên. Chiếc túi nylon treo trên cành cây gần như đông cứng lại. Tôi rà soát lại trí nhớ của mình và lập tức nghĩ ra. Jason đứng cạnh cửa sổ, tay cầm cái vật anh ta lấy trộm và...

Giờ thì tôi đã nhìn thấy anh ta một cách rõ ràng, đang mở cửa sổ, lấy đà quăng chiếc túi nylon ra ngoài trời đêm trong cơn dông bão. Chiếc túi bay trên các tán cây, xoay tròn và quay cuồng trong gió trước khi rớt xuống và mắc vào một cành cây mà cho đến lúc này vẫn đang xoắn vặn và đóng băng tại đó. Ôi Jason, tôi ngồi dậy, quỳ gối trên sàn và nhìn chằm chằm vào chiếc túi. Dĩ nhiên rồi. Tôi đã biết nó ở đâu rồi. Nó ở bên trong chiếc túi đó.

Tôi đứng dậy và bước về phía cửa sổ, tì hai bàn tay tê cóng của mình lên ô cửa, da tôi đột nhiên trở nên nhột nhạt khi cảm nhận được từ phía cầu thang một âm thanh rất dè dặt nhưng không lẫn vào đâu được, tiếng cửa trước bị mở ra.


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder   Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder - Page 2 Icon_minitimeSun Feb 03, 2019 9:18 pm


Chương 55

史 Nam Kinh, ngày 21 tháng Mười hai năm 1937 (ngày mười chín tháng Mười một âm lịch)

Ở Nam Kinh, trừ những đám mây tuyết, vạn vật đều bất động, mọi con sông, dòng suối, núi non, cỏ cây hoa lá đều ủ rũ và đờ đẫn, kiệt quệ trong một mùa đông vốn thuộc về người Nhật này. Ngay cả dòng sông Dương Tử vốn cuồn cuộn như rồng cuốn cũng ngừng chảy, tức tưởi, lờ đờ, nghẽn lại với hàng trăm nghìn xác chết vứt đầy sông. Và rồi tôi lại tiếp tục những dòng nhật ký mà tôi đã tưởng rằng sẽ không bao giờ có cơ hội viết nữa. Đó là vào một buổi chiều trong sáng và sự yên bình ngự trị trở lại trong căn nhà khi mọi chuyện đã xong. Giống như một phép màu. Tay tôi cứng cáp và rám nắng, một dòng mực nhạt đang chảy ra từ những đầu ngón tay. Quả là một phép màu khi thò tay vào bên trong lớp áo khoác và sờ thấy trái tim vẫn nguyên nhịp đập.

Trong số đồ đạc chúng tôi mang theo, Thu Kim bọc thìa, đũa và mấy con dao trong một miếng vải rồi đặt nó vào một cái hộp đựng tiền bằng gỗ đàn hương cùng với một chiếc vòng đeo tay màu đen của trẻ con có chiếc khánh hình đức Phật. Tôi phải thuyết phục mãi để cô ấy khỏi thêm vào đó cả mấy quả trứng sơn đỏ. “Thu Kim, sẽ không có đầy tháng hay lễ chào đời đâu.” Tôi nói, cố tỏ ra nhẹ nhàng.

Cô ấy không trả lời. Nhưng cô ấy cũng lấy mấy quả trứng đó ra khỏi túi rồi mang vào trong phòng ngủ, cuốn chúng lại trong chăn rồi đặt chúng như một cái tổ chim ở trên giường chờ tới ngày chúng tôi trở về.

“Mình ổn chứ?” Tôi lo lắng hỏi khi thấy cô ấy đi xuống mặt trắng bệch. “Mình có khỏe không?”

Cô ấy chỉ lẳng lặng gật đầu rồi lấy ra một đôi găng tay. Cô ấy mặc rất nhiều quần áo: hai chiếc áo dài chồng lên nhau, một chiếc quần len và một đôi ủng lông. Mặt chúng tôi bôi than đen sì, hai chiếc thẻ tị nạn đính bên ngoài áo. Ra tới cửa, chúng tôi dừng lại và nhìn nhau. Trông chúng tôi như hai kẻ xa lạ. Một lúc lâu sau, tôi hít một hơi thật sâu rồi nói: “Đi thôi, đến lúc phải đi rồi.”

“Vâng, đã đến lúc rồi,” cô ấy nói một cách từ tốn.

Bên ngoài, tuyết rơi nhẹ nhưng ánh trăng sáng chiếu xuyên qua những bông tuyết khiến chúng trông như đang nhảy múa rộn ràng. Chúng tôi đi tới đường Trung Ương rồi dừng lại. Không có Lưu Nhuận Đức, người vốn rất thạo đường, tôi cảm thấy không được vững tâm. Phía trước chúng tôi khoảng một trăm mét, tôi nhìn thấy một con chó đang nằm ngửa trên tuyết, trương phồng, bốn chân giạng ra hết cỡ, chĩa lên trời giống như một chiếc ghế đẩu bị lật. Một vài ngôi nhà đã bị thiêu rụi kể từ lần cuối cùng tôi có mặt ở đây, nhưng không có bất kỳ dấu vết nào sót lại trên tuyết, và đường phố vắng tanh. Tôi không biết ông Lưu định vượt qua cổng Thái Bình bằng cách nào, chẳng có linh tính hay cái la bàn nào có thể xác định được cái gì đã diễn ra trong đầu ông. Nhúm tóc của ông vẫn nằm trong găng tay của tôi, áp vào vết bỏng trên lòng bàn tay tôi và tôi khẽ nắm chặt tay lại. “Đây rồi, phía này. Đúng là phía này rồi,” tôi nói một cách chắc chắn rồi dựng cổ áo khoác lên tới tận tai để tránh tuyết. Chúng tôi đi trong im lặng. Núi Tử Kim sừng sững phía đằng trước, dữ dằn và tuyệt đẹp dưới bầu trời đầy sao. Phố xá vắng ngắt nhưng chúng tôi vẫn cảnh giác nhìn ngó từng góc phố. Chúng tôi đi rất chậm, vừa đi vừa nép sát vào tường, sẵn sàng bỏ chiếc xe kéo và chạy trốn vào các con hẻm nhỏ khi cần thiết. Thu Kim tuyệt đối im lặng, và trong một lúc lâu, tôi không nghe thấy bất cứ tiếng động nào khác ngoài tiếng bước chân của hai vợ chồng và tiếng tim tôi đập thình thịch. Một lần tôi có nghe văng vẳng tiếng xe tải trên đường Trung Sơn, nhưng chỉ tới khi đi qua khu vực Tuyên Vũ, chúng tôi mới thấy bóng người đầu tiên: một người đàn ông lớn tuổi đang cúi đầu nặng nhọc bước về phía chúng tôi, vai đeo quang gánh với hai chiếc giỏ tre nặng trĩu hai bên. Dường như ông đang đi về hướng chúng tôi vừa tới, mỗi bên giỏ là một đứa trẻ con đang ngủ, tay thõng xuống và đong đưa bên ngoài chiếc giỏ, tuyết đậu trên đầu chúng. Ông không có vẻ gì là nhận ra chúng tôi vì không thấy ông chớp mắt hay cúi đầu chào mà chỉ lầm lũi tiến thẳng về phía chúng tôi. Khi ông tới gần, chúng tôi mới thấy là ông đang khóc.

Thu Kim dừng lại khi ông bước đến.

“Chào bác,” cô ấy thì thầm khi ba chúng tôi đi song song với nhau, “bác có ổn không?”

Ông không trả lời, cũng không đi chậm lại hay quay sang nhìn cô ấy.

“Xin chào? Các cháu có ổn không ạ?” Cô ấy hỏi lại.

Cứ như thể là cô ấy không hề nói gì. Người đàn ông lớn tuổi vẫn tiếp tục khập khiễng đi dọc phố, mắt dán vào một điểm xa xăm.

“Xin chào?” Cô ấy nói to hơn. “Bác có nghe tôi nói không? Bọn trẻ thế nào?”

“Suỵt,” tôi túm tay kéo cô ấy lên vệ đường, chỉ sợ cô ấy nói quá to. “Đi thôi.”

Người đàn ông vẫn tiến về phía trước dưới làn mưa tuyết lất phất. Chúng tôi đứng im nhìn bước chân ông loạng choạng dưới đống hành lý, một bóng ma trong chiếc áo choàng cũ.

“Em chỉ muốn biết bọn trẻ con thế nào,” cô ấy lẩm bẩm.

“Tôi biết, tôi biết.”

Thế rồi cả hai chúng tôi đều im lặng, tránh nhìn vào mắt nhau vì câu trả lời thật rõ ràng. Một đứa trẻ thì đang ngủ, còn đứa kia, một thằng con trai, nằm thụt sâu trong chiếc giỏ phía bên phải thì không hề ngủ. Nó đã chết từ lâu. Chỉ cần nhìn qua cũng biết.

Đến nửa đêm thì chúng tôi tới gần khu trại lính. Tôi biết khu vực này rất rõ. Khi còn là sinh viên tôi thường đi qua đây để tới thăm hồ Tuyên Vũ, và tôi biết chúng tôi đang ở rất gần khu tường thành. Tôi tìm thấy trong một ngôi nhà bỏ hoang một chiếc rương đựng quần áo bằng gỗ hồng tâm cháy sém, và chỉ cần trèo lên đó và nhìn qua những kẽ hở của ngôi nhà đã bị phóng hỏa là tôi có thể thấy cổng thành Thái Bình.

Tôi đặt ngón tay lên môi, thò đầu ra một chút nữa cho tới khi nhìn thấy bức tường thành dài hai trăm mét. Ông Lưu đã nói đúng. Bức tường thành đã bị bắn thủng nhiều chỗ và những đống gạch ngói đổ nát nằm ngổn ngang khắp nơi. Ngay phía trước cổng thành có hai tên lính gác đội mũ kaki đứng nghiêm, ánh sáng duy nhất tỏa ra từ chiếc đèn nhà binh để trên các ụ bắn xây bằng các túi cát. Sau lưng chúng, bên ngoài tường thành, một chiếc xe tăng Nhật nằm ngay giữa đống đổ nát với một lá cờ nhem nhuốc.

Tôi trèo xuống khỏi cái rương. “Chúng ta sẽ đi về hướng Bắc.” Tôi phủi tay rồi chỉ về phía trước mặt. “Đường này. Chúng ta sẽ phải tìm một lỗ hổng trên tường thành.”

Chúng tôi rón rén đi sang con hẻm nhỏ bên cạnh ngôi nhà, bám sát vào tường. Đây là phần nguy hiểm nhất trong lộ trình của chúng tôi. Nếu vượt qua được bức tường chúng tôi sẽ vượt qua được trở ngại lớn nhất. Chỉ cần chúng tôi vượt qua được bức tường...

