Nhanbkvn 2024
Chào Mừng Các Bạn Tham Gia Và Chia Sẽ Tại Diễn Đàn Nhanbkvn
Nhanbkvn 2024
Chào Mừng Các Bạn Tham Gia Và Chia Sẽ Tại Diễn Đàn Nhanbkvn
Nhanbkvn 2024
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Nhanbkvn 2024

Chia Sẽ Không Giới Hạn
 
Trang ChínhTrang Chính  Sự kiệnSự kiện  Latest imagesLatest images  PublicationsPublications  Tìm kiếmTìm kiếm  Đăng kýĐăng ký  Đăng NhậpĐăng Nhập  

 

 Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder

Go down 
Chuyển đến trang : 1, 2, 3  Next
Tác giảThông điệp
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder Empty
Bài gửiTiêu đề: Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder   Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder Icon_minitimeSun Feb 03, 2019 8:58 pm

Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder 0000110

Chương 1

Tokyo, mùa hè năm 1990

Đôi khi bạn không còn sự lựa chọn nào khác là phải cố gắng. Ngay cả khi bạn đang ở một nơi hoàn toàn xa lạ, mệt mỏi và kiệt sức vì đói. Đó là những gì đã xảy ra với tôi vào mùa hè năm ấy, khi tôi đứng run rẩy lo sợ trước cửa phòng làm việc của giáo sư Sử Trùng Minh ở Tokyo. Tôi sửa lại đầu tóc cho gọn gàng hết mức có thể và khổ sở vuốt phẳng chiếc váy Oxfam cũ kỹ, lấy lòng bàn tay phủi cho sạch bụi bặm và là phẳng những nếp nhàu nhĩ vì đường xa. Tôi đá chiếc túi du lịch sờn cũ mang theo trên máy bay ra sau, không muốn đó là vật đầu tiên đập vào mắt ông khi ra mở cửa, vì trông giống như một người bình thường là điều hết sức quan trọng. Tôi phải đếm tới 25, hít thở thật sâu trước khi có đủ can đảm lên tiếng.

“Xin chào,” tôi áp sát vào cánh cửa, nói lí nhí. “Giáo sư có ở đây không ạ?”

Tôi chờ một chút, dỏng tai lên nghe ngóng. Tôi loáng thoáng nghe thấy tiếng bước chân di chuyển trong phòng nhưng không ai ra mở cửa! Tôi chờ thêm một chút nữa rồi mới gõ cửa, tim đập liên hồi. “Giáo sư có nghe thấy tôi không ạ?”

Cánh cửa bật mở và tôi giật mình lùi lại phía sau. Sử Trùng Minh xuất hiện trên ngưỡng cửa, trông rất lịch thiệp và nhã nhặn, nhìn tôi không nói gì, tay để dọc hai bên đùi như thể đang đợi người ta khám xét. Ông rất nhỏ bé, giống như một con búp bê, mái tóc bạc trắng xõa xuống vai như một chiếc khăn choàng bằng tuyết ôm lấy khuôn mặt thanh tú hình tam giác.

Ông đặt lòng bàn tay lên đùi và cúi rạp xuống để chào tôi. “Xin chào,” ông nói bằng một thứ tiếng Anh nhẹ nhàng, gần như không có ngữ điệu. “Tôi là giáo sư Sử Trùng Minh. Xin hỏi cô là ai?”

“Tôi, tôi là...” Tôi nuốt nước miếng. “Tôi là một sinh viên… đại loại như thế.” Tôi luống cuống kéo tay áo len lên cao và chìa tay ra cho ông. Tôi hy vọng ông không để ý những móng tay bị cắn nham nhở của mình. “Từ trường đại học Luân Đôn.”

Ông nhìn tôi chăm chú, từ gương mặt trắng bệch, mái tóc rối, đến chiếc áo len chui cổ và chiếc túi du lịch to xù, cũ mèm. Ai cũng có phản ứng tương tự khi họ nhìn thấy tôi lần đầu và thú thực là dù có đóng kịch giỏi đến đâu bạn cũng sẽ không bao giờ quen được với cái việc bị người khác nhìn chòng chọc.

“Tôi rất mong được gặp ông, gần như trong suốt nửa đời mình. Tôi đã đợi ngày này hơn chín năm bảy tháng và mười tám ngày,” tôi nói.

“Chín năm, bảy tháng, mười tám ngày?” Ông nhướng mày nhìn tôi với vẻ thích thú. “Lâu vậy sao? Nếu thế thì cô nên vào trong này.”

Tôi vốn không sành sỏi trong việc đoán biết người khác nghĩ gì nhưng tôi biết chúng ta có thể nhìn thấy thảm kịch, thảm kịch thực sự trong ánh mắt của người khác. Nếu nhìn kỹ, gần như chúng ta luôn thấy được một người đã từng ở đâu. Tôi đã mất khá nhiều thời gian để truy tìm tung tích của giáo sư Sử Trùng Minh. Tôi rất ngạc nhiên khi biết rằng, bất chấp tuổi tác đã ngoài bảy mươi và những cảm nhận mà ông hẳn có về người Nhật, ông lại ở đây trong vai trò một giáo sư thỉnh giảng ở Todai, trường đại học danh giá nhất Nhật Bản. Văn phòng của ông nhìn xuống khu bắn cung của trường đại học, nơi cây cối um tùm che kín mái ngói của khu nhà và âm thanh duy nhất là tiếng quạ kêu khi chuyền cành giữa những cây sồi xanh. Căn phòng của giáo sư Sử Trùng Minh rất nóng và ngột ngạt, làn không khí bụi bặm luân chuyển khắp phòng bởi ba chiếc quạt điện hoạt động hết công suất. Tôi rón rén bước vào phòng, vẫn chưa hết bàng hoàng vì cuối cùng mình đã có mặt ở đây.

Sử Trùng Minh cất đống tài liệu chất trên một chiếc ghế. “Ngồi xuống, ngồi xuống. Tôi đi pha trà.”

Tôi ngồi phịch xuống ghế, ôm chặt chiếc túi du lịch vào lòng, đôi giày mùa đông nặng trĩu dưới chân. Sử Trùng Minh khập khiễng di chuyển trong phòng, hứng nước từ chiếc bồn rửa vào đầy phích điện, không hề để ý đến những tia nước bắn tung tóe thành những vệt sẫm trên chiếc áo sơ mi kiểu Quan thoại. Gió quạt khẽ lay động những chồng giấy và đám sách cũ kỹ rách nát chất đầy trên những giá sách cao tới trần nhà. Ngay khi bước vào phòng tôi đã để ý tới chiếc máy chiếu đặt trong góc. Đó là một chiếc máy chiếu 16 li phủ đầy bụi, bị đẩy vào trong góc giữa những đống tài liệu cao ngất. Tôi chỉ muốn quay ra nhìn chằm chằm vào nó nhưng biết là mình không nên làm thế. Tôi cắn môi và nhìn sang Sử Trùng Minh. Ông đang nói dông dài về những nghiên cứu của mình.

“Rất ít người biết được y học Trung Hoa du nhập vào Nhật Bản từ khi nào nhưng nếu nhìn lại thời nhà Đường, cô sẽ tìm được những bằng chứng cho thấy sự tồn tại của y học Trung Hoa ở đây. Cô có biết điều đó không?” Ông pha trà mời tôi và lôi từ đâu đó ra một gói bánh bích quy. “Đại sư Giám Chân đã mang y học Trung Hoa tới nơi này từ thế kỷ thứ VIII. Ngày nay chúng ta có thể thấy các cửa hàng Nhật dược ở khắp mọi nơi, chỉ cần bước chân ra ngoài cổng trường là có thể tìm thấy ngay. Rất tuyệt vời, đúng không?”

Tôi chớp mắt nhìn ông. “Tôi tưởng giáo sư nghiên cứu về ngôn ngữ học?”

“Ngôn ngữ học? Ồ không, không. Có thể là trước đây, có một thời... nhưng mọi thứ đã thay đổi. Cô có muốn biết tôi là ai không? Thế này nhé, nếu cô lấy một cái kính hiển vi và quan sát kỹ cái giao điểm mà một nhà công nghệ sinh học và một nhà xã hội học gặp nhau...” Ông mỉm cười với tôi, để lộ hàm răng dài đã ngả vàng. “Thì cô sẽ thấy tôi, Sử Trùng Minh, một người đàn ông nhỏ bé với một danh hiệu lớn. Trường đại học nói với tôi rằng tôi rất phù hợp với công việc này. Cái tôi quan tâm nghiên cứu là bao nhiêu trong số này...” Ông khoát tay khắp căn phòng chỉ vào những cuốn sách, những tấm bảng mô hình xác ướp động vật màu sắc sặc sỡ và một biểu đồ treo tường có tên Côn trùng học ở Hồ Nam. “... Bao nhiêu trong số đó đã du nhập vào Nhật Bản cùng với Giám Chân và bao nhiêu là do quân đội Nhật Bản mang về nước năm 1945. Chẳng hạn như, để tôi xem nào…” Ông rà tay lên đống tài liệu quen thuộc của mình rồi rút ra một quyển sách cũ bám đầy bụi và đặt nó xuống trước mặt tôi, giở ra một biểu đồ giải phẫu gấu với các cơ quan nội tạng in bằng hai màu xanh và hồng. “Ví dụ, đối với loài gấu đen châu Á. Có phải từ sau Thế chiến thứ hai thì người Nhật mới bắt đầu dùng mật của loài gấu Karuizawa để chế thuốc chữa bệnh đau dạ dày hay không?” Ông đặt hai tay lên bàn và nhìn tôi chăm chú. “Tôi hy vọng đó là lý do khiến cô đến tìm tôi? Gấu đen là một trong những đề tài mà tôi rất quan tâm và đó cũng là nguyên nhân khiến phần lớn mọi người đến gõ cửa phòng tôi. Cô là nhà bảo tồn động vật à?”

“Không,” tôi nói, tự lấy làm ngạc nhiên vì sự dứt khoát trong giọng nói của mình. “Thật sự là không, đó không phải là lý do tôi đến đây. Tôi thậm chí chưa bao giờ nghe nói về gấu Karuizawa.” Và rồi tôi không thể cưỡng lại được nữa. Tôi quay người và liếc trộm về phía chiếc máy chiếu phim ở cuối phòng. “Tôi...” Tôi miễn cưỡng đưa mắt trở lại chỗ Sử Trùng Minh. “Ý tôi nói là tôi gặp ông không phải đề bàn về y học Trung Hoa.”

“Không phải?” Ông kéo kính xuống và nhìn tôi với vẻ hết sức tò mò. “Không phải sao?”

“Không phải.” Tôi lắc đầu cả quyết. “Không phải thế.”

“Vậy…” Ông ngừng lại. “Vậy thì cô tới đây là vì...?”

“Vì Nam Kinh.”

Ông ngồi xuống bàn, mặt cau lại. “Xin lỗi, cô vừa nói cô là ai nhỉ?”

“Tôi là một sinh viên đến từ đại học Luân Đôn. Hay ít ra thì cũng từng là sinh viên. Nhưng tôi không nghiên cứu về y học Trung Hoa mà về tội ác chiến tranh.”

“Đủ rồi.” Ông nói và giơ tay lên. “Thế thì cô tìm nhầm người rồi, tôi không thể giúp gì cho cô được.”

Ông toan đứng dậy rời khỏi bàn, nhưng tôi đã vội vàng mở chiếc túi du lịch của mình, lôi ra một tập tài liệu được cột chặt lại với nhau bằng một sợi dây thun, lóng ngóng để rơi vài tờ, nhặt chúng lên và đặt chúng một cách lộn xộn lên chiếc bàn giữa hai chúng tôi.

“Tôi đã dùng nửa đời mình nghiên cứu về cuộc chiến ở Trung Quốc.” Tôi tháo sợi dây thun và xếp tất cả các ghi chép của mình lên bàn. Đó là những bản dịch viết tay nhỏ li ti của tôi, bản sao lời khai của các nhân chứng mà tôi thu thập được từ các cuốn sách trong thư viện, những bức phác thảo do tôi tự họa để giúp mình hình dung rõ hơn về những gì đã xảy ra. “Nhất là về Nam Kinh. Ông hãy nhìn xem,” tôi giơ lên cho ông ta xem một tờ giấy có nhiều nếp gấp đầy những chữ nhỏ li ti. “Đây là một cuộc xâm lược, đây là biểu đồ về hệ thống thứ bậc trong quân ngũ của quân đội Nhật, tất cả đều được viết bằng tiếng Nhật, ông thấy không. Tôi đã viết nó vào năm mười sáu tuổi. Tôi biết một ít tiếng Nhật và tiếng Trung.”

Sử Trùng Minh quan sát tất cả với một sự im lặng, khẽ ngả người ra sau, nét mặt biểu lộ một sắc thái kỳ lạ.

Các bức vẽ và biểu đồ của tôi không đẹp, nhưng tôi không còn chút bận tâm nào về chuyện đó nữa khi mọi người cười nhạo chúng. Đối với tôi, mỗi biểu đồ, mỗi bức vẽ đều có ý nghĩa quan trọng, mỗi thứ đều giúp tôi sắp xếp lại các ý tưởng trong đầu và nhắc nhở tôi rằng mỗi ngày tôi lại tiến gần hơn tới sự thật về một chuyện gì đó đã xảy ra ở Nam Kinh vào năm 1937. “Và đây nữa...” Tôi giở một bức tranh và giơ nó lên. Đó là một bức vẽ trên khổ giấy A3 với những nếp gấp sau nhiều năm đã trở nên trong suốt. “Đây chính là thành phố Nam Kinh cuối cuộc xâm chiếm. Tôi đã mất một tháng để hoàn thành nó. Các xác chết chất thành núi! Ông có thấy không?” Tôi ngước mắt nhìn ông với vẻ háo hức. “Nếu ông nhìn kỹ, ông có thể thấy tôi đã vẽ đúng. Ông có thể kiểm tra bây giờ nếu ông muốn. Chính xác trong bức tranh này có ba trăm nghìn tử thi và...”

Sử Trùng Minh đột ngột đứng dậy và đi vòng sau bàn ra phía cửa. Ông khép cửa lại rồi đến bên chiếc cửa sổ nhìn xuống khu bắn cung và hạ tấm rèm che xuống. Ông di chuyển với chân trái hơi khập khiễng, và đằng sau gáy, tóc của ông mỏng tới mức gần như hói, lớp da đầu nhăn nheo như thể không có xương sọ và ta có thể nhìn thấy những nếp gấp và đường rãnh của bộ não.

“Cô có biết đất nước này nhạy cảm tới mức nào không mà lại dám nhắc đến Nam Kinh?” Ông quay trở lại bàn làm việc và từ từ ngồi xuống với cái kiểu của người bị viêm khớp, vươn người sang phía tôi rồi nói khẽ. “Cô có biết ở Nhật, cánh hữu mạnh như thế nào không? Cô có biết nhiều người đã bị tấn công chỉ vì dám nhắc đến chuyện đó? Người Mỹ...” Ông giơ một ngón tay run rẩy chỉ vào mặt tôi như thể tôi là đại diện gần nhất của nước Mỹ, “người Mỹ, MacAthur, đã đảm bảo cho cánh hữu trở thành những kẻ gieo rắc sợ hãi như ngày nay. Nói một cách đơn giản là chúng ta sẽ không bàn về chuyện này nữa.”

Tôi hạ thấp giọng thành tiếng thầm thì. “Nhưng tôi đã đi bằng ấy đoạn đường chỉ để được gặp ông.”

“Vậy thì cô hãy quay lại,” ông nói. “Cô đang nói về quá khứ của tôi. Tôi không đến đây, đến mảnh đất Nhật Bản mà tôi chưa từng nghĩ rằng mình sẽ tới này để thảo luận về những sai lầm của quá khứ.”

“Ông không hiểu. Ông phải giúp tôi.”

“Phải giúp cô?”

“Về một việc cụ thể mà người Nhật đã làm. Tôi biết khá nhiều về các tội ác chiến tranh, như những cuộc thi giết người hay những vụ cưỡng hiếp. Nhưng tôi đang nói về một tội ác cụ thể, một chuyện ông đã tận mắt chứng kiến. Không ai tin là một chuyện như thế có thể xảy ra, họ đều nghĩ là tôi bịa đặt.”

Sử Trùng Minh hơi cúi người ra phía trước và nhìn thẳng vào tôi. Mỗi khi tôi nói với người khác về điều mà tôi đang nỗ lực khám phá, mọi người đều nhìn tôi với một vẻ thương hại và hoài nghi, cái nhìn có hàm ý “Chắc là cô tự tưởng tượng ra. Nhưng tại sao chứ? Tại sao cô lại có thể bịa ra một chuyện kinh tởm như thế?” Nhưng cái nhìn của Sử Trùng Minh thì khác hẳn, đó là một cái nhìn giận dữ và khó chịu. Khi ông cất tiếng nói, giọng ông trầm hẳn xuống và đầy vẻ cay đắng. “Cô đang nói cái gì vậy?”

“Có nhân chứng đã khai về những gì đã xảy ra. Tôi đã đọc điều đó nhiều năm trước nhưng tôi không thể tìm lại được cuốn sách đó vì vậy tất cả mọi người đều cho rằng tôi đã bịa ra mọi chuyện và rằng cuốn sách đó không hề tồn tại. Nhưng không sao, vì trên thực tế còn có hẳn một đoạn phim được quay tại Nam Kinh vào năm 1937. Tôi đã phát hiện ra nó sáu tháng trước đây. Còn ông thì luôn biết rõ về nó.”

“Thật là lố bịch. Không hề có đoạn phim nào cả.”

“Nhưng tên của ông đã xuất hiện trong một tập san của trường đại học. Tôi thực sự đã nhìn thấy tên ông ở trong đó. Tập san đó nói rằng ông đã ở Nam Kinh. Họ nói rằng ông đã chứng kiến vụ thảm sát Nam Kinh, chứng kiến vụ hành hình kiểu đó. Họ nói rằng trong thời gian ông giảng dạy tại đại học Giang Tô năm 1957 đã xuất hiện những tin đồn cho rằng ông chính là người giữ đoạn phim đó. Đó là lý do tại sao tôi tới đây. Tôi cần được biết... Tôi cần được biết những tên lính đó đã làm gì. Chỉ cần một chi tiết thôi để tôi biết được là tôi đã không tưởng tượng ra chuyện đó. Tôi chỉ cần biết vào lúc nào, họ đã bắt người phụ nữ đó vào lúc nào và...”

“Xin cô!” Sử Trùng Minh đấm mạnh tay xuống bàn và đứng dậy. “Chẳng lẽ cô không có chút mủi lòng nào hay sao? Đây không phải là một chuyện để tán gẫu!” Ông vớ lấy một chiếc gậy đằng sau ghế và đi tập tễnh ra phía cửa ra vào, mở cửa và tháo tấm biển đề tên gắn phía ngoài. “Cô nhìn thấy chưa?” Ông hỏi, lấy cây gậy khép cánh cửa lại. Ông giơ tấm biển đề tên cho tôi xem, gõ gõ lên đó để giải thích điều mình nói. “Giáo sư xã hội học. Xã hội học. Lĩnh vực nghiên cứu là y học Trung Hoa. Tôi không còn dính dáng gì đến Nam Kinh nữa. Không có phim ảnh gì cả. Mọi chuyện đã kết thúc. Bây giờ tôi rất bận và...”

“Xin hãy làm ơn,” tôi túm chặt lấy mép bàn, mặt đỏ bừng. “Xin ông hãy làm ơn. Đoạn phim đó có tồn tại. Có mà. Trong tập san có nhắc đến nó, chính tôi đã đọc thấy. Đoạn phim của Magee không quay sự kiện đó nhưng đoạn phim của ông thì có. Đó là đoạn phim duy nhất trên đời này và...”

“Suỵt,” ông nói và chỉ cây gậy về phía tôi. “Thế là đủ rồi.” Răng ông dài và biến màu, trông như bộ xương hóa thạch khai quật được ở sa mạc Gobi, vàng bóng vì ăn nhiều gạo và thịt dê. “Vậy đấy, tôi hoàn toàn tôn trọng cô. Tôi rất tôn trọng cô và vụ điều tra có một không hai của cô. Đúng là có một không hai. Nhưng cho phép tôi nói thẳng nhé: chẳng có đoạn phim nào cả.”

Khi bạn đang tìm mọi cách để chứng minh với mọi người rằng bạn không bị điên thì những người như Sử Trùng Minh đúng là không giúp gì được. Bạn đọc một thông tin trên giấy trắng mực đen nhưng chỉ vài phút sau người ta lại bảo với bạn rằng chuyện đó không hề tồn tại, mà là do bạn tưởng tượng ra. Nếu bạn không điên sẵn thì những chuyện như thế cũng sẽ làm bạn phát điên! Chuyện này vẫn lặp đi lặp lại với tôi, y như những gì đã xảy ra giữa tôi với bố mẹ tôi và những người ở bệnh viện năm tôi mười ba tuổi. Ai cũng nói vụ hành hình là do tôi tưởng tượng ra, là một triệu chứng của bệnh điên mà tôi mắc phải chứ một tội ác khủng khiếp như thế không thể nào xảy ra trên thực tế. Rằng lính Nhật có thể man rợ và nhẫn tâm nhưng họ cũng không thể làm chuyện đó, một chuyện mà không lời nào có thể diễn tả được, một chuyện mà ngay cả các bác sĩ và y tá trong bệnh viện, những người vẫn tự cho rằng chưa có chuyện gì khủng khiếp mà họ chưa được chứng kiến, đều phải hạ giọng khi nhắc tới. “Tôi chắc chắn cô tin rằng cô đã đọc nó. Tôi chắc chắn đối với cô nó thật sự tồn tại.”

“Đó là sự thực,” tôi nói, nhìn xuống nền nhà, khuôn mặt đỏ bừng vì xấu hổ. “Cháu đã đọc được trong một cuốn sách.” Đó là một quyển sách bìa màu da cam với một tấm ảnh bìa chụp những xác chết chất đống bên bến cảng Mi Đàm. Nó tràn ngập những câu chuyện đã xảy ra ở Nam Kinh. Trước khi đọc quyển sách này, tôi không hề biết gì về Nam Kinh. “Cháu đã tìm thấy nó ở nhà.”

Một bà y tá vốn không ưa tôi thường mò đến giường tôi vào ban đêm khi mọi người đã chìm sâu vào giấc ngủ. Dù tôi đã cố tình nằm im thin thít giả vờ ngủ say nhưng bà ta vẫn cúi xuống giường và thì thầm vào tai tôi, hơi thở nóng hổi và dính nhớp. “Để tao nói cho mày biết nhé,” bà ta lầm bầm hết đêm này sang đêm khác, trong khi những hình hoa trên rèm cửa in thành những chiếc bóng bất động trên trần nhà. “Mày là đứa có trí tưởng tượng bệnh hoạn nhất mà tao đã từng gặp trong suốt mười năm làm cái nghề khốn kiếp này. Mày điên thật rồi! Không chỉ điên mà còn xấu xa nữa.”

Nhưng tôi không hề bịa ra chuyện đó...

Tôi vốn rất sợ bố mẹ, nhất là mẹ tôi, nhưng khi không có ai trong bệnh viện tin là quyển sách ấy có thật, khi chính tôi cũng bắt đầu nghi ngờ rằng có thể họ đã đúng, rằng tôi đã tưởng tượng ra nó, rằng tôi đã phát điên, thì tôi lấy hết can đảm để viết thư về nhà nhờ bố mẹ lục tìm trong hàng chồng sách một quyển sách bìa màu da cam, tên sách hình như là Vụ thảm sát Nam Kinh.

Thư hồi âm đến gần như ngay lập tức. “Mẹ biết con vẫn tin là có quyển sách như thế. Nhưng mẹ đảm bảo với con rằng nhà này không bao giờ có những thứ sách rác rưởi như vậy.”

Mẹ tôi vẫn luôn tin rằng bà có thể kiểm soát được mọi suy nghĩ và hành động của tôi. Bà cho rằng trường học là nơi dễ tiêm nhiễm các thói hư tật xấu nên tôi không được đến trường mà phải học ở nhà. Nhưng nếu bạn quyết định gánh lấy trách nhiệm kiểu này, nếu bạn lo sợ (vì một lý do cá nhân khốn khổ nào đó) về những thứ mà con cái bạn sẽ học được về cuộc sống đến mức bạn kiểm tra từng quyển sách du nhập vào trong nhà, thỉnh thoảng xé đi những trang mà bạn cho là không lành mạnh thì phải chắc chắn một điều: bạn phải tiến hành công việc một cách triệt để. Ít nhất cũng triệt để hơn mẹ tôi. Bà không phát hiện ra một sự quản lý lỏng lẻo đã lẻn vào nhà bà, xuyên qua những cánh cửa mọc đầy cỏ dại, len vào những chồng sách. Vì một lý do nào đó, bà đã để lọt quyển sách về Nam Kinh.

“Bố mẹ đã tìm cả trên gác lẫn dưới nhà vì muốn giúp con, bố mẹ chỉ có mình con, nhưng mẹ rất lấy làm tiếc phải nói với con rằng con đã nhầm lẫn. Bố mẹ cũng đã viết thư thông báo cho nhân viên y tế chịu trách nhiệm theo dõi trường hợp của con về việc này.”

Tôi nhớ lúc đó tôi đã đánh rơi bức thư xuống sàn nhà và một ý nghĩ khủng khiếp ập đến. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu họ đúng? Chuyện gì sẽ xảy ra nếu quyển sách không tồn tại? Chuyện gì sẽ xảy ra nếu đúng là tôi đã tưởng tượng ra nó? Điều tồi tệ nhất có thể xảy ra, tôi nghĩ, chắc là một cơn đau dữ dội và âm ỉ bắt đầu cuộn lên trong bụng.

Đôi khi bạn phải đi một chặng đường dài để chứng minh một vấn đề. Ngay cả khi hóa ra bạn chỉ chứng minh cho chính bản thân mình.

Khi tôi được xuất viện, tôi biết chính xác mình sẽ phải làm gì tiếp theo. Trong thời gian ở bệnh viện, tôi cũng đã hoàn tất các kỳ thi trung học (phần lớn các môn thi tôi đều đạt điểm A, kết quả này làm tất cả mọi người ngạc nhiên vì họ đều cho rằng thiếu hiểu biết có nghĩa là ngu dốt), và ở thế giới bên ngoài có những tổ chức từ thiện chuyên giúp đỡ những người như tôi đăng ký vào trường đại học. Họ giúp tôi làm quen với tất cả những thứ mà tôi hết sức bỡ ngỡ như liên hệ qua điện thoại, đi lại bằng xe buýt. Tôi tự học tiếng Nhật và tiếng Trung qua các quyển sách trong thư viện và ít lâu sau được nhận vào khoa Châu Á của đại học Luân Đôn. Thế là đột nhiên, ít nhất là ở vẻ bề ngoài, tôi cũng có vẻ bình thường. Tôi có một phòng trọ, một công việc phát tờ rơi bán thời gian, một thẻ đi tàu dành cho sinh viên và một gia sư chuyên sưu tập những bức tượng Yoruba và bưu thiếp giai đoạn tiền Raphael. (“Tôi tôn sùng những phụ nữ có nước da nhợt nhạt,” có lần anh ta thổ lộ khi nhìn tôi với một vẻ đăm chiêu. Rồi anh ta thì thầm nói thêm: “Tất nhiên là với điều kiện họ không bị điên.”) Nhưng trong khi những sinh viên khác tập trung cho việc tốt nghiệp hoặc học lên cao nữa thì tôi chỉ nghĩ tới Nam Kinh. Tôi chưa thể yên lòng chừng nào chưa biết được tôi có nhớ chính xác về những chi tiết trong quyển sách màu da cam đó hay không?

Tôi dành rất nhiều thời gian để tra cứu sách báo trong thư viện với hy vọng có thể tìm thấy một bản sao của quyển sách đó hoặc ít nhất là một ấn phẩm khác có nội dung tương tự. Có một quyển sách với tên gọi Nỗi kinh hoàng ở Nam Kinh xuất bản năm 1980 nhưng không có bản lưu nào ở nhà xuất bản. Không bản lưu nào trong thư viện, kể cả thư viện của Quốc hội, tuy nhiên tôi cũng không dám chắc đó là quyển sách mà tôi cần tìm. Nhưng chuyện đó không quan trọng vì tôi đã tìm thấy một thứ khác. Tôi bất ngờ phát hiện ra sự tồn tại của một đoạn phim về cuộc thảm sát đó.

Tổng cộng có hai bộ phim. Bộ phim thứ nhất là của Đức cha Magee, một nhà truyền giáo ở Trung Quốc vào những năm 1930. Bộ phim của ông đã được một người bạn lén mang ra ngoài. Quá kinh hoàng bởi những gì được ghi lại trong phim, người này đã khâu nó vào trong lớp áo lông lạc đà rồi mang theo tới Thượng Hải. Sau đó, cuộn phim trở nên ẩm ướt, nhòe và bắt đầu phân hủy sau khi bị bỏ quên nhiều năm trong một tầng hầm ở miền Nam California nóng nực trước khi lại được tìm thấy và đưa vào bộ sưu tập của Thư viện Quốc hội. Tôi tìm thấy một bản sao của bộ phim này tại thư viện của trường đại học Luân Đôn. Tôi đã xem đi xem lại nhiều lần và nghiên cứu từng khuôn hình. Bộ phim đã ghi lại những hình ảnh kinh hoàng ở Nam Kinh, những hình ảnh mà tôi không muốn nghĩ đến ngay dưới ánh sáng ban ngày, nhưng không hề có vụ hành hình mà tôi đã đọc được nhiều năm trước.

Đoạn phim thứ hai, hay ít nhất người ta đồn là thế, là của Sử Trùng Minh. Ngay sau khi có được thông tin này tôi gần như quên hết mọi thứ khác trên đời.

Đó là vào năm thứ hai ở trường đại học. Một buổi sáng mùa xuân, quảng trường Russell tràn ngập khách du lịch và những cây thủy tiên hoa vàng trổ bông, tôi ngồi trong thư viện, tại một cái bàn mờ tối sau giá sách về Nhân loại học và đọc ngấu nghiến một tạp chí ít người biết đến. Tim tôi đập thình thịch - cuối cùng tôi đã tìm thấy một tài liệu nhắc tới vụ hành hình nói trên. Đó là một tài liệu chỉ mang tính tham khảo, thật ra khá mơ hồ và không có thông tin cốt yếu nhưng trong đó có một chi tiết khiến tôi gần như nhảy dựng trên ghế khi đọc được: “Chắc chắn là vào cuối những năm năm mươi tại đại học Giang Tô, người ta có nghe nhắc đến sự tồn tại của một đoạn phim mười sáu li ghi lại vụ hành hình này. Nhưng không giống như bộ phim của Magee, cho đến nay đoạn phim này vẫn chưa được đưa ra khỏi Trung Quốc.”

Vẫn không tin vào mắt mình, tôi vồ lấy quyển tạp chí, hạ cây đèn Angle Poise soi rõ trang giấy. Thật không thể tưởng tượng được là lại có một đoạn phim ghi lại những cảnh đó. Thử hình dung xem. Nếu đúng là có bộ phim như thế trên đời này, thì người ta có thể nói tôi là một kẻ xấu xa, là một đứa không biết gì nhưng không ai có thể nói tôi là một kẻ bịa đặt.

“Người ta nói rằng cuốn phim này là của Sử Trùng Minh, một trợ lý nghiên cứu trẻ tuổi ở đại học Giang Tô, người đã có mặt ở Nam Kinh vào thời điểm diễn ra vụ thảm sát năm 1937…”

Tôi đọc đi đọc lại những dòng này. Một cảm giác kỳ lạ xâm chiếm khắp người tôi, cái cảm giác bấy lâu bị kìm nén, bị trói chặt bởi sự nghi kị của các nhân viên trong bệnh viện. Chỉ khi một sinh viên ở bàn bên cạnh thở dài sốt ruột tôi mới nhận ra mình đang đứng sừng sững miệng lẩm nhẩm và hai cánh tay nổi da gà. Nó vẫn chưa được đưa ra khỏi Trung Quốc...

Đáng nhẽ tôi phải lấy cắp quyển tạp chí đó. Nếu tôi nhớ lại bài học trong bệnh viện thì tôi đã phải giấu quyển tạp chí đó bên trong chiếc áo len và mang nó ra khỏi thư viện. Như thế tôi có thể có cái gì đó để đưa cho Sử Trùng Minh xem, chứng minh cho ông ta thấy là tôi không hề dùng một trí tưởng tượng bệnh hoạn để thêu dệt nên chuyện này. Như thế ông ta sẽ không thể từ chối và sẽ để cho tôi hỏi những điều cần thiết.
Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder   Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder Icon_minitimeSun Feb 03, 2019 8:59 pm

Chương 2

Đối diện với chiếc cổng đồ sộ sơn đỏ theo kiểu kiến trúc Akamon của đại học Todai là một quán cà phê nhỏ có tên gọi là Bambi. Khi Sử Trùng Minh yêu cầu tôi rời khỏi văn phòng của ông thì tôi nghe theo, ngoan ngoãn thu gom đống giấy tờ ghi chép và nhét chúng trở lại vào trong túi. Nhưng tôi chưa bỏ cuộc. Chưa bỏ cuộc. Tôi bước vào quán cà phê và chọn một chỗ ngồi bên cạnh cửa sổ để tiện theo dõi những người đi ra đi vào trường đại học.

Bên ngoài, nhìn ngút tầm mắt là những tòa nhà chọc trời của Tokyo vươn cao lấp lánh, ánh mặt trời phản chiếu từ hàng triệu ô cửa kính nhỏ. Tôi ngồi hơi nghiêng về phía cửa sổ, ngỡ ngàng trước khung cảnh trên. Tôi đã được biết rất nhiều về thành phố phượng hoàng này, về việc Tokyo đã vươn lên như thế nào từ đám tro tàn của chiến tranh; nhưng giờ đây nhìn thấy thành phố này bằng xương bằng thịt thì đối với tôi nó gần như không có thật. Đâu rồi một Tokyo của thời chiến? Đâu rồi cái thành phố của những người lính đó? Có phải tất cả đã bị chôn vùi dưới những tòa nhà cao tầng này? Nó quá khác biệt với những hình ảnh đen tối mà tôi lưu giữ suốt bấy nhiêu năm về những tòa nhà ám đầy khói bụi, những đường phố bị đánh bom và những chiếc xe kéo tồi tàn. Tôi quyết định sẽ phải làm quen với ý nghĩ cái thành phố đầy sắt thép và bê tông này là một hóa thân của Tokyo, một thứ đã được đặt chồng lên thành phố cổ, trái tim đích thực vẫn đang đập của nước Nhật.

Cô phục vụ đang nhìn tôi chằm chằm. Tôi cầm tờ thực đơn lên và làm ra vẻ chăm chú nghiên cứu, mặt đỏ rần. Tôi không có tiền vì tôi không nghĩ là mọi chuyện lại diễn ra theo chiều hướng này. Để có đủ tiền mua vé máy bay tôi đã phải làm việc trong một nhà máy đóng gói thực phẩm đông lạnh đến tuột hết cả da tay. Khi tôi nói với trường đại học là tôi muốn tới Nhật để tìm Sử Trùng Minh thì họ tuyên bố giọt nước cuối cùng đã tràn ly. Hoặc là tôi ở lại Luân Đôn để hoàn thành những môn học mà tôi còn nợ hoặc là rời khỏi trường vĩnh viễn. Có vẻ như tôi đã “phung phí quá nhiều thời gian quý giá cho một số sự kiện ở Nam Kinh”: họ chỉ rõ những học phần dang dở, những tiết học quan trọng ở khoa luật mà tôi vắng mặt và những lần bị bắt gặp khi đang chúi mũi vào phác thảo những bức họa về Nam Kinh thay vì ghi chép về nền kinh tế năng động của châu Á Thái Bình Dương. Sẽ vô ích nếu xin họ tài trợ cho chuyến đi này nên tôi bán hết đồ đạc, vài chiếc đĩa CD, một chiếc bàn uống nước, một chiếc xe đạp đen cũ đã cùng tôi rong ruổi khắp Luân Đôn trong nhiều năm. Sau khi giải quyết xong vấn đề vé máy bay thì chẳng còn lại bao nhiêu - chỉ còn đủ vài đồng yên giắt trong chiếc túi du lịch.