“Đây rồi. Đây rồi.” Cách cổng thành khoảng một trăm mét tôi vô tình nhìn xuyên qua một hàng rào và thấy đằng sau một miếng đất bị thiêu trụi và bỏ hoang có một lỗ hổng lớn hình chữ V trên tường thành, đất đá chất thành đống phía sau. Tôi kéo tay Thu Kim. “Là chỗ đó.”

Chúng tôi đi ra đường chính, thò đầu ra nhìn dọc theo bức tường thành. Tất cả đều im ắng. Chúng tôi có thể nhìn thấy ánh đèn le lói từ phía những tên lính canh ở phía Nam tường thành. Ở phía Bắc này, tuyết lặng lẽ rơi trong bóng tối, lấp lánh dưới ánh trăng.

“Chúng có thể ở phía bên kia tường,” Thu Kim thì thào. Tay cô ấy vỗ nhẹ lên bụng một cách vô ý thức. “Nếu chúng đang đợi mình ở bên kia tường thì sao?”

“Không đâu,” tôi có nói với một giọng chắc chắn và cố nhìn thẳng vào mắt thay vì nhìn xuống tay cô ấy. Phải chăng cô ấy lại linh cảm thấy một điềm báo gì mà không muốn nói với tôi? “Tôi thề với mình là chúng không có ở đó. Chúng không ở đó đâu. Chúng ta phải vượt qua chỗ này thôi.”

Chúng tôi băng qua mảnh đất trống, người cúi gập, chiếc xe kéo trượt trên mặt đất gồ ghề khiến chúng tôi bị trượt chân và suýt ngã mấy lần. Khi tới được bên bức tường, chúng tôi cúi xuống, nấp đằng sau chiếc xe, thở hổn hển và nhìn ra xung quanh. Tất cả đều yên ắng. Tuyết vẫn quay cuồng, xoáy trong gió nhưng không thấy ai hét lên hay chạy lại chỗ chúng tôi.

Tôi đặt tay lên tay cô ấy và chỉ vào đống đất đá phía sau lỗ hổng. Nó không cao lắm, tôi trèo lên đó dễ dàng rồi quay lại và nắm lấy hai càng của chiếc xe kéo. Thu Kim cố hết sức nhưng không tài nào nâng được đuôi xe lên và đẩy nó về phía tôi. Tôi phải quay lại và dùng hết sức đẩy chiếc xe lên trước, chân tôi trượt trên lớp đá và khiến vài viên đá rơi xuống và gây ra một tiếng động mà tôi chắc là có thể đánh thức tất cả lính Nhật ở Nam Kinh.

Cuối cùng tôi cũng lên được tới đỉnh của bãi đá và thả cho chiếc xe lăn lông lốc xuống dốc rồi đổ ầm sang một bên, tất cả đồ đạc văng tung tóe trên tuyết. Tôi đưa tay cho Thu Kim, từ từ giúp cô ấy leo lên từng chút một vì cơ thể cô ấy đã bắt đầu trở nên nặng nề. Mắt Thu Kim không rời khỏi tôi. Chúng tôi nửa bò, nửa trượt tới chỗ chiếc xe bị đổ, nhặt lấy bất cứ thứ gì có thể, ném chúng vào xe rồi chạy đại vào đám cây cối um tùm gần đó. Tôi lôi xềnh xệch chiếc xe kéo ở phía sau còn Thu Kim thì cúi gập người khi chạy, tay ôm theo một đống quần áo.

“Chúng ta đã làm được,” tôi thở hổn hển. Chúng tôi đứng tụm lại dưới tán cây. “Tôi nghĩ là chúng ta đã làm được rồi.” Tôi đưa mắt nhìn ra xung quanh. Trời tối, tôi chỉ có thể lờ mờ nhìn thấy phía bên tay phải vài ngôi nhà lụp xụp, tối om và chắc là không có người ở. Trên cái bóng của bức tường thành đổ trên mặt đất có một vệt bánh xe chạy dài, và cách cổng thành khoảng hai mươi mét, một con dê đang bị buộc dưới gốc cây. Ngoài ra, không có lấy một bóng người. Tôi quay đầu lại và thở phào nhẹ nhõm. “Đúng vậy, đúng là chúng ta đã làm được.”

Thu Kim không trả lời. Mặt cô ấy hình như không sưng lên nhưng hơi cau lại và có gì đó rất căng thẳng. Không chỉ là nỗi sợ hãi. Cô ấy gần như chẳng nói một lời suốt mấy tiếng đồng hồ vừa qua.

“Thu Kim, mình ổn chứ?”

Cô ấy gật đầu nhưng tôi để ý thấy cô ấy tránh không nhìn vào mắt tôi. Mối bất an trong lòng tôi lại dâng lên. Tôi biết là chúng tôi không nên nghỉ lại ở đây mà phải tìm tới ngôi nhà của vị thương gia buôn muối càng nhanh càng tốt. “Đi nào,” tôi nói và chìa tay ra cho cô ấy, “Chúng ta phải tiếp tục thôi.”

Chúng tôi chất hết các thứ lên xe, bước ra khỏi gốc cây và bắt đầu di chuyển, quan sát xung quanh với vẻ khó tin, ngạc nhiên rằng chúng tôi đã ở đây, giống như những đứa trẻ lạc vào thế giới ma thuật. Phố xá ở đây hẹp hơn, nhà cửa thưa thớt hơn và con đường dưới chân thì bẩn thỉu và ngập rác. Núi Tử Kim sừng sững bên tay phải chúng tôi, che khuất cả những vì sao, còn xa xa phía bên tay trái là đống đổ nát đen kịt của thành phố Nam Kinh. Tôi cảm thấy vô cùng nhẹ nhõm và say sưa với ý nghĩ là chúng tôi đã được giải thoát khỏi Nam Kinh.

Chúng tôi rảo bước, thỉnh thoảng lại dừng lại nghe ngóng. Ánh lửa cháy bập bùng phía sau năm hòn đảo trên hồ Tuyên Vũ. Chúng tôi đoán rằng đó là một doanh trại lính Nhật, và quyết định rời khỏi đường chính rẽ về phía chân núi, men theo một trong các mương nước lớn, ngập úng do mưa bão gây ra. Thỉnh thoảng tôi phải bỏ Thu Kim, trườn theo các bờ kè nhỏ để kiểm tra cho chắc là chúng tôi vẫn đi song song với đường lớn. Nếu cứ tiếp tục thế này chúng tôi sẽ tới được Xóa Lộ Khẩu.

Chúng tôi không nhìn thấy một ai, không một bóng người, không một bóng thú, nhưng lòng tôi vẫn không yên. Tôi càng lúc càng thấy lo cho Thu Kim. Chưa bao giờ cô ấy có vẻ căng thẳng đến thế. Thỉnh thoảng cô ấy lại quên mất, đặt tay lên xoa bụng.

“Nghe này,” tôi đi chậm lại và thì thào với cô ấy. “Lần sau, lúc nào tuyết quang một lúc thì để ý xem đường này rẽ đi đâu.”

“Cái gì cơ?”

“Ở kia kìa, mình có thấy không, chỗ mấy cái cây ấy?”

Cô ấy nheo mắt nhìn ra xa. Trên một cánh đồng mía dại đã cháy trụi thấp thoáng bóng một chiếc ròng rọc phủ đầy tuyết trông rất ma quái, như một con nhện quắp lấy cái giếng nước ở phía dưới. Bên cạnh nó là một hàng rào cây bụi dùng để phân chia mốc giới.

“Một vườn dâu. Nếu chúng ta tới được đó chúng ta có thể nhìn thấy vùng ngoại ô của Xóa Lộ Khẩu. Chúng ta đã rất gần rồi. Đó là tất cả những gì mình sẽ phải làm, chỉ còn mấy bước nữa thôi...”

Tôi chợt dừng lại.

“Trùng Minh?”

Tôi đặt tay lên môi, nhìn xuống đoạn dốc đang chìm trong bóng tối. “Mình có nghe thấy gì không?”

Cô ấy nhíu mày, vươn đầu ra phía trước chăm chú nghe ngóng. Một lúc sau cô ấy quay lại nhìn tôi. “Cái gì vậy? Mình nghĩ là mình đã nghe thấy gì?”

Tôi không trả lời. Tôi không thể nói rằng tôi vừa nghe thấy cái tiếng động quen thuộc của tên quỷ dữ vang lên đâu đó gần đây trong bóng tối.

“Cái gì vậy?”

Từ phía rặng cây ở phía trái con đường xuất hiện một vệt đèn pha rồi tiếng động cơ gầm rú xé tai. Một chiếc môtô xuất hiện, cách chúng tôi khoảng hai trăm mét, nhảy chồm lên một bờ đất, rồi lấy lại thăng bằng trên một mô đất cao hơn, xoay một vòng, tuyết bắn ra tung tóe từ dưới bánh xe. Nó dừng lại như thể đang chờ để tiến thẳng về phía chúng tôi.

“Chạy thôi!” Tôi chộp lấy tay Thu Kim, đẩy cô ấy lên con dốc ở phía trước rồi kéo xe chạy theo sau. “Chạy đi! Chạy đi!”

Sau lưng tôi, tên lái môtô đang nổ máy. Tôi không biết hắn có nhìn thấy chúng tôi hay không nhưng hình như hắn đang có ý định đi về cùng hướng với chúng tôi. “Chạy tiếp đi, chạy tiếp đi.” Tôi bước loạng choạng trên nền tuyết cứng, chiếc xe kéo oằn oèo sau lưng chỉ chực lật nghiêng.

“Phía nào cơ?” Thu Kim gọi với lại. “Phía nào cơ?”

“Đằng trước ấy, về phía núi.”


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder   Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder - Page 2 Icon_minitimeSun Feb 03, 2019 9:18 pm


Chương 56

Khi tiếng bước chân bắt đầu vang lên đều đặn từ phía cầu thang, tôi có thể chỉ cần im lặng. Tôi có thể lặng lẽ đi về phòng của mình, trèo qua cửa sổ rồi biến mất trong màn tuyết dày đặc mà không bao giờ biết được vật gì nằm bên trong chiếc túi nylon đó. Nhưng tôi đã không làm thế. Tôi nhào tới gõ cửa phòng Jason và kêu lên: “Jason, Jason, đi mau!”

Khi cái bóng gớm ghiếc của mụ Y Tá xuất hiện trong bóng tối lờ mờ phía đầu cầu thang thì tôi lao như tên bắn dọc theo hành lang về phía cầu thang dẫn xuống vườn, vừa chạy thình thịch vừa hét gọi Jason giống một người trong cơn hưng phấn hơn là đang trong nỗi sợ hãi. “Jason!” Rồi tôi lao xuống cầu thang, vừa trượt vừa lăn lông lốc xuống phía dưới, đâm sầm vào tấm chắn cửa trước khi chui được ra bên ngoài trời tuyết.

Khi đã ra được ngoài vườn, tôi dừng lại đúng một giây, thở hổn hển.