Tôi vẫn nhìn cô phục vụ xem tôi có thể trì hoãn được bao lâu trước khi buộc phải gọi món gì đó. Cô ta bắt đầu có vẻ khó chịu nên tôi đành chọn thứ rẻ nhất trong thực đơn, một miếng dưa Danish tẩm đường. Năm trăm yên. Khi thức ăn được mang đến tôi cẩn thận đếm tiền và đặt nó vào một cái đĩa nhỏ theo đúng cách tôi quan sát được từ các thực khách khác.

Trong túi của tôi cũng có một ít thức ăn. Có lẽ sẽ không có ai để ý nếu tôi nhón một ít. Tôi đã cất trong túi du lịch tám túi bánh quy Rich Tea. Ngoài ra trong túi còn một chiếc váy len, hai chiếc áo sơ mi, hai chiếc quần nịt, một đôi giày da buộc dây, ba quyển sách tiếng Nhật, bảy quyển sách giáo khoa về chiến tranh Thái Bình Dương, một quyển từ điển và ba chiếc bút vẽ. Sau khi có được thông tin về bộ phim của Sử Trùng Minh, tôi trở nên mơ hồ với những chuyện sẽ xảy ra với mình, thật sự tôi đã không hề nghĩ tới những vấn đề thực tiễn. Mày phải tới đó thôi, Grey, tôi chỉ nghĩ có thế. Các bác sĩ đã luôn bảo mày thế nào? Cháu sẽ phải lường trước các khả năng có thể xảy ra, trong xã hội luôn có những quy tắc mà cháu sẽ phải tuân theo.

Grey.

Hiển nhiên đó không phải là tên thật của tôi. Thậm chí ngay cả bố mẹ tôi, những người ẩn mình trong một ngôi nhà cũ kỹ ở một xó xỉnh không đường giao thông, không xe cộ qua lại, cũng không kỳ dị tới mức đó. Không. Đó là cái tên mà tôi nhận được từ bệnh viện. Cô gái ở giường bên đã đặt cho tôi, cô gái này có nước da tai tái, đeo khuyên ở mũi, và mái tóc xỉn màu suốt ngày được cô gãi sột soạt. “Tớ muốn diện một tí, chỉ muốn chưng diện tí thôi mà.” Miệng cô lở loét, đóng vảy vì cô dán quá nhiều keo vào đó, có lần cô khóa cửa nhà vệ sinh rồi lấy cái móc áo mà cô xoáy được chọc vào cổ tay luồn lên tới tận nách. (Tôi không hiểu sao bệnh viện luôn để những người như chúng tôi ở cùng một khu. Chúng tôi ở khu bệnh nhân “tự hại”.) Cô gái này dường như luôn có một nụ cười tự mãn và tôi không nghĩ rằng cô sẽ nói chuyện với tôi. Một hôm khi chúng tôi đứng xếp hàng ăn sáng thì cô nhận ra tôi đứng ở phía sau. Cô quay lại nhìn tôi rồi phá ra cười. “Chà, tớ vừa mới nghĩ ra là trông cậu giống cái gì.”

“Cái gì cơ?”

“Một con grey. Cậu khiến tớ liên tưởng tới một con grey.”

“Là con gì?”

“À, khi cậu mới vào đây, cậu vẫn còn sống, nhưng,” cô nhe răng cười, chỉ tay vào mặt tôi, “nhưng bây giờ thì không, đúng không? Cậu chỉ là một bóng ma, Grey, giống như tất cả bọn tớ.”

Một con grey. Cuối cùng thì cô ấy cũng tìm thấy một bức tranh vẽ một con grey để giải thích cho tôi biết ý cô muốn nói gì. Đó là một sinh vật ngoài hành tinh với một cái đầu to, đờ đẫn, hai mắt kiểu côn trùng phẳng lì nằm ở trên cao, nước da nhợt nhạt kỳ quái. Tôi nhớ là mình ngồi trên giường nhìn chăm chăm vào quyển tạp chí, tay càng lúc càng lạnh, máu bắt đầu đông lại. Tôi là một con grey. Gầy gò, trắng toát và trong suốt. Trong tôi không còn cái gì sống động. Một bóng ma.

Tôi biết tại sao. Bởi vì tôi không còn biết tin vào cái gì nữa. Bố mẹ tôi không ủng hộ tôi, và vì một số lý do mà các bác sĩ tin rằng tôi bị điên, khởi đầu là những câu chuyện về tình dục. Rồi còn sự thiếu hiểu biết của tôi về thế giới xung quanh.

Phần lớn nhân viên trong bệnh viện đều thầm nghĩ rằng trường hợp của tôi khá kỳ quặc, được nuôi dạy bằng sách vở nhưng không bao giờ được nghe đài hay xem vô tuyến. Họ cười khi thấy tôi nhảy dựng lên khi nghe tiếng ôtô rồ ga hay tiếng xe buýt chạy rầm rầm trên phố. Tôi không biết cách sử dụng máy nghe nhạc Walkman hay điều khiển vô tuyến, và đôi khi họ tìm thấy tôi đang mắc kẹt ở một chỗ quái quỷ nào đó, cả người vấy máu, không nhớ nổi mình đã đến đó bằng cách nào. Họ không tin rằng đó chỉ là do tôi lớn lên ở một nơi hẻo lánh, hoàn toàn cách ly với thế giới bên ngoài. Thay vào đó họ cho rằng đó là một phần của bệnh điên.

“Chắc mày nghĩ sự thiếu hiểu biết là một kiểu bào chữa.” Bà y tá, người vẫn thường đến thăm tôi lúc nửa đêm và giận dữ rít vào tai tôi mọi nhận xét của bà ta, luôn cho rằng sự thiếu hiểu biết của tôi là tội lỗi lớn nhất. “Nó không phải là một lời bào chữa, mày biết đấy, nó không phải là một lời bào chữa. Không hề. Trong từ vựng của tao, sự thiếu hiểu biết đồng nghĩa với sự xấu xa, cực kỳ xấu xa. Và những gì mày làm cũng vậy, vô cùng xấu xa.”

Khi cô phục vụ bàn quay đi, tôi mở túi và lấy ra quyển từ điển tiếng Nhật. Có ba bảng chữ cái trong tiếng Nhật. Hai bảng chữ cái viết theo kiểu phiên âm, rất dễ hiểu. Nhưng còn hệ thống chữ cái thứ ba, có từ hàng thế kỷ trước, bắt nguồn từ chữ tượng hình của Trung Quốc thì phức tạp hơn rất nhiều nhưng cũng đẹp hơn nhiều. Đó là hệ chữ kanji. Tôi đã nghiên cứu chữ kanji trong nhiều năm nhưng mỗi lần đọc kiểu chữ này tôi đều thấy mình mới nhỏ bé làm sao. Khi bạn dừng lại để ngẫm nghĩ về chiều dài lịch sử của chữ viết này cùng với tất cả những gì ẩn chứa đằng sau mỗi bức tranh tượng hình nhỏ hơn cả con kiến, làm sao bạn lại có thể không cảm thấy mình chẳng khác nào một sự lãng phí không khí của trái đất.

Đối với tôi, chữ kanji có một tính logic tuyệt đẹp. Tôi hiểu tại sao một cái tai vẽ gần cái cửa có nghĩa là nghe. Tôi hiểu tại sao ba người đàn bà túm tụm lại với nhau có nghĩa là “ồn ào” và tại sao thêm vào bên trái bất cứ từ nào một kí tự hình giọt nước thì sẽ tạo ra một từ mới có liên quan tới nước. Nếu thêm kí tự đó vào bên trái từ cánh đồng thì sẽ tạo ra từ có nghĩa là biển.

Quyển từ điển luôn là bạn đồng hành của tôi. Đó là một quyển sách thân thuộc, mềm mại và nhỏ, có thể nằm gọn trong tay tôi, bìa màu trắng, gáy bọc da. Chính cô gái có mớ tóc quăn dài đã lấy cắp nó trong thư viện khi cô rời khỏi bệnh viện. Cô đã gửi tặng tôi qua đường bưu điện khi biết tôi sắp được ra viện. Trong sách có một tấm bưu thiếp do cô ấy viết: “Tớ tin cậu. Đừng từ bỏ niềm tin. Hãy ra ngoài và CHỨNG MINH ĐIỀU ĐÓ đi, cô gái.” Nhiều năm sau đó, những dòng chữ này vẫn luôn làm tôi cảm động.

Tôi giở trang đầu tiên của từ điển có in dấu tem thư viện. Tên của Sử Trùng Minh có nghĩa gì đó tương tự như “người nhìn rõ quá khứ và tương lai”. Tôi lục tìm chiếc bút dạ đỏ trong túi và bắt đầu vẽ các chữ kanji đan chéo, ngược xuôi cho đến khi màu đỏ phủ kín trang. Rồi tôi viết tên Sử Trùng Minh bằng tiếng Anh vào giữa những chỗ trống bằng những chữ cái nhỏ xíu, hết chữ này đến chữ khác. Khi không còn chỗ nữa tôi lật mặt sau của tờ giấy và vẽ bản đồ khu ký túc của trường đại học, thêm thắt vào đó một vài hàng rào và cây xanh theo trí nhớ. Khu ký túc rất đẹp. Mặc dù tôi mới chỉ nhìn thoáng qua nhưng trông nó không khác gì một xứ sở thần tiên giữa lòng thành phố với những cây bạch quả um tùm bao quanh các con đường rải sỏi trắng, những mái nhà trang trí cầu kỳ và róc rách âm thanh trong trẻo của một hồ nước xanh ngắt nằm trong rừng. Tôi vẽ cung thể thao rồi thêm thắt những chiếc đèn lồng bằng đá theo trí tưởng tượng của mình. Cuối cùng là văn phòng của Sử Trùng Minh, tôi tỉ mẩn vẽ mình đang đứng trước mặt ông. Chúng tôi đang bắt tay nhau. Tay kia của Sử Trùng Minh đang cầm một hộp đựng phim bằng sắt để chuẩn bị đưa cho tôi. Ngay cả trong trí tưởng tượng, tôi cũng cảm thấy mình đang run rẩy. Sau chín năm, bẩy tháng và mười tám ngày, cuối cùng tôi cũng đã tiến gần tới câu trả lời.

Sáu rưỡi chiều, trời vẫn còn nóng nhưng cánh cổng gỗ sồi nặng nề của Viện Khoa học Xã hội đã khóa và khi áp tai vào đó, tôi cũng không nghe thấy tiếng động nào từ bên trong. Tôi quay lại nhìn ra xung quanh chưa biết sẽ phải làm gì tiếp theo. Tôi đã đợi Sử Trùng Minh suốt sáu giờ đồng hồ trong quán cà phê Bambi và mặc dù không ai nói gì nhưng tôi vẫn thấy có nghĩa vụ gọi thêm mấy ly cà phê đá. Bốn ly cả thảy, cộng với bốn đĩa Danish. Cô phục vụ cứ nhìn đi chỗ khác là tôi lại liếm tay, đồng thời quệt nốt chỗ đường dính lại trên đĩa rồi thò tay xuống gầm bàn, lén lút lôi từ trong túi ra mấy chiếc bánh bích quy Rich Tea. Tôi phải bẻ vụn bánh dưới gầm bàn trước khi đưa tay lên miệng giả vờ ngáp. Ví tiền tôi ngày càng mỏng. Giờ thì tôi nhận ra đúng là chỉ mất thời gian. Chắc Sử Trùng Minh đã bỏ đi từ lâu bằng cửa khác. Có lẽ ông ta đoán là tôi đang đợi.

Tôi quay ra đường và lôi từ trong túi ra mấy tờ giấy được gấp lại. Một trong những công việc cuối cùng của tôi ở Luân Đôn là photo một cái bản đồ Tokyo. Nó được chia tỷ lệ rất lớn, gồm nhiều trang. Tôi đứng nghiên cứu tấm bản đồ trong ánh chiều tà giữa dòng người qua lại tấp nập. Tôi nhìn tới nhìn lui cái trục đường nơi tôi đang đứng. Nó giống như một cái vực sâu với những tòa nhà cao tầng san sát, dốc đứng, với đám đông người qua lại, những bảng điện neon và những cửa hiệu tấp nập, ồn ào. Tôi sẽ phải làm gì bây giờ? Tôi đã bỏ tất cả để tới đây gặp Sử Trùng Minh và bây giờ tôi không có chỗ nào để trú chân, không có việc gì để làm.

Sau khi nghiên cứu chán chê tập bản đồ mà vẫn không biết phải làm gì, tôi nhét chúng trở lại trong túi, đeo vào người rồi nhắm mắt lại và bắt đầu quay tròn, vừa quay vừa lớn giọng đếm. Khi đếm đến số 25 thì tôi mở mắt, phớt lờ ánh mắt hiếu kì của người qua đường, nhằm con đường trước mặt, thẳng tiến.


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder   Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder Icon_minitimeSun Feb 03, 2019 8:59 pm

Chương 3

Tôi đi lang thang hàng tiếng đồng hồ ở Tokyo, vẫn còn choáng ngợp bởi những tòa nhà chọc trời sừng sững như những vách núi làm bằng kính, những biển quảng cáo rượu và thuốc lá, khắp nơi vang lên những tiếng nói như tiếng người máy khiến tôi liên tưởng tới những ngôi nhà bí mật trên bầu trời. Tôi cứ đi quanh quẩn, không phương hướng, lúc nào cũng chỉ chăm chăm tránh không va vào các nhân viên công sở vừa tan ca, những người đi xe đạp và các em học sinh bé xíu trong bộ đồng phục sạch sẽ chỉnh tề và những chiếc cặp sách bằng da bóng lộn sau lưng như bộ cánh của con cánh cam. Tôi không biết là mình đã đi bao xa và mình đang đi về đâu. Tôi chỉ dừng lại khi ánh hoàng hôn trên phố đã tắt, khi mồ hôi thấm ướt áo, khi chiếc quai túi lằn một vết trên vai và chân tôi phỏng rộp vì chai. Tôi đang đứng trong sân của một ngôi đền dưới những cây tùng và gỗ thích, giữa bóng những cây hoa trà đang tàn. Nơi này rất lạnh và yên tĩnh, ngoại trừ thi thoảng, những cơn gió nhẹ thổi qua, khẽ lay động hàng trăm tấm bùa bình an treo đầy trên cành cây. Và rồi tôi nhìn thấy, xếp hàng như những bóng ma dưới tán cây là hàng hàng lớp lớp những pho tượng đá hài nhi. Hàng trăm bức tượng hài nhi với những chiếc mũ đỏ đan bằng tay.

Tôi ngồi phịch xuống một chiếc ghế đá và nhìn chúng chăm chăm. Lũ nhỏ đứng thành hàng thẳng tắp, tay ôm những con gấu bông hay những chiếc chong chóng nhỏ, có bé còn đeo cả yếm dãi. Chúng như đang nhìn về phía tôi, từng hàng, từng hàng những bức tượng đá trẻ con với gương mặt buồn bã, trống rỗng. Những đứa trẻ này cùng với vẻ biểu cảm của chúng có thể làm người ta bật khóc, nên tôi đứng dậy đi tìm một chiếc ghế khác để khỏi phải nhìn thấy chúng. Tôi cởi giày và tháo tất ra. Hai bàn chân trần trở nên thoải mái hơn trong không khí mát mẻ. Tôi duỗi chân ra phía trước và ngọ nguậy các ngón chân. Ở phía cổng ra vào của điện thờ có một chum nước. Nó được dành cho những người đi lễ rửa tay tẩy uế, nhưng tôi đến đó và lấy một chiếc gáo tre múc ít nước dội xuống chân. Nước mát lạnh và trong vắt, tôi liền vốc nước vào lòng bàn tay đưa lên miệng uống. Khi tôi quay trở lại chiếc ghế đá thì lũ trẻ dường như vừa mới di chuyển. Có vẻ như chúng vừa đồng loạt lùi lại một bước, như thể sửng sốt trước hành động thất lễ của tôi ở chốn linh thiêng này. Tôi lại nhìn chúng trong giây lát. Rồi tôi quay trở lại chiếc ghế, lấy ra một túi bánh quy và bắt đầu nhai lạo xạo.

Tôi không có nơi nào để đi. Trời đêm ấm áp và công viên nơi tôi ngồi rất yên tĩnh, ánh đèn đỏ trắng của Tháp Tokyo nhấp nháy trên đầu tôi. Khi ánh mặt trời vừa tắt thì những bóng đèn điện lại lóe sáng trên các cành cây và những người vô gia cư bắt đầu xuất hiện trên những chiếc ghế xung quanh tôi. Những người lang thang này dù hoàn cảnh khác nhau nhưng có vẻ như đều mang bữa tối đạm bạc theo mình với những chiếc đũa gỗ, một số người còn đựng thức ăn trong những hộp cơm bằng sơn mài. Tôi vừa gặm nhấm gói bánh quy vừa quan sát họ từ chỗ ngồi của mình. Họ ăn cơm của họ và cũng nhìn tôi.

Một người đàn ông trong số đó mang theo một đống bìa các tông và đặt xuống gần cổng đền rồi ngồi lên trên. Ông ta gần như không mặc gì ngoài một chiếc quần bẩn thỉu, vàng ố, cạp quần cáu ghét. Ông ta nhìn tôi rất lâu rồi phá ra cười, trông giống như một ông Phật tí hon vừa lăn trong hồ bóng. Tôi không cười. Tôi ngồi trên ghế, im lặng nhìn ông ta. Ông ta khiến tôi nhớ tới một bức ảnh trong quyển sách giáo khoa tiếng Nhật của tôi, chụp một người đàn ông sắp chết đói ở Tokyo sau chiến tranh. Đó là năm đầu tiên khi tướng MacArthur bắt đầu thiết lập các ủy ban quân quản trên đất Nhật, người Nhật sống bằng những thứ thực phẩm như cuộng rau bí, lá trà, hạt giống, vỏ lạc, mùn cưa và quả sồi. Người người chết đói trên đường phố. Người đàn ông trong ảnh có một mảnh vải trải ra trước mặt trên bày hai cái thìa con xấu xí. Khi tôi còn bé, tôi luôn luôn bị ám ảnh bởi hai chiếc thìa này. Chúng không có gì đặc biệt, không phải là những chiếc thìa bằng bạc hay được chạm khắc cầu kỳ, chúng chỉ là hai chiếc thìa hết sức bình thường. Nhưng có lẽ nó là thứ duy nhất mà ông ta có, và ông ta cần có thức ăn tới mức ông ta tin rằng ông ta có thể bán nó cho một người có mọi thứ trên đời nhưng chỉ còn thiếu hai chiếc thìa con bình thường của ông ta.

Người ta gọi đó là sự tồn tại kiểu măng tre, hay một cuộc đời giống như củ hành, mỗi lớp vỏ được bóc ra lại làm ta chảy nước mắt nhiều hơn. Và dù cho ta có may mắn kiếm được thức ăn thì cũng không dám mang về nhà vì bệnh kiết lị sinh sôi nảy nở từ những lớp bùn đặc quánh trên đường phố có thể bám vào đó để theo về gia đình ta. Những đứa trẻ vừa đến từ Mãn Châu, đứng bơ vơ trên các cầu cảng, cổ đeo những hộp gỗ trắng đựng tro cốt của người thân.

Có lẽ đó là cái giá cho sự thiếu hiểu biết, tôi nghĩ và nhìn người hành khất ăn mặc rách rưới kia. Có lẽ nước Nhật đã phải trả giá cho sự bàng quan đối với những gì họ đã làm ở Nam Kinh. Bởi vì, sự thiếu hiểu biết, như tôi đã được nghe nhắc nhở quá nhiều lần, không phải là một cách bào chữa cho tội ác.

Những người vô gia cư đã bỏ đi khi tôi thức dậy vào buổi sáng hôm sau. Thay vào chỗ họ là một người đàn ông phương Tây trạc tuổi tôi, chân dang rộng đang ngồi chống cằm nhìn tôi chăm chú. Anh ta mặc một chiếc áo phông bạc màu có in dòng chữ Big Daddy Blake/Killtime Mix và một sợi dây đeo cổ bằng da có mặt dây chuyền giống như một chiếc răng cá mập. Mắt cá chân của anh ta để trần và rám nắng, anh ta đang nhìn tôi cười như thể tôi là một sinh vật ngộ nghĩnh nhất mà anh ta từng thấy. “Này,” anh ta nói và giơ tay ra chào tôi. “Trông cô thoải mái thật. Giấc ngủ thiên thần.”

Tôi vội vàng đứng dậy khiến chiếc túi xách rơi xuống đất. Tôi lôi chiếc áo len ra và quàng vào người, vừa lấy tay gỡ tóc vừa liếm mấy ngón tay rồi vội vã đưa lên quệt mắt, lau miệng. Tôi biết là anh ta vẫn đang mỉm cười và nhìn tôi với cái kiểu mọi người vẫn thường nhìn tôi, vừa ngạc nhiên vừa thích thú.

“Này, cô có nghe tôi nói gì không đấy?” Anh ta đứng dậy và tiến lại gần tôi, bóng anh ta đổ dài trên chiếc túi xách của tôi. “Tôi nói, cô có nghe thấy tôi không? Cô có biết nói tiếng Anh không?” Anh ta nói với một giọng tiếng Anh rất lạ, không biết là giọng Anh, Mỹ hay Úc, có thể là cả ba, như thể anh ta đến từ một bãi biển nào đó. “Cô-có-biết-nói-tiếng-Anh-không?”

Tôi gật đầu.

“À thì ra cô cũng nói được tiếng Anh?”

Tôi lại gật đầu.

Anh ta ngồi xuống bên tôi và chìa tay ra ngay dưới mắt tôi khiến tôi không thể không nhìn. “Vậy thì xin chào, tôi là Jason.”

Tôi nhìn chằm chằm vào tay anh ta.

“Tôi nói xin chào, tôi nói tôi là Jason.”

Tôi bắt tay anh ta một cách vội vàng rồi ngồi nép sang một bên vì không muốn chạm vào người anh ta và dò dẫm tìm chiếc túi dưới gầm ghế. Giống hệt như ở trường đại học, tụi con trai luôn trêu tôi vì lúc nào tôi cũng thủ thế, lúc nào tôi cũng có cảm giác như sắp rơi xuống một cái hố. Tôi tìm thấy đôi giày và bắt đầu đi vào chân.

“Giày của cô đấy à?” Anh ta hỏi. “Cô định đi chúng thật à?”

Tôi không trả lời. Đúng là đôi giày đã quá lỗi mốt. Một đôi giày màu đen buộc dây, cứng nhắc, đế dày cộp, đúng là không phù hợp cho một ngày nóng nực ở Tokyo.

“Cô lúc nào cũng cư xử một cách thô lỗ vậy sao?”

Tôi kéo giày lên và bắt đầu buộc dây giày, siết chặt hơn bình thường, khiến ngón tay tôi trắng bệch ra và những vết chai ở mắt cá chân cọ vào lớp da giày thô cứng.

“Được đấy,” anh ta nói vẻ hài lòng. “Cô đúng là một người lập dị.”

Có cái gì đấy trong cách nói của anh ta khiến tôi dừng tay lại và quay sang nhìn anh ta chằm chặp. Những tia nắng len lỏi qua hàng cây phía sau lưng anh ta và tôi cảm thấy có phần bị ấn tượng với mái tóc sẫm màu cắt ngắn với một chút bò liếm ở sau gáy và tai. Tôi không muốn thú nhận nhưng đúng là có những lúc, tôi không thể nghĩ đến bất cứ cái gì khác ngoài chuyện tình dục.

“Đúng vậy, cô đúng là một kẻ lập dị. Không phải sao? Lập dị một cách duyên dáng. Một cách rất Anh. Có phải cô là người Anh không?”

“Tôi...” Phía sau lưng anh ta những đứa trẻ bằng đá vẫn đứng yên trong hàng, những tia nắng đầu tiên xuyên qua đám lá cây, rọi lên những giọt sương đêm đọng trên vai và trên mũ. Xa xa những tòa nhà chọc trời tĩnh lặng đang phản chiếu hình ảnh của một Tokyo mỏng mảnh và thanh khiết như một hồ nước trong hang núi.

“Tôi không...” Tôi yếu ớt nói. “Tôi không biết ngủ ở đâu nữa.”

“Cô không có khách sạn à?”

“Không.”

“Thế cô vừa mới tới đây à?”

“Vâng.”

Anh ta cười phá lên. “Ở chỗ tôi có một phòng đấy. Đúng hơn là khoảng một trăm phòng.”

“Ở chỗ của anh?”

“Đúng vậy. Nhà của tôi. Cô cũng có thể thuê một phòng ở đó.”

“Nhưng tôi không có tiền.”

“Ái chà, tệ thật! Chúng ta đang ở Tokyo. Đừng nghe lời các nhà kinh tế học, ở đây vẫn có các xe tải chở đầy tiền. Cô chỉ cần mở mắt ra là thấy. Góc phố nào cũng có các hộp đêm.” Các cô gái ở trường đại học vẫn thường mơ tưởng đến chuyện làm việc trong các hộp đêm ở Tokyo. Họ nói đi nói lại về số tiền kếch sù mà họ kiếm được cũng như những món quà tặng đắt tiền của khách hàng. Những lúc đó, tôi thường ngồi thu lại một góc và nghĩ rằng bạn phải hết sức duyên dáng để có đủ tự tin làm việc đó.

“Tôi làm phục vụ bàn ở một trong những hộp đêm đó. Tôi có thể giới thiệu cô với Mama-san nếu cô muốn.”

Mặt tôi bắt đầu đỏ bừng. Anh ta không thể hình dung được cảm giác của tôi về viễn cảnh làm việc trong một hộp đêm. Tôi quay đi và buộc nốt dây giày rồi đứng dậy vuốt lại quần áo cho phẳng.

“Nghiêm túc đấy. Kiếm bộn tiền. Suy thoái kinh tế chưa chạm đến các hộp đêm. Và Mama-san thì rất thích những kẻ lập dị.”

Tôi không trả lời. Tôi kéo khóa áo len, tròng chiếc túi qua đầu để quai túi vắt chéo trước ngực rồi vụng về nói: “Xin lỗi. Tôi phải đi.” Tôi bỏ đi, hai tay khoanh lại. Một cơn gió nhẹ khẽ thổi qua làm quay tít những chiếc chong chóng trên tay các em bé. Trên đầu tôi, ánh nắng lấp lánh trên những tòa nhà chọc trời.

Anh ta bắt kịp tôi ở cổng công viên. “Này,” anh ta gọi. Tôi không dừng lại nên anh ta bước đi song song cạnh tôi, cười toe toét. “Này, cô gái kỳ dị. Đây là địa chỉ của tôi.” Anh ta chìa tay ra và tôi dừng lại nhìn. Anh ta cầm một mẩu bìa xé từ bao thuốc lá có địa chỉ và số điện thoại ghi bằng bút bi. “Cầm lấy. Cô sẽ vui khi ở với chúng tôi.”

Tôi nhìn xuống tờ địa chỉ.

“Cầm lấy nào.”

Tôi chần chừ một lát rồi cầm lấy, mẩu giấy lạo xạo khi tôi khoanh hai tay lại, rồi tôi cắm đầu đi tiếp. Sau lưng tôi, anh ta cười và nói: “Cô đúng là lạ, cô gái kỳ quặc. Tôi thích cô đấy!”

Buổi sáng hôm đó, sau khi mang ra một suất Danish và một ly cà phê đá, cô phục vụ bàn ở quán cà phê Bambi còn đặt trên bàn tôi thêm một đĩa cơm to với vài miếng chả cá, hai đĩa dưa góp và một bát xúp miso.

“Ồ không, tôi không gọi những món này,” tôi nói bằng tiếng Nhật.

Cô gái liếc nhìn về phía người quản lý đang kiểm tra hóa đơn tại quầy thu tiền rồi quay lại phía tôi, đưa mắt nhìn lên trần nhà và đặt một ngón tay lên miệng. Đến khi tính tiền tôi thấy cô chỉ ghi trong hóa đơn có món Danish mà thôi. Tôi ngồi ngẩn người ra, không biết phải nói gì nữa, chỉ biết nhìn chằm chằm vào cô phục vụ lúc này đang tíu tít đi từ bàn này sang bàn khác rút cuốn sổ ghi chép nhỏ ra khỏi chiếc túi ở tạp dề và lấy chiếc bút bi Maruko Chan màu hồng gãi gãi đầu. Không phải lúc nào bạn cũng được hưởng một sự đối xử hào phóng đến vậy, ít nhất là theo những gì tôi được biết. Tôi đột nhiên tò mò không biết bố cô ấy là người thế nào, cả ông nội cô ấy nữa. Tôi băn khoăn không biết liệu ông có bao giờ trò chuyện với cô về những gì đã xảy ra ở Nam Kinh. Trong nhiều năm, các trường học ở Nhật Bản không dạy học sinh về vụ thảm sát ở Nam Kinh. Tất cả những gì liên quan đến cuộc chiến này đều bị đưa ra khỏi sách giáo khoa. Phần lớn thanh niên Nhật chỉ có một khái niệm hết sức mơ hồ về những gì xảy ra ở Trung Quốc năm 1937. Tôi tự hỏi không biết cô phục vụ bàn có biết đến cái tên Nam Kinh hay không nữa.

Có những thứ bạn phải nghiên cứu rất lâu trước khi có thể hiểu được nó. Chín năm, bảy tháng, mười tám ngày. Ấy thế mà dường như vẫn chưa đủ. Thậm chí với tất cả những gì mà tôi đã đọc về quãng thời gian người Nhật chiếm đóng Trung Quốc, tôi vẫn chưa thực sự hiểu tại sao vụ thảm sát lại có thể xảy ra. Có vẻ như các chuyên gia, bao gồm các nhà xã hội học, tâm lí học và sử học thì hiểu được chuyện đó. Họ nói rằng đó là vì sợ hãi. Rằng quân đội Nhật lúc đó vừa đói, vừa mệt, vừa sợ hãi khi phải đổ xương máu cho cuộc tấn công vào Thượng Hải, lại phải đương đầu với bệnh tả và kiết lị, cho nên sau khi hành quân qua nửa đất nước Trung Hoa, đến gần tới thủ đô thì sức chịu đựng của họ đã vượt quá giới hạn cho phép. Một số nhà nghiên cứu cho rằng lính Nhật lúc đó là sản phẩm của một xã hội khao khát quyền lực, họ đã bị tẩy não, xem người Trung Quốc như một loài hạ đẳng. Một số khác thì cho rằng một quân đội như thế khi tiến vào Nam Kinh và nhìn thấy hàng trăm nghìn thường dân vô tội trốn chui trốn lủi trong những tòa nhà bị trúng bom... thì những gì xảy ra tiếp theo đó không có gì đáng ngạc nhiên.

Quân đội Thiên hoàng đã không tốn nhiều thời gian. Chỉ trong vòng vài tuần họ đã tàn sát khoảng ba trăm nghìn thường dân. Người ta kể rằng, sau vụ tàn sát đó, xác người chất thành cầu, nối liền hai bờ sông Dương Tử. Lính Nhật nghĩ ra đủ kiểu giết người mới lạ như chôn thanh niên xuống cát ngập đến cổ rồi cho xe tăng cán qua đầu; cưỡng hiếp người già, trẻ em và súc vật; dùng cực hình, tra tấn, chém đầu, phanh thây; họ dùng trẻ em làm bia cho các buổi tập trận bằng lưỡi lê. Bạn không thể mong đợi những người đã từng chứng kiến cuộc tàn sát đó lấy lại niềm tin vào người Nhật.

Trong phòng làm việc của Sử Trùng Minh có một chiếc máy chiếu 16 li. Suốt đêm tôi chỉ nghĩ đến nó. Cứ mỗi khi bắt đầu nghĩ rằng mình đã tưởng tượng ra bài báo đó, tôi lại thì thầm với mình, “Một giáo sư xã hội học cần đến máy chiếu phim để làm gì?”

Ngày hôm sau, ông xuất hiện ở trường đại học khoảng trước mười giờ sáng một chút. Tôi nhìn thấy ông từ xa, trông giống như một đứa trẻ di chuyển khó khăn trên vỉa hè. Ông mặc chiếc áo hải quân cài khuy lệch hoàn toàn không theo phong cách Nhật, tập tễnh dựa vào cây gậy, tốc độ chỉ bằng nửa người thường, chiếc mũ dân chài bằng nhựa màu trắng sụp xuống che mái tóc dài bạc trắng. Tôi nhìn ông bước xuống đường, tiến về phía mình, chờ cho ông đến gần cánh cổng sơn đỏ.

“Chào ông,” tôi bước lên phía trước và Sử Trùng Minh dừng lại.

Ông giận dữ nhìn tôi. “Đừng nói gì với tôi,” ông lầm bầm. “Tôi không muốn nói chuyện với cô.” Ông tập tễnh bước về phía trường. Tôi đi bên cạnh ông. Xét ở một khía cạnh nào đó, cảnh tượng chắc hẳn có vẻ khá lịch sự, một học giả nhỏ bé khắc khổ bước đi tập tễnh, giả vờ như không hề có một đứa con gái ngoại quốc cao lênh khênh khoác bộ quần áo kỳ quặc bám theo sau. “Tôi không thích những gì cô mang đến.”

“Nhưng ông phải nói chuyện với tôi. Đây là chuyện hệ trọng nhất trên đời.”

“Không. Cô tìm nhầm người rồi!”

“Tôi không tìm nhầm người. Chính là ông. Sử Trùng Minh. Trong bộ phim của ông có thứ mà tôi đã tìm kiếm suốt gần mười năm qua. Chín năm, bảy tháng và...”

“Và mười tám ngày. Tôi biết. Tôi biết. Tôi biết.” Ông đột ngột dừng lại và quay sang nhìn tôi. Sự giận dữ khiến trên mống mắt ông xuất hiện những đốm nhỏ màu da cam. Ông nhìn tôi rất lâu và tôi nhớ lại cảm giác mơ hồ rằng chắc hẳn tôi khiến ông nhớ tới một chuyện gì đó vì nét mặt ông bỗng trở nên rất đăm chiêu. Cuối cùng ông thở dài, lắc đầu: “Cô đang ở đâu?”

“Ở đây, ở Tokyo. Và hôm nay đã là bảy tháng và mười chín ngày.”

“Vậy thì nói cho tôi biết tôi có thể liên lạc với cô ở đâu. Có thể trong một hai tuần tới, khi tôi rỗi rãi hơn, có thể tôi sẽ cho cô phỏng vấn về thời gian tôi ở Nam Kinh.”

“Một tuần? Ôi, không, tôi không thể đợi được. Tôi không có lấy...”

Ông ta hắng giọng vẻ sốt ruột. “Hãy cho tôi biết một chuyện,” ông nói. “Cô có biết những người giàu có ở Trung Quốc sẽ làm gì để con trai họ học tiếng Anh không?”