Cả khu vườn tĩnh lặng. Tôi nhìn xuyên qua những tán cây phía gần cổng ra vào rồi quay nhìn lại chiếc túi nylon đang treo lơ lửng, cách tôi chỉ vài mét về bên trái, ngay phía trên hòn đá đánh dấu khu vực cấm xâm phạm. Tôi hết nhìn cánh cổng, nhìn chiếc túi nylon lại đưa mắt lên phía hành lang trên gác. Một ánh đèn lóe sáng, xoẹt ngang qua khu vườn.

Phải hành động thôi...

Tôi bắt đầu chuyển động, không đi dưới giàn cây đậu tía rậm rịt mà hướng về phía chiếc túi, cách xa cánh cổng, di chuyển như một con cua giữa những bụi cây thấp và bám sát vào tường, nơi bóng tối phủ dày nhất. Những cành cây trên cao rung rinh, rũ tuyết ra khắp nơi. Bóng của chiếc túi đu đưa trên đầu tôi. Khi đã chui hẳn vào bóng tối và đám cây bụi trở nên dày đặc không thể đi xuyên qua nữa thì tôi ngồi sụp xuống, thở hổn hển, mạch máu rần rật hai bên thái dương.

Chiếc túi đong đưa một cách biếng nhác trên đầu tôi và ở phía trên nó, những ô kính cửa sổ bàng bạc trước cửa phòng Jason phản chiếu bóng của cây cối và những bông tuyết đang xoay tít. Một vài giây im lặng trôi qua, rồi có cái gì đó trong ngôi nhà bị đập vỡ nghe rất chói tai, không biết là một cánh cửa bay ra khỏi bản lề hay đồ đạc bị hất tung, và sau đó là một âm thanh mà cả đời tôi sẽ không bao giờ quên. Đó là thứ âm thanh đôi khi những con chuột cống trong vườn vẫn tru lên vào giữa đêm khi bị bọn mèo xé xác. Nó quất ngang ngôi nhà như một lằn roi. Jason đang la hét, một thứ âm thanh khủng khiếp, xuyên thấu, âm vang khắp khu vườn và đâm thẳng vào tim tôi. Tôi lấy hai tay bịt tai lại, rùng mình ghê sợ không thể tiếp tục nghe chúng. Chúa ơi! Chúa ơi! Tôi phải há miệng thật to để nuốt không khí vào đầy phổi vì lần đầu tiên trong đời tôi nghĩ mình sẽ ngất.

Chiếc túi trên cành cây khẽ lay động trước một cơn gió nhẹ, đám tuyết bám xung quanh bay ra lất phất. Tôi nhìn lên chiếc túi, mắt nhòe đi vì sợ hãi. Trong chiếc túi có một vật gì đó, một vật gì đó được gói trong giấy. Bây giờ tôi đã có thể nhìn thấy nó một cách rõ ràng. Tiếng la hét của Jason lớn dần, âm vang trong bóng đêm, đập vào những bức tường. Tôi không có nhiều thời gian, phải hành động ngay lúc này. Phải tập trung, tập trung. Tôi kiễng chân, túm lấy một cành cây kéo nó xuống, những ngón tay lạnh giá chạm vào chiếc túi, cả người tôi run bần bật, mồ hôi túa ra. Một mẩu băng rơi xuống, chiếc túi khẽ kêu răng rắc, và trong một tích tắc tôi bỗng rụt tay lại theo bản năng, sững sờ vì không tin là mình vừa chạm vào nó. Chiếc túi khẽ đong đưa. Tôi hít một hơi dài rồi thò tay ra túm lấy chiếc túi, vừa đúng lúc Jason ngừng la hét và ngôi nhà trở lại yên ắng.

Tôi giật mạnh chiếc túi nhiều lần cho tới khi nó tuột ra khỏi cành cây. Được giải thoát, cành cây bật ngược trở lại, rung rinh một lúc, hất một đống băng tuyết xuống đầu tôi. Tôi lại lẩn vào bóng tối, len giữa những bụi cây, tay nắm chặt chiếc túi. Các người có nghe thấy tôi không? Tôi thầm nghĩ, ngước nhìn lên hành lang phía trên và tự hỏi không hiểu mụ ta đang ở đâu, tại sao ngôi nhà lại đột nhiên trở nên im ắng thế này? Jason, tại sao lại trở nên im lặng thế? Anh im lặng vì mụ ta đã dừng lại? Vì anh đã nói cho mụ ta biết phải đi tìm ở đâu?

Một cánh cửa sổ mở tung. Cái dáng nửa người nửa ngựa của mụ Y Tá xuất hiện trong hành lang, khuôn mặt lờ mờ qua những tán lá. Nhìn cái cách mụ ta đứng im, đầy chủ ý thì có thể đoán được rằng mụ ta đang nghĩ tới khu vườn, hay nghĩ tới những tiếng động tôi đã gây ra khi chạy bổ xuống cầu thang. Hoặc có thể mụ ta đang quan sát đám cây cối, xem chiếc túi có thể mắc vào đâu. Tôi quay đầu lại nhìn bóng cành cây ban nãy vươn dài tới tận Tòa nhà Muối và hóa thành những vệt màu trắng nhảy nhót trên tường. Mụ Y Tá thò mũi ra ngoài để đánh hơi, trong bóng tối đôi mắt lòa của mụ chỉ còn là hai chấm đen lờ mờ. Tôi thụt sâu vào trong bụi cây, cố tóm lấy vật gì chắc chắn để dựa, vô tình bẻ gẫy mấy cành cây nhỏ kiến chúng kêu răng rắc.

Mụ Y Tá quay vào, khụt khịt mũi và chậm chạp bước dọc theo hành lang, vừa đi vừa gõ tay lên các bậu cửa sổ. Mụ ta đang tiến về phía cầu thang dẫn ra vườn. Một bóng người thứ hai đi theo mụ, tên chimpira. Ngay cạnh chân tôi, một viên đá lát đường bị lún xuống đất. Tôi điên cuồng cào xới tới bật máu tay để lôi nó lên, giữ nó trước ngực cùng với chiếc túi. Tôi cố gắng hình dung ra bức tranh toàn cảnh của khu vườn xung quanh tôi. Kể cả khi tôi băng qua được đám cành cây xoắn xít kia thì cũng mất khoảng mười lăm giây để băng qua khu vườn trống trước khi ra tới cổng. Ở đây sẽ an toàn hơn vì dấu chân của tôi không bị lộ giữa đám cây bụi này và nếu…

Tôi nín thở. Chúng đã tìm thấy cái cầu thang. Tôi nghe thấy tiếng bước chân vang lên trên các bậc thang. Chúng đang tới tìm mình, nghĩ tới đây, toàn bộ xương cốt trong người tôi như muốn rủn ra. Mình là người kế tiếp. Rồi tôi nghe thấy tiếng cửa bị kéo ra, và trước khi tôi có thể trườn đi chỗ khác thì cái bóng đen sẫm của mụ Y Tá xuất hiện thấp thoáng sau những cành cây đóng băng lóng lánh. Mụ ta hơi cúi người xuống để chui vào con đường chính dẫn ra vườn dưới giàn cây đậu tía rậm rạp, bước đi rất nhanh và nhẹ nhàng như thể mụ ta đang chạy trên những con đường tàng hình. Cuối cùng mụ ta xuất hiện bên ngoài khu vườn đá phủ đầy tuyết rồi quay đầu nhìn xung quanh giống như một con ngựa cái đang đánh hơi. Hơi thở mụ ta phả ra trắng xóa cứ như mụ đang dùng một loại công lực để phun ra chúng.

Tôi không dám thở. Mụ ta sẽ đánh hơi ra ngay nếu tôi thở. Mụ ta đang tập trung cao độ tới mức có thể cảm nhận được tóc tôi đang dựng ngược lên, sự co dãn của các động mạch trong người tôi và thậm chí cả những suy nghĩ đang náo loạn trong đầu tôi. Tên chimpira lúc này mới xuất hiện bên ngưỡng cửa, nhìn theo mụ Y Tá. Mụ ta đang nhìn về phía tôi, quan sát kỹ đám cây cối trước khi chuyển hướng sang phía đối diện, hướng cánh cổng. Sau một phút do dự, mụ ta tiếp tục đi quanh khu vườn, thỉnh thoảng lại dừng lại nhìn ngó xung quanh một cách có chủ ý. Rồi mụ ta quay lại dưới giàn đậu tía và mất hút cho tới khi tôi nghe thấy tiếng mụ ta kiểm tra cánh cổng. Tôi nghe thấy cánh cổng kẽo kẹt và từ từ mở ra. Lúc này tuyết khá quang nên tôi có thể nhìn thấy mụ ta đứng đó vẻ trầm ngâm, tay đặt lên trên chiếc chốt cửa.

“Cái gì vậy?” Tên chimpira kêu lên, trong giọng nói dường như thoáng chút bồn chồn lo lắng. “Bà có nhìn thấy gì không?”

Mụ Y Tá không trả lời. Mụ ta sờ tay lên chiếc then cửa rồi nhấc nó lên mũi ngửi, miệng hơi hé mở như để hít cái mùi đó vào trong. Mụ ta thò đầu ra ngoài cổng và nhìn ra phố, tôi cảm thấy như bị sét đánh trúng tim: không có dấu vết, trên tuyết không có dấu vết gì. Mụ ta sẽ biết là tôi vẫn chưa đi khỏi.

Tôi nhét chiếc túi nylon vào bên trong áo jacket, kéo khóa lên, nhét viên đá vào trong túi và lặng lẽ đi men theo tường như một cái bóng lẫn giữa các bóng cây khác tới một cửa sổ tầng trệt nơi tôi nhớ rằng lớp lưới bảo vệ đã bị bung ra khỏi bản lề. Đúng như tôi nghĩ, cửa sổ hé mở, bên trong là lớp kính phủ đầy rêu. Tôi nghiêng người về phía trước, nắm chặt khung cửa để giữ thăng bằng và đu người lên khỏi mặt đất trắng xóa tuyết cho tới khi chân tôi bám vào được một cành cây ngả sát tường. Tôi đứng lên trên cành cây đó, người run lẩy bẩy, hơi thở nóng hổi làm mờ lớp kính trên cửa sổ trước khi phả lại vào mặt tôi. Khi đưa tay chùi mặt, tôi giật mình khi thấy khuôn mặt mình xuất hiện trên lớp kính và suýt nữa thì bước hụt ra sau. Phải từ từ, từ từ, tập trung. Tôi quay lại và nhìn qua đám cây bụi. Mụ ta vẫn không cử động, đứng quay lưng về phía tôi và đang quan sát đường phố một cách từ tốn. Gã chimpira đã bước qua ngưỡng cửa ra ngoài và nhìn theo mụ Y Tá, lưng hắn xoay lại phía tôi.