“Xin lỗi, tôi không hiểu ông định nói gì?”

“Cô có biết họ đi xa tới mức nào không?” Ông uốn lưỡi lên rồi chỉ vào phần cơ nối phía dưới lưỡi. “Họ cắt lưỡi con trai họ, ngay dưới này này, khi chúng ba hoặc bốn tuổi. Chỉ để lũ trẻ có thể phát âm chữ r trong tiếng Anh.” Ông gật đầu. “Vậy đấy! Thế cô thấy tiếng Anh của tôi thế nào?”

“Hoàn hảo.”

“Ngay cả khi tôi không có bố mẹ giàu có và không cần phải phẫu thuật.”

“Đúng vậy.”

“Đó là do rèn luyện chăm chỉ. Tất cả chỉ có vậy. Hai mươi năm chuyên cần. Và cô có biết chuyện gì không? Tôi không chuyên cần học tiếng Anh hai mươi năm để rồi lãng phí lời nói của mình. Do đó, tôi nói một tuần. Thậm chí là hai tuần. Đó là những gì tôi muốn nói.”

Rồi ông tập tễnh bỏ đi. Tôi lại bám theo.

“Tôi xin lỗi, thôi thì một tuần cũng được.”

Tôi chạy lên phía trước, quay về phía ông và giơ hai tay ra để chặn ông lại. “Tôi đồng ý. Một tuần. Tôi sẽ... Tôi sẽ gọi điện cho ông. Một tuần nữa tôi sẽ đến gặp ông.”

“Tôi không phụ thuộc vào thời khóa biểu của cô được. Tôi sẽ gọi cho cô khi tôi đã sẵn sàng.”

“Tôi sẽ gọi cho ông. Một tuần nữa.”

“Tôi không nghĩ thế,” Sử Trùng Minh bước sang một bên định vượt qua tôi.

“Xin đợi một chút.” Tôi căng óc ra nghĩ. “Được rồi, xem nào.” Tôi tuyệt vọng vỗ tay dò tìm trong mớ quần áo, cố gắng nghĩ xem phải làm gì. Tôi lưỡng lự, cánh tay treo lơ lửng trên túi áo. Trong túi có một thứ. Một miếng vỏ hộp thuốc lá mà Jason trao cho tôi. Tôi hít một hơi dài: “Đây là địa chỉ của tôi. Để tôi viết lại cho ông.”


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder   Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder Icon_minitimeSun Feb 03, 2019 9:00 pm


Chương 4

Ai đó chợt xuất hiện trong đời tôi. Một cách đột ngột. Không mong đợi. Cô ta cứ vo ve xung quanh giống như một con ong bắp cày cứng đầu, và hai lần làm tôi mất cảnh giác. Những hai lần! Cô ta la hét và đưa ra những tuyên bố hùng hồn, cô ta vung tay lên trời và nhìn tôi với một vẻ đầy hăm dọa như thể tôi là người duy nhất chịu trách nhiệm về những điều xấu xa xảy ra trên thế giới này. Cô ta nói cô ta muốn thảo luận về những gì đã xảy ra ở Nam Kinh.

“Muốn?” Không đúng, muốn không phải là một từ chính xác. Có cái gì đó còn mạnh mẽ hơn là muốn. Đó là một căn bệnh. Cô ta phát điên vì muốn được nghe nói về Nam Kinh.

Có đôi lần, tôi đã thấy hối tiếc biết bao về thời kỳ tiền cách mạng văn hóa ở Giang Tô, những ngày xa xưa khi tôi hài lòng với vị trí của mình ở trường đại học tới mức tôi đã cho phép mình nhắc đến những gì xảy ra ở Nam Kinh. Bây giờ tôi mới thấy giận bản thân biết bao khi đã buột miệng ám chỉ tới những sự kiện đã xảy ra ở Nam Kinh vào mùa đông năm 1937. Tôi đã tin rằng mọi chuyện chỉ dừng lại ở đó. Tôi đã tin. Tôi đã cho rằng chắc chắn sẽ không còn ai nhắc lại chuyện đó nữa. Làm sao lúc ấy tôi có thể biết được những lời buột miệng trong một cơn ngẫu hứng của mình một ngày nào đó lại được nhắc đến trong một tạp chí phương Tây để rồi lọt vào mắt và trở thành một đề tài ám ảnh cô gái xa lạ này? Tôi đang rơi vào trạng thái tuyệt vọng vì tất cả những chuyện này. Tôi đã hai lần bảo với cô ta là hãy để tôi yên nhưng cô ta không chịu và hôm nay tôi đã bị cô ta dồn vào chân tường để cuối cùng đành phải đồng ý sắp xếp một cuộc hẹn khác.

Nhưng (ôi, đây mới chính là vấn đề nan giải), điều thực sự gây phiền não cho tôi không phải là sự ngoan cố của cô ta mà là một cái gì đó sâu xa hơn nhiều. Bởi vì một cái gì đó trong sự quyết tâm của cô ta đã khiến tôi lung lay. Tôi bắt đầu cảm thấy một mối bất an mới, một mối bất an đen tối và không thể không băn khoăn liệu cô ta có phải là một điềm báo, liệu sự xuất hiện đột ngột của cô ta ở nơi này, quyết tâm không thể lay chuyển của cô ta về việc lục lại đám tro tàn quá khứ của Nam Kinh có phải điềm báo rằng chương cuối cùng của quyển nhật ký đã đến gần hơn tôi tưởng.

Đó là một sự điên rồ! Trong bấy nhiêu năm tôi đã giữ vững lời thề không bao giờ nhớ về cái mùa đông đó nữa, không bao giờ đọc lại những gì tôi đã viết vào năm đó. Tôi đã kiên quyết giữ lời, thế mà không hiểu tại sao hôm nay sau khi nói chuyện với cô ta tôi đã trở về văn phòng, lần tìm theo bản năng chiếc ngăn kéo nơi cất giữ quyển nhật ký cũ kỹ và đặt nó lên bàn, nơi tôi vẫn có thể nhìn mà không chạm vào nó. Tôi tự hỏi tại sao, tại sao sau bằng ấy năm bây giờ tay tôi lại tự nhiên ngứa ngáy muốn lật giở trang đầu tiên của quyển nhật ký này? Tất cả những gì tôi có thể làm là không đưa tay ra và nhìn nó đầy thèm khát. Cô ta đã đánh thức ham muốn chết người nào vậy? Có lẽ tôi nên chôn nó đi. Đúng vậy, chôn vùi nó đâu đó, có thể ngay dưới đống sách vở này hay giấu nó vào trong một ngăn tủ bếp nơi tôi sẽ nhanh chóng quên đi sự tồn tại của nó, nơi nó sẽ không bao giờ còn làm tôi rối trí được nữa.

Hay là (và đến đây chắc hẳn giọng tôi đã trở nên im bặt), hay là tôi sẽ đọc nó. Tôi sẽ mở nó ra và bắt đầu đọc. Chỉ một câu thôi. Chỉ một đoạn thôi. Suy cho cùng, tôi giữ lại quyển nhật ký bốn mươi nghìn từ về cuộc thảm sát này làm gì nếu không phải để đọc lại nó. Những dòng chữ này thì có làm gì được tôi? Chẳng lẽ chúng có thể đâm xuyên da thịt tôi ư? Và đâu có ai quan tâm nếu tôi phá bỏ lời thề của mình để nghiến ngấu những dòng nhật ký này? Có lẽ những lời thề sinh ra là để bị phá vỡ...

Tôi tự hỏi liệu tôi rồi có nhận ra chính mình? Tôi tự hỏi, liệu tôi có bận tâm?

史 Nam Kinh, ngày 28 tháng Hai năm 1937 (ngày mười tám tháng Mười một theo lịch của Thu Kim)

Mặt trời bị làm sao thế kia? Hẳn có gì bất thường khiến mặt trời lúc bình minh trông lạ lùng đến thế! Tôi ngồi bên khung cửa sổ quen thuộc, ô cửa sổ duy nhất hướng về phía Đông, lòng tràn ngập một mối bất an. Tay tôi run lên khi viết những dòng này. Mặt trời đỏ thắm. Dường như trời và đất đang có một âm mưu mờ ám chống lại loài người nên những tia nắng được sắp xếp một cách đối xứng, vắt ngang qua bầu trời thành những vạch đỏ sẫm. Trông hoàn toàn giống như... Hoàn toàn giống như...

Trời ơi! Chuyện gì thế này? Thậm chí tôi còn không dám viết ra những từ đó. Chuyện điên rồ gì đây? Đọc được những dấu hiệu trên bầu trời cơ đấy! Tôi phải quay đi và không được suy nghĩ lung tung nữa. Tôi đang có nguy cơ nói năng linh tinh như Thu Kim hay trở thành một người mê tín như cô ấy. Tôi thường xuyên lo lắng cho Thu Kim. Nếu cô ấy thức dậy vào lúc này, cô ấy sẽ nhìn chăm chú về phía chân trời và suy xét theo kiểu nhà quê rằng có mười mặt trời thay nhau mọc lên ở đằng Đông. Mười mặt trời này phải bơi qua thế giới bên kia rồi lần lượt xuất hiện ở phía Đông theo một chu kì khép kín. Vào lúc như thế này, Thu Kim sẽ nhìn mặt trời một lúc rồi tuyên bố hẳn một mặt trời đã gặp tai nạn khi bơi qua thế giới bên kia, có lẽ nó đã bị thương, một điềm báo cho một cái gì đó khủng khiếp sắp xảy ra. Thu Kim luôn lặp đi lặp lại là cô ấy có thể nhìn thấy tương lai vì một lẽ đơn giản, tương lai chính là những gì đã xảy ra trong quá khứ.

Tôi không muốn tranh cãi về các tín ngưỡng dân gian của cô ấy. Tôi luôn bất lực khi đối mặt với niềm tin của cô ấy. “Đừng bao giờ cố thay đổi con bé,” mẹ tôi đã nhắc tôi như thế trước khi bà qua đời. “Ngà voi không bao giờ mọc ra từ miệng chó, con biết đấy.”

Thế nhưng dù cho đã trở nên dễ thích nghi hơn thì tôi vẫn chưa hoàn toàn mất trí. Dù cho rõ ràng không cần phải thay đổi Thu Kim, nhưng cũng không cần phải cổ vũ cho sự mê tín của cô ấy. Như lúc này đây, không cần phải lôi cô ấy ra khỏi giường để vào trong thư phòng, nơi tôi đang ngồi trên ghế sofa kinh hoàng nhìn ngắm mặt trời.

Mặt trời lúc này còn xuống thấp hơn, nóng rẫy, đỏ rực, giống như một lão khổng lồ đang soi mói thành phố. Thu Kim sẽ gọi đó là một điềm báo. Nếu nhìn thấy nó, cô ấy có thể sẽ làm những chuyện tức cười như chạy xung quanh nhà và la hét ầm ĩ. Do đó tôi đành giữ nó cho riêng mình. Tôi sẽ không nói với bất cứ ai rằng ngày hôm nay tôi đã chứng kiến mặt trời Trung Hoa mọc lên với màu sắc và hình dáng của Hi No Maru, biểu tượng mặt trời mọc trên lá cờ của quân đội Thiên hoàng Nhật Bản.

Thế là xong! Tôi nên ném quyển sách xuống và ôm mặt vì xấu hổ. Tôi đã phá vỡ lời thề. Thật kỳ lạ là sau bao nhiêu năm không khoan nhượng, tôi lại từ bỏ, lại đầu hàng một cách chóng vánh, đột ngột vào một sáng mùa hè không có gì đặc biệt như thế này. Giờ đây khi tôi đưa tay lần giở từng trang của quyển nhật ký, tôi tự hỏi liệu tôi có tìm thấy cái gì mới mẻ? Những trang giấy đã cũ, mực viết đã mờ và nhũng chữ viết kiểu kaishu trông cổ lỗ một cách kỳ lạ. Nhưng - và thật khôi hài biết bao khi phát hiện ra rằng những vấn đề trọng yếu vẫn y nguyên như cũ - nỗi sợ hãi vẫn không thay đổi. Tôi vẫn nhận ra nỗi sợ hãi mà tôi cảm thấy vào buổi sáng cách đây hơn năm mươi năm về trước. Giờ đây, tôi cũng có cùng một cảm giác như thế khi tôi kéo tấm rèm cửa sổ, nhìn ra ngoài và thấy mặt trời đang chiếu xuống Tokyo.


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder   Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder Icon_minitimeSun Feb 03, 2019 9:00 pm


Chương 5

Ngày hôm đó trời nóng nực và dài lê thê tới mức các vỉa hè cũng chảy mồ hôi nhớp nháp dưới chân. Mồ hôi toát ra từ những máy điều hòa không khí, rỏ lên người đi đường phía dưới và Tokyo dường như đang chuẩn bị trôi ra khỏi lục địa và xèo xèo trượt vào trong đại dương. Tôi tìm thấy một quầy bán báo và mua một lon trà xanh ướp lạnh kèm vài chiếc kẹo sôcôla dừa tan ngay trong miệng. Tôi vừa đi lướt thướt trên đường vừa ăn uống và ngay lập tức cảm thấy khỏe hơn một chút. Tôi rẽ vào đường xe điện ngầm và lẫn vào dòng người sạch sẽ, sáng láng, chiếc áo len chui cổ bẩn thỉu của tôi cọ vào những chiếc sơ mi phẳng phiu mới giặt của họ. Tôi để ý thấy người dân Tokyo không có mùi. Thật buồn cười. Tôi không ngửi thấy mùi của họ và họ cũng ít nói, tàu điện ngầm chật cứng nhưng rất im ắng giống như một toa tàu chở đầy các manơcanh.

Ngôi nhà của Jason nằm trong một khu có tên là Takadanobaba, có nghĩa là Bãi ngựa thượng. Khi tàu dừng, tôi thận trọng đặt chân lên bậc lên xuống, tò mò quan sát máy móc và những biển quảng cáo nước tăng lực. Ai đó va vào tôi và sau đó là một phút bấn loạn khi những người đi sau cố không bị ngã theo người đi trước. Hãy nhớ lấy, trong xã hội có những quy tắc mà cháu luôn phải tuân theo.

Bên ngoài ga tàu điện ngầm, đường phố chật cứng sinh viên từ trường đại học Waseda. Tôi đi lên phía đầu đường, gần chỗ ngân hàng Citibank, rồi rẽ khỏi đường chính và đột nhiên thấy mọi thứ thay đổi hoàn toàn. Tôi thấy mình đi giữa đống đổ nát của Tokyo cũ. Xa rời âm thanh ồn ã của các bảng quảng cáo điện tử là những ngõ hẻm mát mẻ, im ắng: những con phố bé xíu quanh co nằm chằng chịt sau lưng các tòa nhà chọc trời, một con đường tối tăm nhưng sống động giống như đường mòn trong rừng. Tôi nín thở và sững sờ nhìn xung quanh, mọi thứ giống như những bức tranh tôi nhìn thấy trong sách. Những ngôi nhà gỗ ọp ẹp nằm san sát, cũ kỹ, mục ruỗng, những kẻ sống sót sau hàng chục năm động đất, hỏa hoạn, bom đạn. Giữa những khe hở bên sườn mọc ra đám cây leo um tùm sum sê trông giống như những cái cây ăn thịt người.

Ngôi nhà của Jason là ngôi nhà to nhất, cổ nhất và đổ nát nhất mà tôi từng thấy ở Tokyo. Nằm trong một góc giữa hai phố nhỏ, tất cả cửa sổ tầng trệt của ngôi nhà bị bịt kín bởi những tấm ván có đóng đinh và khóa móc, cây leo chằng chịt ngóc lên từ vỉa hè cuốn lấy ngôi nhà y như những bụi gai trong câu chuyện Công chúa ngủ trong rừng. Bên sườn nhà là chiếc cầu thang dẫn lên tầng hai của ngôi nhà với chiếc cửa gỗ nhỏ, một cái chuông cũ gỉ bám đầy bụi và một mái vòm bằng nhựa để che mưa nắng.

Tôi vẫn nhớ như in bộ quần áo mà Jason mặc khi anh ta ra mở cửa cho tôi. Anh ta vận một chiếc áo sơ mi màu xanh ôliu, quần soóc và chân xỏ vội một đôi giày sa mạc méo mó không buộc dây, gót chân đè lên trên mép giày, cổ tay anh ta đeo một chiếc vòng tết bằng chỉ thêu và tay cầm một chiếc can đựng bia bằng bạc trên có dòng chữ Asahi. Bây giờ tôi mới có cơ hội nhìn ngắm anh ta kỹ hơn một chút trong ánh sáng ban ngày - anh ta có nước da trơn nhẵn, sạch sẽ như thể suốt ngày ở ngoài trời. Những từ “Anh ta thật đẹp” thoáng xuất hiện trong đầu tôi.

“Xin chào, cô gái kỳ quặc, cô thay đổi ý định à? Về việc thuê phòng ấy?” Anh ta nói, ngạc nhiên khi nhìn thấy tôi.

“Còn ai sống ở đây nữa?” Tôi nhìn quanh ngôi nhà.

Anh ta nhún vai. “Tôi. Hai cô gái làm việc trong hộp đêm. Một vài hồn ma. Thật ra cũng không biết là bao nhiêu con nữa.”

“Hồn ma?”

“À, đấy là mọi người nói thế.”

Tôi im lặng một lát, ngước nhìn lớp ngói của ngôi nhà, những mái hiên uốn cong chạm hình rồng và cá heo đã bong tróc. Ngôi nhà có vẻ rộng hơn và tối hơn những nhà bên cạnh. “Thôi được, tôi không quan tâm đến chuyện ma quỷ, tôi muốn thuê phòng ở đây,” cuối cùng tôi lên tiếng và xách túi lên.

Anh ta không có ý định xách túi giùm tôi, mà dù sao thì tôi cũng chẳng biết nói gì nếu anh ta định làm thế. Tôi đi theo anh ta lên gác, bước chân của chúng tôi vang khắp nhà.

“Tầng trệt bị khóa, không có đường vào,” anh ta nói, vẫy vẫy can bia về phía những cửa sổ bị bịt kín. “Chúng ta ở tầng trên và cô sẽ phải ra vào bằng đường này.”

Chúng tôi dừng lại ở đầu cầu thang. Tôi đứng ở góc nhà, trong một hành lang tối, kín mít, dẫn sang hai bên phải trái tôi theo một đường vuông góc. Tôi chỉ có thể nhìn được khoảng năm mét về cả hai phía rồi cái hành lang bụi bặm dường như thu hẹp dần, như thể mất hút đâu đó trong một góc phố tối tăm lạnh lẽo khác của Tokyo mà tôi không tài nào hình dung ra. Đã quá trưa mà ngôi nhà vẫn lặng im như tờ.

“Phần lớn ngôi nhà bị khóa. Tiền thuê đất ở Tokyo tăng ngất ngưởng kể từ khi nền kinh tế bong bóng bùng nổ, nhưng chủ đất vẫn đang cố thương lượng với các chuyên viên phát triển bất động sản. Nếu họ thành công thì nơi này sẽ bị phá đi để xây một tòa nhà cao tầng khác nên tiền thuê nhà ở đây gần như cho không.” Nói đến đây, Jason đá đôi giày đi. “Tất nhiên cô sẽ phải quen với việc vôi vữa thỉnh thoảng rơi rụng xung quanh.” Anh ta phác một cử chỉ mơ hồ về phía hành lang bên phải: “Các cô gái ngủ ở đây, bên cánh này. Cả ngày ở trên giường. Gái Nga. Giờ thì người ta đã tháo cũi cho người Nga chạy đi khắp nơi. Thông tin về cuộc suy thoái kinh tế ở Nhật vẫn chưa đến được nước Nga. Này…” Anh ta đẩy cho tôi một đôi dép cói đã mòn vẹt và đứng nhìn khi tôi thay giày, tháo đôi giày nhỏ thô cứng có dây buộc ra và xỏ bàn chân đi tất vào đôi dép lê, “Có đau chân không?” Anh ta chỉ vào đôi giày. “Trông có vẻ đau.”

“Có, chân tôi phồng rộp hết cả.”

“Thế cô không có cái gì khác để đi à?”

“Không.”

“Thế trong túi cô đựng gì mà nặng thế?”

“Sách vở.”

“Sách vở?”

“Đúng vậy.”

“Sách gì?”

“Sách tranh.”

Jason phá lên cười. Anh ta châm một điếu thuốc và hài lòng nhìn tôi xỏ chân vào đôi dép mới. Tôi kéo thẳng chiếc áo len, lấy tay vuốt tóc và đứng trước mặt anh ta, bộ dạng của tôi làm anh ta lại phá lên cười. “Thế,” anh ta hỏi, “tên cô là gì?”

“Grey.”

“Grey? Tên họ kiểu gì vậy?”

Tôi hơi do dự. Thật kỳ lạ khi xuất hiện ở một nơi không ai biết mình. Tôi hít một hơi thật sâu và cố trả lời với một giọng tỉnh bơ. “Đó là họ của tôi, mọi người đều gọi tôi thế.”

Jason dẫn tôi xuống hành lang bên tay phải, thỉnh thoảng dừng lại để giới thiệu về ngôi nhà. Bên trong, ngôi nhà mang lại một cảm giác êm ái đến kỳ lạ, giống như một cơ thể sống. Sàn nhà phủ đầy những tấm thảm cói tatami, mỗi chuyển động đều dậy mùi hương bí ẩn của tằm kén. Các phòng được bố trí cùng một bên của hành lang, bên kia là những bức bình phong bằng gỗ đã mòn vẹt che khuất bức tường đối diện, cao từ thắt lưng tới trần.

“Buồng tắm kiểu truyền thống nên khi tắm phải ngồi xổm. Cô biết cách chứ?” Anh ta nhìn tôi từ đầu tới chân. “Ngồi xổm? Lấy gáo múc nước từ chum ra tắm? Cô có biết đó chính là mục đích của việc sống ở Nhật không - làm mọi việc theo cách khác người.”

Nhưng trước khi tôi kịp trả lời thì anh ta đã quay sang phía đối diện với các căn phòng và mở cánh cửa chớp ra. Ánh mặt trời ùa vào qua lớp kính phủ đầy bụi. “Máy điều hòa chỉ là đồ chết tiệt nên mùa hè phải đóng cửa suốt ngày.”

Chúng tôi đứng cạnh cửa sổ và nhìn xuống một khu vườn tường bao kín mít. Khu vườn trông um tùm và bí ẩn như một khu rừng nhiệt đới, cây cối mọc cao ngang cửa sổ tầng trệt. Những cây hồng vàng sẫm màu với tán lá nặng trĩu mọc chen vào các kẽ tường và che hết ánh mặt trời. Tôi đặt hai tay lên ô cửa, dán mũi vào lớp kính và nhìn ra ngoài. Cuối khu vườn là sân sau của một tòa nhà chọc trời màu trắng.

“Tòa nhà Muối,” Jason nói. “Không hiểu sao nó lại có tên như thế, chắc là do truyền miệng, hệt như những căn phòng vậy, qua tay hết chủ này đến chủ khác.”

Tôi định quay đi thì chợt để ý thấy dưới khu vườn, cách chỗ tôi đứng khoảng ba mươi mét, thấp thoáng dưới các tán cây một mái nhà bằng ngói đỏ phơi mình trong nắng.

“Đó là cái gì vậy?”

“Cái đó à?” Anh ta tì mũi vào cửa sổ. “Đó là chái thứ ba của ngôi nhà. Khóa kín mít.”

“Cũng thuộc về ngôi nhà này?”

“Tôi biết là thế nào cô cũng hỏi. Chúng tôi gọi chỗ này là Cấm Cung. Tôi biết khoảng hai mươi phòng ở đây và nghe đồn là còn hai mươi phòng khác nữa.”

Cho đến lúc này tôi mới thấy căn nhà chiếm hết một khoảng đất rộng biết bao. Nó che gần hết khu phố, bao quanh khu vườn như ba cạnh của một hình vuông. Nhìn từ trên cao, nó giống như một cây cầu bị Tòa nhà Muối che mất cạnh thứ tư. Ngôi nhà đang ở vào giai đoạn mục ruỗng, bắt đầu từ hai bên cánh, và Jason nói anh ta không muốn biết cái gì nằm bên trong các phòng bị khóa kín ở tầng trệt. “Đấy là nơi các bóng ma trú ngụ, theo lời hai cô nàng sinh đôi baba yaga[1].”

Chúng tôi đi qua một dãy dài cửa trượt làm bằng giấy shoji, có cái mở, có cái đóng. Tôi nhìn lướt qua đám đồ đạc trong bóng tối lờ mờ, những đồ nội thất bụi bặm chất đống và bị lãng quên. Tôi thấy một chiếc butsudan - một chiếc tủ thờ tổ tiên - bằng gỗ tếch, trống không ngoại trừ một ngăn chất đầy những lọ thủy tinh bụi bặm. Đôi dép lê của tôi êm như ru. Chúng tôi tiến đến gần một cánh cửa khóa chặt và niêm phong bằng một thanh sắt to. Jason dừng lại. “Chỗ này không đi được.” Anh ta áp mũi vào cánh cửa rồi khịt mũi. “Chúa ơi, cứ trời nóng là có cái mùi kinh không chịu được.” Anh ta lấy tay quệt mặt rồi quay lại, gõ tay vào cánh cửa cuối cùng trong hành lang. “Đừng lo, đây là phòng của cô, ở đây cô sẽ ổn thôi.”

Anh ta đẩy cánh cửa trượt. Ánh mặt trời chiếu xuyên qua hai mảnh vải cũ bẩn găm trên cửa sổ. Những tấm vải che tường bằng lụa màu nâu nhạt rách tả tơi, rủ xuống theo những vết rạch dài nham nhở giống như một con thú có móng vuốt từng bị nhốt ở đây. Những tấm lót sàn tatami đã sờn cũ, vài con ruồi chết khô trên bậu cửa sổ và mạng nhện chăng đầy trên các đồ đạc khác trong phòng.

“Cô nghĩ sao?”

Tôi bước vào giữa phòng và nhìn ngó xung quanh. Ở bức tường gần đó có một hốc tường takonoma, một chiếc ghế đu bằng mây đặt sát tường nơi vẫn thường dùng để treo các bức thư họa bốn mùa.

“Cô muốn làm gì với nó thì làm. Chủ nhà cóc quan tâm, thậm chí còn thường xuyên quên thu tiền nhà.”

Tôi nhắm mắt lại và dang hai tay ra để cảm nhận sự mềm mại của không khí, và ánh nắng đong đầy bụi chiếu ấm lưng tôi. Căn phòng này rộng gấp đôi căn phòng trọ của tôi ở Luân Đôn và dường như nó đang chào đón tôi. Có một mùi hương ngai ngái, như mùi rơm và lụa đang khô mục.

“Sao?”

“Nó...” Tôi nói và mở mắt ra, tay tôi chạm vào những mảnh lụa còn sót lại trên tường. “... Nó rất đẹp.”

Jason giật tấm vải phủ cửa sổ xuống và mở tung cánh cửa để một chút không khí ấm áp tràn vào phòng.

“Còn đây là cũi của Godzilla[2],” anh ta nói và chỉ ra bên ngoài cửa sổ.

Khi mới tới đây, vì vẫn còn choáng ngợp bởi các tòa nhà chọc trời nên tôi đã không nhận ra độ cao thực sự của Takadanobaba.

Chỉ đến bây giờ, nhìn từ trên cao, tôi mới thấy khu vực xung quanh trũng hẳn xuống. Đỉnh của các tòa nhà cao tầng bên cạnh chỉ nằm ngang với cửa sổ nơi tôi đứng, tiếng cười nói huyên náo vẳng ra từ các màn hình quảng cáo treo khắp nơi. Chỉ cách chỗ tôi đứng mười mấy mét, một biển quảng cáo lớn choán hết tầm nhìn. Nó là bức chân dung màu đỏ khổng lồ của một ngôi sao điện ảnh với nụ cười nhếch mép đang nâng một chiếc cốc như muốn uống mừng cả Takadanobaba. Chiếc cốc có vẽ dòng chữ Suntory Reserve.

“Mickey Rourke, kẻ mê hoặc phụ nữ,” Jason nói.

“Mickey Rourke,” tôi nhắc lại. Tôi chưa từng nghe đến cái tên này nhưng tôi thích gương mặt của ông ta. Tôi thích cái kiểu ông ta nhìn xuống chúng tôi và mỉm cười. Tôi túm lấy khung cửa và thò đầu ra ngoài một chút. “Hongo nằm ở phía nào?”

“Hongo, tôi không biết, chắc là phía này...”

Tôi kiễng chân và nhìn ra xa, qua những mái nhà san sát, những bảng hiệu neon nhấp nháy và những cột anten vô tuyến vàng óng vì nắng. Chúng tôi cách xa nhau hàng kilômét. Tôi không bao giờ có thể nhìn thấy văn phòng của Sử Trùng Minh giữa đám nhà chọc trời này. Thế nhưng, không hiểu sao chỉ cần biết là nó nằm ở đâu đó quanh đây cũng đủ làm tôi cảm thấy dễ chịu. Tôi đứng thẳng lại.

“Giá phòng là bao nhiêu?”

“Hai trăm đô một tháng.”

“Tôi chỉ cần thuê trong một tuần thôi!”

“Thế thì năm mươi đô. Quá là đi ăn cắp.”

“Tôi không có đủ chừng ấy tiền.”

“Cô không có nổi năm mươi đô la? Thế cô nghĩ chi phí ở Tokyo là bao nhiêu cơ chứ? Năm mươi đô la là giá rẻ bất ngờ đấy!”

“Tôi chẳng có lấy một xu.”

Jason thở dài.

Anh ta dụi tắt điếu thuốc, ném nó ra ngoài cửa sổ và chỉ về đường chân trời. “Hãy nhìn về phía Đông Nam. Những tòa nhà cao tầng đó là Kabuchi Cho và phía bên trên nữa, có thấy gì không?”

Ở phía xa, một con quái vật bằng kính đổi màu với tám cột trụ đen sì, đứng sừng sững giữa trời, cao hơn tất cả những tòa nhà chọc trời khác. Bốn miệng máng xối hình đầu thú khổng lồ bằng đá hoa cương đen theo kiểu gô tích nằm trên bốn góc mái phụt lên trời những luồng khí cao tới mười mấy mét như muốn hun đốt bầu trời.

“Đấy là tòa nhà của tư nhân, một trong những tòa nhà của anh em Mori. Nhìn kỹ trên tầng thượng ấy!”

Tôi căng mắt ra nhìn. Gắn trên chóp của tòa nhà là bức ảnh lớn của một phụ nữ đang ngồi trên xích đu. “Tôi biết người phụ nữ này, tôi nhận ra cô ta.”

“Đó là Marilyn Monroe.”

Marilyn Monroe. Cô ta dễ phải cao đến gần mười mét, tính từ đôi giày cao gót màu trắng cho tới mái tóc tẩy màu, và đang đu tới đu lui theo hình vòng cung trên chiếc bảng điện nhấp nháy, chiếc váy mỏng mùa hè bay tốc lên đến tận quá thắt lưng.

“Đó là hộp đêm Some Like It Hot nơi tôi và hai cô nàng baba yaga làm việc. Đêm nay tôi sẽ dẫn cô tới đó. Chỉ vài giờ là cô có đủ tiền thuê nhà.”

“Ôi không, đó là một hộp đêm!” Tôi nói và lùi ra khỏi cửa sổ.

“Rất dễ chịu, đừng lo. Strawberry sẽ ưng cô ngay.”

“Không, đừng có nói thế vì bà ấy sẽ không thuê tôi đâu,” tôi nói, đột nhiên cảm thấy mình rất vụng về.

“Sao không?”

“Vì...” Tôi bối rối dừng lại. Tôi thật không biết phải giải thích cho anh ta thế nào. “Không, chắc chắn bà ấy sẽ không thuê tôi.”

“Cô nhầm đấy! Nhưng dù sao đi nữa, theo như tôi biết thì cô cũng đâu có cách nào khác.”


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder   Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder Icon_minitimeSun Feb 03, 2019 9:00 pm


Chương 6

Hai nữ tiếp viên sống ở cánh trái ngôi nhà, hai nàng baba yaga, là một cặp chị em sinh đôi đến từ Vladivostock, Svetlana và Irina. Jason dẫn tôi tới gặp họ vào cuối buổi chiều khi cả hai đang ở trong phòng của Irina chuẩn bị đi làm. Cả hai đều đi tất dài màu đen và mặc áo lót hiệu Spandex, giống nhau như hai giọt nước, cao lớn như phu khuân vác, cánh tay lực lưỡng và chân cuồn cuộn cơ bắp. Nhìn họ giống như cả ngày phơi nắng ngoài đường, và hai chị em đều có mái tóc uốn dài chấm vai. Điều khác biệt duy nhất giữa hai người là tóc của Irina màu vàng còn Svetlana thì màu đen. Tôi nhìn thấy một chai thuốc nhuộm tóc hiệu Naple Black trong một cái hộp màu hồng cũ kỹ để trên giá bếp.

Họ để tôi ngồi trên một chiếc ghế đẩu, trước mặt là một cái bàn trang điểm nhỏ và bắt đầu tra khảo tôi.

“Cô biết Jason à? Người quen cũ?”

“Không, tôi vừa gặp anh ta sáng nay.”

“Sáng nay á?”

“Trong công viên.”

Hai cô gái trao đổi một cái nhìn. “Ái chà, anh ta hành động nhanh thật đấy!” Svetlana nói và nháy mắt với tôi.

Họ mời tôi một điếu thuốc. Tôi thích hút thuốc, và chính cô bạn trong bệnh viện đã dạy tôi hút thuốc lá. Nó khiến tôi có cảm giác là người lớn nhưng tôi không bao giờ có đủ tiền để duy trì sở thích này. Tôi nhìn bao thuốc lá nằm gọn trong bàn tay với những móng tay sơn đỏ chót của Irina và nói: “Tôi không có tiền để trả cho cô đâu!”

Irina nheo mắt và bĩu môi như thể đang hôn không khí. “Không sao, cầm lấy.” Irina nói và lại chìa bao thuốc ra.

Tôi lấy một điếu thuốc và cả ba chúng tôi vừa hút thuốc vừa quan sát nhau. Nếu Svetlana và Irina không nhuộm tóc khác màu thì gần như không thể nào phân biệt được ai với ai. Cả hai đều toát lên một vẻ tự tin giống như một số cô gái mà tôi biết ở trường đại học. Trong mắt họ, tôi hẳn là một cái gì đó kỳ quặc, giống như một đống quần áo bẩn đặt trên ghế của họ.

“Cô định làm việc ở hộp đêm à?”

“Không, họ sẽ chẳng nhận tôi đâu!”

Svetlana tặc lưỡi.

“Đừng có ngốc, công việc dễ ợt, dễ như ăn kẹo.”

“Thế phải ngủ với khách hàng à?”

“Không.” Cả hai cùng bật cười. “Không tình dục. Nếu cô muốn thì mời cô ra ngoài làm. Mama-san không thích chuyện đó.”

“Thế thì các cô làm gì?”

“Làm gì á? Chẳng làm gì cả. Chỉ nói chuyện với khách hàng, châm thuốc cho ông ta. Tâng bốc ông ta. Bỏ đá vào những thứ đồ uống chết tiệt của ông ta.”

“Thế các cô nói chuyện gì với họ?”

Họ nhìn nhau rồi nhún vai. “Chỉ nói những gì làm họ vui, làm họ thích cô, làm họ cười. Mà họ sẽ thích cô thôi vì cô là người Anh.”

Tôi chợt liếc nhìn xuống chiếc váy đen dày mà tôi đang mặc. Đó là một chiếc váy cũ và người chủ trước của nó hẳn không có liên quan gì đến cuộc chiến tranh ở Triều Tiên. Còn chiếc sơ mi màu đen cài khuy đằng trước, tôi mua với giá năm mươi bảng ở một cửa hàng Oxfam trên Harrow Road. Đôi tất chân của tôi thì dày và cũ xỉn.

“Này.”

Tôi ngước nhìn. Svetlana đang giơ ra trước mặt tôi một chiếc túi trang điểm màu vàng. “Gì cơ?”

“Trang điểm đi, chúng ta phải đi trong vòng hai mươi phút nữa.”

Hai chị em sinh đôi này rõ ràng là có nghệ thuật duy trì hai cuộc đối thoại cùng một lúc. Áp điện thoại lên tai, miệng phì phèo điếu thuốc, họ trò chuyện liên hồi với các khách hàng của mình. “Tối nay ông sẽ đến chứ? Em sẽ rất sabishi nếu vắng ông.” Họ vừa nói vừa kẻ lông mày, dán lông mi, mặc những chiếc quần bó màu trắng bóng lộn và xỏ chân vào những đôi giày cao ngất ngưởng. Tôi im lặng quan sát họ. Svetlana cho rằng tôi nên mặc cái gì đó màu vàng để trông tươi vui hơn. Cô đứng hồi lâu trước gương với độc một chiếc áo nịt ngực, tay giơ lên quá đầu, kiểm tra hai bên nách đã cạo sạch chưa.

“Cô trông phải sành điệu một chút. Muốn mượn thắt lưng của tôi không? Nó màu vàng, vàng với đen rất hợp đấy.”

“Tôi sẽ trông giống như một con ngố.”

“Thế thì màu bạc vậy,” Irina nói. Tôi cố không nhìn về phía cô. Cô đã cởi chiếc áo lót ra và đang đứng ngực trần cạnh cửa sổ, dùng tay và răng bóc cuộn băng dính Sellotape. “Cô mặc toàn màu đen, trông cứ như quả phụ.”

“Tôi luôn mặc màu đen.”

“Thế cô đang để tang ai à?”

“Không,” tôi bình tĩnh nói. “Đừng có ngớ ngẩn, tôi mà để tang ai chứ?”

Cô quan sát tôi một lúc. “Thôi được, nếu cô thích thế,” cô nói. “Nhưng nếu mặc thế đi đến câu lạc bộ chắc cô sẽ làm đàn ông ở đó phát khóc mất thôi.” Miệng ngậm một đầu băng dính, Irina dùng hai tay nâng hai bầu ngực lên và ép chúng sát lại với nhau hết mức rồi chăng băng dính từ sườn trái sang phải nhiều lần, ngay dưới ngực để giữ chúng lại. Xong xuôi, cô mặc một chiếc áo sơ mi trễ vai rồi đứng trước gương kiểm tra lại công trình của mình. Tôi cắn móng tay và chỉ muốn xin thêm một điếu thuốc nữa nhưng không dám.

Svetlana cũng vừa trang điểm xong, viền môi đỏ sẫm. Cô đang quỳ gối lục tìm gì đó trong một ngăn kéo, lát sau lôi ra ra một cái kẹp ghim. “Lại đây,” cô ra hiệu cho tôi tới gần. “Lại đây nào.”

“Không.”

“Không gì, lại đây.” Cô tự lê đầu gối về phía tôi, tay vung vẩy cái kẹp ghim. Cô túm lấy gấu váy của tôi gấp nó lên và dùng kẹp ghim kẹp nó lại.

“Đừng, đừng làm thế,” tôi nói, cố đẩy tay cô ra.

“Cô làm sao thế? Chân cô rất gợi cảm, phải phô ra chứ. Giờ thì đứng yên cho tôi nhờ.”

“Xin đừng mà!”

“Thế cô có muốn đi làm không?”

Tôi lấy hai tay che mặt và hít một hơi thật sâu khi Svetlana di chuyển xung quanh và dùng ghim nâng gấu váy của tôi lên cao. Tôi có thể cảm thấy đầu gối của tôi đã hở ra ngoài. Tôi cố gắng tưởng tượng chân tôi sẽ phô bày như thế nào, cố gắng hình dung ra mọi người sẽ nghĩ gì khi họ nhìn thấy tôi. “Ôi, không...”

“Suỵt,” Svetlana đặt một tay lên vai tôi. “Im nào để chúng tôi làm việc.”

Tôi nhắm mắt lại trong khi Irina cố gắng vẽ viền môi cho tôi. “Không, không...” Tôi lại nhảy dựng lên khiến Irina phải lùi lại một bước vẻ ngạc nhiên. “Thế cô không muốn trông gợi cảm một chút à?” Tôi chộp lấy một tờ giấy và chùi đống son môi ra khỏi miệng. Cả người tôi run lên. “Trông tôi thật kỳ quặc. Trông tôi đúng là kỳ quặc.”

“Toàn các ông già người Nhật ấy mà. Các ông già mắt lé. Họ sẽ không đụng vào người cô đâu.”

“Các cô không hiểu đâu.”

“Chúng tôi không hiểu?” Svetlana nhướn mày. “Này Irina, chúng mình không hiểu đấy.”

“Tôi nói thật đấy, các cô thực sự không hiểu nổi chuyện này đâu,” tôi nói.

Bạn không cần phải hiểu biết về tình dục thì mới có ham muốn làm chuyện đó. Giống như lũ ong và lũ chim. Tôi là một sự kết hợp tồi tệ nhất mà bạn có thể hình dung được, một người không có kinh nghiệm gì về thực tế nhưng lại rất ham khám phá những điều mới lạ. Có lẽ đó là lý do tại sao tôi luôn gặp rắc rối.

Trước hết, các bác sĩ luôn muốn tôi nói rằng tôi bị cưỡng hiếp. Nếu không phải là một vụ cưỡng hiếp thì tại sao một cô gái mười ba tuổi lại để năm cậu thiếu niên thay nhau làm điều đó? Dĩ nhiên trừ phi cô ta bị điên. Tôi nghe họ nói với một chút ngạc nhiên. Tại sao người ta lại cứ tập trung vào tình tiết đó? Đó là việc làm sai ư? Có lẽ tôi đã tránh được mọi rắc rối nếu tôi cứ đồng ý ngay với họ từ đầu là tôi bị cưỡng hiếp. Nếu thế có thể họ sẽ không nhắc đi nhắc lại hết lần này đến lần khác rằng hành vi tình dục khác thường của tôi chính là bằng chứng hết sức rõ ràng chứng tỏ tôi bị điên. Nhưng đó là nói dối. Chính tôi đã để họ làm chuyện đó. Chính tôi muốn chuyện đó xảy ra, có lẽ còn hơn cả các cậu thiếu niên kia. Chính tôi đã chào đón họ trong chiếc xe tải đó, bên đường làng.

Đó là một buổi tối mùa hè đầy sương khi bầu trời đêm vẫn xanh ngăn ngắt ở phía Tây khiến người ta liên tưởng đến những điệu nhảy tự do của những kẻ tà giáo khi mặt trời vừa khuất bóng. Không gian tràn ngập mùi cỏ non và mùi gió mới, xa xa là tiếng xe cộ đi lại rì rầm. Khi chiếc xe dừng lại, tôi nhìn xuống thung lũng trước mặt và thấy những vết ố màu trắng chập chờn trên di tích Stonehenge.

Ở phía sau thùng xe có một chiếc chăn bằng vải len kẻ ô dậy mùi hạt giống và mùi dầu mỡ. Tôi cởi quần áo, nằm lên trên chiếc chăn đó, hai chân dạng ra, trắng bóc, ngay cả giữa mùa hè. Từng người một thay phiên nhau tới với tôi khiến chiếc xe tải cứ rung lên bần bật trên những trục xe cũ gỉ. Chỉ có cậu con trai thứ tư, cậu chàng tóc hung có khuôn mặt đáng yêu, bắt đầu đến tuổi mọc râu, là có hỏi han tôi một chút. Cậu đóng cánh cửa xe lại sau lưng để những người khác đang ngồi hút thuốc trên vệ đường không nhìn thấy chúng tôi.

“Xin chào,” cậu nói.

Tôi đặt tay lên đầu gối và dạng chân ra. Cậu ta vẫn không tiến đến. Cậu ta quỳ trước mặt tôi, nhìn vào giữa hai chân tôi với một nét mặt kỳ lạ, không được thoải mái cho lắm.

“Cậu biết là cậu không phải làm thế, đúng không nào? Cậu biết rằng không ai ép buộc cậu cả?”

Tôi im lặng một chút rồi nhìn cậu ta với một vẻ hơi ngỡ ngàng rồi trả lời. “Tôi biết.”

“Và cậu vẫn muốn tiếp tục?”

“Dĩ nhiên rồi, tại sao không chứ?” Tôi nói và chìa tay ra cho cậu.

“Thế không có ai nói với mày là phải dùng các biện pháp bảo vệ à?” Bà y tá không ưa tôi nói và bảo rằng những bệnh như giang mai, bệnh hoa liễu, bệnh lậu, lây lan khắp thế giới là do những loại người kinh tởm và không biết kiềm chế như tôi. “Mày đừng có nói với tao rằng, không một đứa nào trong năm thằng đấy nhắc gì đến chuyện dùng các biện pháp phòng tránh nhé!” Tôi nằm im trên giường, mắt nhắm nghiền. Tôi sẽ không nói cho bà ta biết sự thật, rằng tôi thực sự không biết biện pháp phòng tránh là cái gì, rằng tôi không biết chuyện đó là sai, rằng mẹ tôi thà chết chứ không bao giờ nói với tôi về những chuyện như thế. Tôi không muốn bà ta nhại đi nhại lại về sự thiếu hiểu biết của tôi. “Thế về phần mày nữa, cũng chả tìm cách ngăn cản chúng lại.” Bà ta liếm môi, rồi trong bóng tối vang lên một âm thanh giống như tiếng chân đập vào nhau. “Nếu mày muốn biết tao nghĩ gì về chuyện này thì tao nói cho mày biết, mày là đứa bệnh hoạn nhất mà tao từng biết.”

Các bác sĩ thì nói đó là vấn đề về sự kiểm soát. Tất cả chúng ta đều có những ham muốn bất chợt, những xúc cảm mạnh mẽ. Nó làm cho chúng ta thành con người. Chìa khóa của cuộc sống hạnh phúc và cân bằng là phải học cách kiểm soát chúng.

Nhưng dĩ nhiên, vào thời điểm đó, tôi chẳng thể làm gì để đưa mọi chuyện vào khuôn khổ. Bạn không thể cải thiện một điều gì nếu không có sự tập luyện, và chỉ cần bạn nhìn vào bệnh án của tôi, hay nhìn tôi khỏa thân, là bạn có thể biết được đối với tôi, sẽ không có một đời sống tình dục phong phú trong tương lai.


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder   Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder Icon_minitimeSun Feb 03, 2019 9:01 pm


Chương 7

Cuối cùng thì hai cô gái Nga và tôi cũng đi đến một thỏa hiệp. Tôi để cho họ ghim váy lên còn họ để cho tôi giữ nguyên mái tóc thẳng và chùi đi lớp nhũ mắt óng ánh. Thay vào đó, tôi chỉ kẻ một đường màu đen ngay trên lông mi vì khi tôi nghĩ tới việc trang điểm thì điều duy nhất xuất hiện trong đầu là những bức ảnh của Audrey Hepburn. Tôi nghĩ là tôi sẽ thích bà nếu chúng tôi gặp nhau. Bà trông có vẻ tử tế. Tôi chùi bớt lớp phấn hồng trên má và cẩn thận tô môi với một màu đỏ nhạt. Hai chị em sinh đôi chiêm ngưỡng thành quả.

“Cũng không tệ lắm,” Irina thừa nhận, thoáng chút cáu kỉnh. “Trông vẫn giống góa phụ nhưng không phải là một góa phụ xấu xí.”

Jason không nói gì khi nhìn thấy tôi. Anh ta chăm chú nhìn chân tôi rồi cười một tiếng khô khốc như thể anh ta biết một chuyện cười thô lỗ về tôi. “Đi nào,” anh ta nói và châm một điếu thuốc. “Lên đường thôi.”

Chúng tôi dàn hàng ngang trên vỉa hè. Mặt trời đã xuống thấp, hắt nắng lên sườn các tòa nhà. Trên các phố nhỏ, người ta đang chuẩn bị đèn lồng cho lễ hội O-Bon sẽ diễn ra vào cuối tuần này. Trong công viên Toyama, các gian hàng bắt đầu được dựng lên, cờ quạt biểu ngữ bay phấp phới. Chúng tôi đi qua một khu nghĩa địa thấp thoáng những chai rượu, rau và hoa quả cúng các hồn ma. Tôi im lặng quan sát mọi thứ, thỉnh thoảng dừng lại để kiểm tra gót giày. Irina cho tôi mượn một đôi giày cao gót màu đen quá cỡ khiến tôi phải nhét thêm giấy vào mũi giày và bước đi một cách thận trọng.

Bạn có thể tìm thấy hộp đêm đó mà không cần bản đồ chỉ dẫn: người ta có thể nhìn thấy tòa nhà ở cách xa hàng dặm, bốn chiếc máng xối trên mái của tòa nhà đang phun lên trời đêm những luồng khí đỏ quạch. Chúng tôi tới nơi vào lúc trời bắt đầu tối. Tôi đứng sững lại nhìn chúng một lúc lâu cho đến khi những người khác sốt ruột kéo tôi vào trong chiếc thang máy bằng kính gắn bên ngoài tòa nhà và ấn nút lên thẳng tầng thượng nơi nàng Marilyn Monroe đang đung đưa giữa các vì sao. Người ta gọi đây là chiếc “thang máy pha lê”, vì nó giống như pha lê, vừa hấp thụ vừa tỏa ánh sáng ra khắp Tokyo. Tôi dán mũi vào mặt kính khi thang máy vọt lên trên, choáng váng vì những con phố trơn bóng tụt xuống dưới chân tôi nhanh đến chóng mặt.

“Đợi ở đây,” Jason bảo tôi khi thang máy dừng lại. Chúng tôi đứng trong khu vực lễ tân, sàn lát đá hoa cương, ngăn cách với hộp đêm bởi những cánh cửa bằng nhôm công nghiệp. Trong góc phòng là một lọ hoa khổng lồ với một bông hồng giả màu đỏ cao đến mét rưỡi. “Tôi sẽ gọi Mama-san ra đây gặp cô.” Jason chỉ cho tôi chiếc trường kỷ bọc nhung trong phòng chờ rồi biến mất cùng hai cô gái Nga sau cánh cửa. Tôi thoáng thấy bên trong của hộp đêm, rộng như một sân băng, chiếm gần hết tầng thượng của tòa nhà, những chùm ánh sáng phản chiếu từ các tòa nhà chọc trời khác nhảy nhót trên sàn. Rồi cánh cửa đóng vào, và tôi bị bỏ lại, ngồi trên chiếc trường kỷ, chỉ có mỗi cô phục vụ thấp thoáng phía sau quầy lê tân làm bạn.

Tôi bắt chéo chân rồi lại thả ra và nhìn vào bóng mình phản chiếu mờ mờ trên cánh cửa nhôm bóng với dòng chữ màu đen Some Like It Hot.

Chủ câu lạc bộ, Mama-san Strawberry Nakatani là một tay chơi lão luyện, Jason nói. Vốn là một gái gọi vào những năm 1970, bà ta nổi tiếng với việc xuất hiện hoàn toàn khỏa thân dưới tấm áo choàng lông trắng tại các câu lạc bộ. Chồng bà ta, một tay anh chị kiêm bầu sô kinh doanh giải trí sau khi qua đời đã để lại cho bà ta câu lạc bộ này. “Đừng tỏ ra ngạc nhiên khi nhìn thấy bà ta,” Jason dặn tôi từ trước. Cả đời bà ta tôn thờ Marilyn Monroe và bà ta đã phẫu thuật thẩm mỹ để có mắt hai mí và mũi cao như người phương Tây. “Cứ làm ra vẻ cô thích cái vẻ ngoài của bà ta nhé!”

Tôi đặt tay lên váy, ép nó xuống đùi. Bạn phải rất can đảm hoặc cực kỳ tuyệt vọng để có thể làm những việc như thế này, và tôi toan đứng dậy bỏ chạy về phía thang máy thì cánh cửa hộp đêm bật mở và bà ta bước ra: một người phụ nữ nhỏ bé, trắng toát, vận một chiếc đầm kim tuyến màu vàng kiểu Marilyn Monroe, tay cầm một bót thuốc lá chạm trổ cầu kỳ và một chiếc khăn choàng lông thú. Bà ta có một cơ thể rắn chắc, cơ bắp như một chiến mã Trung Hoa với mái tóc châu Á nhuộm chải theo kiểu Marilyn Monroe. Bà ta tiến đến chỗ tôi trên đôi giày gót nhọn hoắt, vừa đi vừa lấy tay sửa tóc vừa vung vẩy chiếc khăn choàng ra đằng sau. Bà ta dừng lại chỉ vài bước trước mặt tôi, không nói không rằng, chỉ nhìn lướt qua mặt tôi. Thế là xong, bà ta sẽ ném mình ra ngoài đường, tôi thầm nghĩ.

“Đứng dậy.”

Tôi đứng dậy.

“Hừm! Cô là người nước nào?” Bà ta đi vòng xung quanh tôi, nhìn chằm chằm vào chiếc váy đen nhàu nát và đôi giày gót nhọn nhét đầy giấy mà Svetlana cho mượn. “Cô là người nước nào?”

“Người Anh.”

“Người Anh à?” Bà ta lùi lại một bước, đặt một điếu thuốc lá vào bót thuốc và nheo mắt nhìn tôi: “Đúng vậy. Trông cô giống gái Anh. Tại sao cô muốn làm việc ở đây?”

“Cũng giống như các cô gái khác thôi ạ.”

“Thế nghĩa là sao? Cô thích đàn ông Nhật à?”

“Không, tôi cần tiền.”

Môi bà ta hơi cong lên như thể hài lòng với câu trả lời của tôi. Bà ta châm thuốc, ngửa đầu ra sau nhả một làn khói rồi nói: “Thôi được, cô em. Cô sẽ làm thử đêm nay. Nếu cô phục vụ khách hàng tốt, tôi sẽ trả cô ba nghìn yên một giờ. Ba nghìn. Được không?”

“Bà muốn nhận tôi?”

“Sao trông cô có vẻ ngạc nhiên thế. Cô còn muốn gì nữa hả tiểu thơ? Ba nghìn. Đồng ý thì làm không thì lượn. Tôi không thể trả hơn được nữa.”

“Tôi chỉ nghĩ là...”

Mama Strawberry giơ tay lên ra hiệu cho tôi im lặng. “Nếu đêm nay mọi chuyện diễn ra tốt đẹp thì ngày mai cô có thể quay lại làm việc nhưng phải ăn mặc tử tế. Nghe chưa? Cô mà ăn mặc lôi thôi thì sẽ phải nộp phạt mười nghìn yên. Phạt. Cô hiểu ý tôi chứ? Đây là một câu lạc bộ cao cấp.”

Với tôi, cái hộp đêm này dường như là nơi kỳ diệu nhất mà tôi từng đến - sàn nhà giống như một bể bơi tràn ngập ánh sao, trôi nổi cách thế giới năm mươi tầng lầu, được bao quanh bởi toàn cảnh chân trời Tokyo và những màn hình treo trên các tòa nhà chọc trời đang trình chiếu các thước phim ca nhạc và thời sự. Tôi vừa đi vừa ngắm những đóa hoa tươi được cắm và sắp đặt theo nghệ thuật ikebana trong ánh sáng dìu dịu của hộp đêm, lòng bồn chồn khó tả. Một vài người khách đã ở đây từ trước, những người đàn ông nhỏ thó trong bộ vét doanh nhân ngồi rải rác ở các bàn, trên những chiếc ghế băng hay ngả lưng trên những chiếc ghế bành bọc da, giữa đám khói thuốc cuồn cuộn. Trên một sân khấu nhô lên giữa phòng, một nhạc công piano với khuôn mặt mỏng quẹt và chiếc nơ con bướm đeo trước cổ đang dạo những hợp âm arpeggios. Thỉnh thoảng, cứ quãng mười giây một lần, bản sao công nghiệp của Marilyn Monroe, được nâng đỡ bởi những cột xà và thanh giằng kim loại, lại cót két đu về phía trước, che mất quang cảnh thành phố phía sau.

Mama Strawberry đang ngồi cạnh một chiếc bàn mạ vàng giả cổ thời Louis XIV, ngay trước xích đu của Marilyn, vừa hút thuốc vừa bấm máy tính. Gần đó là một chiếc bàn nơi các nữ tiếp viên đang ngồi hút thuốc và tán gẫu trong lúc chờ được phân công đi tiếp khách. Chúng tôi có tổng cộng hai mươi người, trừ tôi và hai chị em sinh đôi người Nga thì tất cả đều là người Nhật. Irina đưa cho tôi một nắm thuốc lá Sobranie Pinks và tôi ngồi im hút thuốc, mắt nhìn về phía cửa nơi các khách hàng sẽ xuất hiện.

Cuối cùng thì chúng tôi cũng nghe thấy tiếng thang máy dừng lại và một tốp khách mặc comlê cà vạt đẩy cửa bước vào. “Bà ấy sẽ để cô tiếp họ,” Irina thì thầm rồi ghé sát vào tôi, nghiêng tay che một bên miệng: “Những người này, họ luôn để lại tiền boa cho những cô gái mà họ thích. Mama sẽ chờ xem cô có được boa hay không. Đây là bài kiểm tra dành cho cô đấy, cưng ạ.”

Tôi được kín đáo triệu tập cùng hai chị em sinh đôi và ba nữ tiếp viên người Nhật, được phân công đến một chiếc bàn bên cạnh cửa sổ lớn, nhẹ nhàng đặt tay lên lưng ghế, chờ những vị khách mới vượt qua sàn nhà lát gỗ bóng loáng. Tôi bắt chước những người khác, ước gì mình có thể kéo chiếc váy xuống thêm chút nữa. Một nhóm phục vụ bàn không biết từ đâu chui ra hối hả bày lên bàn một chân nến bằng bạc, mấy chồng khăn vải trắng tinh và những chiếc ly sáng choang, kết thúc công việc đúng lúc các vị khách bước đến, ngồi xuống kéo ghế và cởi khuy áo vét.

“Irasshaimase,” các cô gái Nhật nói, cúi chào rồi ngồi xuống ghế, cầm chiếc khăn ấm được đặt trong đĩa tre bày trên bàn.

Tôi cũng bắt chước và lí nhí nói: “Chào mừng quý khách.”

Một chai champagne và vài chai Scotch được mang tới. Tôi ngồi xuống ghế và quan sát mọi người xem phải làm gì tiếp theo. Các cô gái bóc bao nylon bọc chiếc khăn ấm, đặt chúng vào những đôi tay đang ngóng đợi của khách. Tôi làm theo và đặt một chiếc khăn vào tay người đàn ông ngồi bên trái mình. Ông ta không để ý đến tôi. Ông ta cầm lấy chiếc khăn lau tay rồi vứt nó xuống bàn ngay trước mặt tôi và quay sang nói chuyện với cô gái ở bên cạnh. Các quy tắc ở đây rất rõ ràng, công việc của tôi là phải châm thuốc, rót rượu, đút thức ăn vào miệng khách và làm cho họ vui vẻ. Không lên giường với khách. Chỉ chuyện trò và tán dương họ. Các cô gái mới đến đều phải đọc những quy định ghi trên một tấm card mỏng. “Tốt nhất là nói chuyện gì buồn cười,” Mama Strawberry trước đó đã dặn tôi. “Khách hàng của Strawberry muốn được thư giãn.”

“Hallo,” Svetlana nói và chen vào ngồi giữa, nghiêng bên này, ngả bên kia như con gà mái đi tìm trống khiến mọi người đều phải nhường chỗ. Cô cầm một chiếc ly ở giữa bàn và gõ lạch cạch vào chai rượu. “Shampansky, cưng này. Ngon tuyệt!” Cô trút hết rượu trong chai vào bốn chiếc ly, rồi khua khua chai không lên trên đầu, ra hiệu cho phục vụ bàn mang ra thêm.

Cánh đàn ông có vẻ thích hai chị em sinh đôi, họ cổ vũ các cô hát những câu chắc hẳn học được trên vô tuyến hay đài báo vì tôi không biết những giai điệu đó: “Gấp đôi khoái lạc, gấp đôi thích thú... Hãy trao cho em một chút HƯNG PHẤN đó. Hãy đến và dành cho anh MỘT CHÚT!” Tất cả mọi người cười phá lên vỗ tay tán thưởng, và cuộc chuyện trò lại nổ ra trong một thứ tiếng pha trộn giữa tiếng Nhật và tiếng Anh bồi. Hai chị em sinh đôi say rất nhanh. Màu mắt của Svetlana chảy lem nhem, còn Irina thì cứ lanh chanh châm thuốc cho khách bằng một chiếc bật lửa dùng một lần của Hàng không Thái, thỉnh thoảng lại đổ ập xuống bàn làm vãi tung tóe đám đồ nhậu bằng tảo biển và mực khô. Mỗi khi có ai pha trò thì cô lại cười ré lên và nói giọng líu nhíu, “Đừng làm tôi cười nữa, cười nữa là nổ tung mất!”

Tôi chỉ ngồi im lặng, không lôi kéo sự chú ý của mọi người về phía mình, giả vờ như không có chuyện gì xảy ra, như tôi đã làm việc này hàng nghìn lần và không thèm để tâm đến việc chẳng có ai bắt chuyện với tôi hay việc tôi không biết pha trò, không biết các bài hát. Đến khoảng chín giờ, khi tôi vừa nghĩ là mình có thể ngồi im lặng suốt buổi và có lẽ người ta đã quên mất sự tồn tại của tôi thì ai đó chợt lên tiếng: “Thế còn cô thì sao?”

Cả bàn chợt im lặng. Tôi ngẩng đầu lên và thấy tất cả mọi người đều ngừng nói và quay sang nhìn tôi với vẻ tò mò. “Thế còn cô thì sao, cô đang nghĩ gì thế?” Ai đó lại hỏi.

Tôi đang nghĩ gì? Tôi cũng chẳng biết nữa. Tôi đang nghĩ mông lung, đang tự hỏi liệu trong số những người đàn ông này, có ai có cha chú từng tham chiến ở Trung Quốc? Liệu họ có khái niệm gì về cuộc sống hôm nay của họ đã được xây dựng trên một nền tảng như thế nào? Tôi cố tưởng tượng ra khuôn mặt họ trong những bộ quân phục của quân đội Thiên hoàng, đứng trên đường phố Nam Kinh tuyết trắng, một người trong số họ đang giơ cao lưỡi kiếm katana sáng loáng...

“Cô thì sao?”

“Tôi thì sao?”

Họ đưa mắt nhìn nhau như không tin vào câu trả lời xấc xược của tôi. Ai đó đá vào chân tôi dưới gầm bàn. Tôi nhìn lên và thấy Irina đang nhăn mặt với tôi, gật gật đầu chỉ về phía ngực tôi rồi dùng hai tay xốc ngực của cô ấy lên, vai ngả ra đằng sau. “Ngồi thẳng lên,” cô thì thầm. “Ưỡn ngực ra.”

Tôi quay sang người đàn ông ngồi bên cạnh, hít thở thật sâu rồi nói ngay ý nghĩ đầu tiên xuất hiện trong đầu. “Cha ông có từng tham chiến ở Trung Quốc không?”

Vẻ mặt của ông ta đột nhiên thay đổi. Ai đó hít một hơi rõ sâu. Các cô gái quanh bàn nhíu mày, còn Irina thì đặt kịch ly rượu của mình xuống bàn. Người đàn ông ngồi cạnh rõ ràng đang suy nghĩ về câu hỏi của tôi. Cuối cùng ông ta lấy hơi và lên tiếng: “Một câu hỏi kỳ lạ, sao cô lại hỏi thế?”

“Bởi vì, tôi đã nghiên cứu giai đoạn lịch sử này suốt chín năm, bảy tháng và mười chín ngày,” tôi nói lí nhí, tim thót lại.

Ông ta lại im lặng nhìn tôi như cố gắng đọc được những suy nghĩ trong đầu tôi. Xung quanh bàn, tất cả mọi người dường như đang nín thở: tất cả ngồi nghiêng về phía trước, dán người vào mép ghế, chờ câu trả lời của ông ta. Ông ta im lặng rất lâu rồi châm một điếu thuốc, nhưng chỉ rít vài hơi rồi dụi vào gạt tàn.

“Bố tôi đã từng ở Trung Quốc,” ông nói với một vẻ hết sức nghiêm trang. “Ở Mãn Châu. Nhưng ông không bao giờ hé răng về bất cứ chuyện gì đã xảy ra ở đó.” Khói từ điếu thuốc lá ông đang hút bay lên trần nhà thành một dòng dài không đứt gẫy, trông hệt như một ngón tay màu trắng. “Tất cả những gì liên quan đến giai đoạn này trong sách giáo khoa của chúng tôi đều bị bỏ đi. Tôi nhớ cả lớp phải soi những trang sách này dưới đèn cho thầy cô thấy là chúng tôi không thể đọc được những chữ đã bị tẩy trắng. Có lẽ,” ông nói, không nhìn vào một ai mà bật những từ ngữ cho bay thẳng vào không khí, “cô sẽ kể cho tôi về những gì đã xảy ra.”

Tôi ngồi miệng há hốc, choáng váng vì những gì ông ta vừa nói. Mãi một lúc sau tôi mới nhận ra rằng ông không hề giận dữ, và tôi lấy lại được thần sắc. Tôi vươn người ra phía trước đầy phấn khích. “Tất nhiên rồi, tôi sẽ nói cho ông bất cứ điều gì ông muốn, bất cứ chuyện gì...” Tôi nói, cảm thấy câu chữ dồn lên trong cổ họng, sẵn sàng tuôn ra bất cứ lúc nào. Tôi vén tóc ra sau tai và đặt tay lên bàn. “Tôi nghĩ, phần quan trọng nhất là những gì xảy ra ở Nam Kinh. Không. Thật ra không phải là chính những gì đã xảy ra ở Nam Kinh, mà - hãy để tôi... để tôi diễn đạt theo một cách khác. Đúng hơn là khi quân đội Thiên hoàng hành quân từ Thượng Hải tới Nam Kinh. Không ai có thể hiểu nổi chuyện gì đã xảy ra, tại sao những người lính bắt đầu thay đổi…”

Tôi bắt đầu nói, suốt buổi tối, về Mãn Châu, Thượng Hải và Đơn vị 731. Dĩ nhiên nhiều nhất là về Nam Kinh. Các cô gái khác ngồi ủ rũ, thỉnh thoảng lại ngắm nghía móng chân móng tay hay thì thầm với nhau và ném ánh mắt về phía tôi. Còn các vị khách thì tuyệt đối im lặng nhìn tôi chăm chú và lắng nghe với một vẻ tập trung cao độ. Họ không nói gì nhiều và ra về một cách lặng lẽ. Cuối buổi khi Mama Strawberry chia tiền boa cho chúng tôi bà gọi riêng tôi ra một chỗ, khuôn mặt thoáng vẻ cáu kỉnh. Họ đã boa cho tôi nhiều nhất, gấp ba lần các cô gái khác.


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder   Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder Icon_minitimeSun Feb 03, 2019 9:01 pm


Chương 8

史 Nam Kinh, mùng một tháng Ba năm 1937

Thời gian này tôi luôn luôn băn khoăn lo nghĩ về vợ tôi! Nghĩ về những điểm khác biệt giữa tôi và cô ấy! Trong mắt nhiều đồng nghiệp của tôi, cuộc hôn nhân sắp đặt có vẻ kỳ quặc này là một sự phản bội lại lý tưởng của họ, và quả thực, tôi cũng từng luôn mong chờ một cuộc hôn phối hợp lý, có lẽ với ai đó ở trường đại học, một ai đó nằm trong số những người có tư tưởng tiến bộ, đi trước thời đại, quan tâm đến đại cuộc, đến tương lai của Trung Quốc như tổng thống Tưởng Giới Thạch. Thế nhưng tôi đã không tính trước được sự can thiệp của mẹ tôi trong chuyện này.

Bây giờ, mỗi khi nghĩ lại tôi vẫn thấy giận điên người, vẫn run lên vì xấu hổ khi nghĩ tới mẹ, tới cái gia đình lạc hậu và mê tín của mình. Cái gia đình sung túc nhưng không bao giờ có ý định hay có khả năng rời bỏ ngôi làng bé nhỏ để thoát khỏi cảnh lũ lụt hoành hành trên sông Phồn Dương vào mùa hè. Nhưng có lẽ, chính bản thân tôi cũng chưa bao giờ thực sự quyết tâm rời bỏ nơi đó và có lẽ đây chính là sự thật đau lòng nhất về tôi, bên trong nhà ngôn ngữ học trẻ tuổi kiêu hãnh của trường Đại học Kim Lăng là một cậu bé Trung Quốc không biết nhìn xa trông rộng, không biết thay đổi, chỉ biết giậm chân tại chỗ và chờ chết. Tôi nghĩ về làng quê của mình, nơi người dân chỉ kiếm đủ ăn, một đồng bằng xanh tươi với những đàn dê lông trắng muốt, những cây bách xù, những con vịt đi lang thang và những con heo suốt ngày dụi mõm vào đám cây đậu trong vườn; và tôi tự hỏi, liệu tôi có thể trốn chạy được quá khứ hay không?

Sau này, khi xem xét lại mọi chuyện, tôi mới thấy mẹ tôi từ lâu đã có ý định với Thu Kim. Cả hai đã tìm đến ông thầy bói trong làng, một người mà tôi không có ấn tượng mấy, một ông già mù, với chòm râu dài trắng muốt, được một đứa trẻ đi dép rơm dẫn đi quanh làng như một con gấu trong rạp xiếc. Ông thầy bói đã cẩn thận ghi lại ngày tháng năm sinh của Thu Kim rồi với vài chữ nguệch ngoạc và mấy viên xúc xắc bí ẩn bằng ngà voi, ông luận ra rằng số mệnh của Thu Kim hội đủ ngũ hành để sinh cho tôi con đàn cháu đống.

Tất nhiên là tôi phản đối cuộc hôn nhân này và sẽ không bao giờ chấp nhận nó nếu mẹ tôi không đột ngột lâm bệnh. Trước sự giận dữ và tuyệt vọng của tôi, ngay cả khi bệnh tình đã đến mức trầm trọng bà vẫn không muốn từ bỏ tín ngưỡng của mình và nhất định không chịu tin vào các phương pháp chữa bệnh theo khoa học. Thay vì đi đến các bệnh viện hiện đại trên thành phố Nam Kinh để chữa trị như tôi thiết tha đề nghị, bà đặt hết niềm tin vào các lang băm ở quê, những người chỉ suốt ngày kiểm tra lưỡi của bà rồi tuyên bố: “Quá nhiều âm khí, đúng là bê bối khi bác sĩ Nguyên không phát hiện ra trước đó.” Bất chấp những chuẩn đoán, thuốc thang và dược liệu do họ bào chế, sức khỏe mẹ tôi ngày càng yếu dần.

“Chỉ tại sự mê tín của mẹ. Mẹ có biết là mẹ đã làm con đau lòng thế nào khi không chịu tới Nam Kinh khám bệnh không?” Tôi nói với mẹ bên giường bệnh của bà.