Tôi kéo chiếc cửa sổ nhích ra từng chút một rồi nâng tấm kính lên để nó không kêu cót két và đúng vào lúc đó, cứ như thể nghe thấy tiếng tôi, mụ ta rời mắt khỏi cánh cổng và nhìn về phía con đường lúc trước mụ ta đi qua, chậm rãi quay đầu.

Tôi không đợi nữa. Tôi thò hai chân xuyên qua khe hở rồi đu cả người vào theo, rơi bịch xuống sàn nhà trong tư thế ngồi xổm. Tôi ngồi im trong bóng tối, choáng váng vì tiếng động mà cú nhảy gây ra, hai tay chống lên sàn nhà đợi cho đến khi tiếng động đó biến mất trong các ngóc ngách của những căn phòng cũ kỹ quanh năm cửa đóng kín mít này. Tôi nghe thấy đâu đó trong bóng tối dày đặc phía bên trái mình tiếng chuột chạy ríu rít. Tôi thò tay vào trong túi bật chiếc đèn pin rồi chụm tay che nó lại chỉ để hở một quầng sáng nhỏ chiếu lên sàn nhà. Trong ánh sáng yếu ớt xung quanh tôi, căn phòng hiện ra nhỏ hẹp, sàn nhà lát đá lạnh ngắt, rác rưởi chất đống khắp nơi. Khoảng vài mét ở đằng trước là một khung cửa trống. Ánh đèn của tôi chiếu thẳng ra tới đó không gặp bất cứ trở ngại nào và tiếp tục chạy dọc theo chiều sâu của ngôi nhà. Tôi tắt đèn rồi bò trên sàn bằng cả bốn chi, xuyên qua đám rác rưởi và mạng nhện tới chỗ khung cửa bỏ trống trước khi tiếp tục trườn sâu hơn về phía cuối ngôi nhà, bò qua không biết bao nhiêu phòng cho tới khi chắc rằng bọn chúng không thể nào tìm ra mình được nữa.

Tôi dừng bước, nhìn lại con đường mình vừa đi qua. Tiếng động duy nhất mà tôi nghe thấy là tiếng tim mình đập thình thịch. Các người có nhìn thấy ta không? Các người có nhìn thấy ta không? Đáp lại tôi chỉ có sự im lặng. Đâu đó trong bóng tối vang lên tiếng nước nhỏ giọt đều đều và một thứ mùi rất nặng xộc vào mũi tôi, giống như mùi than bùn, mùi khoáng chất của những bãi nước tù úng.

Tôi vừa bò về phía đó vừa thở hổn hển cho tới khi tôi không còn nghe thấy bất cứ âm thanh nào nữa và dường như một thế kỷ đã trôi qua thì tôi mới dám bật đèn pin lên. Ánh sáng từ ngọn đèn nhảy nhót trên đống đồ đạc chất cao, những thanh gỗ mục gãy trên xà nhà và một mảng vôi vữa, sắt thép lồ lộ. Tôi có thể trốn ở đây suốt đời nếu cần thiết. Tôi lập cập lôi chiếc túi nylon ra khỏi áo jacket. Tôi cứ tưởng tượng ra đó là một vật rắn chắc và xỉn màu, giống như đất sét nhưng hóa ra nó lại nhẹ tênh, như thể nó được làm từ xương khô hay gỗ bông bấc. Tôi thò tay vào trong và chạm phải một vật được gói kỹ bằng một loại giấy mềm và nhẵn, y như giấy gói của hàng thịt, dày và bóng. Máu không thấm qua được bề mặt nhẵn thín của loại giấy này. Tôi phải đứng dựa vào tường một lúc, há miệng ra thở vì cái ý nghĩ vừa xuất hiện trong đầu tôi về cái vật tôi đang giữ thật quá sức chịu đựng. Tôi cậy lớp giấy bọc ở một đầu, giữ lấy đầu kia rồi kéo vật đó ra vừa đúng lúc từ sau lưng tôi, ở tít đằng xa, vang lên một tiếng động mà tôi không thể nào nhầm lẫn được. Tiếng kim loại rít lên. Ai đó đang cố mở cái cửa sổ mà tôi đã chui qua lúc nãy.


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder   Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder - Page 2 Icon_minitimeSun Feb 03, 2019 9:18 pm


Chương 57

Tôi nhét cái gói vào trong áo rồi mò mẫm bò về phía trước, va vào các đồ vật trên đường đi, những tiếng động mà tôi gây ra trong cơn hoảng loạn dội lại từ các bức tường xung quanh tôi. Tôi lại bò từ phòng này sang phòng khác, không còn biết mình đang đi qua những cái gì; những chiếc áo kimono lặng ngắt như xác chết trong góc phòng, một chiếc bàn ăn với bữa tối đã dọn sẵn như thể mọi vật đã hóa đá khi bà mẹ của chủ nhà qua đời. Tôi đã vào rất sâu bên trong ngôi nhà, giữa bóng đêm bất tận cho đến lúc tôi nhận ra là mình không thể tiến thêm được nữa. Tôi đang đứng trong một gian bếp với một chiếc bồn rửa và một cái bếp lò kiểu phương Tây. Phía trước mặt tôi là một bức tường kín mít thay vì một cánh cửa dẫn sang một phòng khác như thường lệ. Không có lối ra. Tôi đã cùng đường.

Tóc tai dựng đứng cả lên vì sợ hãi, tôi chĩa đèn lên tường, lên những đám mạng nhện và đám vôi vữa trên trần. Ánh đèn rọi lên một chiếc tủ bếp làm bằng gỗ mỏng ở góc phòng. Tôi lại gần chiếc tủ, cào cấu vào cánh cửa đến trầy cả đầu ngón tay, chân tôi run lẩy bẩy trên sàn nhà. Cuối cùng cánh cửa tủ cũng bật ra kèm theo một tiếng rít vang tới tận các phòng phía sau.

Tôi soi đèn vào phía bên trong và phát hiện ra rằng đó không phải là một cái tủ bếp mà là một cánh cửa dẫn ra một đầu cầu thang mục nát, đâm thẳng vào khoảng không tối om. Tôi bước vào bên trong, cẩn thận khép cánh cửa lại sau lưng rồi bám vào thành cầu thang ọp ẹp và bước xuống hai bậc. Tôi ngồi xổm và soi đèn ra xung quanh. Đây là một hầm chứa rượu nhỏ hay một kho chứa thực phẩm có chiều rộng khoảng mét rưỡi và chiều dài khoảng ba mét, tường đá rắn chắc. Trên nóc hầm có một chiếc giá chạy dài với những vách ngăn hoen gỉ với hơn chục lọ thủy tinh cũ kỹ đứng chen chúc, bên trong đựng những chất màu nâu đen. Phía dưới mà một lớp tảo dày đặc, màu hồng nhạt, tĩnh lặng, phủ trên bề mặt của một hồ nước. Dưới chân cầu thang là một ao nước tù.

Tôi nhìn lên cánh cửa đang đóng kín ở phía trên và dỏng tai nghe ngóng xem có tiếng động nào phát ra từ những căn phòng tôi đã đi qua. Im lặng. Tôi đã trèo lên một cành cây và chắc không để lại dấu vết nào dưới cửa sổ, hay giữa các bụi cây. Có thể chúng không hề nghe thấy tôi. Có thể chúng chỉ kiểm tra tất cả những cửa sổ trông khả nghi. Cầu mong là như thế, tôi nghĩ, cầu mong. Tôi quay lại và soi đèn quanh hầm rượu. Trên bức tường bên phải, một mạch nước nhỏ màu nâu sẫm rỉ ra từ một vết nứt trên kẽ đá, đúng như Jason đã từng nói với tôi: những ống nước bị vỡ trong một cơn động đất đã biến tầng hầm của ngôi nhà thành một hồ nước; những vạch rêu xanh và vết ố màu đồng đỏ đánh dấu những thay đổi về mực nước ở đây trong suốt ngần ấy năm. Ánh đèn lướt qua một cái cửa tò vò thấp bằng gạch. Tôi cúi xuống gần sát mặt nước, soi đèn lên mái vòm của chiếc cửa tò vò. Đó là một đường hầm chạy dài, xuyên suốt ngôi nhà, nước ngập lên tới gần đỉnh, có lẽ chỉ còn thiếu có vài centimet. Không thể nào…

Người tôi chợt cứng đờ. Một tiếng động lớn vang vọng qua các dãy phòng phía sau lưng tôi như thể tấm lưới bảo vệ trên cửa sổ lúc nãy đã bị giật tung khỏi bản lề.

Tôi bắt đầu thở gấp vì sợ, miệng há hốc. Giơ chiếc đèn ra phía trước như một thứ vũ khí tự vệ, tôi bước xuống nước, mặt nước tròng trành, vỗ ộp oạp xung quanh như thể tôi vừa chui vào bụng của một con vật đang ngủ yên, khuấy động những thứ đã nằm im bất động trong nhiều năm. Nước lạnh cóng khiến hàm tôi cứng lại còn trong đầu tôi thì nghĩ tới những bộ mặt bí ẩn, những cái mồm và những hàm răng, rằng tôi có thể đang ở hang ổ của một con vật nào đó. Tôi nghĩ tới Kappa, một loại ma cà rồng trong truyền thuyết Nhật Bản, một loại thủy quái ăn thịt người, chuyên túm chân người lôi xuống nước, hút hết máu rồi vứt những cái xác khô và trắng bệch lên bờ. Tôi vừa lội nước vừa giàn giụa nước mắt.

Tôi dừng lại ở phía bên kia tường và quay đầu nhìn lại quãng đường mình đã qua. Xung quanh tôi, mặt nước bắt đầu lặng đi, trở lại với sự yên tĩnh vốn có. Âm thanh duy nhất còn sót lại chính là hơi thở dồn dập của tôi dội lại từ các bức tường.

Rồi một tiếng đổ vỡ loảng xoảng khác lại vang lên, phá tan sự im lặng. Tiếng đồ đạc bị xáo trộn. Tôi tuyệt vọng nhìn quanh, ánh đèn dập dềnh lướt trên trần nhà vàng ố. Không có chỗ nào để trốn cả, không có chỗ nào... Cái cửa tò vò! Tôi quỳ xuống cho tới khi nước ngập ngang vai và gần chạm vào cằm. Tôi vô tình huých phải chiếc giá đỡ khiến vài chiếc lọ rơi xuống nước kêu ùng ục rồi biến mất tăm cùng với những miếng dưa góp, những hạt gạo, những quả mận và con cá chi chi đã trở nên đen đúa và mục ruỗng ở bên trong. Tôi thò tay vào trong miệng hầm sờ lên nóc hầm nhầy nhụa bùn để thăm dò. Chỉ đến khi tôi đã thọc tay vào sâu hết cỡ và má tôi gần dính vào miệng hầm thì tôi có cảm giác nóc hầm bắt đầu nhô lên cao hơn so với mặt nước, tay tôi đã ở ngoài không khí. Tôi rút tay lại và chĩa đèn pin vào đó. Từ miệng hầm tới đoạn nóc hầm nhô lên trên mặt nước không biết có sâu không? Chắc khoảng sáu mươi tới bảy mươi centimet? Không sâu lắm. Không đến nỗi sâu quá. Tôi ngước nhìn về phía cầu thang, lên cánh cửa gỗ mỏng.