“Nghe này,” bà đặt tay lên tay tôi. Tay mẹ đen đủi, già nua, nhăn nheo vì tuổi tác. Tôi vẫn nhớ rõ lúc đó tôi nhìn xuống bàn tay mẹ đặt trên chiếc măng sét của bộ áo vét phương Tây tôi đang mặc và tự hỏi, đây chính là máu thịt đã sinh ra tôi ư? Đúng như vậy ư? “Nghe này, con vẫn có thể làm cho mẹ mãn nguyện!”

“Mãn nguyện?”

“Đúng.” Đôi mắt mẹ tôi bừng sáng, xúc động. “Hãy làm cho mẹ được thỏa nguyện. Hãy cưới con gái ông Vương đi.”

Thế là tôi đầu hàng. Quyền lực của các bà mẹ mới khủng khiếp làm sao! Ngay đến ngài Tưởng Giới Thạch vĩ đại cũng chịu nhiều ảnh hưởng của thân mẫu, thậm chí để chiều lòng mẹ, chính ông cũng phải chấp nhận một cuộc hôn nhân sắp đặt. Tôi cứ dằn vặt bản thân mãi về cuộc hôn nhân trái dấu này, giữa một cô gái quê lúc nào cũng kè kè quyển lịch vạn niên và tính toán mọi thứ theo âm lịch với một kẻ duy lý, lúc nào cũng chỉ tin vào logic và chúi mũi vào các quyển từ điển nước ngoài như tôi. Tôi rất lo lắng, không hiểu các đồng nghiệp sẽ nghĩ thế nào về mình, vì như phần lớn trong số họ, tôi là một người tận tụy với chế độ cộng hòa, một kẻ ngưỡng mộ những tư tưởng tiến bộ của Quốc dân Đảng và hết lòng ủng hộ Tưởng Giới Thạch, một kẻ hoài nghi các hủ tục mê tín dị đoan và tất cả những gì đã làm cho Trung Quốc trở nên lạc hậu suốt bấy lâu nay. Khi đám cưới được tổ chức tại quê nhà, tôi đã không thông báo cho ai. Không một đồng nghiệp nào phải chứng kiến cái đám cưới dài lê thê, không ai chứng kiến tôi phải chịu đựng một loạt các nghi lễ đáng xấu hổ như đối đáp với đám phù dâu trước cửa phòng, đi đứng thì phải tránh các cửa sổ và giếng nước, rồi đốt pháo đì đùng, khiến đám đông bầu đoàn thê tử đi rước dâu thỉnh thoảng nhảy dựng lên như một lũ thỏ cáy.

Nhưng gia đình tôi lại rất hài lòng và tôi được coi như một người hùng. Không lâu sau đó, có lẽ cảm thấy đã được giải phóng khỏi nghĩa vụ nơi trần thế, mẹ tôi qua đời. Theo lời các chị em trong nhà, mẹ ra đi “với một nụ cười hết sức mãn nguyện”. Thu Kim để tang mẹ đúng như một người con dâu có hiếu. Cô quỳ gối và rắc bột tan lên sàn nhà: “Chúng ta làm thế để giữ lại dấu chân của mẹ khi hồn ma của bà về thăm nhà.”

“Xin mình đừng nói năng kiểu ấy,” tôi sốt ruột nói. “Chính những tín ngưỡng quê mùa này đã giết mẹ. Nếu mẹ nghe theo những lời dạy bảo của tổng thống...”

“Hừm,” Thu Kim nói, đứng dậy và phủi tay. “Cảm ơn, em nghe quá đủ về ông tổng thống quý báu của mình rồi. Tất cả những thứ vớ vẩn về Cuộc sống mới. Mình hãy thử nói xem. Cuộc sống mới tươi đẹp mà ông ta rao giảng có phải chính là sự luân hồi kiếp trước của chúng ta hay không?”

Ngay trong giai đoạn để tang mẹ, tôi bắt đầu nhận thấy một sự thay đổi trong suy nghĩ của mình về Thu Kim, về người vợ rắc rối, luôn làm tôi bực mình nhưng lại có cái gì đó vô cùng hấp dẫn và quyến rũ. Tôi dùng từ quyến rũ vì kỳ lạ thay, một cách bất ngờ và không thể tin nổi, bất chấp tất cả, bất chấp sự quê mùa lạc hậu của Thu Kim, sự mất kiên nhẫn của tôi đối với cô ấy, Thu Kim đã xáo động cái gì đó trong tôi.

Sự thừa nhận này làm tôi ngượng ngùng. Tôi không thể hé răng tâm sự nửa lời với bất cứ ai, nhất là các đồng nghiệp của tôi, những người sẽ dùng khoa học để mổ xẻ và chế giễu không thương tiếc các tín ngưỡng của cô ấy. Cô ấy thậm chí không thể gọi là xinh, ít ra là theo nghĩa thông thường của từ này. Nhưng đôi khi tôi vẫn cảm thấy mình bị lạc trong đôi mắt cô ấy. Mắt cô ấy có màu nhạt hơn so với các phụ nữ khác và tôi đặc biệt chú ý đến điều này mỗi khi cô ấy chăm chú nghiên cứu một cái gì đó, vì khi đó, hai đồng tử dường như dãn ra, to hơn một cách khác thường và tràn ngập một thứ ánh sáng kỳ lạ giống như những tia vằn trên lưng hổ. Ngay cả con cóc xấu xí cũng mơ được chén thịt thiên nga xinh đẹp và tôi, một con cóc xấu xí, da bọc xương và cụt đuôi, hôm nào cũng mơ về Thu Kim. Cô ấy chính là điểm yếu của tôi.

史 Nam Kinh, mùng năm tháng Ba năm 1937 (ngày hai mươi ba tháng Giêng theo lịch của Thu Kim)

Căn nhà chúng tôi ở tuy bé nhưng được xây dựng theo một phong cách rất hiện đại. Nó là một trong những ngôi nhà hai tầng quét vôi trắng nằm ở phía Bắc đoạn giao nhau giữa đường Trung Sơn và đường Trung Ương, cổng trước dẫn vào một khoảng sân nhỏ có tường bao, nối với một con đường rải nhựa; ở cổng sau, đi qua căn bếp, là một mảnh đất rậm rạp cây gỗ tếch, cây lựu và một giếng nước không dùng đến, nước đọng lại thành vũng vào mùa hè. Chúng tôi không dùng nước giếng vì có nước máy. Đây quả thực là một tiện nghi vì ở Nam Kinh lúc bấy giờ vẫn còn nhiều người phải sống trong các túp lều dựng tạm bằng ván gỗ và lốp xe. Chúng tôi không chỉ có nước mà còn có cả điện, mỗi phòng có một bóng đèn điện và giấy dán tường trong phòng ngủ là hàng ngoại nhập. Ngôi nhà này khiến Thu Kim trở thành nỗi ghen tị của hàng xóm láng giềng, thế nhưng cô ấy vẫn soi mói khắp nhà với con mắt của thợ săn để tìm ra những kẽ hở mà ma quỷ có thể ẩn nấp. Bây giờ phòng nào trong nhà cũng có một bàn thờ thổ công với giẻ lau và bàn chải để riêng tiện cho việc lau chùi, một bức tường chắn ma được dựng lên ở cổng trước và những tấm gương chiếu yêu màu xanh được treo đối diện cửa phòng. Một tấm thẻ bằng cao lanh treo ở đầu giường để giúp chúng tôi sinh được quý tử và vô số tấm bùa nhỏ màu vàng treo ở các cửa sổ và cửa ra vào, thậm chí trên cả các cành cây ngoài vườn.

“Có thật là mình không thấy chính những hành vi kiểu này đã làm đất nước chúng ta tụt hậu?” Tôi hỏi Thu Kim.

Nhưng cô ấy không có chút khái niệm gì về xây dựng tổ quốc hay tiến lên phía trước. Cô ấy sợ những gì mới lạ. Cô ấy vẫn mặc quần với áo sườn xám và cho rằng những cô gái Thượng Hải mặc váy ngắn và đi tất chân là không thể chấp nhận được. Thu Kim cứ lo tôi không yêu cô ấy vì cô không bó chân và xoay xở mua được một đôi giày vải mũi nhọn, thêu hoa kiểu Mãn Châu để trông giống như chân đã được bó từ nhỏ. Thỉnh thoảng cô ấy ngồi trên giường nhìn hai bàn chân rồi nắn bóp, vặn vẹo các ngón chân như thể đôi bàn chân tự nhiên không bị bó buộc làm cô ấy xấu hổ.

“Sử Trùng Minh, mình có chắc chân như thế này là đẹp không?”

“Đừng nói vớ vẩn, dĩ nhiên là đẹp.”

Đêm trước, khi tôi đang bôi dầu lên tóc, thay pyjama chuẩn bị vào giường thì cô ấy lại hỏi. “Mình chắc chứ, hoàn toàn chắc chắn chứ?”

Tôi thở dài, ngồi xuống chiếc ghế con, mở tủ lôi ra chiếc kéo có cán bằng ngà voi để cắt móng tay. “Chân mà bị bẻ thì có gì đẹp.”

“Ôi!” Thu Kim thở hổn hển sau lưng tôi... “Ôi, không!”

“Lại gì nữa đây?” Tôi ngừng tay và quay lại.

Cô ấy đang ngồi như trời trồng trên giường, trông rất lo lắng, hai má đỏ tấy. “Gì nữa, mình chứ còn gì. Mình có biết là mình đang làm gì không?”

Tôi nhìn xuống tay. “Thì đang cắt móng tay.”

“Nhưng,” cô ấy đưa tay ôm mặt, kinh hoàng, “Trùng Minh, trời tối rồi. Mình không để ý hay sao? Chả nhẽ mẹ không dạy mình à?”

Lúc này tôi mới nhớ ra ngày xưa mẹ bảo cắt móng tay vào buổi tối là rước ma quỷ vào nhà. “Thu Kim này, tôi thấy mình bắt đầu hơi quá rồi đấy!” Tôi bắt đầu hơi lên giọng.

“Không được, chả lẽ mình muốn mang điêu tàn và chết chóc vào cái nhà này hay sao?” Cô ấy cãi lại, mặt trắng bệch.

Tôi nhìn cô ấy một lúc lâu, không biết có nên cười hay không. Cuói cùng tôi quyết định không nên chọc giận cô ấy và cất chiếc kéo vào hộp, miệng chỉ lầu bầu: “Ngay cả trong nhà mình cũng không được tự do.”

Chỉ đến nửa đêm khi cô ấy đang ngủ say còn tôi thao thức nhìn trần nhà thì những lời nói của cô ấy lại vang lên trong đầu tôi. Điêu tàn và chết chóc. Điêu tàn và chết chóc, những thứ chúng tôi chẳng bao giờ nghĩ đến. Tuy nhiên, thỉnh thoảng, tôi cũng băn khoăn về những tháng ngày yên ổn mà hai vợ chồng tôi tối ngày tranh cãi một cách vui vẻ dưới bầu trời Nam Kinh u uất. Chúng có yên ổn quá không? Có mơ mộng quá không? Rồi tôi băn khoăn, tại sao, hình ảnh mặt trời mọc hồi tuần trước cứ quay trở lại ám ảnh tôi từng giờ?


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder   Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder Icon_minitimeSun Feb 03, 2019 9:01 pm


Chương 9

Suốt thời niên thiếu của tôi, khi ở trong bệnh viện hay ở trường đại học, tôi không bao giờ nghĩ đến một tương lai sung túc, do đó tôi không hề có bất cứ khái niệm gì về việc tiêu tiền. Đêm hôm đó, sau khi đếm số tiền lương và tiền boa mà tôi kiếm được, hơn một trăm năm mươi bảng, tôi liền cất chúng vào sâu trong túi, kéo khóa lại, vội vàng nhét túi vào trong tủ, tim đập thình thịch. Một trăm năm mươi bảng! Tôi nhìn chằm chằm vào cái túi trên sàn nhà. Một trăm năm mươi bảng.

Tôi đã kiếm đủ để trả tiền thuê nhà nên không cần phải quay trở lại chỗ đó nữa, nhưng đã xảy ra một điều kỳ quái nào đó. Hình ảnh các vị khách chăm chú ngồi nghe mình nói khiến tôi cảm thấy vui như mở cờ trong bụng. “Tôi luôn có thể nói được lúc nào thì một người phụ nữ đang vui vẻ,” Jason nhăn nhở nói khi bốn chúng tôi trở lại thang máy đêm hôm đó. “Chỉ cần nhìn sự tuần hoàn của máu,” anh ta đưa mu bàn tay chạm vào má tôi khiến tôi nhảy dựng ra sau. “Sự lưu thông của máu dưới da. Vô cùng thú vị.” Anh ta rụt tay lại và nháy mắt với tôi vẻ ranh mãnh. “Mai cô sẽ quay trở lại.”

Và anh ta đã đúng. Ngày hôm sau, tôi chỉ muốn lao đi tìm Sử Trùng Minh, nhưng sau cảnh tượng giận dữ ngày hôm qua, tôi biết mình cần phải kiên nhẫn và chờ thêm một thời gian nữa. Nhưng thay vì chết gí ở nhà chờ đợi giữa mớ sách vở giấy tờ, tôi đến Omotesando mua cho mình chiếc áo đầu tiên dài quá đầu gối và không hở ngực. Một chiếc áo đẹp nhưng không nói lên điều gì về người mặc nó. Tối hôm đó, Mama Strawberry ném cho nó một cái nhìn vội vàng rồi gật đầu. Bà nhấm nhấm đầu ngón tay rồi gạt mấy sợi tóc của tôi sang bên, vỗ vỗ tay tôi và chỉ vào một chiếc bàn đã sẵn khách, đẩy tôi ngay lập tức lao vào một chuỗi châm thuốc, rót rượu và gắp đá vào cốc.

Tôi vẫn nhớ cái tuần làm việc đầu tiên ấy. Tôi ngồi trong hộp đêm nhìn ra ngoài phố và tự hỏi ngoài kia, ngọn đèn nào là của Sử Trùng Minh. Tokyo đang trong những ngày nóng nực nên trong hộp đêm, điều hòa chạy hết tốc lực, các tiếp viên ngồi trong một hồ ánh sáng mát lạnh, những bờ vai trần lấp lánh như ánh trăng. Tôi lục tìm trong ký ức hình ảnh mình nhìn từ bên ngoài tòa nhà, tôi giống như một người đang chìm đắm trong hư vô, một hình bóng lúc tỏ lúc mờ sau lớp cửa kính với khuôn mặt trắng xanh vô cảm thỉnh thoảng lại bị che lấp bởi cái xích đu của Marilyn Monroe. Không ai nghi ngờ gì về những ý nghĩ điên rồ đang thoáng qua trong đầu tôi.

Strawberry có vẻ thích tôi. Đây là một điều đáng ngạc nhiên vì bà ta vốn có những sở thích trứ danh. Bà ta chi tiêu hàng nghìn đô một tháng để mua hoa, những bông protea màu cam nhập từ Nam Phi, hoa loa kèn đỏ, hoa ngải tiên và phong lan từ những đỉnh núi cao ở Thái Lan. Đôi khi tôi nhìn bà ta chằm chằm không sợ sệt vì cái cách bà giữ lưng rất thẳng và khêu gợi. Bà ta đúng là một người rất gợi tình và nhận thức được điều đó. Tôi cảm thấy ghen tị với sự tự tin của bà ta. Bà ta rất thích chưng diện, mỗi đêm là một tuyệt phẩm mới, nhũng chiếc váy bằng vải xatanh hồng, vải nhiễu trắng Trung Hoa, chiếc đầm màu đỏ tía với một cái đai đính đầy xêquin. “Từ Làm thế nào để lấy một triệu phú,” bà ta nói, thả tay xuống, vểnh mông ra, ngoảnh đầu nhìn qua bờ vai vuông để ném cho khách hàng một cái trề môi. “Đó là ‘xatanh sacmơ,’ cô biết đấy,” như thể đó là một cái tên mà lẽ ra ai cũng phải biết. “Strawberry không thể bước đi duyên dáng nếu không ăn mặc như Marilyn,” và bà ve vẩy bót thuốc lá bằng ngọc trai trước mặt người đối thoại. “Marilyn và Strawberry có cùng chiều cao, Strawberry chỉ gầy hơn một chút thôi.” Bà ta là một người nóng tính hay gắt gỏng nhưng tôi chưa bao giờ thấy bà thực sự tỏ ra giận dữ cho đến đêm thứ năm tôi làm việc ở đây. Đêm đó, một tính cách hoàn toàn khác của Mama Strawberry mới thực sự lộ ra.

Đó là một buổi tối nóng bức, nóng đến mức dường như cả thành phố đều bốc hơi, một kiểu hơi nước ngưng tụ trên đỉnh các tòa nhà và che mờ cả mặt trời lúc hoàng hôn. Trông ai cũng uể oải, kể cả Mama Strawberry, lúc này đang đi quanh sàn nhảy trong chiếc áo choàng dài chấm gót đính xêquin “Chúc mừng sinh nhật tổng thống”. Thỉnh thoảng bà dừng lại thì thầm vài câu với nhạc công piano hay đứng đặt tay lên thành ghế, bắt chuyện với khách. Vào quãng mười giờ tối, không hiểu chuyện gì xảy ra khiến bà ta phải đặt vội ly rượu champagne đang uống dở xuống quầy bar đánh xoảng một tiếng kinh hoàng. Bà ta ngồi thẳng người trên ghế và nhìn như hóa đá về phía cửa ra vào, mặt trắng bệch.

Sáu người đàn ông lực lưỡng mặc đồ vét, tóc húi cua đang bước qua cửa chính. Đi giữa là một người đàn ông mảnh khảnh, mặc áo cổ lọ màu đen, tóc buộc đuôi ngựa. Ông ta đang đẩy một chiếc xe lăn, trên xe là một người đàn ông nhỏ thó, ốm yếu, như một con kỳ nhông già. Đầu ông ta bé tẹo, giống như một cái sọ mốc, da khô và nhăn nheo như quả hạch, mũi tẹt gí, chỉ nhìn thấy hai lỗ mũi nhô lên như hai cục thịt thừa. Hai bàn tay thò ra sau lớp tay áo dài có màu nâu sẫm héo hon như những chiếc lá khô.

“Dame! Konaide yo!” Mama Strawberry tuột khỏi ghế, vươn thẳng người, nốc cạn ly rượu champagne, mắt vẫn không rời khỏi đám người kia. Bà ta đặt ly rượu xuống bàn, cho một điếu thuốc vào bót, rồi vuốt phẳng hai bên hông váy, một tay chống eo, một tay ve vẩy bót thuốc, sải chân ra đón khách. Người nhạc công piano tựa lưng vào chiếc ghế, quan sát chuyện đang xảy ra, những nốt nhạc ngập ngừng.

Chỉ còn vài bước nữa là đến chiếc bàn đầu tiên gần khung cửa sổ hướng về phía Đông với tầm nhìn toàn cảnh Tokyo rõ nhất thì Strawberry dừng lại. Bà ta đứng chụm chân, quay người đối diện với đám khách mới đến. Bạn có thể nói rằng bà ta đang cố hết sức kiềm chế cảm xúc của mình. Bà ta đặt một tay lên ghế, tay kia khó nhọc giơ lên vẫy về phía bọn họ, cánh tay hạ xuống theo một cách thức đặc trưng của người Nhật.

Khi khách khứa trong phòng nhận biết được sự xuất hiện của họ, tiếng trò chuyện nhỏ dần, mọi con mắt đều đổ dồn vào các vị khách mới. Nhưng tôi còn nhìn thấy một cái gì khác nữa. Bên ngoài, phía sau quầy lễ tân có một góc nhỏ hình chữ nhật nằm thụt vào trong tường, có sẵn cả bàn và ghế. Dù không có cửa, nhưng nó nằm ở vị trí thuận tiện cho người ở bên trong tránh được ánh mắt nhòm ngó của các khách hàng khác. Nó là chỗ ưa thích của người lái xe ngồi chờ khách và Mama Strawberry thỉnh thoảng cũng tiếp khách riêng ở đây. Khi đám khách mới đến gần chỗ bàn tiếp tân thì một người trong số họ tách ra khỏi nhóm và lặng lẽ lướt vào trong đó. Người này di chuyển quá nhanh khiến tôi chỉ kịp nhìn thoáng qua, nhưng những gì tôi thấy cũng đủ khiến tôi cảm thấy bất an.

Người đó ăn mặc giống như một phụ nữ, áo len màu đen giản dị, váy màu xám chì, nhưng nếu đúng là phụ nữ thì cô ta quá cao. Cô ta có đôi vai rộng, lực lưỡng, hai cánh tay dài, đôi chân gân guốc. Cô ta đi một đôi giày gót nhọn màu đen bóng. Nhưng chính mái tóc dài bóng lộn che gần hết khuôn mặt của cô ta mới làm tôi choáng váng. Có lẽ đó là tóc giả và dù nó rất dài nhưng vì cô ta quá cao nên nó chỉ chạm đến vai, như thể đầu và cổ cô ta bị ép mỏng đến kỳ lạ.

Khi tôi đang há hốc mồm ra ngắm cô ta thì đám người đi cùng đã ngồi vào bàn. Những người phục vụ bàn đang tíu tít sắp xếp chỗ ngồi. Người đàn ông trên chiếc xe lăn ngồi ở đầu bàn, quạu quọ và đen sì như một con bọ hung, trong khi người đàn ông tóc cột đuôi ngựa lăng xăng xung quanh, chỉ đạo chỗ nào thì để ly, rượu và nước. Trong góc phòng, hai mươi tiếp viên đang lo lắng nhìn Strawberry di chuyển xung quanh các bàn và thì thầm điểm tên phân công họ ra tiếp khách. Bà ta có một vẻ mặt rất kỳ lạ, như không còn giọt máu, như đang giận dữ. Trong một lúc, không thể đoán định được vẻ mặt đó, cho tới khi bà ta hất đầu lại phía sau và cắt ngang căn phòng tiến về phía tôi. Mọi cơ mặt li ti của bà ta đều đang co giật. Strawberry đang lo lắng.

“Grey san,” bà nghiêng người về phía tôi nói nhỏ. “Ngài Fuyuki. Cô đến đó ngay và ngồi cùng với ông đi.”

Tôi định xách túi đi thì bà ta đặt một tay lên môi làm dấu. “Hãy cẩn thận đấy,” bà ta thầm thì. “Cực kỳ cẩn thận đấy. Đừng có nói năng lung tung.” Bà ta dừng lại nhìn tôi do dự một chút, đôi mắt nheo lại vằn lên những tia màu nâu sau lớp kính sát tròng màu xanh nước biển. “Nhất là mụ ta.” Bà ta hất đầu về phía góc tường. “Y tá của ông ta, Ogawa. Đừng bao giờ thử bắt chuyện hay nhìn thẳng vào mắt mụ ta. Hiểu chưa?”

“Vâng,” tôi nói một cách yếu ớt, mắt liếc về khối đen sẫm phía góc tường. “Vâng. Tôi hiểu.”

Trên bất cứ đường phố nào ở Tokyo, bạn đều có thể nhận thấy sự có mặt của các yakuza, các băng nhóm xã hội đen khét tiếng của Nhật Bản, tự nhận mình là hậu duệ của dòng dõi samurai. Họ là một trong những băng đảng bạo lực và đáng sợ nhất ở châu Á. Đôi khi bạn được nhắc nhở về sự tồn tại của họ khi nghe thấy tiếng rú ga của những chiếc môtô bosozoku chở những tay anh chị đội mũ sắt sơn dòng chữ kamikaze, hệt như một đợt sóng màu vàng crom đổ ập xuống Meiji Dori trong đêm khuya thanh vắng. Nhưng vào những lúc khác, dấu hiệu tồn tại của họ xuất hiện theo một số cách trừu tượng hơn nhiều: một chiếc đồng hồ Rolex sáng choang trong tiệm cà phê, một mái đầu húi cua trong nhà hàng, một chiếc áo cổ lọ bỏ trong quần vải đen không nhàu và đôi giày da rắn sáng bóng trong một ngày nóng bức. Hay một cánh tay xăm trổ chìa ra khi xếp hàng mua vé tàu điện ngầm ngay đằng trước bạn. Tôi không nghĩ nhiều tới họ cho tới tận đêm đó khi tôi băng qua sàn nhảy về phía những người khách mới đến trong không khí lặng im, nghe tiếng ai đó thì thầm từ một chỗ ngồi cạnh sàn nhảy, “Yakuza.”

Khi tôi đến gần, cả bàn vẫn im phăng phắc. Toàn bộ đám tiếp viên cũng ngồi im re, không dám ngó nghiêng gì cả. Dường như ai cũng tránh ngồi quay lưng về phía mụ Y Tá, lúc này vẫn ngồi trong góc tường, bất động như một con rắn. Tôi được xếp ngồi cạnh Fuyuki bên chiếc ghế lăn của ông ta và có thể quan sát ông ta khá rõ. Mũi của ông ta bé kinh khủng, như thể đã bị lửa ăn mất một phần, khiến ông ta cứ phải thở phì phì một cách nặng nhọc. Mặt ông ta nom không hẳn là tử tế mà chỉ có cái vẻ gì đó như không muốn gây sự, chỉ muốn quan sát mọi thứ xung quanh, giống như một con ếch già. Ông ta cũng không muốn bắt chuyện với ai.

Đám đàn em của ông ta ngồi im, tay kính cẩn đặt lên bàn trong khi chờ đợi người đàn ông tóc đuôi ngựa chuẩn bị đồ uống cho Fuyuki. Ông này rót whisky mạch nha vào một chiếc ly bọc trong một cái khăn trắng xúc rượu tráng ly rồi đổ vào xô đá, dùng khăn lau cẩn thận trước khi rót một ly mới. Xong xuôi, ông ta giơ tay ra hiệu cho những người khác chờ thêm một chút nữa rồi từ từ quay sang đưa ly rượu cho Fuyuki. Ông trùm giơ bàn tay run rẩy cầm lấy ly rượu đưa lên miệng nhấp. Ông ta hạ ly rượu xuống, một tay xoa bụng, một tay đưa lên miệng để che cơn ợ, gật đầu vẻ hài lòng.

“Omaetachi mo yare,” người đàn ông tóc đuôi ngựa hất cằm ra hiệu cho những người khác có thể bắt đầu. “Nonde.”

Đám người bắt đầu thư giãn. Họ nâng cốc uống. Một vài người đứng lên cởi áo khoác, người khác thì lôi xì gà ra hút. Thư giãn hơn. Các nữ tiếp viên bắt đầu rót rượu, bỏ đá vào ly và khuấy đều bằng các que thủy tinh của quán. Không bao lâu sau, rượu vào lời ra, mọi người bắt đầu chuyện trò sôi nổi. Chưa đầy một tiếng sau, đám đàn ông đều đã say.

Irina và Svetlana hỏi xin meishi của Fuyuki. Đó không phải chuyện kỳ quái - phần lớn khách hàng khi đến đây đều tự động đưa danh thiếp cho chúng tôi sau vài phút ngồi vào bàn nhưng Fuyuki thì không dễ dàng thế. Ông ta nhíu mày, hắng giọng rồi nhìn hai chị em sinh đôi vẻ dò xét. Cuối cùng thì ông ta cũng chịu thò tay vào túi và móc ra vài cái danh thiếp, kẹp chúng giữa những ngón tay màu nâu, lòng bàn tay úp xuống, và phân phát xung quanh bàn. Tôi thoáng thấy tên của ông ta được thêu bằng chỉ vàng trên miệng túi áo. “Bảo họ đừng có coi ta là con khỉ làm xiếc. Ta không muốn ai đó gọi điện nhắc ta đến hộp đêm. Ta sẽ đến khi nào ta muốn.” Ông ta nói nhỏ với người đàn ông buộc tóc đuôi ngựa.

Tôi nhìn chằm chằm vào tấm danh thiếp trong tay mình. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy một cái danh thiếp nào đẹp như thế. Đó là một tấm danh thiếp được làm thủ công bằng giấy nhám, mép hơi gồ lên. Không giống những tấm danh thiếp thông thường, tấm danh thiếp này không hề ghi địa chỉ cũng như chú thích tiếng Anh ở đằng sau. Nó chỉ có duy nhất một số điện thoại và tên giữa của Fuyuki ghi bằng chữ kanji theo kiểu thư pháp bằng mực thông.

“Gì vậy?” Fuyuki thì thầm. “Có gì sai à?”

Tôi lắc đầu và nhìn chằm chằm vào danh thiếp của ông ta. Những chữ kanji nhỏ bé này thật là đẹp. Tôi đang nghĩ hệ thống chữ viết cổ này mới tuyệt vời làm sao, so với chúng, những chữ tiếng Anh mới khẳng khiu và ủ rũ biết bao. “Gì vậy?”

“Cây Mùa đông,” tôi lẩm bẩm. “Cây Mùa đông.”

Một người đàn ông ở cuối bàn đã bắt đầu phá lên cười trước khi tôi dứt lời. Khi không thấy ai cười theo thì anh ta bèn hắng giọng rồi lấy khăn che miệng và nốc vội một ngụm rượu. Tất cả trở lại yên lặng. Irina khẽ hắng giọng và lắc lắc đầu. Nhưng Fuyuki cúi ra phía trước và nói khẽ bằng tiếng Nhật: “Tên của ta, làm sao mà cô biết được tên ta có nghĩa như thế, cô biết tiếng Nhật à?”

Tôi ngước nhìn ông ta, mặt trắng bệch, giọng không được chắc chắn cho lắm. “Dạ, có biết một chút ạ.”

“Cô cũng đọc được chữ kanji chứ?”

“Chỉ khoảng 500 chữ thôi ạ!”

“500 chữ? Sugoi. Thế là quá nhiều.” Lúc này những người khác mới bắt đầu quay sang nhìn tôi như thể họ vừa mới nhận ra rằng tôi là một con người chứ không phải là một đồ vật. “Cô nói, cô là người nước nào ấy nhỉ?”

“Nước Anh à?” Câu hỏi bật ra như thăm dò.

“Nước Anh à?” Ông ta cúi xuống và nhìn như xuyên qua tôi. “Hãy nói cho ta biết, có phải ở Anh quốc, họ đều xinh đẹp như thế không?”

Được bất kỳ ai khen xinh thì... nhưng cũng may mà tôi không hay được người khác khen xinh, vì cứ mỗi lần như thế tôi lại cảm thấy ngứa ngáy khó chịu, nhớ tới tất cả những chuyện có thể không bao giờ xảy đến với tôi. Ngay cả nếu như tôi có xinh đẹp thật đi chăng nữa. Lời khen của ông già Fuyuki khiến tôi ngượng và co mình lại trong cái vỏ của mình. Từ lúc đó trở đi, tôi không nói gì nữa, chỉ im lặng hút hết điếu thuốc này đến điếu thuốc khác, thỉnh thoảng lại tìm cớ để ra khỏi chỗ đó. Mỗi lần phải vào quầy bar để lấy ly sạch hay đồ ăn thì tôi đều tranh phần đứng dậy.

Suốt buổi, mụ Y Tá gần như không rời khỏi chỗ. Tôi không thể cưỡng lại việc thỉnh thoảng lại liếc trộm về phía mụ. Bóng mụ gần như bất động trong góc tường. Có thể thấy đám phục vụ bàn cũng không thoải mái trước sự hiện diện của mụ. Thường thì một trong số họ sẽ đi vào đó để hỏi khách muốn uống gì không nhưng đêm nay thì chỉ có mỗi Jason đủ can đảm để tiếp mụ ta. Khi tôi tới quầy bar lấy khăn ấm thì thấy anh ta đang chuẩn bị thực đơn whisky cho mụ. Anh ta đi lại tự tin, thản nhiên ngồi xuống bàn, khoanh tay nhìn mụ ta chọn đồ uống, không có vẻ gì là sợ sệt. Tôi tranh thủ quan sát mụ ta.

Mụ ta ngồi quay nghiêng về phía tôi và trông thật đáng sợ - khắp người mụ ta phủ phấn trắng, phấn đóng thành vệt cứng trên các nếp nhăn ở cổ và cổ tay. Cả người mụ chỉ duy nhất có đôi mắt một mí là đen sẫm, nhỏ xíu, cách xa sống mũi, tụt vào trong sọ, không nhìn thấy hốc mắt đâu cả. Mama Strawberry đã dặn tôi không được nhìn thẳng vào mắt mụ ta nhưng nếu không quan sát kỹ thì đúng là không thể thấy mắt mụ ta được, và cái vị trí bất thường của đôi mắt chắc là khiến thị giác kém đi vì tôi thấy mụ ta cứ gí tờ thực đơn vào mắt rồi xoay tới xoay lui, như thể đang ngửi nó vậy. Tôi không quay trở lại bàn ngay lập tức mà đứng nấn ná ở quầy bar giả vờ kiểm tra đống khăn ấm.

“Mụ ta có cái gì đó gợi tình,” tôi nghe Jason nói với ai đó ở quầy bar khi quay trở lại kêu đồ uống cho mụ. Anh ta đứng chống tay vào quầy bar nói bâng quơ. “Gợi tình theo kiểu quái đản ác dâm và khổ dâm,” rồi ngoái đầu nhìn về phía mụ ta miệng cười khoái trá. “Cứ cho là tôi sẽ làm chuyện xấu xa với mụ nếu phải thế.” Anh ta quay lại và bắt gặp tôi đang đứng ở quầy bar lặng lẽ nhìn anh ta chằm chằm. Anh ta nháy mắt và nhướn mày, vẻ đồng lõa. “Chân đẹp đấy,” anh ta giải thích, hất đầu về phía mụ Y Tá. “Hay có lẽ tại đôi giày cao gót.”

Tôi không trả lời. Tôi cầm lấy chiếc oshibori và bỏ đi, tự dưng cảm thấy xấu hổ một cách ngu ngốc, vấn đề với Jason là anh ta luôn làm tôi muốn khóc.

Thật khôi hài là ai đó lại có thể cấy suy nghĩ vào trong đầu óc bạn. Đêm đó, tôi cúi nhìn đôi chân đang bắt chéo dưới bàn của mình. Lúc đó, tôi đã khá say và nhớ mình đã nhìn chúng, đôi mắt cá chân đan chéo vào nhau và băn khoăn không hiểu như thế nào thì được gọi là có đôi chân đẹp? Tôi vuốt nhẹ tất chân, mở đầu gối ra một chút, ngắm nghía và tự hỏi không hiểu chân mình thì có được gọi là đẹp không?


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder   Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder Icon_minitimeSun Feb 03, 2019 9:01 pm

Chương 10

史 Nam Kinh, mùng bốn tháng Tư năm 1937, Lễ Thanh Minh

Mẹ tôi giờ hẳn đang cười vào mũi tôi, cười vào sự e dè và lãnh đạm trước đây của tôi đối với cuộc hôn nhân này. Bởi vì tôi và Thu Kim đang chờ đón một đứa con. Một đứa con! Hãy tưởng tượng xem. Sử Trùng Minh, con cóc nhỏ bé xấu xí này mà lại làm cha! Cuối cùng, cũng có cái để ăn mừng. Một đứa con để mang lại trật tự cho định luật vật lý và tình yêu, một đứa con để khám phá nguyên nhân sâu xa của những chuẩn mực xã hội nhạy cảm. Một đứa con để giúp tôi toàn tâm toàn ý nắm lấy tương lai.