Từ đâu đó ở rất gần, có lẽ từ ngay gian bếp vang lên một tiếng loảng xoảng. Tôi không còn sự lựa chọn nào khác. Tôi lôi chiếc túi nylon ra buộc chặt lại rồi nhét trở lại bên trong áo khoác, kéo khóa lên tới tận cổ. Trong lúc lúi húi buộc buộc túm túm tôi sơ ý đánh rơi mất chiếc đèn pin. Nó trượt khỏi tay tôi, rơi xuống lớp tảo trên mặt nước, hắt lên tường một hình ô van méo mó. Tôi chộp lấy chiếc đèn, túm được nó rồi lại để tuột ra lần nữa. Lần này lớp tảo trên mặt nước khẽ rung động khiến chiếc đèn chúi xuống rồi đâm thẳng xuống nước, những quầng sáng bập bềnh xuyên qua lớp lớp những sinh vật màu hồng mục ruỗng, bóng của chúng in thành những hình diêm dúa trên tường. Tôi lao theo chiếc đèn, thò tay xuống dưới nước quờ quạng, khuấy động lớp rác rưởi dưới mặt nước nhưng chiếc đèn vẫn lặng lẽ trườn ra xa, quay tròn, ánh sáng màu vàng nhạt của nó giờ chỉ còn là một chấm nhỏ leo lắt. Và rồi bụp, ngay cạnh tôi có vật gì đó nhỏ nhưng nặng rơi bịch xuống nước và đang bơi.

Nước mắt tôi trào ra vì sợ hãi. Cái đèn pin. Ôi cái đèn pin. Không cần đến nó. Không cần đến nó làm gì. Mày có thể xoay xở mà không cần tới nó. Ở trong nước thì có gì chứ? Chẳng có gì cả. Một con chuột. Đừng nghĩ tới nó. Từ phía đầu cầu thang, một tia sáng mỏng mảnh chiếu xuyên qua những vết nứt trên cánh cửa gỗ. Tôi nghe thấy một giọng đàn ông, trầm và đáng sợ cùng với hơi thở nóng hổi của mụ Y Tá chuyển động quanh căn phòng như thể mụ ta đang đánh hơi xem cái gì đã xảy ra tại đó.

Đừng nghĩ ngợi gì nữa, mày sắp chết rồi. Tôi hít một hơi thật sâu, chống hai tay lên tường, quỳ gối xuống và chui đầu xuống dưới làn nước lạnh trong đường hầm tối đen. Nước tràn vào tai vào mũi tôi lạnh buốt. Tôi với tay ra phía trước, cố đứng lên, người tôi va vào tường gạch, hai khuỷu tay trầy xước, loạng choạng trong bóng tối dày đặc. Một giọng nói bí hiểm vang lên trong đầu tôi, giọng nói của chính tôi, rên rỉ trong sợ hãi. Lối nào? Lối nào đây? Cái đường hầm này kết thúc ở đâu? Ở đâu? Dường như một thế kỷ đã trôi qua. Cho tới khi tôi tưởng là tôi đã hết hơi và mọi chuyện thế là kết thúc thì tay tôi chạm vào nóc hầm, cao hơn hẳn so với mặt nước. Tôi di chuyển về phía đó, tuyệt vọng lao đầu về nơi tôi có thể tìm thấy không khí để thở. Tôi nhô đầu lên khỏi mặt nước, nôn ói, nhổ phì phì, đầu tôi cụng phải nóc hầm đau điếng. Tôi không thể đứng thẳng người vì nóc hầm không đủ cao, chỉ cách mặt nước khoảng mười tới mười hai centimet. Để có thể giữ mặt mình ở trên mực nước và hít thở, tôi phải đứng khuỵu gối và hơi nghiêng đầu.

Hít thở. Hít thở!

Tôi không biết tôi đã đứng như thế bao lâu và cơ thể tôi đã rơi vào một cơn khủng khoảng như thế nào, có thể tôi đã bị ngất hoặc mất trí, nhưng khi tôi đứng đó, run lẩy bẩy, chỉ có tiếng tim đập bền bỉ làm bạn, nó đập mạnh như thể nó là một trái tim cực kỳ lớn, lớn gấp hàng trăm lần bình thường, lớn như cả ngôi nhà, và rồi một cái gì đó, cái lạnh hay sự sợ hãi, đã lấy mất sự tỉnh táo của tôi và thả nó vào một đường hầm sâu và tĩnh mịch cho đến khi tôi không còn là gì cả, ngoại trừ một mạch máu trống rỗng đập thình thịch ở một chỗ không có vị trí địa lí, không có biên giới và không có tên trên bản đồ. Tôi trôi nổi trong một chiếc máy hút bụi, không có chút khái niệm nào về thời gian hay sự tồn tại, bồng bềnh như một nhà du hành vũ trụ trong không gian bất tận và ngay cả sau khi một thiên niên kỷ đã trôi qua, khi tôi nhìn thấy một thứ ánh sáng màu hồng đùng đục chiếu xuyên qua làn nước phía bên trái tôi - mụ Y Tá đang chĩa đèn vào đường hầm - thì tôi cũng không còn cảm thấy sợ hãi gì nữa. Tôi đang quan sát mình từ một nơi khác, thấy mặt mình nổi lềnh bềnh trên lớp tảo, đôi môi tím ngắt và mí mắt sắp sụp xuống đến nơi. Ngay cả khi ánh đèn biến mất và cuối cùng, sau một quãng thời gian tưởng như vô tận, khi tiếng bước chân xa dần trong những căn phòng phía trên, tôi vẫn đứng hoàn toàn bất động như một cô bé Alice thời hiện đại, đầu nghiêng sang một bên, tê dại và lạnh buốt tới mức tôi nghĩ tim mình sẽ đóng băng và tôi sẽ hóa thạch ở đây, rất sâu dưới lòng đất.


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder   Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder - Page 2 Icon_minitimeSun Feb 03, 2019 9:19 pm


Chương 58

Rạng sáng, khi những ánh bình minh đầu tiên chiếu xuyên qua khu vườn và ngôi nhà đã trở lại yên tĩnh từ nhiều tiếng đồng hồ thì tôi mới bò ra được tới chỗ cửa sổ. Tôi đã phải bò hàng tiếng đồng hồ mới ra được tới đây vì cả người tôi tê buốt vì lạnh. Mỗi centimet là cả một cuộc đấu tranh không nhân nhượng chống lại nỗi thèm muốn được nằm vật ra và ngủ thiếp đi vì lạnh, nhưng cuối cùng tôi cũng đã tới đích. Tôi thận trọng nhìn ra bên ngoài, tim đập mạnh, tin chắc rằng mụ Y Tá sẽ xuất hiện từ một chỗ khuất nào đó và túm lấy tôi. Nhưng cả khu vườn vẫn tĩnh lặng như một thế giới pha lê trong trẻo, thần tiên, như một con thuyền bị bỏ lại trên đảo băng. Những giọt băng trong vắt như kim cương bao phủ khắp khu vườn, giống như những chuỗi hạt giăng giữa các hàng cây.

Tôi gần như kiệt sức sau khi trèo qua cái cửa sổ ra bên ngoài. Tôi rơi bịch xuống tuyết và ngồi ì ra ở đó một lúc lâu vì quá mệt mỏi, lưng dựa vào một cành cây, chiếc túi nylon để dưới chân, hờ hững quan sát cái thế giới mùa đông trước mặt.

Chuyện gì đã xảy ra ở đây? Chuyện gì đã xảy ra? Tất cả các cửa sổ đều bị đập vỡ, các cành cây trong vườn bị bẻ gãy, một cánh cửa chớp bị sút ra ngoài, lủng lẳng trên bản lề, thỉnh thoảng lại kêu cót két.

Những giọt băng đọng trên cành mới đẹp làm sao... Dưới ánh bình minh, đầu óc tôi bắt đầu hoạt động trở lại. Mới đẹp làm sao! Tôi nhìn đám cây cối xung quanh chiếc đèn lồng đá, nhìn vào cái khu vực đã từng mê hoặc Sử Trùng Minh biết bao. Từ từ, chậm rãi, như sau một giấc mơ, tôi bắt đầu trở nên tỉnh táo. Trên các cành cây, những giọt máu và vụn vải nhỏ đông lại như thể có vật gì đó đã nổ tung ra ở đây. Vắt ngang chiếc đèn đá, giống như một tràng hoa giấy nhạt màu là... Ký ức lờ mờ về một bức ảnh trên báo chợt hiện lên trong đầu tôi, một nạn nhân người Nhật vô danh với nội tạng cuộn lại như dây thừng bên ngoài cốp xe.

Jason...

Dường như tôi đã đứng hàng tiếng đồng hồ, nhìn chằm chằm vào những gì còn lại của anh ta, sửng sốt vì hình dạng của chúng, những bện thừng xoắn, những đường viền màu sắc sặc sỡ, những trang trí hình cuộn giống y như trên cây thông Noel. Sao trông chúng lại có thể đẹp đến thế? Một cơn gió thổi tung những bông tuyết, để lộ ra những vết máu bám trên cành cây. Gió ùa qua những ô cửa kính vỡ và chạy dọc theo hành lang phía trên. Tôi tưởng tượng ra mình đứng đó và nhìn xuống khu vườn, xuống những bụi cây, những con đường ngoằn ngoèo, và nhìn thấy máu, giống như một vòng hào quang bao quanh chiếc đèn đá và xa hơn là mái ngói đỏ lập lòe của ngôi nhà nằm ở giữa vườn dưới lớp tuyết đang tan, và tôi thấy một người phụ nữ lớn tuổi khỏe mạnh đang đi guốc lách cách trong ngõ hẻm bên cạnh, thấy bức hình quảng cáo của Mickey Rourke, rồi dần dần là cả Takadanobaba, “khu ngựa thượng”, và Tokyo lóe sáng rực rỡ và lấp lánh bên cạnh vịnh, và cả nước Nhật giống như một con chuồn chuồn bám vào bên sườn của Trung Quốc. Đất nước Trung Quốc vĩ đại. Tôi vẫn tiếp tục nhìn cho tới khi tôi cảm thấy chóng mặt, và những đám mây xuất hiện, che khuất tầm nhìn của tôi. Tôi nhắm mắt lại và để bầu trời, những cơn gió hay mặt trăng tới nhấc tôi lên và mang tôi đi thật xa.