Thu Kim ngay lập tức bị cuốn vào một cơn sốt tín ngưỡng. Phải tính đến rất nhiều vấn đề quan trọng. Tôi chỉ còn biết quan sát cô ấy, cố gắng chấp nhận và tôn trọng những gì cô ấy làm. Sáng nay chẳng hạn, cô ấy đưa ra một danh sách dài những thức ăn phải tránh như mực, bạch tuộc, dứa và hàng ngày tôi phải đi chợ mua những thứ như xương gà đen, gan, mận, hạt sen và tiết canh. Từ nay tôi cũng sẽ phải tự tay làm gà vì Thu Kim không được sát sinh, thậm chí là để nấu ăn, nếu không con chúng tôi sẽ bị dị dạng hoặc Thu Kim sẽ sinh ra một con gà hay con vịt.

Quan trọng nhất là không được gọi con trai của chúng tôi (Thu Kim chắc chắn đây sẽ là một bé trai) là “con trai” hay “bé con” vì ma quỷ sẽ nghe thấy và sẽ tìm cách đánh cắp khi bé chào đời. Thay vào đó, cô ấy sẽ gọi con bằng một cái tên khác, một “nhũ danh” theo cách nói của cô ấy, để đánh lừa ma quỷ. Thế là chúng tôi gọi cháu là “mặt trăng”. “Mình không thể tưởng tượng được bọn ma quỷ chuyên bắt trẻ sơ sinh ác độc thế nào đâu. Linh hồn của ‘mặt trăng’ sẽ là thứ quý giá nhất mà chúng mơ ước.” Cô ấy giơ tay lên, không để cho tôi được phản đối: “Mình phải nhớ rằng mặt trăng của chúng ta rất yếu đuối nên đừng bao giờ quát tháo hay tranh cãi bên cạnh em. Chúng ta không được làm nó sợ.”

“Tôi biết rồi,” tôi mỉm cười vì thấy cô ấy đang nói với một vẻ hết sức nghiêm túc. “Thôi thì gọi là mặt trăng cũng được. Và từ giờ trở đi, trong nhà này chỉ có hai chữ bình an.”


Chương 11

Hai chị em người Nga bảo không có gì đáng ngạc nhiên khi Jason có nói đùa mấy câu về mụ Y Tá. Họ cho rằng anh ta là một kẻ lập dị. Phòng anh ta dán đầy những bức ảnh kinh hoàng và anh ta thường xuyên đặt mua các tạp chí đặc biệt từ Thái Lan, rồi thỉnh thoảng trong nhà lại bị mất trộm những thứ lặt vặt, không đáng giá nhưng kỳ quái, như gấu chiến đồ chơi của Irina làm bằng da thật, một chiếc găng tay bằng lông sói hay bức ảnh ông bà của hai cô gái. Theo họ, có lẽ anh ta là một người tôn thờ quỷ dữ. “Anh ta toàn xem những thứ bệnh hoạn, khiến cô muốn ói luôn, băng video của anh ta toàn thấy chết chóc.”

Đó là những cuộn băng bày đầy trong các cửa hàng thuê băng ở đường Waseda với những tựa đề dường như thấm đẫm những giọt máu kinh hoàng: Đối mặt tử thần, Nhà xác điên rồ, Phim tài liệu về khám nghiệm tử thi. Những vỏ băng khoa trương, và bạn sẽ cho rằng tất cả đều là phim sex nếu chứng kiến đám đông thanh niên có vẻ như luôn chầu chực ở trong góc của cửa hàng. Tôi chưa tận mắt nhìn thấy những băng hình này nên không biết hai chị em có nói thật hay không nhưng những bức ảnh của Jason thì tôi biết.

“Tôi đã ở châu Á được hơn bốn năm,” anh ta nói với tôi. “Cô cứ việc chụp Taj Mahal và Angkor Wat. Tôi đang muốn tìm kiếm một cái gì đó...” Anh ta dừng lại, xoa xoa các ngón tay với nhau như thể đang cố gắng nặn ra ngôn ngữ từ không khí, “... Tôi đang tìm kiếm một cái gì đó, một cái gì đó khác biệt hơn.” Một hôm, tôi tình cờ đi ngang qua phòng anh ta khi cửa để mở và không có ai ở trong phòng. Tôi không thể cưỡng lại được, tôi phải bước vào trong.

Tôi nhìn thấy những gì mà hai chị em người Nga kể. Khắp tường găm đầy những tranh ảnh rùng rợn: chỗ này là hình ảnh một người đàn ông tàn tật, đáng thương, trần truồng trừ một vòng hoa cúc vạn thọ, ngồi ủ rũ trên bờ sông mà tôi đoán là sông Hằng; chỗ kia là những chàng trai trẻ tuổi người Philippin bị đóng đinh thập tự và những đàn kền kền đang rỉa xác người trên Tháp Yên lặng trong một đám tang của tín đồ Hỏa Giáo. Vì tôi từng học một ít tiếng Tây Tạng ở trường đại học nên tôi cũng dễ dàng nhận ra bức ảnh chụp một cây bách xù đang cháy âm ỉ với những lá cờ phướn cầu nguyện tung bay trên một nghĩa địa thiên táng ở ngoại ô Lhasa. Nhưng, khi tôi ngắm bức ảnh chụp một hình dạng mơ hồ, mờ mịt khói trắng trên chiếc bệ, được chú thích bằng một dòng nguệch ngoạc Giàn thiêu Varanasi, thì tôi chợt nhận thấy cả căn phòng này toát lên một vẻ đẹp kỳ lạ, vẻ đẹp của sự hiếu kỳ. Tôi lẻn ra ngoài không một tiếng động và cho rằng hai chị em người Nga đã sai. Jason không phải là một người bệnh hoạn, anh ta là một người rất độc đáo.

Anh ta là phục vụ bàn ở hộp đêm nhưng cả tuần tôi không thấy anh ta bê một cái khay nào. Anh ta thỉnh thoảng dừng lại ở các bàn và tán chuyện với khách như thể anh ta là chủ ở chỗ này chứ không phải Strawberry. “Anh ta là bồi bàn nhưng chẳng làm cái quái gì cả. Anh ta không cần phải làm việc vì Mama Strawberry khoái anh ta,” Irina lầm bầm. Có vẻ như bà ta bị lôi cuốn bởi sự quyến rũ của một người phục vụ bàn ngoại quốc. Phải nhắc đến vẻ ngoài của anh ta nữa. Mỗi lần anh ta đi ngang qua là các nữ tiếp viên người Nhật lại cười khúc khích, mặt đỏ bừng. Anh ta thường ngồi bên bàn của Strawberry, nhấm nháp rượu champagne, áo vét không cài khuy để khoe cơ thể, còn Mama Strawberry thì mỉm cười một cách ngớ ngẩn, đưa tay sửa lại váy sống, thỉnh thoảng lại tựa lưng vào ghế và đưa tay vuốt ve cơ thể mình.

Jason cũng chẳng mấy khi ở nhà và hiếm khi anh ta ra ngoài mà để cửa mở toang thế này. Thường thì anh ta khóa cửa rồi đi từ rất sớm khi cả ba chúng tôi còn đang ngủ hay anh ta đón taxi đi từ đêm trước rồi đến thẳng chỗ làm vào ngày hôm sau. Có thể anh ta lại đi lang thang ngoài công viên để tìm kiếm các phụ nữ ngủ trên ghế đá. Khắp nhà đều có dấu ấn của anh ta, từ đôi giày da đanh vứt lăn lóc ở chân cầu thang, những vệt kem cạo râu mùi chanh, khô cứng trong buồng tắm, những tấm danh thiếp màu hồng với những cái tên con gái như Yuko và Moe để trong bếp.

Tôi cố giả vờ không quan tâm tới tất cả những chuyện đó nhưng tự đáy lòng, tôi hoàn toàn bị Jason mê hoặc.

Tôi mua một quyển nhật ký ở Kiddyland, một cửa hàng dành cho con gái ở Omotesando. Đó là một quyển nhật ký màu hồng có bìa bằng nhựa trong với một lớp gel lóng lánh trôi lên trôi xuống. Tôi rất thích giơ nó lên cửa sổ nhìn ánh mặt trời chiếu vào các hạt lóng lánh bên trong. Mỗi ngày trôi qua, tôi lại dán một mảnh giấy dính màu kem vào quyển nhật ký để đánh dấu. Đôi khi tôi đi tàu tới Hongo và ngồi một mình trong quán cà phê Bambi, ngắm mặt trời đùa giỡn trên cánh cổng Akamon của trường đại học và quan sát đám sinh viên ra vào. Nhưng tôi không hề thấy Sử Trùng Minh. Chỉ còn năm ngày nữa, rồi bốn ngày, ba ngày, và cuối cùng là hai ngày. Ông bảo một tuần, có nghĩa là Chủ nhật. Nhưng Chủ nhật ông cũng không thèm gọi điện cho tôi.

Tôi không thể tin được. Ông ta đã nuốt lời. Tôi đợi cả ngày, ngồi trên ghế sofa trong phòng khách với đống sách vở bừa bãi xung quanh. Tôi không rời mắt khỏi chiếc điện thoại. Nhưng mỗi lần nó đổ chuông thì y như rằng có ai đó hỏi Jason. Tôi vồ lấy ống nghe và đó là một cô gái Nhật Bản thở dài vẻ không tin khi nghe tôi nói anh ta không có nhà. Ngày Chủ nhật hôm đó tôi nhận hộ anh ta tổng cộng năm tin nhắn từ năm cô gái khác nhau. Phần lớn trong số họ nói năng nhẹ nhàng, nhưng cũng có người tỏ ra rất thô lỗ. Một cô gái thở hắt ra khi nghe tôi trả lời điện thoại, hét vào tai tôi bằng một thứ tiếng Nhật the thé: “Mày là đứa quái nào đấy? Sao mày lại trả lời điện thoại? Bảo Jason ra nghe điện. NGAY LẬP TỨC.”

Tôi ghi lại tên của họ rồi vẽ nguệch ngoạc khuôn mặt họ ở bên cạnh theo trí tưởng tượng của mình. Vẽ chán rồi thì lại ngồi chống cằm nhìn chiếc điện thoại cả ngày không hề reo cho tôi lấy một lần.



Chương 12

史 Nam Kinh, mùng một tháng Chín năm 1937

Rắc rối đến từ phía Đông. Đúng như tôi nghĩ. Lính Nhật đã vào đến Thượng Hải và đang đánh chiếm từng góc phố. Liệu có thể chính quân Nhật chứ không phải Cộng sản mới là mối đe dọa lớn nhất đối với chúng tôi? Liệu có thể Cộng sản đã đúng khi ép buộc Tưởng chấp nhận một liên minh quân sự? Phổ Nghi, con rối trong tay người Nhật, đã ngự trên chiếc ngai vàng vay mượn ở Mãn Châu từ sáu năm nay, không phải là lỗi của tổng thống, và năm năm trước, Nhật Bản đã ném bom vào Thượng Hải. Nhưng không ai nói gì về sự an toàn của chúng tôi ở Nam Kinh. Cho tới tận bây giờ. Bây giờ, và chỉ bây giờ, những người dân như chúng tôi mới bắt đầu nghĩ cách bảo vệ mình. Tôi dành cả buổi sáng ngày hôm đó quét sơn đen lên mái nhà để ngụy trang vì chúng tôi đã được cảnh báo trước là máy bay ném bom của quân Nhật có thể sẽ xuất hiện vào một ngày nào đó từ phía sau núi Tử Kim khi mặt trời lên.

Quãng mười giờ, khi mới sơn xong nửa mái nhà thì đột nhiên, có gì đó khiến tôi dừng lại. Tôi không biết liệu đó là một tiếng động hay một linh cảm chẳng lành, nhưng nó đã khiến tôi dừng tay và nhìn về phía Đông. Tôi thấy khoảng hai chục người đàn ông khác cũng như tôi, đang bắc thang sơn mái nhà, sau lưng họ là chân trời bát ngát và những mái nhà đang sơn dở. Và xa hơn nữa là, chân trời đang rộng mở. Là núi Tử Kim. Phía Đông màu đỏ.

Thu Kim luôn nói rằng tương lai của Nam Kinh có gì đó rất xấu. Cô ấy cứ nhắc đi nhắc lại điều đó như một nhà tiên tri bi quan. Cô ấy bảo rằng ngay khi bước chân xuống tàu một năm về trước, cô ấy đã biết là mình sẽ bị trói chặt vào Nam Kinh; rằng sức nặng của bầu trời Nam Kinh đã đổ sập lên người cô ấy, còn không khí đã làm viêm nhiễm phổi của cô ấy và tương lai u ám của thành phố này thì đè nặng lên vai khiến cô ấy phải cố gắng lắm mới đứng vững được. Ngay cả đoàn tàu vừa mang cô ấy đến đây cũng không giúp cô ấy thoát được chúng. Lúc đó, đứng trên sân ga, nhìn lên dãy núi tối sầm trước mặt như một cái cũi khổng lồ trên mặt đất, cô ấy biết đây sẽ là một nơi vô cùng nguy hiểm. Những ngọn núi hiểm độc này sẽ giam giữ cô ấy lại giữa móng vuốt của chúng, đoàn tàu sẽ ngừng chạy khi cô ấy đã ở đây. Và rồi Nam Kinh sẽ có được cô ấy, sẽ dùng luồng tà khí đầy axit dần dần nuốt chửng cô ấy.

Tôi đoán là hôm đó trên đường tôi đón cô ấy từ hồ Phồn Dương về Nam Kinh, đã có chuyện gì hệ trọng xảy ra với Thu Kim, vì tôi nhớ đến một thứ màu sắc sặc sỡ đã xuất hiện trong cuộc hành trình. Một chiếc ô màu hồng thắm. Một cô gái chăn dê đang đứng chờ con dê trong đống lúa. Khi con vật bướng bỉnh dừng lại, cô gái miễn cưỡng kéo mạnh dây thừng, mong muốn được sao nhãng công việc hơn là kéo con vật tiến về phía mình. Chúng tôi đang dừng lại nghỉ ở đâu đó phía Nam Vu Hồ, và mọi người trên tàu đều dừng mọi công việc lại quay sang nhìn cô gái. Cuối cùng thì con dê cũng chịu bước đi theo chủ, cả hai chẳng mấy chốc mất hút phía chân trời. Hành khách trên tàu quay trở lại chơi bài hay tán chuyện nhưng Thu Kim thì vẫn ngồi bất động nhìn vào chỗ cô gái và con dê lúc trước.

“Mình nhìn gì vậy?” Tôi nghiêng người thì thầm với cô ấy.

“Em nhìn gì cơ?” Có vẻ như câu hỏi đã làm cô ấy bất ngờ. “Em nhìn gì cơ?” Cô ấy nhắc lại vài lần, tay để trên cửa sổ, mắt vẫn dán chặt vào khoảng không gian trống vắng mà cô gái vừa rời khỏi. “Em nhìn gì cơ?”

Chỉ nhiều tháng sau đó, tôi mới biết chính xác là lúc ấy Thu Kim đã nhìn thấy gì. Khi ngắm cô gái dưới chiếc ô màu hồng thắm, Thu Kim như tìm thấy chính bản thân mình. Cô ấy đang nói lời từ biệt. Từ biệt cô gái quê mùa trong lòng cô ấy. Khi mới đến Nam Kinh, chúng tôi vẫn thấp thoáng thấy bóng dáng của cô gái ấy ở Thu Kim, cái đầu gối hơi nhăn, cánh tay rám nắng, cách phát âm Giang Tây đều đều, cứng nhắc khiến dân Nam Kinh phải phì cười. Nhưng cuối cùng, một người phụ nữ mới đã xuất hiện, dần dần thay thế cô gái quê đó, người phụ nữ đã miễn cưỡng đến với Nam Kinh, thành phố khổng lồ mà cô ấy tin rằng sẽ không bao giờ cho cô ấy được tự do.



Chương 13

Tôi nhìn thấy Sử Trùng Minh trước cửa trường đại học Todai vào tám giờ sáng ngày hôm sau. Tôi đã chờ ông ta ở đây từ lúc sáu rưỡi sáng, lúc đầu là ở góc phố, rồi sau đó là quán cà phê Bambi khi nó mở cửa. Tôi gọi bữa sáng thịnh soạn với xúp miso, cơm cá thu và trà xanh. Trước khi rời bàn, cô phục vụ cẩn thận ghé tai tôi nhắc lại giá tiền của từng món ăn. Tôi ngước nhìn cô, không hiểu. Rồi tôi hiểu ra: cô ấy không muốn tôi tưởng rằng mình lại được đãi miễn phí một lần nữa. Vì vậy tôi đành trả tiền trước và khi cô ấy mang thức ăn đến, tôi liền boa cho cô ấy thêm ba nghìn yên. Cô ấy nhìn chúng chằm chằm không nói gì rồi đỏ mặt cất vào tạp dề.

Hôm đó, trời rất nóng nhưng Sử Trùng Minh vẫn mặc một chiếc áo bằng vải cotton kiểu Mao Trạch Đông, đi đôi dép nhỏ màu đen kỳ quặc bằng cao su đàn hồi, đúng kiểu dép tập thể dục của học sinh Anh và đội chiếc mũ dân chài kỳ lạ của mình. Ông đi rất chậm và thận trọng, mắt dán vào vệ đường. Ông không biết là tôi đang đứng chờ trước cổng trường cho đến khi tôi nhảy xổ ra giữa đường, ngay trước mặt ông. Ông nhìn xuống chân tôi, dừng lại duỗi cây gậy ra, đầu cúi xuống.

“Ông nói là ông sẽ gọi điện.”

Ông từ từ ngẩng mặt lên. Mắt ông mờ mờ, như sương khói. “Cô lại đến à, cô nói là cô không bao giờ xuất hiện ở đây nữa cơ mà.”

“Lẽ ra ông phải gọi điện cho tôi vào hôm qua.”

“Trông cô hơi khác, sao trông cô lại khác thế nhỉ?” Ông nheo mắt nhìn tôi.

“Ông đã không gọi điện cho tôi.”

Ông nhìn tôi thêm một lúc, hắng giọng và bỏ đi. “Cô rất thô lỗ. Rất thô lỗ,” ông lẩm bẩm.

“Nhưng tôi đã đợi ông suốt cả tuần,” tôi nói và đuổi theo ông. “Tôi đã không gọi điện cho ông, cũng không tìm đến đây. Tôi đã làm như tôi hứa nhưng ông thì không.”

“Tôi không hứa sẽ gọi điện cho cô.”

“Có, ông...”

“Không. Không hề.” Ông dừng lại và chỉ thẳng cây gậy vào tôi. “Tôi không hứa hẹn gì cả, tôi có trí nhớ rất tốt và tôi biết là tôi không hứa hẹn gì với cô.”

“Tôi không thể đợi ông suốt đời.”

Ông bật ra một tiếng cười. “Cô có biết ngạn ngữ Trung Quốc nói gì không? Cô có biết sự thật sâu xa về một cái lá dâu không? Sự kiên nhẫn sẽ biến lá dâu thành lụa. Chính cái lá dâu già ấy lại dệt nên lụa! Vấn đề là phải biết kiên nhẫn.”

“Không phải thế, là do con tằm nhả tơ chứ!” Tôi cãi lại.

Ông khép miệng lại và thở dài. “Thôi được. Cô có thấy tình bạn này đúng là không có tương lai không?”

“Nếu ông không gọi cho tôi như đã hứa thì không có thật. Ông phải giữ lời chứ!”

“Tôi không hứa gì cả.”

“Nhưng tôi làm việc buổi tối, làm sao tôi biết ông gọi hay không. Tôi không có máy trả lời tự động. Làm sao tôi biết được liệu có một tối nào đó ông gọi tôi và sau đó không bao giờ gọi nữa, nếu tôi lỡ cuộc gọi của ông, có phải là mọi chuyện sẽ hỏng hết không? Và rồi...” Tôi hơi lên giọng khiến một vài sinh viên đi qua nhìn chúng tôi vẻ hiếu kỳ.

“Để tôi yên. Cô nói đủ rồi đấy. Giờ thì để tôi một mình.” Ông nói và bỏ đi, để mình tôi đứng lại dưới gốc cây bạch quả.

“Giáo sư Sử,” tôi hét với theo. “Xin hãy làm ơn, tôi không muốn tỏ ra thô lỗ, tôi thật sự không muốn làm thế.”

Nhưng ông vẫn tiến về phía trước và chẳng mấy chốc biến mất sau hàng rào quanh co bụi bặm, lọt thỏm trong các lùm cây. Tôi đá vào hàng rào bên vệ đường rồi ôm mặt khóc.

Tôi trở về nhà như người mộng du, leo thẳng lên phòng, không dừng lại tán gẫu với hai chị em sinh đôi lúc này đang xem vô tuyến trong phòng khách, bỏ lại sau lưng những tiếng “ồ, à” châm chọc của hai cô nàng. Tôi đóng sập cửa phòng lại và đứng dựa lưng vào đó, mắt nhắm nghiền, tim đập thình thịch.

Khi bạn biết là bạn đã đúng về một điều gì đó, điều quan trọng là kiên nhẫn theo đuổi nó đến cùng.

Một lúc lâu sau, tôi mở mắt ra và đến bên chiếc giá vẽ dựng ở góc tường. Tôi pha màu, chuẩn bị bút vẽ và nước rồi mở tung cửa sổ. Trời bắt đầu tối, mùi thức ăn từ dưới phố bay lên thoang thoảng, Tokyo đã lên đèn. Thành phố trải dài về phía xa như một dải Ngân hà bé nhỏ. Tôi hình dung nó sẽ như thế nào khi được nhìn từ bên ngoài trái đất, những tòa nhà chọc trời sẽ trông như những ngọn núi còn phố phường sáng lấp lánh thì trông giống những dòng sông thủy ngân trong cung của Tần Thủy Hoàng.

Ai có thể hình dung được thành phố sẽ như thế này? Khi những đợt không kích kết thúc, khi chiếc máy bay oanh tạc cuối cùng của Mỹ khuất dạng sau Thái Bình Dương xanh thẳm, Tokyo gần như bị san bằng. Không ai còn nhận ra thành phố này nữa. Xe ôtô không thể lưu thông vì không ai biết cái gì đang chờ họ ở phía cuối đường. Ở những khu nhà ổ chuột ven sông, người ta đốt than tadon, mùi hôi nồng nặc, khói gồm bụi than và nhựa đường cuộn lại thành mây, phủ đen thành phố.

Lớp lụa che tường trong phòng tôi bị rách nham nhở ở phía dưới, nhưng đoạn từ thắt lưng trở xuống thì vẫn còn nguyên. Tôi nhúng cọ vào lớp sơn màu xanh côban và bắt đầu vẽ. Tôi vẽ những mái nhà bị bom đạn thiêu trụi với những thanh giằng khẳng khiu ám khói. Lửa bốc lên ngùn ngụt khắp nơi, phố phường tan hoang như những đống gạch vụn. Khi tôi vẽ, tâm hồn tôi phiêu diêu bay bổng. Khoảng bảy giờ hai chị em người Nga tới gõ cửa phòng hỏi tôi có đi làm không.

“Hay cô chỉ định ở đây? Giống như một con rận, hừm?”

Tôi mở cửa và nhìn họ, tay vẫn cầm cây cọ, mặt dính đầy màu vẽ.

“Ôi Chúa ơi! Cô không đi làm với bộ dạng thế này chứ?”

Tôi chớp mắt nhìn họ. Sau này, tôi mới nhận ra mình thật may mắn biết bao vì họ đã gõ cửa, nếu không tôi sẽ bỏ qua một trong những buổi tối quan trọng nhất của mình ở Tokyo.


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder   Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder Icon_minitimeSun Feb 03, 2019 9:03 pm


Chương 14

史 Nam Kinh, ngày 12 tháng Mười một năm 1937 (ngày mùng mười tháng Mười âm lịch)

Thượng Hải thất thủ hồi tuần trước. Chúng tôi vẫn chưa hết bàng hoàng với tin này. Đội quân tinh nhuệ nhất của tổng thống đang lãnh trách nhiệm phòng phủ thành phố của chúng tôi đông gấp mười lần quân Nhật thế mà không hiểu tại sao vẫn để Thượng Hải rơi vào tay người Nhật. Đường phố hoang vắng, tiêu điều, chỉ còn lại những bình xịt hơi cay rỗng của quân đội Nhật vứt chỏng chơ ngoài các rãnh nước và những con vật chết thối trong sở thú. Tin báo cho biết quân Nhật hiện đang tràn qua đồng bằng và một cuộc tấn công vào Nam Kinh là không thể tránh khỏi. Mười sư đoàn đang tiến về phía chúng tôi, cả bộ binh lẫn môtô và xe bọc thép. Tôi có thể tưởng tượng ra cảnh họ đang hành quân, trèo đèo, lội suối với niềm tin không hề lay chuyển rằng chỉ cần chiếm được thủ đô Nam Kinh là sẽ nắm trong tay trái tim của người khổng lồ.

Nhưng đương nhiên chuyện đó sẽ không xảy ra. Tổng thống của chúng tôi sẽ không cho phép thành phố này bị tổn thương. Đúng là có cái gì đó đang thay đổi trong lòng các công dân của thành phố, một làn sóng niềm tin mới đang trỗi dậy. Khi tôi trên đường về nhà sau buổi lên lớp sáng nay (cả lớp học chỉ có bốn sinh viên), đám sương mù bấy lâu che phủ thành phố bỗng dưng tan biến, trời nắng trong như thể Thượng đế bỗng rủ lòng thương đối với Nam Kinh. Nhưng không thấy ai phơi quần áo như thường lệ mỗi khi nắng lên. Rồi tôi nhận thấy những phu quét đường mấy hôm nay không làm việc. Khắp nơi mọi người dọn nhà dọn cửa khuân vác đồ đạc để chất lên xe. Mất một lúc sau tôi mới hiểu chuyện gì đang xảy ra và tim tôi như chùng xuống. Mọi người đang di tản. Thành phố này đang ngừng thở. Tôi cảm thấy xấu hổ khi thấy ngay cả một số giảng viên đại học cũng có ý định bỏ thành phố. Hãy tưởng tượng mà xem! Hãy tưởng tượng đến sự thất tín đối với tổng thống, ngài sẽ nghĩ gì khi ngay cả những công dân như chúng tôi cũng tính đến chuyện chạy trốn.

Thu Kim thì lại có vẻ hân hoan trước tin Thượng Hải thất thủ. Nó chỉ chứng minh những gì cô ấy khẳng định từ trước đến nay về Quốc dân Đảng là hoàn toàn chính xác. Cô ấy cũng đang chuẩn bị sơ tán khỏi Nam Kinh. Khi tôi về tới nhà thì cô ấy đang chất đồ đạc vào một cái rương. “Mình đây rồi,” cô ấy nói. “Em chờ mình mãi. Bây giờ thì mình ra sân chuẩn bị xe kéo cho em.”

“Xe kéo?”

“Đúng, chúng ta đi thôi. Trở về Phồn Dương.” Cô ấy gấp một mảnh tã màu trắng lấy từ gói cui sheng của bà ngoại và đặt vào trong rương. Tôi thấy cô ấy dành nhiều chỗ nhất cho cái hộp đựng tiền làm bằng mai rùa mẹ tôi để lại, tôi nhớ rất rõ rằng bên trong hộp đựng những bức huyết thư ghi lại một số đoạn trích trong Kinh Dịch được gói trong một tấm vải. Mẹ tôi đã đặt hết lòng tin vào những chữ này nhưng nó cũng không cứu được bà. “Đừng lo, em đã kiểm tra lịch rồi, hôm nay là ngày rất tốt cho việc xuất hành.” Thu Kim nói.

“Xem này, không việc gì phải vội vàng thế...” Tôi lên tiếng.

“Không ư? Em nghĩ là có đấy. Đi theo em nào,” cô ấy ngồi dậy, ra hiệu cho tôi tới bên cửa sổ và chỉ lên núi Tử Kim về phía lăng Trung Sơn. “Đằng kia kìa. Phía Tử Kim ấy.” Lúc này trời bắt đầu tối, trăng đã lên vàng ửng phía sau núi.

“Thì làm sao?”

“Trùng Minh, mình hãy nghe em,” Thu Kim hạ thấp giọng, vẻ rất nghiêm trọng. “Đêm qua em mơ thấy Tử Kim bốc cháy.”

“Thu Kim, thật vớ vẩn...”

“Không,” cô ấy nói một cách dữ dội. “Không vớ vẩn chút nào. Thật đấy! Trong mơ em thấy núi Tử Kim bốc cháy và khi em nhìn thấy thế em đã biết. Em biết ngay lập tức rằng Nam Kinh sắp gặp thảm họa.”

“Thu Kim, làm ơn...”

“Một thảm họa chưa từng có, còn hơn cả đợt nổi loạn của những người Thiên Chúa giáo.”

“Thật ư, có phải mình định nói mình cũng thông thái như mấy ông thầy bói mù ngoài chợ không, mấy kẻ khoác lác, chuyên dùng dịch gì đó ở mắt chó để bôi vào mí mắt ấy nhỉ, tôi không nhớ nữa. Mình định làm thầy bói ư? Thôi chấm dứt chuyện vớ vẩn này đi, mình không thể tiên đoán tương lai.”

Nhưng cô ấy không hề lay chuyển. Cô ấy đứng cạnh tôi mắt vẫn không rời núi Tử Kim. “Có đấy, mình có thể,” cô ấy thì thầm. “Mình có thể tiên đoán được tương lai. Tương lai là một cái cửa sổ đang mở.” Cô ấy đặt hờ tay lên cánh cửa chớp. “Như cái cửa sổ này chẳng hạn. Đoán tương lai thật dễ, vì tương lai chính là quá khứ. Tất cả mọi thứ trên đời này đều luân hồi và em đã nhìn thấy chính xác những gì sẽ xảy ra.” Cô ấy dừng lại quay sang nhìn tôi với đôi mắt màu vàng như thể cô ấy đang nhìn thấu ruột gan tôi. “Nếu ở lại Nam Kinh, chúng ta sẽ chết. Mình cũng biết thế. Em có thể đọc được điều đó trong mắt mình - mình biết rõ điều đó. Mình cũng biết ông tổng thống quý báu của mình không đủ mạnh để cứu chúng ta. Trong tay ông ta, Nam Kinh không có một cơ hội sống sót nào.”

“Tôi sẽ không nghe thêm một lời nào nữa,” tôi cương quyết nói. “Tôi không muốn mình nói như thế về vị tổng tư lệnh. Tôi cấm mình đấy. Cấm tiệt. Tưởng Giới Thạch sẽ cứu thành phố này.”

“Cái con chó cảnh của bọn ngoại quốc ấy,” cô ấy khịt mũi vẻ khinh bỉ. “Đầu tiên thì các tướng lĩnh của ông ta phải ép mãi ông ta mới chịu tuyên chiến, còn bây giờ thì chính quân Nhật, cái quân đội đào tạo ông ta, ông ta cũng không biết đường mà chiến thắng.”

“Thôi đủ rồi đấy, tôi đã nghe đủ rồi.” Tôi giận điên người. “Tưởng Giới Thạch sẽ bảo vệ Nam Kinh và chúng ta, đúng thế đấy, tôi và mình, chúng ta sẽ ở đây để chứng kiến giây phút đó.” Tôi tóm lấy cổ tay cô ấy và lôi về phía chiếc rương. “Tôi là chồng mình và mình cần phải tin tưởng vào sự phán đoán của tôi. Bây giờ thì dỡ đồ ra. Chúng ta sẽ không đi đâu cả, chắc chắn sẽ không quay lại Phồn Dương. Phồn Dương đã giết chết mẹ tôi và lần này hãy để tôi quyết định. Tôi là chồng mình, mình phải đặt niềm tin vào Tưởng Giới Thạch, người quyết định tối cao, một con người vĩ đại hơn tất cả những tín ngưỡng của mình gộp lại.”

史 Nam Kinh, ngày 16 tháng Mười một năm 1937

Giờ tôi mới thấy hối hận xiết bao về những lời mình đã nói khi đó. Giờ thì tôi ở đây, một mình trong thư phòng, cánh cửa khóa trái, tai dán vào đài phát thanh, hối hận biết bao vì sự kiêu ngạo của mình. Tôi không dám để Thu Kim nghe bản tin vì biết rằng cô ấy sẽ tỏ ra hài lòng khi nhận được cái tin khủng khiếp đó, khủng khiếp tới mức tôi phải run rẩy viết những dòng này bằng chữ nhỏ li ti nhằm giảm bớt nỗi đau do nó gây ra: Tưởng Giới Thạch và chính phủ Quốc dân Đảng đã chạy khỏi Nam Kinh, giao lại Nam Kinh cho tướng Đường Sinh Trí.

Tôi ngồi nhìn chằm chằm vào dòng chữ đó, không biết phải làm gì, máu chảy rần rật trong đầu. Phải làm gì bây giờ? Tôi chẳng thể ngồi yên, chẳng thể đứng lên, cũng chẳng thể nghĩ về bất cứ điều gì. Tổng trưởng Tưởng đã đi mất rồi sao? Có phải tướng Đường đã thay vào vị trí của ông? Liệu chúng tôi có thể đặt niềm tin vào ông ta hay không? Hay tôi nên thú thực với Thu Kim là tôi đã sai rồi? Để cô ấy nhìn thấy tôi trở nên lung lay với chính kiến của mình? Tôi không thể. Tôi không thể lùi bước. Tôi đã bị mắc kẹt giữa đám mạng nhện do chính mình giăng ra, nhưng tôi phải đứng vững trên lập trường của mình cho dù nó có làm tôi điêu đứng tới mức nào. Tôi sẽ dựng hàng rào quanh nhà và đợi quân Nhật xuất hiện. Ngay cả khi điều không tưởng đó xảy ra, khi quân đội của chúng tôi bị thua thì tôi tin là người Nhật cũng sẽ đối xử tử tế với chúng tôi. Khi còn là sinh viên tôi đã từng tới Tokyo và tôi nói khá sõi tiếng Nhật. Họ sẽ xử sự một cách đàng hoàng và tế nhị. Ai đã từng nghiên cứu hành vi của người Nhật trong chiến tranh với Nga đều biết rằng họ là những người hết sức văn minh. Thu Kim sẽ ngạc nhiên khi phát hiện ra rằng thậm chí họ cũng có thứ để dạy cho chúng tôi. Chúng tôi sẽ chuẩn bị một biểu ngữ bằng tiếng Nhật với hai chữ “chào mừng” và chúng tôi sẽ được an toàn. Hôm nay tôi cũng thấy nhiều gia đình trong ngõ Hán Trung đang chuẩn bị những biểu ngữ như thế.

Nhưng khi tôi viết những dòng này, khi trời bắt đầu tối, thành phố chìm dần vào im lặng, chỉ còn tiếng rì rầm của xe tăng quân đội Quốc dân vang lên từ phía đường Trung Sơn thì tim tôi như hóa đá. Tất cả những gì tôi có thể làm lúc này là xuống nhà và thú thực với Thu Kim mọi nỗi sợ hãi.

Thu Kim trở nên lạnh lùng và xa cách kể từ sau khi tôi từ chối trở lại Phồn Dương. Ngày nào tôi cũng đưa ra một loạt lý do biện minh cho quyết định ở lại của mình, giả vờ không biết chúng có vẻ nhạt nhẽo đến mức nào, như nếu về quê thì sẽ không có bệnh viện và các phương tiện đỡ đẻ hiện đại. Tôi cố gắng dựng lên một bức tranh xám xịt rằng nếu có chuyện gì xảy ra chúng tôi biết làm thế nào khi chỉ biết trông cậy duy nhất vào một bà già nhà quê đỡ đẻ. Nhưng mỗi lần tôi nhắc đến chuyện này, Thu Kim lại ném cho tôi một cái nhìn giận dữ: “Một bà già nhà quê? Một bà già nhà quê? Bà ấy còn tốt hơn gấp vạn lần cái ông bác sĩ tây của mình ấy! Những kẻ Thiên Chúa giáo.”

Hay có lẽ tôi đã làm cô ấy kiệt sức vì cô ấy bắt đầu trở nên lặng lẽ. Cô ấy dành phần lớn thời gian ngồi bất động trên ghế, tay đặt lên trên bụng. Tôi không thể nào không nghĩ về đôi bàn tay ấy, nó mới nhỏ bé và trắng làm sao. Suốt cả ngày, tôi không thể ngăn mình nhìn chúng chằm chằm. Có lẽ cô ấy vô tình để tay như thế mà không biết là mình đang xoa bụng. Vì cô ấy chắc chắn không muốn vuốt ve bụng mình, sợ rằng em bé sinh ra sẽ hư và khó tính vì mẹ tôi vẫn bảo tôi: “Chắc hẳn mẹ đã xoa bụng nhiều quá nên mới sinh ra một đứa kiêu ngạo và cứng đầu như thế này.”

Khi nghĩ rằng con chúng tôi sau này có thể là một đứa cứng đầu, kiêu ngạo, ích kỷ hay bất kỳ tính cách khó chịu nào khác, tôi chỉ muốn khóc. Kiêu ngạo, cứng đầu cứng cổ, khó tính hay hư hỏng thì cũng đều phụ thuộc vào một vấn đề: con của chúng tôi có cơ hội chào đời hay không? Tất cả đều phụ thuộc vào việc Thu Kim có thể sống sót sau cuộc tấn công Nam Kinh không thể tránh đó hay không?


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder   Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder Icon_minitimeSun Feb 03, 2019 9:03 pm


Chương 15

Có lẽ điều đáng sợ nhất trên đời này là bị thất lạc người thân mà không biết phải tìm họ ở đâu. Người Nhật tin rằng vào đêm của lễ O-Bon, hồn ma của những người chết sẽ quay về tìm thân nhân của mình. Họ bị lôi ra khỏi giấc ngủ vĩnh hằng bởi lời gọi của những người thân còn sống và bay qua thinh không để đoàn tụ với gia đình. Tôi luôn tưởng tượng ra đêm O-Bon náo nhiệt với các linh hồn bay vùn vụt trong không khí, xô đẩy mọi người để đi nhanh hơn. Bây giờ khi tôi đang ở Nhật thì tôi lại tự hỏi không hiểu những người không biết người thân của mình chết ở đâu thì họ sẽ phải làm gì? Chuyện gì sẽ xảy ra khi họ chết ở một nơi xa lạ, ở một đất nước khác, liệu các linh hồn có thể đi xuyên lục địa? Nếu không thể thì họ sẽ tìm về với gia đình mình bằng cách nào?

Khi tôi ngồi trong hộp đêm, hút hết điếu này đến điếu khác, đang nghĩ đến các linh hồn và nghĩ đến việc làm sao có thể thuyết phục Sử Trùng Minh nói chuyện với tôi thì Junzo Fuyuki và tay chân của ông ta đến câu lạc bộ lần thứ hai.

Tôi được Strawberry phân tới bàn của họ. Họ vẫn ngồi ở chiếc bàn dài quen thuộc, trừ mụ Y Tá lúc này đã tách ra để ngồi trong cái góc tường quen thuộc của mụ. Bóng mụ hất trên tường thành những hình thù quái dị, giống như một con ngựa chiến, một quân mã trên bàn cờ, cái bóng dài tới mức trông mụ ta không giống như mọc ra từ sàn nhà mà bị treo lơ lửng trên trần từ hai vai trở lên. Fuyuki dường như đang vui vẻ, và lần này còn có một vị khách mới, ngồi xuống ngay cạnh tôi, một người to béo mặc bộ vét màu bạc, mặt múp míp, tóc húi cua để lộ cái gáy nung núc thịt. Ông ta đã uống say, vừa kể chuyện cười vừa dập ghế xuống sàn mỗi khi đến đoạn cao trào, rồi nhướng mày kiểu kịch sĩ và lẩm bẩm gì đó khiến đám đàn ông trong bàn lại cười ré lên. Ông ta nói giọng Osaka. Trước đây, tôi cứ tưởng tất cả các yakuza đều nói giọng Osaka nhưng ông ta lại không phải là người trong băng nhóm. Ông ta là bạn của Fuyuki và các nữ tiếp viên người Nhật nói rằng ông ta rất nổi tiếng, họ cười khúc khích với ông ta, đưa tay lên che miệng và bàn luận với nhau về ông ta trong tiếng thở dài.

“Tên tôi là Baisho,” ông ta nói với hai chị em người Nga bằng một thứ tiếng Anh cứng nhắc, vẫy tay chào họ bằng những ngón tay đeo nhẫn vàng nặng trịch. “Bạn bè gọi tôi là Bai, vì tôi có nhiều tiền gấp hai lần họ và nam tính gấp hai lần họ!” Ông ta nhướng mày vẻ gợi ý. Tôi ngồi im, hình dung ra chữ Bai theo kiểu kanji được viết như thế nào. Baisan có nghĩa là gấp đôi nhưng nó cũng còn có một ý nghĩa khác. Chỉ cần vẽ thêm một nét với biểu tượng “mỗi” ở đằng trước một cái cây thì từ Bai sẽ còn có nghĩa là “cây mận” hay “sự trồng trọt” hay là “ích kỉ”. Tôi thì tôi nghĩ ngay đến từ Bison trong tiếng Anh khi nhìn thấy ông ta: Con bò rừng.

“Tôi là ca sĩ. Nam ca sĩ số một ở Nhật,” ông ta vung vẩy tay khắp bàn, vẫy vẫy với bất kỳ ai lắng nghe. “Còn người bạn mới của tôi, ông Fuyuki là người đàn ông số một ở Tokyo.” Ông ta ve vẩy điếu xì gà về phía xe lăn, đoạn vén tay áo để lộ các bắp thịt rồi nói tiếp: “Người đàn ông lớn tuổi nhất Tokyo nhưng khỏe mạnh và cường tráng như ở tuổi ba mươi. Khỏe, khỏe ghê lắm.” Ông ta lảo đảo quay sang phía Fuyuki rồi hét lên bằng tiếng Nhật như thể sợ ông ta bị điếc: “Fuyuki san, ông khỏe thật đấy! Ông là người đàn ông lớn tuổi nhất và vĩ đại nhất mà tôi biết.”

Fuyuki gật đầu: “Đúng vậy, tôi rất khỏe,” ông ta thì thầm. “Tôi còn khỏe hơn hồi hai mươi tuổi ấy chứ.”

Bison nâng ly rượu của ông ta lên. “Xin uống vì người đàn ông khỏe nhất Tokyo.”

“Vì người đàn ông khỏe nhất Tokyo,” tất cả đồng thanh.

Phô trương đôi khi là một việc hết sức sai lầm vì bạn không thể biết được sự đời thay đổi thế nào và bạn có thể trở thành trò cười cho thiên hạ. Chưa đầy ba mươi phút sau khi huênh hoang về sức khỏe của mình thì Fuyuki bắt đầu trông có vẻ thất sắc. Không ai để ý nhưng tôi có thể thấy ông ta bắt đầu thở dồn, chộp lấy tay người đàn ông cột tóc đuôi ngựa ngồi bên cạnh, thì thào cái gì đó. Ông này lắng nghe chăm chú, mặt không có chút biểu hiện gì. Một lúc sau ông ta gật đầu, đứng dậy chỉnh lại quần áo, đẩy mạnh chiếc ghế vào gầm bàn. Ông ta kín đáo băng ngang căn phòng, tiến về phía hốc tường, lưỡng lự một chút rồi bước vào trong.

Một người khác chuyển sang ngồi cạnh, kín đáo theo dõi tình trạng của Fuyuki. Những người còn lại thì vẫn vờ như không có chuyện gì xảy ra vì để ý tới sự khó ở của ông già dường như là một hành vi bất kính. Tôi là người duy nhất nhìn theo gã đàn ông buộc tóc đuôi ngựa. Ông ta ngồi vào chỗ Jason trước đó, mặt khuất trong bóng tối khi nói chuyện với mụ Y Tá. Một lúc sau, mụ ta thò tay vào trong túi và lôi ra một cái bao nhỏ, ở trong có một vật gì đó như ống thuốc bằng thủy tinh. Mụ ta dùng những ngón tay trắng dài thận trọng cầm nghiêng cái lọ, búng búng vào nó rồi dốc chất gì đó đựng bên trong vào một cái ly, sau đó lấy chai nước trên bàn đổ nước vào và đưa cho người đàn ông tóc đuôi ngựa. Ông này kính cẩn lót cái ly bằng một chiếc khăn ăn trắng muốt rồi lặng lẽ quay lại bàn, trao nó cho Fuyuki. Ông ta uống từng ngụm một. Tôi để ý thấy dưới đáy ly đọng lại những cặn thô như là hạt nhục đậu khấu giã nhỏ. Trong góc tường, mụ Y Tá lại nhét chiếc bao vào trong túi và đưa bàn tay to xù vuốt mái tóc giả.

Bên cạnh tôi, Bison lục bục gì đó trong cổ họng với vẻ khoái trá. Ông ta ngồi chống cùi tay lên bàn, điếu xì gà nặng trĩu tàn thuốc. Ông ta nhìn Fuyuki như bị thôi miên khi ông này uống cạn ly thuốc rồi ngả người, hai tay đặt lên tay vịn xe lăn, nghiêng đầu ra phía sau, thở phì phò.

Bison bắt đầu phá ra cười. Ông ta lắc đầu và cười cho tới khi cả người rung lên và mặt đỏ phừng phừng. Ông ta với qua người tôi để nói với Fuyuki, giọng oang oang dù lưỡi đã ríu lại: “Ôi, onni san,” ông ta nói, lấy điếu xì gà chỉ vào cốc nước. “Ông có thuốc gì cho tôi với? Thuốc gì giúp tôi đứng thẳng dậy một cách kiêu hãnh như hồi hai mươi?” Fuyuki không trả lời, tiếp tục thở một cách mệt nhọc. “Ông bạn hiểu tôi nói gì chứ, lão dê này? Một phương thuốc giúp ông khỏe như hồi ông hai mươi.” Mọi người xung quanh bàn bắt đầu ngừng nói chuyện và quay ra nhìn. Bison liếm môi và vẫy tay: “Cái gì đó khiến chị em sung sướng? Ê!” Ông ta nói và huých tôi. “Cô em cũng thích thế đúng không nào? Cô em chỉ thích một chàng hai mươi có khả năng ‘đứng thẳng lên’ đúng không nào?” Ông ta đứng dậy rồi lại loạng choạng ngã xuống bàn làm một chiếc đĩa rơi xuống đất vỡ tan. “Đó là cái mà tôi muốn, tôi muốn đứng thẳng dậy như ông Fuyuki! Như ông bạn onni san của tôi, tôi muốn được trường sinh!”

Người ngồi bên cạnh khẽ chạm vào tay áo của ông ta, người khác thì đặt một ngón tay lên môi ra hiệu. “Tôi muốn được đứng thẳng lên như ngày xưa, cương cứng như hồi mười tám, ôi hãy nói cho tôi biết, kami sama, như thế có phải là đòi hỏi hơi quá không?” Bison ngâm nga hát những lời này, một tay đặt trên ngực.

Khi không thấy ai cười, ông ta dừng lại giữa chừng, miệng cứng lại. Tất cả mọi người đều ngừng nói, người đàn ông tóc đuôi ngựa thậm chí chẳng buồn ngước mắt lên nhìn ông ta mà chỉ ngồi im, môi mím lại, ngón trỏ và ngón cái đặt trên môi. Nụ cười của Bison biến mất. Ông ta giơ hai tay lên với một cử chỉ như muốn nói: Sao vậy, tôi đã nói gì vậy? Nhưng người đàn ông buộc tóc đuôi ngựa đã bỏ tay xuống và đang giả vờ kiểm tra móng tay của mình như không hề có chuyện gì xảy ra. Ai đó bối rối hắng giọng, rồi như thể nhận được tín hiệu, các cuộc trò chuyện lại bắt đầu trở lại. Bison nhìn quanh bàn: “Có chuyện gì vậy?” Ông ta nói giữa những âm thanh ồn ã xung quanh. “Có chuyện gì vậy?” Nhưng không ai chú ý đến ông ta, họ đều quay về hướng khác, tìm thứ gì đó thú vị hơn để nhìn, điều gì đó quan trọng hơn để nói, lắc lắc cốc rượu, nuốt cạn trong cổ họng, châm xì gà.

Ngỡ ngàng một lúc, Bison cũng chậm chạp ngồi xuống. Ông ta nhặt một chiếc khăn ấm đưa lại gần mặt và thở dồn. “Lạy Chúa,” ông ta thì thào, hạ thấp chiếc khăn xuống và lo lắng nhìn về phía bóng của mụ Y Tá in trên tường. “Không thể nào...”

“Ông ta nói gì vậy?” Irina nghiêng người về phía tôi hỏi.

“Tôi không biết, tôi không hiểu ông ta nói gì,” tôi lẩm bẩm, không nhìn cô.

Chẳng bao lâu sau các câu chuyện lại trở nên rôm rả. Fuyuki từ từ hồi phục. Cuối cùng, ông ta lấy khăn lau miệng và gói chiếc ly vào một cái khăn và bỏ vào trong túi, ngẩng đầu lên nhìn trần nhà. Cánh đàn ông tiếp tục chuyện trò còn các cô gái thì tiếp đồ uống, không ai nhắc tới chuyện vừa xảy ra trước đó. Chỉ có Bison là không tham gia vào bất cứ cuộc đối thoại nào, ông ta ngồi ngây ra, thỉnh thoảng lại liếc nhìn chiếc ly cộm lên trong áo khoác của Fuyuki hay nhìn về cái bóng đầy đe dọa của mụ Y Tá. Hai má ông ta nhớp nháp mồ hôi, mắt đẫm nước và suốt buổi tối yết hầu của ông ta cứ nhói lên một cách đau đớn như thể ông ta đang bị bệnh.


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder   Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder Icon_minitimeSun Feb 03, 2019 9:03 pm


Chương 16

史 Nam Kinh, mùng chín tháng Mười hai năm 1937 (mùng bảy tháng Mười một theo lịch của Thu Kim)

Cả thành phố đang rơi vào cảnh bấn loạn. Tuần trước, quân Nhật đã chiếm đóng Tô Châu, Venice của Trung Quốc và bắt đầu tiến về phía Bắc Thái Hồ. Họ hành quân thần tốc, tạo thành một vòng cung quanh sông Dương Tử và tiến vào Nam Kinh từ phía Bắc vì bốn hôm trước Chiết Giang cũng đã thất thủ. Tướng Đường đã thề sẽ làm tất cả để bảo vệ chúng tôi nhưng người dân không hề tin tưởng vào ông, cho nên tất cả những ai có thể sơ tán thì đều bắt đầu rời khỏi thành phố. “Lại giống với cuộc xâm chiếm của quân Thái Bình thôi,” họ thì thầm. Những chiếc xe tải cao ngồn ngộn lặc lè ra khỏi thành phố, những người không có tiền bám vào hai bên thành xe, lắc lư. Tôi cứ thầm mong những đồ vật mà thỉnh thoảng người ta vẫn nhìn thấy rơi xuống đường từ hai bên cánh xe tải trên đường tới ga tàu ở Hạ Quan, những vật tối màu cứ đôi lần trượt ra rồi từ từ rớt xuống mặt đường đầy bụi là những vật dụng như rổ rá, hay con gà bị tụt dây chứ không phải là một đứa trẻ con hay một người dân nghèo bị ném xuống.

Hôm nay hội Chữ Thập Đỏ đã ra cảnh báo. Họ thành lập một trại tị nạn ngay trong trường đại học, không xa nhà chúng tôi lắm, ngay phía Nam đường tàu hỏa, và họ thúc giục tất cả dân thường tới đây lánh nạn để đảm bảo an toàn. Phần lớn các phòng học và văn phòng được trưng dụng làm chỗ ở. Tôi tự hỏi liệu đây có phải là một giải pháp để giải tỏa mối lo lắng của mình, một khu tị nạn, nơi chúng tôi sẽ không nhắc đến chuyện rời khỏi thành phố hay sự bất tín đối với Quốc dân Đảng; và tại đây, tôi có thể bảo vệ được Thu Kim.

Nghĩ thế, nên hôm nay, tôi lẳng lặng đi vào trại tị nạn và chứng kiến cảnh đám đông xếp hàng chật cửa ra vào, ai cũng lỉnh kỉnh đồ đạc, giường chiếu, những tiếng còi báo động không kích gầm rú trên không. Nhiều người còn mang theo cả gia súc, gia cầm, gà vịt, trâu bò; thậm chí tôi còn nhìn thấy một gia đình đang giằng co với quan chức trong trại để đòi mang theo một con lợn. Cuối cùng họ cũng đồng ý để con vật ở lại, chú lợn bị bỏ rơi, mất phương hướng, đi lăng quăng trong đám đông. Tôi lần lữa một lúc, nhìn theo con lợn cho đến khi có một người ở cuối hàng phát hiện ra nó, hét váng lên xác nhận quyền sở hữu và mang nó vào xếp hàng với mình, để rồi lại đến lượt anh ta giằng co với người gác cổng.

Tôi đứng rất lâu quan sát đám đông những người nghèo khổ đang xếp hàng vào trại, người thì ho, người thì điềm nhiên ngồi xổm xuống đi vệ sinh vào các rãnh nước. Cuối cùng tôi kéo cổ áo lên, cúi mặt bước về nhà. Không thể đưa Thu Kim tới đây được. Ở đây thì thà vượt sông Dương Tử về Phồn Dương còn hơn.

Trong hẻm, chúng tôi nằm trong số ít ỏi những người cuối cùng ở lại; chỉ có hai vợ chồng chúng tôi và mấy công nhân làm việc cho một xưởng thêu trên đường Quả Phu. Họ sống trong một khu tập thể ở đầu hẻm và rất nghèo. Chắc họ không có gia đình cũng như chỗ nào khác để đến. Đôi khi tôi lẻn ra đứng ở đầu đường và thử nhìn vào căn hẻm của chúng tôi với con mắt của người Nhật. Tôi tin là chúng tôi sẽ an toàn, hẻm cụt, chẳng dẫn đi đâu, và chẳng mấy ai có nhu cầu rẽ vào đoạn nhà tôi làm gì. Với những tấm rèm cửa khép kín kia thì bạn sẽ chẳng thể nào tin rằng có ai đó đang sống ở đây. Trong khoảnh sân nhỏ đằng trước và sau nhà, Thu Kim có phơi mấy sàng rau khô, còn tôi thì dự trữ củi than, dầu lạc, mấy tải kê và thịt khô. Thậm chí, tôi còn tích trữ cả những thứ xa xỉ phẩm như một sọt cua khô. Tôi hy vọng mình đã chuẩn bị đầy đủ. Tôi còn hẳn mấy thùng nước dự trữ theo kiểu cổ bởi không thể tin được vào công ty cấp nước còn nước giếng trong nhà thì không an toàn.

Khi ngồi viết những dòng này trong thư phòng với cửa sổ mở toang, tôi nhìn thẳng vào con phố phía dưới, và tôi đã thấy gì? Một người phụ nữ đang kéo một chiếc xe thồ về phía cổng Thượng Nguyên. Chiếc xe chất đầy chăn nệm, đồ đạc và các bao tải đậu nành. Nằm trên cùng là xác một người đàn ông, gần như trần truồng. Có thể đó là chồng bà ta, cũng có thể là một người họ hàng chưa có tiền mai táng. Hãy nhìn cảnh tượng đó xem. Mọi người trở nên rồ dại hết cả rồi hay sao? Muốn bỏ thành phố này tới mức không thèm chôn người chết ở đây nữa?

史 Nam Kinh, mùng mười tháng Mười hai năm 1937

Dưới khuỷu tay tôi có hai tấm thẻ nhỏ nhắn. Thẻ tị nạn. Cho tôi và Thu Kim. Khi người Nhật tiến vào thành phố, chúng tôi sẽ ghim chúng lên quần áo. Tôi vừa đi lấy chúng sáng nay tại hội Chữ Thập Đỏ. Khi rảo bước về nhà dưới trời nắng, tôi bỏ mũ ra. Một giảng viên trong trường đã bảo tôi làm thế. Anh ta không ở lại Nam Kinh mà đi về phía thượng nguồn sông Dương Tử, hy vọng đến được Trùng Khánh hay Chiết Giang. Khi chúng tôi chia tay, anh ta chăm chú nhìn tôi và nói, “nếu anh ra ngoài khi trời đang nắng thì đừng đội mũ. Hãy để cho trán anh rám nắng. Tôi nghe nói họ sẽ lột mũ dân thường ra xem, và nếu thấy trán ai nhợt nhạt thì họ sẽ bắt người đó vì nghi là quân nhân.”

“Nhưng chúng ta đúng là dân thường mà,” tôi nói.

“Đúng vậy, đúng vậy,” anh ta nói và nhìn tôi với ánh mắt như thương hại.

“Chúng ta là dân thường,” tôi nhắc lại khi anh ta đã bỏ đi rồi. Tôi đành phải hét với theo: “Nếu người Nhật biết chúng ta là dân thường, họ sẽ để chúng ta yên.”

Tôi đứng trơ ra một lúc, tim đập thình thịch vì tức tối khi thấy anh ta từ từ biến mất sau khúc quặt. Mãi một lúc sau tôi mới rời khỏi chỗ đó. Đi được vài bước tôi bèn liếc lại phía sau. Khi thấy khuôn viên trường học đã khuất, tôi liền lột mũ xuống cất vào trong túi và đi đầu trần về tới tận nhà, mặt hướng về phía mặt trời, những lời mẹ tôi nói lại văng vẳng bên tai: “Con trai, hãy hướng về phía mặt trời. Hãy nhớ rằng cuộc đời thật ngắn ngủi. Hãy luôn hướng về phía mặt trời bất cứ khi nào có thể.”

Đêm đó, tuyết bắt đầu rơi. Tôi trằn trọc suốt đêm, Thu Kim nằm im lặng bên cạnh tôi. Cô ấy bắt đầu phải nằm nghiêng khi ngủ vì bụng đã lùm lùm, thỉnh thoảng lại cọ những ngón chân lạnh ngắt vào chân tôi. Những ngày này, cô ấy trở nên lặng lẽ, đến mức dường như không tồn tại, như thể một lúc nào đó cô ấy sẽ tự dưng biến mất và thay vào chỗ của cô ấy là một đứa trẻ. Có lẽ cô ấy nghĩ đây là thời gian vô cùng quan trọng, khi con của chúng tôi bắt đầu tiếp xúc với những yếu tố cơ bản tạo nên sức mạnh của con người, tình yêu thương, lòng trắc ẩn, chân lý và sự công bằng. Có thể cô ấy cho rằng cần phải yên lặng và tập trung để những yếu tố trên xuất hiện trong trạng thái hoàn hảo nhất. Cô ấy không nhắc đến chuyện sơ tán nữa. Cô ấy chỉ thỉnh thoảng hỏi tôi: “Trùng Minh, chuyện gì đang xảy ra ở phía Đông thế?” Và lần nào tôi cũng không biết trả lời cô ấy ra sao, đành nói dối: “Không có gì. Không có gì. Mọi chuyện vẫn bình thường. Tướng Đường vẫn đang kiểm soát được tình thế.”

Sáng nay, khi chúng tôi kéo rèm phía sau giường ngủ, hơi nước đã đọng đầy cửa sổ và bên ngoài tuyết phủ đầy mặt đất. Thường thì vào buổi trưa, sẽ có những người kéo xe đi dọn tuyết nhưng hôm nay cả Nam Kinh yên lặng một cách kỳ lạ. Chỉ có xe quân sự đi lại trên đường phố và khi tôi ra khu chợ gần phế tích cung điện nhà Minh để mua khóa cửa và đinh vít để làm hàng rào xung quanh nhà thì chỉ có lèo tèo vài người đứng bán hàng, tuyết reo tí tách trên những chiếc bếp than dùng để sưởi ấm của họ. Tôi mua mấy chiếc then cài cửa với giá cắt cổ, đắt gấp mười lần ngày thường nhưng dường như người bán hàng cũng chả khó khăn gì trong việc tiêu thụ chúng.

“Ông Sử!”

Tôi quay lại và ngạc nhiên khi thấy Lưu Nhuận Đức, một giáo sư văn học ở trường đại học Thượng Hải. Tôi chỉ mới gặp ông ta có một lần và không thể đoán ra được là ông ta đang làm gì ở đây, trong một khu chợ ở Nam Kinh.

Tôi chắp tay cúi đầu chào ông ta. “Thật bất ngờ khi được gặp ông ở đây, ở Nam Kinh,” tôi nói.

“Tôi cũng bất ngờ khi được gặp ông ở đây, ông Sử.” Ông ta mặc chiếc áo dài truyền thống, hai tay khoanh lại dưới tay áo rộng thùng thình với một chiếc sưởi than nhỏ, và trên đầu đội một chiếc mũ phương Tây có dải băng to màu xám rất không thích hợp. Ông ta rút chiếc sưởi than ra khỏi tay áo đặt xuống đất để thực hiện nghi lễ chào hỏi. “Thật bất ngờ khi gặp được ai đó. Tôi cứ tưởng toàn bộ giáo viên của trường đại học Giang Tô đều đã rời thành phố.”

“Ồ, không. Không. Tôi thì không.” Tôi siết chặt cổ áo khoác, giọng cố tỏ ra tự nhiên như thể lúc nào tôi cũng quyết tâm ở lại Nam Kinh. “Vợ tôi đang có bầu. Cô ấy cần phải ở đâu đó gần bệnh viện hay trung tâm y tế ở thành phố. Một chỗ nào đó thật tốt, có các phương tiện khám chữa bệnh hiện đại nhất.” Thỉnh thoảng, tôi lại đạp đạp chân xuống tuyết như thể tôi đang cố giữ âm chứ không phải đang bồn chồn lo lắng. Khi thấy ông không nói gì, tôi nhìn ra đường phố hiu hắt xung quanh và hỏi khẽ: “Sao, ông có nghĩ là tôi hơi dại dột không?”

“Dại dột ư?” Ông ta nhìn qua vai tôi về phía Đông, xuyên qua những mái nhà lợp tôn, vẻ đăm chiêu tư lự. Một lúc sau ông thay đổi vẻ mặt, má hơi ửng lên, ông nhìn tôi cười ấm áp: “Không. Không dại dột chút nào. Có lẽ ngược lại là khác.”

“Ngược lại là khác?” Tôi nhìn ông ta, tim đập nhanh hơn.

“Đúng vậy. Đúng là có nhiều người không có niềm tin vào tổng thống, nhiều lúc dường như cả dân tộc này đều đã mất niềm tin vào ông. Ai cũng bỏ chạy vào sâu trong lục địa. Nhưng tôi thì sao? Tôi cũng đã quyết rồi. Tôi thừa nhận là tôi đã chạy khỏi Thượng Hải, nhưng những ngày bay nhảy đã qua rồi.”

“Có người cho rằng thế của tướng Đường rất yếu và ông ta không phải là người tận tụy với dân với nước. Ông nghĩ sao về những ý kiến này? Một số người còn nói người Nhật sẽ giẫm qua xác ông ta, người khác thì cho rằng họ sẽ chiếm thành phố và xông vào từng nhà để chém giết.”

“Nếu ông hỏi tôi thì tôi phải nói là có nhiều người rất sợ thay đổi. Do đó, những người như ông, như tôi, giáo sư Sử ạ, cần phải vững vàng. Phải quên đi cái quốc gia hèn nhát, lạc hậu mà chúng ta đã bỏ lại phía sau để thể hiện lòng tin đối với thành phố của chúng ta, với vị tướng quân mà tổng thống đã lựa chọn. Nếu không, chúng ta sẽ làm gì chứ? Trở thành một lũ hèn nhát ư? Bên cạnh đó, quân đội Quốc dân cũng đã mưu tính hết rồi. Ông thử nhìn phía đằng kia xem, sau cổng thành phía Đông. Ông có nhìn thấy khói không?”

“Có.”

“Nhà cửa bị đốt cháy bên ngoài thành Đông. Chính là người của chúng ta đấy. Với những ai nói rằng Tưởng Giới Thạch không có chính sách quân sự gì cả, thì hãy cho họ chứng kiến cảnh này: chính sách tiêu thổ. Để quân Nhật không tìm thấy gì cả, không lương thực, không nước uống khi hành quân, chúng sẽ mau chóng thất bại thôi.”

Lòng tôi như vơi đi được nghìn cân. Đột nhiên, sau tất cả những âu lo này, tôi cảm thấy mình như được minh oan, rằng tôi không chỉ có một mình. Chúng tôi đứng đó, dường như vừa bất chợt trở thành hai người bạn vong niên. Chúng tôi say sưa trò chuyện cho đến khi tuyết rơi ướt cả hai vai, và cho đến khi giữa cuộc chuyện trò, chúng tôi phát hiện ra rằng gia đình của ông cũng đang ở đây, và trùng hợp thay, không cách nhà của chúng tôi bao xa. Thế là chúng tôi quyết định tới nhà ông để tiếp tục câu chuyện. Chúng tôi khoác tay nhau một cách thân ái và dạo bước về phía nhà của Lưu Nhuận Đức, một ngôi nhà tranh một tầng đơn sơ, mái làm bằng cao lanh, không có sân, cũng không có điện. Ông Lưu sống ở đó với vợ và một cậu con trai hơn mười tuổi. Đó là một cậu bé gầy guộc, đen nhẻm, vừa chào tôi vừa đưa tay dụi mắt.

Ông Lưu mang từ Thượng Hải về đây khá nhiều đồ ngoại nhập xa xỉ như sữa hộp, thuốc lá Pháp, mà chúng tôi vừa nói chuyện vừa hút như hai nhân vật trí thức thượng lưu Paris. Đầu mùa hè, có tin đồn ông Lưu đã khóa cửa nhà ở Thượng Hải, gửi vợ con về Nam Kinh còn ông thì ở lại trường đại học, ngủ trong giảng đường để làm việc được thêm chừng nào hay chừng ấy. Cuối cùng khi thành phố đã thất thủ, ông trốn thoát bằng cách nấp trong thùng rác trong bếp trường đại học và bỏ chạy về Nam Kinh, hòa vào dòng người đi sơ tán ngay phía trước quân đội Nhật. Khắp nơi chỉ thấy thuyền bè, ghe tam bản ngụy trang bằng lau sậy, chật cứng người sơ tán.

“Khi tôi tới Tô Châu, tôi nhìn thấy lính Nhật đầu tiên. Tôi thấy chúng nhảy ầm ầm qua các con kênh như bọn quỷ dữ, những khẩu súng lưỡi lê arisakas sáng loáng trên lưng. Chúng cực kỳ lanh lẹ, không gì có thể ngăn cản chúng được. Cái lũ quỷ dữ đội lốt người đó.”

Nghe những chuyện đó, tôi bắt đầu cảm thấy hơi bất an. Ở đây, trong nhà mình, Lưu Nhuận Đức có vẻ thiếu dũng khí và sự hăng hái hơn so với lúc ở trên phố. Thỉnh thoảng ông lại lấy tay xoa mũi và lo lắng nhìn ra ngoài cửa sổ. Tôi chợt nghĩ, bất chấp những lời đao to búa lớn, có khi ông cũng đang lo lắng như tôi.

“Ông biết không,” ông nói, nhướng mắt lên, nghiêng người về phía tôi với một nụ cười khô khốc. “Tôi thậm chí đã nhìn thấy Thượng Hải, cả thành phố Thượng Hải trôi vào nội địa, trôi qua đồng bằng vào nội địa.”

“Thượng Hải? Làm gì có chuyện ấy?”

“Ông nghĩ tôi điên chứ gì? Hay đang ngủ mơ. Nhưng đó là sự thực. Tôi đứng trên sườn núi và nhìn thấy cả Thượng Hải trôi vào nội địa.”

Tôi cau mày. “Tôi không hiểu.”

“Biết ngay mà, cái vẻ mặt này!” Ông phá lên cười. “Tôi cũng có vẻ mặt y hệt như thế này khi chứng kiến chuyện đó. Phải mất một lúc tôi mới tin là tôi không bị điên. Ông có biết chính xác là tôi nhìn thấy cái gì không?”

“Không.”

“Tôi nhìn thấy sự bấn loạn của dân chúng Thượng Hải. Họ tháo dỡ cả tòa nhà, các nhà máy, xưởng sản xuất. Ông có tưởng tượng được không? Họ di chuyển mọi thứ vào nội địa bằng tàu thủy, thuyền mành theo hướng Tây Nam, về Trùng Khánh. Tôi thấy tàu bè bồng bềnh trên sông Dương Tử, trên chở cả một nhà máy dệt.” Ông đưa tay ra, bắt chước chuyển động bập bềnh tươi vui của một con thuyền nơi chân trời. “Cả Thượng Hải bơi lên thượng nguồn về phía Trùng Khánh.”

Ông mỉm cười với tôi như đợi một lời bình luận nhưng tôi chỉ im lặng. Có gì đó không ổn. Trước đó, bà Lưu đặt lên bàn một chiếc bánh hạt dẻ. Nó được trang trí với một chữ cát tường bằng lòng trắng trứng gà, và giờ thì mắt tôi chạm vào cái con chữ quen thuộc đó. Tôi nhìn về phía hành lang bà đang ngồi rồi quay trở lại với chiếc bánh. Ngẫm lại thái độ của bà trước đó và cái cách bà rút lui vào một chỗ, tôi chợt hiểu ra tất cả.

Dĩ nhiên rồi. Dĩ nhiên rồi. Giờ thì tôi đã nhận ra. Tôi nhìn sang giáo sư Lưu, nhìn vẻ mặt khổ sở, mái tóc muối tiêu của ông và hiểu ra rằng ông cũng đang phải đấu tranh với vợ mình y như tôi với Thu Kim. Không nghi ngờ gì nữa, ông cũng sợ quân Nhật nhưng ông còn sợ các tín ngưỡng mê tín dị đoan hơn. Chúng tôi ở trên cùng một sàng, ông Lưu và tôi, và không giống trong ngạn ngữ, chúng tôi vừa đồng sàng vừa đồng mộng.

“Già Lưu ơi,” tôi lẩm nhẩm, ngồi sát về phía ông, tay gõ gõ lên bàn, cảm thấy điều tôi sắp nói ra thật không dễ dàng. “Xin hãy tha thứ cho tôi. Tha thứ cho tôi vì đã không hiểu ý già. Lúc nãy già có nói là không có gì phải sợ bọn Nhật.”

Khi tôi nói thế, vẻ mặt của ông chợt thay đổi. Mặt ông đỏ bừng lên, ông lấy tay dụi mũi liên tục như để ngăn một cơn hắt xì hơi. Ông ngồi thẳng lưng trên ghế, khẽ liếc mắt về phía bà vợ rồi nói: “Đúng, đúng vậy, đó chính là điều tôi muốn nói.” Ông giơ một ngón tay lên với vẻ trách cứ. “Chúng ta sẽ phải cố gắng hết sức để nhớ tới điều này, những ai nghi ngờ Quốc dân Đảng luôn nhìn theo chúng ta để được tiếp thêm niềm tin. Phải giữ vững niềm tin, thầy Sử ạ, hãy giữ lấy niềm tin. Chúng ta đang làm đúng.”