Chương 59

史 Nam Kinh, ngày 21 tháng Mười hai năm 1937

Tôi không biết chúng tôi đã đi bao lâu trong rừng cây trên con đường trốn chạy tuyệt vọng, tuyết rơi hối hả sau lưng. Chúng tôi cứ đi, đi mãi. Tôi phải kéo Thu Kim phần lớn đoạn đường bởi vì cô ấy rất nhanh mệt và nhiều lần van xin tôi dừng lại. Nhưng tôi vẫn lôi cô ấy đi một cách không thương xót, một bên là Thu Kim, một bên là chiếc xe kéo. Chúng tôi cứ đi mải miết, sâu vào trong rừng, dưới những vì sao lấp lánh. Được vài phút thì tiếng xe máy nhỏ dần rồi mất hút, chỉ còn lại chúng tôi với âm thanh duy nhất là hơi thở của chính mình trên ngọn núi hoang vu và lặng lẽ y như một ngọn núi ma. Nhưng tôi vẫn chưa có ý định dừng bước. Trên đường đi, chúng tôi nhìn thấy trong bóng đêm những cảnh tượng khó quên, tàn tích hoang phế của những ngôi làng xinh đẹp đã bị thiêu rụi, những khoảng sân rộng tan hoang giờ phủ đầy hoa dại, mùi tro vẫn còn phảng phất giữa những tán cây. Chúng tôi tiếp tục đi trên con đường ngập tuyết và tự hỏi rằng liệu có phải nằm ở đó, trong bóng đêm, còn có cả những xác chết?

Và rồi rất lâu sau đó, khi chúng tôi dường như đã đi được nửa con đường dẫn lên thượng giới, khi mặt trời đã phủ những ánh bình minh đỏ rực trên núi thì tôi nghe tiếng Thu Kim gọi phía sau lưng. Tôi quay lại và nhìn thấy cô ấy đang đứng dựa vào một cây long não, tay ôm bụng. “Xin mình,” cô ấy thì thào. “Xin mình, em không thể đi được nữa.”

Tôi trượt xuống con dốc đến chỗ Thu Kim, túm lấy khuỷu tay cô ấy vừa lúc cô ấy khuỵu gối và ngồi bệt xuống tuyết. “Thu Kim? Có chuyện gì vậy? Có phải là đã bắt đầu rồi không?”

Cô ấy nhắm mắt lại. “Em không thể nói được.”

“Xin mình,” tôi lắc cánh tay cô ấy. “Giờ không phải là lúc xấu hổ. Hãy nói cho tôi biết có đúng là chuyện đó không?”

“Em không thể nói được,” cô ấy gay gắt nói, mắt mở to nhìn thẳng vào mắt tôi. “Vì em không biết. Ông xã của em, mình không phải là người duy nhất ở đây lần đầu có con.” Trán cô ấy đẫm mồ hôi và hơi thở của cô ấy bốc hơi trong giá lạnh. Cô ấy quờ tay trên tuyết như để tạo ra một cái ổ rồi nằm cuộn tròn trên đó. “Em muốn nằm xuống một lát, hãy để em nằm xuống.” Cô ấy nói.

Tôi thả chiếc xe kéo xuống. Chúng tôi đã trèo lên rất cao khiến những đám cháy ở Nam Kinh giờ chỉ còn là một vệt ố màu đỏ trên bầu trời lúc bình minh. Chúng tôi đang ở trên một vạt núi hẹp, khá bằng phẳng, được che kín bởi những cây phỉ, cây dẻ và cây sồi dày đặc. Tôi bước lại phía sau vài mét và dỏng tai lên nghe ngóng. Tôi không nghe thấy gì cả. Không tiếng động cơ xe máy, không tiếng chân người bước trên tuyết, chỉ có không khí đang thổi phù phù trong mũi tôi và tiếng hai hàm răng của tôi đánh vào nhau lập cập. Tôi trèo lên dốc, đi một vòng khá xa, thỉnh thoảng dừng lại để lắng nghe sự im lặng tuyệt đối giữa những cành cây trụi lá. Trời bắt đầu tờ mờ sáng, những tia nắng yếu ớt xuyên qua tán cây chiếu lên một vật gì đó nằm cách khoảng bảy mét ở dưới con dốc, một nửa bị vùi trong lá mục, hoang phế và rêu phong. Đó là một tượng rùa lớn bằng đá, đầu và mai phủ đầy tuyết. Biểu tượng của sự trường thọ.

Tim tôi đập mạnh. Chúng tôi hẳn đang ở gần đền Linh Cốc! Thậm chí người Nhật cũng coi đền chùa là thiêng liêng và không ném bom vào những nơi chúng tôi thờ cúng. Nếu đây là nơi mà con của chúng tôi chào đời thì đó quả là một điềm tốt. Có lẽ đây cũng sẽ là một nơi an toàn.

“Lại đây, đằng sau mấy cái cây này. Tôi sẽ dựng cho mình một cái lều.” Tôi quay chiếc xe sang một bên, lấy chăn màn xếp xuống gầm xe rồi đặt Thu Kim nằm vào đó. Tôi với tay lấy cho cô ấy mấy vốc băng từ trên cành cây để uống cho đỡ khát. Rồi tôi đi sang phía bên kia, đạp cho tuyết chất cao thành đống che khuất chiếc xe kéo. Khi Thu Kim đã nằm im ở phía trong, tôi đứng quanh quẩn ở đó một lúc, vừa cắn móng tay vừa nhìn ra bầu trời sáng dần lên bên ngoài những tán cây. Cả sườn núi vẫn hoàn toàn im lặng.

“Thu Kim, mình có khỏe không?” Một lúc sau tôi thì thầm.

Cô ấy không trả lời. Tôi lại gần chiếc xe và lắng nghe. Cô ấy đang thở gấp, một tiếng thở rít khe khẽ nghèn nghẹt. Tôi bỏ mũ và ghé sát vào chiếc xe kéo, tự nguyền rủa sự thiếu hiểu biết của mình về vấn đề sinh đẻ. Khi tôi còn trẻ, đó là lĩnh vực của những phụ nữ đứng đầu trong gia đình, của những bà dì nghiêm khắc bên họ ngoại. Chẳng ai nói gì với tôi. Tôi là một kẻ thiếu hiểu biết. Một nhà ngôn ngữ học hiện đại tài năng không biết chút gì về việc sinh đẻ. Tôi đặt tay lên chiếc xe kéo và thì thầm: “Hãy cho tôi biết, mình có nghĩ là con của chúng ta sẽ...” Miệng tôi chợt cứng lại. Những từ đó vừa buột ra khỏi miệng tôi. Con của chúng ta, tôi đã nói vậy. Con của chúng ta.

Thu Kim phản ứng ngay lập tức. “Không!” Cô ấy kêu lên một tiếng não nề rồi òa khóc nức nở. “Không. Mình vừa nói từ đó. Mình vừa nói từ đó.” Cô ấy nâng chiếc xe lên và thò đầu ra ngoài, tóc rối bời, mắt đẫm nước. “Đi đi!” Cô ấy hét lên một cách giận dữ. “Hãy để tôi yên. Đứng dậy và đi ra chỗ khác. Đi ra chỗ khác!”

“Nhưng tôi...”

“Nhưng gì, mình đã mang điềm gở tới cho mặt trăng bé bỏng của chúng ta.”

“Thu Kim, tôi không định...”

“Đi ra chỗ khác ngay!”

“Xin mình! Mình làm ơn nói khe khẽ thôi!”

Nhưng cô ấy chẳng thèm nghe. “Anh hãy đi cùng với những lời nói gở của anh! Mang những lời nguyền ấy tránh xa tôi ra!”

“Nhưng...”

“Ngay bây giờ!”

Tôi bấm móng tay vào trong da thịt và cắn môi. Tôi mới ngốc làm sao! Sao lại thiếu suy nghĩ tới mức chọc giận cô ấy như thế chứ! Lại đúng vào thời điểm này! Cuối cùng tôi thở dài và lùi lại vài bước. “Thôi được, thôi được! Tôi sẽ đứng ở đây phòng trường hợp mình cần tới tôi.” Tôi quay lưng lại phía cô ấy, ngước nhìn bầu trời đang dần sáng.

“Không! Xa ra! Xa hơn nữa! Tôi không muốn nhìn thấy mình!”

“Được rồi!”

Tôi miễn cưỡng bỏ ra xa, cho tới khi con dốc che khuất tôi khỏi tầm nhìn của cô ấy. Tôi ngồi bệt xuống đất, đầu gối chạm trán. Cả khu rừng tĩnh lặng. Tôi thả tay xuống, nhìn quanh. Có nên đi tìm người giúp hay không? Có lẽ có ai đó trong những ngôi nhà dưới kia sẽ đồng ý cho chúng tôi trú chân. Nhưng đài phát thanh nói rằng tất cả những ngôi nhà đó đã bị cướp phá, thậm chí từ trước khi cổng thành Đông thất thủ. Người duy nhất tôi có thể bắt gặp là những sĩ quan Nhật đang tung hoành trong những ngôi nhà bỏ hoang, say sưa với những hầm rượu cướp được.

Tôi đứng dậy và bước ra khỏi đám cây cối để nhìn ngó xung quanh. Tôi gạt một cành cây để bước ra phía trước, cổ họng như nghẹn lại. Trong một giây ngắn ngủi tôi không còn nghĩ tới Thu Kim. Chúng tôi đã trèo lên rất cao. Mặt trời đã mọc lên phía sau núi, hồng rực, lốm đốm bởi bụi tro bay lên từ những đám cháy phía xa, và bên dưới những con dốc, nằm giữa đám cây cối là lăng Tôn Trung Sơn lấp lánh trên tuyết một màu xanh sẫm. Nếu quay về phía Đông, tôi có thể thấy giữa các ngọn núi là đồng bằng châu thổ màu vàng trải dài tới tận chân trời mù sương. Dưới chân tôi, thành phố châu thổ đang cháy âm ỉ như sau một trận dâng trào núi lửa. Một màn khói đen phủ trên sông Dương Tử và tim tôi lại chùng xuống khi nhìn thấy những gì tôi từng dự đoán: cảnh hỗn độn trên đoạn sông gần bến Mi Đàm, những thuyền ghe bị trúng bom nằm ngổn ngang trên bùn. Ông Lưu đã đúng khi nói rằng nên đi về phía Đông.

Khi tôi đứng đó với mặt trời ở trên vai và cả Giang Tô trải dài phía dưới, một làn sóng phản kháng mạnh mẽ chợt trào dâng trong tôi, một sự khẳng định chắc chắn rằng Trung Hoa sẽ vượt qua tai họa này và sẽ tiếp tục sinh tồn như đất nước Trung Hoa nơi tôi đã sinh ra và lớn lên. Những lễ hội ngốc nghếch, đầy màu sắc mê tín như lễ cầu mùa vụ sẽ tiếp tục tồn tại, những con vịt sẽ tiếp tục lội qua cánh đồng vào những buổi chiều tà, và khi mùa hè tới, những tấm lá sen dày sẽ mọc chen chúc trên đầm tưởng như có thể bước lên chúng mà đi được. Rằng người Trung Quốc sẽ tiếp tục sinh tồn và trái tim của con chúng tôi sẽ mãi là một trái tim Trung Hoa. Khi tôi đứng trên dốc núi, ngắm nhìn những ánh bình minh đầu tiên, tôi đã giơ tay về phía bầu trời một cách giận dữ và kiêu hãnh, thách thức bất cứ thế lực đen tối nào dám tới đây và mang con trai của tôi đi. Con trai tôi, người sẽ chiến đấu như một mãnh hổ để bảo vệ tổ quốc của mình. Con trai tôi, người sẽ mạnh hơn tôi gấp nghìn lần.

“Tôi thách người đấy! Đúng thế, tôi thách người đấy,” tôi thì thầm với bầu trời.


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder   Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder - Page 2 Icon_minitimeSun Feb 03, 2019 9:19 pm


Chương 60

Bạn sẽ không bao giờ có thể đoán được chuyện gì sẽ trở thành tít báo. Phần lớn các bằng chứng xung quanh hiện trường tội ác ở Takabanobaba đều liên quan tới một bị cáo duy nhất: Ogawa, hay còn gọi là Quái vật Saitama. Tuy nhiên vì một hoặc nhiều lý do (chắc bạn có thể thông cảm cho sự mất bình tĩnh của các nhà báo khi đưa tin về vụ này) mà chi tiết nói trên không bao giờ được công bố rộng rãi trên các tờ báo. Mụ ta bị điệu tới cảnh sát để thẩm vấn nhưng được thả ra một cách nhanh chóng và khó hiểu, và cho tới tận ngày nay vẫn sống nhởn nhơ đâu đó ở Tokyo, đôi khi xuất hiện thấp thoáng sau lớp kính mờ của một chiếc limousine đang phóng nhanh hay bước vào một tòa nhà nào đó vào lúc nửa đêm. Sẽ sai lầm nếu coi thường những mối liên hệ giữa yakuza và cảnh sát Nhật Bản.

Trong khi đó, vụ sát hại Jason Wainwright, tên đầy đủ của Jason mà sau này tôi mới biết, thì liên tục xuất hiện trên các bản tin trong nhiều tháng. Bởi vì anh ta có học thức và là một người phương Tây ưa nhìn sống tại Nhật. Tin này gây kích động lớn đối với người dân tại bang Massachusetts nơi mẹ anh ta đang sống. Người ta buộc tội cảnh sát bất lực, tham nhũng, câu kết với xã hội đen nhưng tất cả đều không dẫn tới đâu, chứ chưa nói tới việc đụng chạm đến Fuyuki và Quái vật Saitama. Những nhóm luật sư gia đình ăn mặc lịch thiệp lần lượt hạ cánh xuống Tokyo trên những chiếc phi cơ của Hàng không Thái, nhưng bất chấp các mối quan hệ của họ cũng như số tiền mà họ bỏ ra, không ai chịu nói gì về Jason và quãng thời gian trước khi anh ta bị giết. Kể cả người phụ nữ bí ẩn gọi điện cho mẹ anh vào một ngày trước khi anh ta bị giết cũng biệt vô âm tín.

Nhưng có lẽ, điều tác động tới công chúng hơn cả là sự ghê rợn của hiện trường tội ác. Là cái cách mụ Y Tá trang trí chiếc đèn lồng đá. Là hình ảnh một người đàn ông trong gia đình Wainwright vừa chân ướt chân ráo bay từ California tới, đứng gõ cửa ngôi nhà, tay xách một chiếc túi du lịch hiệu Samsonite, một chiếc bàn chải đánh răng của hãng hàng không và hóa đơn taxi thò ra ngoài túi, tuyết rơi lả tả trên bộ quần áo vest. Là ý nghĩ về cái mà anh ta chứng kiến khi không thấy ai ra mở cửa nên quyết định đi vòng ra phía bên cạnh ngôi nhà, nơi hai cánh cổng han gỉ dẫn vào khu vườn mở toang.

Tôi chỉ mới rời khỏi ngôi nhà được khoảng nửa tiếng đồng hồ. Tôi lẻn ra bên ngoài, lấy chiếc túi du lịch vứt ở trong ngõ rồi tới một nhà tắm công cộng ở phố Waseda. Khi người đàn ông của nhà Wainwright nhận ra cái dây leo hình rắn cuốn quanh chiếc đèn đá, khi mặt anh ta tái nhợt không còn giọt máu, khi anh ta khuỵu xuống và cuống cuồng tìm một chiếc khăn tay thì tôi chỉ ở cách đó khoảng trăm mét, ngồi xổm trên một chiếc ghế nhựa con màu xanh trước một chiếc vòi hoa sen cao ngang gối, run bần bật, hai đầu gối va vào nhau lập cập. Mười phút sau, khi anh ta lảo đảo bước ra ngoài phố giơ tay vẫy taxi thì tôi đã co rúm vào một góc trên một chiếc taxi khác tới Hongo, tóc ướt sũng, chiếc áo len cuốn chặt quanh người.

Tôi nhìn chằm chằm ra bên ngoài cửa xe taxi, dán mắt vào những đống tuyết chất cao, vào thứ ánh sáng kỳ lạ phản chiếu trên gương mặt những người phụ nữ đang thận trọng bước đi trên hè phố dưới những chiếc ô màu tùng lam. Tôi chợt cảm thấy rất rõ sự cô đơn của thành phố này, hàng tỷ linh hồn cô đơn trong những phòng ngủ, trên những khung cửa sổ cao vời vợi. Tôi nghĩ tới những thứ nằm ở phía dưới thành phố, những đường cáp điện, ống nước, ống sưởi, những ngọn lửa, tàu điện ngầm, dòng dung nham trong lòng thành phố, tiếng động bí ẩn của các đoàn tàu và những cơn động đất. Tôi nghĩ tới linh hồn của những người đã chết trong chiến tranh đứng cụm lại với nhau. Sunshine Building, tòa nhà cao nhất và được nhiều người tới thăm nhất Tokyo mọc lên đúng tại nơi thủ tướng Nhật và các tội phạm chiến tranh bị hành quyết. Tôi có một cảm giác kỳ lạ khi không ai biết được chuyện gì vừa xảy ra với tôi. Không có ai tới tìm tôi và nói: “Cô đã ở đâu suốt đêm qua? Trong túi cô có gì vậy? Tại sao cô không tới cảnh sát?” Tôi nhìn vào đôi mắt của người lái taxi trong gương chiếu hậu và tin chắc rằng ông ta đang quan sát tôi.

Tôi tới trường đại học Todai lúc chín giờ hơn. Cơn bão tuyết lại nổi lên, tuyết đậu khắp nơi, trên những chiếc xe ôtô đang đỗ và trên những ngọn đèn đường. Chiếc cổng lớn sơn đỏ theo kiến trúc Akamon của Todai giờ chỉ còn là một vệt đỏ chập chờn trong tuyết trắng, một ngọn lửa nhỏ leo lét trong cơn bão tuyết. Người bảo vệ mặc áo mưa màu đen mở cổng cho chúng tôi, và chiếc taxi chạy dọc theo đường chính cho đến khi ánh sáng bắt đầu xuất hiện trên nền trắng, và cuối cùng Viện Khoa học Xã hội hiện ra trước mắt, được chiếu sáng và trang trí như một tòa lâu đài trong truyện cổ tích.

Tôi bảo lái xe dừng lại. Tôi kéo cổ áo khoác lên và bước ra ngoài, ngước nhìn tòa nhà một lúc lâu. Đã bốn tháng trôi qua kể từ lần đầu tiên tôi tới đây. Chỉ bốn tháng thôi mà tôi đã vỡ ra bao nhiêu điều. Tôi đã biết mọi chuyện, tôi đã biết cả thế giới này.

Dần dần tôi bắt đầu nhận ra một bóng người đang đứng cách tôi không bao xa, nhỏ bé như một đứa trẻ, hoàn toàn bất động trong màn tuyết kỳ ảo và chập chờn như một bóng ma. Tôi nhìn bóng dáng đó. Sử Trùng Minh. Cứ như thể những ý nghĩ của tôi đã triệu ông tới đây, nhưng sự nhiệt tình nửa vời của chúng khiến Sử Trùng Minh chỉ hiện ra như một cái bóng chứ không phải một con người bằng xương bằng thịt.

“Sử Trùng Minh,” tôi gọi khẽ, và ông quay lại nhìn tôi mỉm cười. Ông bước về phía tôi, dần dần hiện ra thật hơn trong màn tuyết trắng, như một bóng ma đang tiến hóa làm người. Ông mặc áo khoác và trên đầu là chiếc mũ nhựa kiểu dân chài quen thuộc.

“Tôi đang đợi cô,” ông nói. Da ông trắng bệch, nhợt nhạt và không được khỏe mạnh, trên mặt và trên cổ ông xuất hiện nhiều đốm chàm nhỏ như đồng xu. Bên trong, chiếc áo vét của ông cài kín cổ.

“Sao ông biết?”

Ông giơ tay ra hiệu cho tôi im lặng. “Tôi không biết. Giờ thì phải đi vào nhà và sưởi ấm đã. Đứng lâu dưới trời tuyết không tốt cho sức khỏe.”

Tôi bước theo ông lên cầu thang. Bên trong, tòa nhà ấm áp nhờ hệ thống sưởi nhiệt độ cao. Chúng tôi để lại một vệt tuyết tan trên sàn nhà. Ông đóng cửa phòng làm việc lại rồi đeo kính vào và bắt tay dọn dẹp căn phòng. Ông bật lò sưởi và pha cho tôi một tách trà nghi ngút khói. “Mắt của cô,” ông nói khi tôi đặt chiếc túi xuống và quỳ xuống sàn nhà, vô tình ngồi đúng theo tư thế seiza của trà đạo như thể nó làm tôi ấm hơn, giữ lấy tách trà bằng cả hai tay. “Cô không khỏe à?”

“Tôi... Tôi vẫn còn sống.” Tôi không thể nào khiến hai hàm răng ngừng va vào nhau lập cập. Tôi để hơi nóng của tách trà phả vào mặt. Mùi thơm ngầy ngậy của trà chiết xuất từ gạo. Một thứ mùi rất Nhật Bản. Tôi ngồi đó một lúc lâu cho đến khi người bớt run rẩy rồi ngước mắt lên nhìn ông và nói: “Tôi đã tìm ra.”

Sử Trùng Minh khựng lại, chiếc thìa bất động phía trên ấm trà. “Cô làm ơn nhắc lại được không?”

“Tôi đã tìm ra. Tôi đã biết.”

Ông thả chiếc thìa rơi vào trong ấm trà. Ông tháo kính ra và ngồi vào bàn làm việc. “Đúng vậy, tôi cũng nghĩ là cô đã tìm ra,” ông nói một cách nặng nhọc.

“Ông nói đúng. Tất cả những gì ông bảo tôi đều đúng. Chắc ông đã biết tất cả ngay từ đầu. Nhưng tôi thì không. Đó không hề là thứ tôi nghĩ. Không hề.”

“Không?”

“Không. Đây là một thứ mà Fuyuki đã có từ rất lâu rồi. Có lẽ từ nhiều năm trước.” Giọng tôi ngày càng nhỏ đi. “Đó là một đứa bé. Là xác ướp của một em bé.”

Sử Trùng Minh im lặng. Ông quay đầu sang một bên và trong giây lát miệng ông mấp máy như thể ông đang niệm thần chú. Cuối cùng ông ho lên một tiếng, đặt kính lên một chiếc hộp màu xanh cũ kỹ. “Đúng vậy,” cuối cùng ông lên tiếng. “Đúng vậy, tôi đã biết. Đó là con gái tôi.”


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder   Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder - Page 2 Icon_minitimeSun Feb 03, 2019 9:19 pm


Chương 61

史 Nam Kinh, ngày 21 tháng Mười hai năm 1937

Nhớ lại cái giây phút đó mới khó khăn làm sao, giây phút mà tôi đột ngột cảm thấy vô cùng thanh thản và tràn trề hy vọng. Sao vạn vật có thể tĩnh lặng đến thế trong vài giây phút ngắn ngủi trước khi tiếng la hét của Thu Kim vang lên khắp khu rừng.

Tôi ngẩn người nhìn xung quanh như thể ai đó vừa vô tình gọi tên tôi rồi cau mày như thể tôi không biết được mình vừa nghe thấy gì. Và rồi Thu Kim lại kêu lên lần nữa, tiếng kêu ngắn ngủi và đau đớn như một con chó đang bị đòn.

“Thu Kim?” Như một kẻ mộng du, tôi quay người lại và bắt đầu gạt đám cành cây quay về chỗ cũ. Có lẽ cô ấy sinh sớm hơn dự kiến. “Thu Kim?”

Không có tiếng trả lời. Tôi rảo bước nhanh hơn. Tôi leo lên dốc và lao tới chỗ tôi ngồi trông Thu Kim ban nãy. “Thu Kim?” Im lặng. “Thu Kim?” Tôi gọi to hơn, trong giọng nói thoáng nét hoảng hốt. “Thu Kim. Trả lời tôi đi!”

Vẫn không có tiếng trả lời, và tôi bắt đầu cảm thấy sợ hãi thực sự. Tôi bắt đầu chạy. Chân tôi trượt trên mặt dốc, tuyết trên cành thông rơi lả tả xuống người tôi. “Thu Kim!”

Cạnh gốc cây, chiếc xe kéo đã bị lật ngược trở lại, chăn màn và đồ đạc của chúng tôi bị vứt tung tóe xung quanh. Trên mặt đất có những vết chân mờ mờ dẫn vào trong rừng.

Tôi đi theo những dấu chân này, vừa đi vừa phải cúi đầu tránh cành cây quật vào mặt đau rát. Đi được vài mét thì những vết chân này bắt đầu thay đổi. Tôi đứng khựng lại thở dồn dập, tim đập thình thịch. Dấu chân trở nên lớn hơn, tuyết ở xung quanh đó bị cào xới như thể Thu Kim đã ngã xuống đây vì đau. Hay là đã xảy ra một cuộc vật lộn. Có cái gì đó cộm lên dưới chân tôi. Tôi cúi xuống và lôi nó lên, xoay nó trong tay mình. Một miếng đai mỏng đã sờn cũ. Tâm trí tôi mụ đi, một nỗi kinh hoàng xâm chiếm lấy tôi. Đính trên miếng đai là hai chiếc thẻ quân nhân của Quân đội Thiên hoàng Nhật Bản.

“Thu Kim!” Tôi hét lên. “THU KIM!”

Tôi đợi. Nhưng vẫn không nghe thấy ai đáp lại. Ở đây, giữa những thân cây trơ trọi chỉ còn lại mình tôi, lắng nghe hơi thở dồn dập và tiếng mạch đập thình thịch của chính mình. “THU KIM!” Tiếng hét của tôi va vào thân cây rồi từ từ mất hút trong rừng thẳm. Tôi nhìn ngang ngửa hy vọng tìm thấy một dấu vết nào đó. Chúng đang ở đâu đó quanh đây, những tên lính Nhật đang giữ Thu Kim và dõi theo tôi với những đôi mắt vằn máu, đâu đó sau những gốc cây này, với những cây súng lưỡi lê sáng loáng...

Ở đâu đó rất gần ngay sau lưng tôi, ai đó vừa thở hắt ra. Tôi quay vụt lại hai tay vung lên trong tư thế sẵn sàng nhảy chồm về phía trước. Nhưng không có gì ngoài những thân cây màu đen, ẩm mốc, tuyết bám đầy trên cành. Tôi hít thở thật sâu, tai dỏng lên nghe ngóng. Có ai đó đang ở đây. Rất gần đây. Rồi tôi nghe thấy tiếng lá khô rơi xào xạc, khoảng ba mét phía trước, nơi mặt đất hơi lún xuống, tiếng cành cây gãy răng rắc, tiếng máy móc và một người lính Nhật bước ra từ sau một gốc cây.

Anh ta không có dáng vẻ của một người đánh trận, chiếc mũ sắt bọc lưới treo lủng lẳng ở thắt lưng bên cạnh ống đạn, quân hàm của anh ta vẫn còn nguyên. Anh ta không cầm súng mà cầm một chiếc máy quay phim, ống kính chĩa thẳng vào mặt tôi. Chiếc máy quay kêu ro ro, cán quay tay chuyển động đều đều. Người quay phim ở Thượng Hải. Tôi nhận ra anh ta ngay lập tức. Người đã quay những thước phim về lính Nhật khoe chiến tích ở Thượng Hải. Anh ta đang quay hình tôi.

Chúng tôi im lặng đứng như thế trong vài giây, tôi nhìn anh ta còn ống kính của anh ta thì chĩa thẳng vào tôi. Rồi tôi lao tới. “Cô ấy đâu?” Anh ta lùi lại một bước, chiếc camera vẫn vững vàng trên vai và đúng lúc đó tôi nghe thấy tiếng Thu Kim gọi từ phía xa, thân thiết và mong manh.

“Trùng Minh!”

Tôi sẽ nhớ mãi cái âm thanh đó. Tôi sẽ mơ về nó, sẽ nghe thấy nó khi tôi lạc trong những khoảng không trắng toát lạnh lẽo của những giấc mơ.

“Trùng Minh!”

Tôi bỏ mặc người quay phim đứng đó và lao vào trong rừng theo tiếng gọi của Thu Kim, tuyết lúc này đã cao ngập gối. “THU KIM!”

Tôi lội tuyết, nước mắt giàn giụa, sẵn sàng chờ đợi tiếng đạn rít qua đầu. Nhưng cái chết còn dễ chịu hơn rất nhiều so với những gì sẽ xảy ra tiếp theo. Đằng trước, tiếng loảng xoảng không lẫn vào đâu được của lưỡi lê rung lên trong gió lạnh. Và tôi nhìn thấy chúng. Hai người bọn chúng đang đứng cách tôi khoảng một trăm mét về phía trước, bên cạnh một con đường mòn, quay lưng lại phía tôi trong những chiếc áo bành tô màu cỏ úa, đang nhìn chằm chằm vào cái gì đó trên mặt đất. Một chiếc xe máy dựa vào gốc thông già đen đúa ven đường. Một tên quay lại nhìn tôi vẻ hốt hoảng. Hắn ta đội mũ vải mềm và cũng không có vẻ gì là sắp đi đánh trận, tuy nhiên, chiếc lưỡi lê của hắn đã giắt vào súng trong tư thế sẵn sàng. Trên mặt hắn ta có một vệt máu như thể Thu Kim đã cào vào mặt hắn khi hai người vật lộn với nhau. Khi tôi nhìn hắn, mắt hắn cụp xuống vẻ hổ thẹn. Trong một giây phút ngắn ngủi, tôi nhìn thấy con người thật của hắn, một đứa trẻ vị thành niên tơi tả vì chiến trận, đã không còn gì ngoài một cái đầu trống rỗng, chỉ còn tỉnh táo nhờ các loại thuốc an thần. Hắn ta không hề muốn có mặt ở đây.

Nhưng còn người đàn ông kia. Lúc đầu hắn ta không thèm quay lại. Trước mặt hắn, Thu Kim đang nằm ngửa trên tuyết, dựa vào một thân cây. Một chiếc giày của cô ấy bị tụt ra ngoài, bàn chân trần tím ngắt vì lạnh phơi ra trên tuyết. Tay cô ấy đang cầm một con dao nhỏ, cán làm bằng sơn mài chĩa ra trước ngực. Đó là con dao sắc thường dùng để gọt xoài. Cô ấy giữ chặt chiếc dao bằng cả hai tay và chĩa nó về phía hai người đàn ông.

“Hãy để cô ấy yên,” tôi nói. “Hãy đứng im đó.”

Người đàn ông kia vẫn im lặng khi nghe tiếng tôi nói. Hắn ta từ từ đứng thẳng người lên. Chậm rãi quay lại nhìn thẳng vào tôi. Hắn ta không cao, cũng chỉ cỡ như tôi nhưng đôi mắt của hắn thật đáng sợ. Tôi bước nhanh tới chỗ hắn. Ngôi sao viền chỉ duy nhất trên chiếc mũ của hắn lóe sáng dưới ánh mặt trời, chiếc bành tô cổ viền lông của hắn mở tung, áo sơ mi của hắn bị rách, và tôi có thể nhận thấy đó chính là vị trí của miếng phù hiệu mà tôi đã tìm thấy. Hắn ta ở gần tôi tới mức tôi có thể ngửi thấy mùi rượu sake uống đêm qua toát ra từ mồ hôi của hắn và một thứ mùi hôi hám lưu cữu trên quần áo của hắn. Mặt hắn xám ngoét, bệnh hoạn, đầm đìa mồ hôi.

Ngay lập tức tôi nhận ra hắn. Những chai lọ vấy máu xếp thành hàng trong nhà máy dệt. Chày, cối và những cuộc săn đuổi bất tận… Vì một phương thuốc. Đó là gã đàn ông bệnh tật mà mọi thứ thuốc của quân đội đều bất lực, gã đàn ông bệnh tật đã tuyệt vọng tới mức sẵn sàng thử bất kỳ phương thuốc nào, kể cả việc ăn thịt người. Tên diêm vương của Nam Kinh.


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Sponsored content





Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder   Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder - Page 2 Icon_minitime

Về Đầu Trang Go down
 
Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder
Về Đầu Trang 
Trang 2 trong tổng số 3 trangChuyển đến trang : Previous  1, 2, 3  Next

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
Nhanbkvn 2024 :: THƯ VIỆN SÁCH TRUYỆN :: Truyện Trinh Thám-
Chuyển đến