Khi tôi bước xuyên qua tuyết để về nhà, tôi cố ngẩng cao đầu. Giữ lấy niềm tin, chúng ta đang làm đúng. Nhưng tôi lại nhớ đến một chi tiết khác trong cuộc gặp của tôi với ông Lưu khiến tôi chột dạ. Khi chúng tôi đứng nói chuyện ở chợ, tôi để ý thấy phụ nữ ở Nam Kinh đều phải cải trang. Trong lúc trò chuyện, tôi đã nhìn qua vai vị giáo sư già và thấy họ, tôi gần như đã quên mất chuyện đó cho tới tận lúc này. Họ vẫn đi chợ như thường lệ, nhưng tất cả đều quàng khăn kín mít, mặt bôi đầy bụi than đen sì. Khi họ bước đi, họ hơi còng lưng xuống như những bà già, dù tôi biết nhiều người trong số đó còn rất trẻ.

Tôi chợt cảm thấy tức giận. Tôi biết họ sợ gì khi rơi vào tay quân Nhật. Họ đang trốn tránh, lẩn vào trong như con gấu ngủ đông, tan biến trong chính bản thân mình. Nhưng điều này phải xảy ra ư? Dân tộc Trung Hoa phải đổi màu ư? Người Trung Quốc chúng tôi, cả một dân tộc, một quốc gia hèn nhát, lạc hậu, chúng tôi đang tan biến vào chính đất đai của mình. Chạy và trốn như những con tắc kè hoa giấu mình trên các vách đá tại sa mạc Gobi. Chúng tôi thà tan biến và chui xuống đất còn hơn là đứng thẳng lên và nhìn thẳng vào quân Nhật.


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder   Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder Icon_minitimeSun Feb 03, 2019 9:04 pm


Chương 17

Jason nói ngôi nhà trước đây thuộc về mẹ của chủ nhà nhưng bà ta ốm rất nặng và có lẽ còn hơi bị điên nữa nên đã để tầng trệt ngôi nhà rơi vào tình trạng đổ nát, không thể ở được. Các cửa sổ chi chít muỗi và theo lời của Svetlana thì dưới đó còn có các bóng ma. Cô bảo người Nhật tin vào một sinh vật lạ, một loại yêu tinh có cánh gọi là ma núi Tengu, chuyên đi bắt cóc người và có thể bay dập dờn như con ngài. Svetlana thề là cô ấy đã từng nghe thấy tiếng sột soạt ở trong vườn và nhìn thấy vật gì đó đi xuyên qua các cây hồng đỏ. “Suỵt,” cô ấy nói, đột ngột dừng lại một cách đầy kịch tính giữa câu chuyện, đưa tay lên môi ra hiệu: “Mọi người có nghe thấy gì không? Ở phía dưới cầu thang ấy?”

Jason phá ra cười. Irina thì tế nhị hơn một chút. Còn tôi chẳng nói gì. Về chủ đề ma quỷ thì tôi không quan tâm. Tôi yêu thích ngôi nhà này vì những nét rất riêng của nó. Tôi nhanh chóng trở nên thân quen với những bức tường tróc lở, những căn phòng bụi bặm, khép kín, những chiếc sưởi điện kotatsu cũ kỹ xếp hàng trong nhà kho. Nhưng đôi khi, nằm trong phòng của mình, ngay kề với khu vực cấm trong ngôi nhà tôi lại có cảm giác như mình đang ở trong ranh giới phòng vệ cuối cùng. Phòng vệ chống lại cái gì thì tôi không biết. Những con chuột cống? Sự trống trải? Tôi cũng không chắc nữa. Tôi đã sống một mình quá lâu nên tôi cũng nhanh chóng quen với khoảng không bao la, trống trải đè nặng lên những bức tường phòng ngủ của mình. Dầu vậy, vẫn có những đêm ở Takadanobaba, tôi giật mình choàng tỉnh giữa đêm khuya, sợ cứng cả người vì tin rằng ai đó vừa bước qua trước cửa phòng tôi.

“Ở đây có cái gì đó đang đợi,” Sử Trùng Minh nói khi trông thấy ngôi nhà lần đầu tiên. Ngay sau hôm băng đảng của Fuyuki kéo đến hộp đêm thì ông gọi điện cho tôi nói là muốn gặp tôi. Đó chính là cái mà tôi thích, cách lựa chọn từ ngữ của ông: ông muốn gặp tôi. Trong khi ông trên đường từ Tokyo tới Takadanobaba thì tôi cuống cuồng dọn dẹp nhà cửa, mua trà và bánh ngọt để đón tiếp. Lúc này, ông đang đứng trên ngưỡng cửa với vẻ khắc khổ thường ngày, đôi tay buông thõng xuống hai bên, mắt nhìn chăm chú vào hành lang tối lờ mờ. “Ở đây có cái gì đó đang chờ được khám phá.”

“Đây là một ngôi nhà rất cổ.” Tôi nói trong khi lúi húi pha trà trong bếp, trà xanh với những chiếc bánh đậu xanh mochi gói trong giấy bóng kính. Tôi hy vọng ông không nhìn thấy vẻ bối rối của tôi. “Giá như tôi có thể nhìn thấy ngôi nhà lúc nó vừa được xây xong. Ngôi nhà này đã sống sót sau trận động đất Kanto và thậm chí cả những đợt ném bom sau này. Hẳn có rất nhiều chuyện đã xảy ra ở đây. Rất nhiều.”

Tôi xếp những chiếc bánh mochi màu vàng nhạt vào trong một chiếc khay sơn mài nhỏ, khẽ kéo lớp giấy bọc ra một chút trông giống như cánh hoa đang hé nở để lộ những nhụy hoa đầy đặn. Tôi chưa chuẩn bị đồ ăn Nhật bao giờ và tôi không thể biết được Sử Trùng Minh có đánh giá cao chuyện đó không nhưng vì muốn mọi chuyện được tiến hành theo đúng nghi lễ chứ không bừa bãi vô tội vạ nên tôi đã dành khá nhiều thời gian để chọn một góc trên chiếc khay cho bình trà. Người Nhật nói rằng đàn ông ăn bằng mắt trước. Mọi thứ phải được sắp xếp một cách cẩn thận, từng đồ vật phải được đặt đúng chỗ, tương thích với vật đứng bên cạnh nó tới từng chi tiết. Bên cạnh ấm trà tôi đặt hai chiếc tách nhỏ kiểu Nhật, đúng hơn là hai chiếc bát con bằng đất nung. Tôi bê chiếc khay ra khỏi bếp và thấy Sử Trùng Minh đang đứng trước cửa sổ, giơ hai tay lên như để hứng lấy ánh mặt trời. Ông có vẻ như đang tập trung cao độ.

“Ông Sử?”

Ông quay lại nhìn tôi. Trong ánh sáng lờ mờ của hành lang, trông ông có vẻ xanh xao. “Bên dưới cửa sổ này là gì?”

“Là một khu vườn, ông có thể mở cửa sổ ra.”

Ông do dự một lúc rồi mở cánh cửa chớp, nhìn ra bên ngoài chiếc cửa sổ đầy bụi. Dưới ánh mặt trời chói lòa, cả khu vườn lặng yên như đang nín thở, không có bất cứ vật gì chuyển động trong cái nắng bức bối, gay gắt bất thường này. Cây cối và đám dây leo trông bụi bặm và kỳ ảo. Sử Trùng Minh đứng đó rất lâu khiến tôi không dám chắc là ông có còn thở hay không nữa. “Nếu có thể, tôi muốn được ra ngoài vườn. Hãy dùng trà ở ngoài đó.”

Tôi chưa bao giờ đặt chân xuống khu vườn. Thậm chí tôi còn không chắc có đường xuống đó hay không. Hai chị em người Nga đều đã đi mất nên tôi đành phải đánh thức Jason dậy để hỏi. Anh ta xuất hiện ở cửa vừa ngáp vừa nhăn nhó, chụp vội một chiếc áo thun qua đầu rồi nhét một điếu thuốc vào miệng. Anh ta nhìn Sử Trùng Minh từ đầu đến chân không nói gì rồi nhún vai. “Ờ. Chắc chắn rồi. Có đường xuống đấy.” Anh ta dẫn hai chúng tôi tới trước một căn phòng chỉ cách phòng ngủ của tôi hai phòng. Cửa phòng không khóa, bên trong là một cầu thang bằng gỗ nhỏ.

Tôi rất ngạc nhiên. Tôi không hề biết là có cầu thang dẫn xuống vườn. Tôi cứ tưởng tất cả tầng trệt đều bị khóa kín. Thế nhưng, ở đây, phía dưới chân cầu thang tối om, lại có một căn phòng nữa, không có đồ đạc gì cả ngoài mấy chiếc lá chết khô trên sàn đá. Trước mặt chúng tôi là một cửa chắn bằng giấy shoji thủng lỗ chỗ màu xanh lá cây do mặt nước ao ngoài vườn hắt lên. Sử Trùng Minh và tôi đứng nhìn tấm chắn một lúc.

“Ngoài đó chắc không có chỗ nào để ngồi,” tôi nói.

Sử Trùng Minh chạm tay vào tấm chắn. Từ phía sau nó vang lên một âm thanh ù ù như tiếng máy phát điện công suất nhỏ, có lẽ là từ một trong những chiếc máy điều hòa nhiệt độ ở bên Tòa nhà Muối. Sử Trùng Minh dừng lại một lúc rồi quyết định kéo tấm chắn ra. Tấm màn han gỉ khựng lại một chút rồi đột ngột chuyển động, được đẩy ra phía sau, mở ra trước mắt chúng tôi một khu vườn xanh ngắt, trông giống như một khu rừng rậm nhiệt đới. Chúng tôi đứng im nhìn ra bên ngoài. Một cây đậu tía cuồn cuộn chắc nịch như cổ tay của một chiến binh, già cỗi tới mức hoa không mọc ra được nữa, rễ cành chằng chịt đan thành một chiếc lồng khổng lồ ngay trước ngưỡng cửa. Rêu và các loại cây leo nhiệt đới cuốn quanh nó, ruồi muỗi ẩn nấp trong các hốc tối bên trong, những cây hồng đỏ và cây thích mọc um tùm, rêu phong và hoa thường xuân kết thành tràng xung quanh.

Sử Trùng Minh bước ra vườn, khá nhanh nhẹn với cây gậy của mình, ánh sáng chiếu thành những mảng lốm đốm màu xanh và vàng trên gáy ông. Tôi bước theo sau một cách thận trọng, cố giữ cho chiếc khay được thăng bằng. Không khí đặc quánh vì nóng, tiếng côn trùng ra rả và mùi nhựa cây hăng hắc. Một con bọ có cánh to tướng lao vụt ra từ phía dưới chân tôi, trông giống như một con chim nhân tạo rồi bay vù vù ngay trước mặt. Tôi lùi lại phía sau một bước để tránh khiến một ít trà sánh ra ngoài khay, nhìn con bọ lượn qua trước mặt theo hình xoáy trôn ốc rồi bay lên cành cây, cánh kêu lách cách như tiếng pha lê hay tiếng kim khí. Giờ nó ngồi chồm hỗm ngay phía trên đầu tôi, to như một con chim hồng tước, đôi cánh màu hạt dẻ bóng lộn xòe ra và đập vù vù, chính là tiếng động tôi tưởng nhầm là máy phát điện lúc trước. Tôi nhìn nó chằm chằm, tim bắt đầu đập rộn ràng. Semi-no-koe của nhà thơ Basho, tôi nghĩ. Tiếng ve kêu. Thứ âm thanh lâu đời nhất ở Nhật Bản.

Ở phía trước, Sử Trùng Minh đã tìm thấy một khoảng đất trống. Tôi đi theo, bước ra giữa trời nắng chang chang, vừa hất đám mạng nhện bám đầy cánh tay xuống đất vừa nheo mắt nhìn Tòa nhà Muối màu trắng lấp lánh in trên nền trời xanh biếc. Khu vườn này hóa ra rộng hơn tôi tưởng. Phía bên tay trái tôi là một khu bùn lầy với một ao sen ngập ngụa lá mục, từng đàn muỗi bu quanh cái bóng của một cây gỗ thích khổng lồ trải dài trên mặt ao.

Sử Trùng Minh dừng lại cạnh ao sen, giữa đám phế tích hoang tàn rêu phong của một khu vườn đá Nhật Bản. Ông nhìn quanh quất như đang tìm cái gì đó, giống như một người đàn ông vừa để con chó cưng lạc mất trong rừng, và đang cố gắng kiếm tìm bóng dáng nó từ ngoài bìa rừng. Ông có vẻ tập trung tới mức khiến tôi cũng tò mò nhìn theo. Tôi chỉ thấy lờ mờ thấp thoáng sau bụi tre là lớp lưới bảo vệ màu đỏ trên các ô cửa sổ tầng trệt, một chiếc cầu cảnh xập xệ dẫn tới ao sen, không hiểu Sử Trùng Minh đang bị hớp hồn bởi cái gì. Tôi nhìn vào mắt ông, dõi theo đường đi của chúng một lần nữa và dừng mắt tại một chiếc đèn lồng đá ở bên cạnh ao sen, cạnh nó là một chiếc ghế băng bằng đá.

“Ông Sử?”

Ông khẽ cau mày và lắc đầu. Rồi như choàng tỉnh, ông quay sang nhìn tôi, lúc này mới phát hiện ra tôi đang bưng khay trà liền giơ tay ra đỡ. “Để tôi cầm cho, hãy tìm chỗ nào ngồi và uống trà.”

Tôi tìm thấy mấy cái ghế gỗ ẩm ướt, mốc meo. Chúng tôi ngồi trong bóng râm ngay bên rìa khu vườn đá, tránh ánh mặt trời chói chang. Trời nóng đến mức tôi phải làm mọi thứ một cách từ tốn, rót trà vào chén và đưa cho Sử Trùng Minh một chiếc bánh mochi để trên một đĩa sơn mài nhỏ. Ông đón lấy nó, nhìn ngó một lúc trước khi dùng nĩa rạch một đường ở giữa chiếc bánh, cắt làm đôi. Bánh mochi tẩm bột có màu nhạt nhưng bên trong nhân bánh màu đỏ tía, trông giống như miếng thịt sống nằm giữa lớp vỏ màu da. Vẻ mặt của Sử Trùng Minh lập tức thay đổi khi ông nhìn thấy nhân bánh, tôi thấy ông do dự một lúc rồi lịch sự xắn một miếng nhỏ xíu bỏ vào miệng. Ông nhai một cách chậm rãi, nuốt miếng bánh một cách khó nhọc như sợ phải ăn nó.

“Trông cô có vẻ vui hơn lần đầu tôi gặp cô,” cuối cùng ông lên tiếng sau khi uống một ngụm trà và lấy khăn mùi soa chấm miệng. “Thế nào? Ở Tokyo cô có vui không?”

“Vui ư? Tôi cũng không biết nữa, tôi chưa hề nghĩ tới điều này.”

“Cô có chỗ ở,” ông chỉ tay lên tầng, nơi những đám mây đang soi mình trong ô cửa sổ bằng kính bụi bặm. “Một nơi an toàn để sống. Và có đủ tiền để tiêu.”

“Đúng vậy.”

“Cô thích công việc của mình chứ?”

Tôi nhìn chiếc đĩa. “Có vẻ thế.”

“Cô làm việc trong một hộp đêm à? Cô nói cô làm việc buổi tối mà.”

“Tôi làm tiếp viên trong hộp đêm. Chả hay ho gì.”

“Tôi biết. Tôi có biết một chút về những hộp đêm này. Tôi không phải một ông già không thèm để ý đến sự đời như vẻ bề ngoài. Thế cô làm việc ở đâu, có hai khu vực chính, Roppongi và Akasaka.”

“Yotsuya.” Tôi vẫy tay về một hướng mơ hồ nào đó. “Trong một tòa nhà lớn ở Yotsuya. Tòa nhà màu đen.”

“À, có, tôi có biết.” Ông nói vẻ đăm chiêu.

Có điều gì đó trong giọng nói của ông khiến tôi phải ngước mắt lên. Nhưng đôi mắt mờ đục của ông không nhìn tôi mà nhìn vào không trung như suy ngẫm điều gì đó hết sức mông lung.

“Giáo sư Sử? Có phải ông đến để nói cho tôi về bộ phim không?”

Ông hơi nghiêng đầu về phía tôi nhưng mắt vẫn nhìn về xa xăm. Đó không phải là một câu trả lời có, cũng không phải là câu trả lời không. Tôi đợi ông nói gì đó nhưng trong một thoáng, ông dường như quên bẵng sự có mặt của tôi. Rồi đột nhiên ông lên tiếng, giọng khẽ khàng. “Cô có biết che đậy quá khứ thật ra không phải là ngón nghề gì ghê gớm?”

“Gì cơ ạ?”

Ông nhìn tôi vẻ đăm chiêu cứ như ông đang nghĩ về tôi chứ không phải về Nam Kinh. Tôi cũng nhìn lại ông, mặt ửng đỏ.

“Gì cơ ạ?”

“Không có gì đặc biệt cả. Chỉ là một thủ thuật giữ im lặng.”

“Tôi không hiểu ông đang nói gì?”

Ông thò tay vào túi và lôi ra một vật giống như một con sếu nhỏ bằng bao diêm làm bằng giấy washi màu đỏ tươi và màu tía. Đầu nó rụt lại còn cánh thì dang ra. “Hãy nhìn con chim hoàn hảo này.” Ông đặt con sếu vào tay tôi. Tôi nhìn nó chăm chú. Nó nặng hơn tôi tưởng và dường như bị cột chặt dưới đáy bằng dây chun. Tôi quay sang nhìn ông vẻ dò hỏi. Ông chỉ gật đầu, mắt vẫn không rời con sếu nhỏ. “Cứ tưởng tượng con sếu nhỏ bình thản này là quá khứ. Cứ tưởng tượng đi.”

Tôi lại nhìn xuống con sếu, vẫn chưa hiểu được ý ông muốn nói gì. Rồi tôi thấy một cái gì đó xảy ra. Con sếu đang động đậy. Tôi có thể cảm thấy cổ tay mình, rồi cả người rung lên. Đôi cánh màu đỏ tía đang rung rinh. Tôi mở miệng định nói thì con chim như nổ tung. Từ giữa con sếu bung ra một vật gì đó màu đỏ đáng sợ như trong hộp đồ chơi hình nộm. Cái đầu gớm ghiếc của một con rồng Trung Hoa bật thẳng vào mặt tôi khiến tôi nhảy dựng lên và đánh rơi con sếu xuống đất. Chiếc ghế của tôi cũng bị đổ lật, và tôi đứng run lập cập nhìn xuống đất nơi con rồng lò xo bằng giấy quái đản đang co giật và xoắn lại, sợi dây chun tụt ra ngoài.

Sử Trùng Minh lấy gậy khều nó lên rồi nhét vào trong túi. “Đừng sợ, tôi không phải là ảo thuật gia.”

Tôi nhìn ông, mặt đỏ bừng, tim đập thình thịch.

“Đó chỉ là một trò trẻ con. Đừng nhìn với vẻ sửng sốt thế. Hãy ngồi xuống nào!”

Một lúc sau khi đã chắc con rồng sẽ không nhảy ra khỏi túi áo của ông nữa, tôi mới kê lại chiếc ghế và ngồi xuống, cảnh giác nhìn ông.

“Tôi chỉ muốn cô hiểu rằng nhắc tới quá khứ như là đặt một quả cầu phốt-pho dưới một bầu trời nhiều mây. Quá khứ sẽ biến đổi năng lượng. Năng lượng gió và lửa. Chúng ta cần phải tôn trọng những gì có sức công phá mạnh mẽ! Và cô đang yêu cầu xông thẳng vào quá khứ không đắn đo? Đó là một nơi vô cùng nguy hiểm. Cô phải chắc là cô thực sự muốn tới.”

“Tất nhiên là tôi muốn,” tôi nói, vẫn nhìn ông với vẻ đề phòng. “Tất nhiên là tôi muốn làm điều đó.”

“Có một vị giáo sư muốn giúp đỡ trường đại học của ông ta ở Trung Quốc,” Sử Trùng Minh bắt đầu nói, không nhìn tôi, hai tay giữ lấy tách trà, chân chụm lại. “Tôi hy vọng cô hiểu ý tôi nói. Vị giáo sư này biết được một công ty dược phẩm Trung Quốc ở Hồng Kông đang muốn hợp tác với một trường đại học để nghiên cứu về các phương pháp chữa bệnh truyền thống. Ông ta biết tầm quan trọng của việc trường đại học của ông được chọn làm đối tác trong công trình nghiên cứu này, nhưng ông ta cũng biết rằng để làm được điều đó thì trường ông phải tìm được một thứ gì đó thật đặc biệt để thu hút sự quan tâm của công ty kia.” Sử Trùng Minh ngả người về phía trước rồi hạ giọng. “Rồi một hôm, ông nghe thấy từ những nguồn rất lạ và không thể nêu danh tính tin đồn về một loại thuốc bổ vô cùng hiệu nghiệm. Người ta đồn rằng nó có thể chữa bệnh tiểu đường mãn tính, viêm khớp và thậm chí cả bệnh sốt rét.” Ông nhướng mắt nhìn tôi. “Cô có thể tưởng tượng nếu những tin đồn này là sự thực thì mọi chuyện sẽ thế nào không?”

Tôi không trả lời. Tôi vẫn chưa cảm thấy thoải mái, vẫn e ngại Sử Trùng Minh và con rồng giấy trong túi ông. Tôi cũng không biết mình chờ đợi gì ở cuộc gặp này, có thể là sự chấp thuận của ông, hay là sự ngoan cố từ chối. Cái mà tôi không mong đợi là cái vẻ tập trung cao độ xuất hiện trên mặt ông lúc này khi ông nói.

“Vị giáo sư đó hiểu rằng chỉ cần trường đại học của ông ta có thể tìm ra được thành phần của loại thuốc bổ đó thì họ sẽ có cơ hội trở thành đối tác của công ty kia. Ông ta dày công nghiên cứu và tiến hành các cuộc điều tra bí mật và cuối cùng đã lần ra dấu vết của người được cho là sở hữu loại thuốc bổ đó. Chỉ có một vấn đề duy nhất. Người này đang sống ở Nhật.”

Ông đặt ly trà xuống và ngồi hơi thẳng người lên, tay đặt trên đùi giống như một đứa trẻ chuẩn bị xưng tội. “Tôi đã không hoàn toàn trung thực với trường đại học Todai. Họ cho rằng tôi quan tâm đến những bài thuốc đông y truyền thống mà quân đội Nhật mang về nước. Nói rộng ra thì cũng đúng. Nhưng thực tế thì còn xa hơn thế. Tôi muốn có một chân ở đại học Todai vì một lý do: đến được Nhật Bản và tìm ra công thức của loại thuốc nói trên.”

“Ý ông nói là ông đã lừa dối. Ông lừa họ để có thể nhận được học bổng nghiên cứu.”

Ông mỉm cười thoáng chút chế giễu. “Nếu cô muốn dùng từ như thế. Đúng vậy, tôi đã lừa dối. Sự thật là tôi ở Tokyo để tìm cách đảm bảo tương lai cho trường đại học của mình. Nếu tôi có thể tìm thấy thành phần bí mật của loại thuốc đó thì mọi sự sẽ thay đổi, không phải chỉ cho riêng mình tôi mà còn cho hàng trăm người khác.” Ông mệt mỏi dụi mắt. “Tiếc rằng sự xuất hiện của tôi ở Tokyo không phải là sự kết thúc cuộc săn tìm. Đúng hơn, nó là sự mở đầu. Người đàn ông mà tôi muốn gặp là một ông già hơn tám mươi tuổi, là một trong những người đàn ông quyền lực nhất nước Nhật. Ông ta lúc nào cũng được bảo vệ bởi những người rất kín tiếng và những thông tin rò rỉ ra ngoài chỉ là các lời đồn đại và phỏng đoán. Nói một cách ngắn gọn, tôi đang húc phải một bức tường.” Sử Trùng Minh mỉm cười.

“Tôi không hiểu tại sao ông lại kể cho tôi nghe chuyện này. Tôi chẳng liên quan gì tới nó hết.”

Ông gật đầu, như thể lần này thì tôi đã đúng. “Ngoại trừ một việc là những lúc khỏe mạnh, ông ta vẫn thường lui đến các hộp đêm ở Tokyo. Và một trong những chỗ ông ta thỉnh thoảng xuất hiện chính là hộp đêm mà cô đang làm việc. Có lẽ bây giờ thì cô hiểu tôi đang nghĩ gì rồi đấy.”

Tôi dừng tách trà lại ngay trước miệng, nhìn Sử Trùng Minh và hiểu ra tất cả. Sử Trùng Minh đang nói về Junzo Fuyuki.

“Đúng không?” Ông nói có phần ranh mãnh, bắt gặp ánh mắt sửng sốt của tôi. “Sao vậy? Tôi không làm cô khó chịu đấy chứ?”

“Tôi biết ông nói đến ai. Tôi nghĩ là tôi đã gặp ông ta, Junzo Fuyuki.” Mắt Sử Trùng Minh sáng lên, thông minh và sắc sảo.

“Cô đã gặp ông ta,” ông nói, hơi vươn người về phía trước. “Linh tính của tôi đã đúng.”

“Ông ta ngồi xe lăn.”

“Đúng vậy.”

“Giáo sư Sử,” tôi hạ chiếc chén xuống, “Junzo Fuyuki là một tay anh chị, ông biết chứ?”

“Dĩ nhiên rồi. Đó là điều tôi muốn nói với cô. Ông ta là một oyabun, bố già của nhà Fuyuki. Ông cầm tách trà lên từ tốn dùng thêm vài hớp rồi lại đặt xuống bàn. Ông dường như lấy lại tư thế của mình, cái tư thế nghiêm túc kiểu nhà binh trước khi nói tiếp. “Giờ tôi muốn đề nghị với cô một chuyện. Fuyuki đôi khi tỏ ra thân thiện với các nữ tiếp viên ở các hộp đêm. Ông ta thỉnh thoảng tổ chức tiệc ở nhà nơi tôi chắc chắn là ông ta cất giấu thứ bí dược mà chúng ta nói đến. Ông ta thích uống rượu và tôi tin là thỉnh thoảng ông ta cũng lơi lỏng việc bảo vệ. Có thể ông ta sẽ trò chuyện với cô và cô sẽ phát hiện ra được thành phần của thứ thuốc nói trên.”

“Tôi đã nhìn thấy nó. Ý tôi là tôi đã thấy ông ta uống một cái gì đó. Một cái gì đó... một...” Tôi nói và giơ ngón cái và ngón trỏ lên, cách nhau vài phân để diễn tả độ dài của ống thuốc thủy tinh mà tôi nhìn thấy mụ Y Tá cầm. “Một chất lỏng với thứ bột màu nâu.”

Sử Trùng Minh nhìn tôi một lúc lâu. Ông lấy tay cọ cọ vào môi như thể chúng bị nẻ. “Màu nâu?” Cuối cùng ông ta lên tiếng, cố giữ giọng bình thường.

“Không đúng như ông dự đoán à?”

“Không. Không phải vậy,” ông nói, thò tay vào túi rút ra một chiếc mùi soa lau trán. “Nó đúng y như tôi đoán. Dạng bột, cô đặc.” Ông thôi không vỗ trán nữa và đút chiếc khăn tay vào trong túi. “Giờ thì…” Ông nói, giọng bình tĩnh một cách gắng gượng. “Giờ thì, đây chính là điều cô có thể giúp tôi. Tôi cần biết thứ bột đó là gì.”

Tôi không trả lời ngay. Tôi cúi người, cẩn thận đặt tách trà xuống khay và ngồi đó, hai tay đặt trên đầu gối, hơi nghiêng người ra phía trước, vừa nhìn tách trà vừa suy nghĩ về những điều ông vừa nói. “Ông muốn nói là nếu tôi tìm ra thứ bột đó thì đổi lại, ông sẽ cho tôi xem bộ phim.”

“Đừng coi thường chuyện này. Cô không thể biết được nó nguy hiểm thế nào đâu. Nếu ai đó biết, hay nghi ngờ là tôi yêu cầu cô...” Ông giơ một ngón tay lên, vẻ mặt hết sức căng thẳng: “Ông ta không bao giờ được biết là tôi yêu cầu cô làm việc này. Cô không được trực tiếp hỏi ông ta. Cô phải hết sức thận trọng và tuyệt đối bí mật. Dù cho có phải mất hàng tuần, có khi hàng tháng.”

“Tôi không hỏi ông chuyện đó. Tôi nói là nếu tôi chấp nhận thì ông có cho tôi xem bộ phim đó không?”

“Cô đồng ý làm chuyện đó?”

“Ông sẽ để cho tôi xem phim chứ?”

Ông không hề chớp mắt. Vẻ mặt ông không hề thay đổi. Ông chỉ nhìn tôi vẻ lạnh lùng.

“Thế nào, ông có cho tôi xem...”

“Được,” ông đột ngột lên tiếng. “Được, tôi sẽ cho cô xem.”

Tôi ngập ngừng, miệng há hốc. “Ông sẽ cho tôi xem?”

“Đúng.”

“Có nghĩa là nó tồn tại. Nó thực sự tồn tại. Tôi không hề tưởng tượng ra nó?”

Ông thở dài, mắt hơi cụp xuống, một tay day day bên thái dương vẻ mệt mỏi. “Đúng là có cuộn phim đó,” ông lầm bầm. “Cô không hề tưởng tượng ra nó.”

Tôi cúi đầu xuống vì không muốn ông nhìn thấy nụ cười vừa nở bừng trên mặt tôi. Vai tôi rung lên và tôi phải dùng ngón trỏ và ngón cái của mình giữ lấy hai bên cánh mũi và khẽ lắc đầu vì lòng tôi chợt nhẹ bẫng, tiếng cười như đang vỡ lạo xạo trong tai tôi.

“Giờ thì cô có giúp tôi hay không?” Ông nói. “Cô có định giúp tôi không?”

Cuối cùng khi đã nhịn được cười, tôi bỏ hai tay xuống và ngước nhìn ông.

Lúc này vì một lý do nào đó mà trông ông nhỏ bé, nhăn nhúm và yếu ớt hơn bao giờ hết trong chiếc áo jacket sờn cũ vắt trên vai. Mắt ông nhìn chăm chú, chỉ còn thấy hai đồng tử co lại, một vệt mồ hôi mờ mờ trên sống mũi. “Cô sẽ giúp tôi chứ?”

Thật là chuyện lạ lùng. Chấp nhận một thỏa ước với một vị giáo sư già, mà với những gì tôi biết thì có thể nói là cũng mất trí hệt như mọi người vẫn gán cho tôi. Phải chăng người ta vẫn hay chấp nhận làm những chuyện lạ đời chỉ để tìm thấy sự thanh thản trong tâm hồn? Chúng tôi ngồi đó, nhìn nhau rất lâu, tiếng côn trùng ong ong trong đầu tôi và trên trời, một chiếc máy bay đang hướng về sân bay Narita để lại trên nền trời xanh oi bức một làn khói trắng. Cuối cùng, tôi gật đầu. “Tôi đồng ý,” tôi khẽ nói. “Tôi sẽ làm chuyện đó.”

Ở dưới vườn cũng có cổng mở ra đường, tạo thành một đường hầm dưới tầng hai. Khi tiễn Sử Trùng Minh về vào đầu giờ chiều, tôi ngạc nhiên khi thấy chiếc khóa gỉ sét vẫn hoạt động và cánh cửa cũ rích đó vẫn có thể mở ra được một cách khó khăn, cho phép ông bước thẳng ra phố. “Ở Trung Quốc, chúng tôi không nghĩ về thời gian như người phương Tây. Chúng tôi tin rằng tương lai... rằng chúng tôi có thể nhìn thấy tương lai trong quá khứ.” Ông nói khi đứng bên ngưỡng cửa với chiếc mũ trên tay. Ông quay ra nhìn khu vườn một lần nữa như có ai đó thì thầm gọi tên ông. Ông giơ hai tay lên như để cảm nhận được không khí hay hơi thở của ai đó phả lên lòng bàn tay.

Tôi quay lại nhìn chăm chú vào chiếc đèn đá. “Ông thấy gì à? Sử Trùng Minh, ông đang nhìn cái gì vậy?”

“Tôi nhìn thấy... Một khu vườn. Tôi nhìn thấy một khu vườn. Và tôi thấy tương lai của nó. Đang chờ được khám phá.” Ông nói giọng nhẹ nhàng, bình thản.

Khi ông đi khỏi tôi khóa cửa lại rồi đứng một lúc trong bóng tối của đường hầm, vôi vữa rụng lả tả xung quanh để lộ những chiếc máy tiện xám màu đầy mạng nhện. Tôi nhìn ra ngoài vườn. Tôi tưởng tượng ra người cha và người mẹ của chủ nhà ở đây, đôi guốc gỗ của bà nện lọc cọc trên những phiến đá lát dọc đường đi, một chiếc ô màu đỏ tươi, và có thể là một chiếc lược bằng xương được tẩy trắng có hình con bướm, tình cờ bị rơi ra và bị lãng quên, văng vào trong đám lá mục, nằm ẩn ở đó rồi sau nhiều năm bắt đầu lẫn vào đất đá. Thần đạo Nhật cho rằng các linh hồn hóa thân vào cây cối, chim chóc và côn trùng, nhưng ở Tokyo có rất ít khu vực màu xanh và thứ hoa duy nhất người ta hay bắt gặp là những dải anh đào làm bằng nhựa treo bên ngoài các cửa hiệu dịp lễ tết. Bạn không bao giờ nghe thấy chim hót. Có lẽ, tất cả các linh hồn của thành phố đều đang ẩn nấp ở những nơi bị lãng quên như thế này.

Lúc này, đứng trong bóng tối, biết chắc rằng Sử Trùng Minh đang giữ bộ phim có ảnh hưởng lớn đến những gì đã xảy ra với tôi, khẳng định niềm tin của tôi về sự tồn tại của quyển sách màu da cam tôi đọc từ nhiều năm trước, thì tôi hiểu rằng, câu trả lời mà tôi khao khát bấy lâu đã rất gần kề, rằng không bao lâu nữa tôi có thể với tay ra và khi rút tay về, tôi sẽ nhận ra cuộn phim đã lẻn vào bên trong và nằm gọn trong tay tôi.


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder   Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder Icon_minitimeSun Feb 03, 2019 9:04 pm


Chương 18

史 Nam Kinh, chiều tối ngày 12 tháng Mười hai năm 1937 (mùng mười tháng Mười một âm lịch)

Tôi viết những dòng này dưới ánh sáng của một ngọn nến duy nhất. Chúng tôi không thể mạo hiểm dùng dầu hay đèn điện. Chúng tôi phải để cho ngôi nhà trông giống như không có người ở.

Cả ngày hôm qua chúng tôi nghe thấy những tiếng nổ lớn từ phía khu di tích Hoa Vũ. Tôi bảo Thu Kim chắc đó là tiếng quân đội của chúng tôi cho nổ hào ngoài thành hoặc phá cầu bắc ngang các con kênh nhưng tôi nghe thấy mọi người thì thầm trên phố: “Đó là quân Nhật. Quân Nhật đấy.” Đầu buổi chiều, sau một hồi yên lặng, một tiếng nổ long trời lở đất vang lên, khiến tôi và Thu Kim phải bỏ dở công việc đang làm quay sang nhìn nhau, mặt tái ngắt.

“Cổng thành,” một cậu bé trên phố hét lên. “Cổng Trung Hoa. Quân Nhật đấy.”

Tôi lại gần cửa sổ và nhìn xuống chỗ cậu bé đang đứng, hai tay cậu dang ra như chờ đợi các cánh cửa mở tung và mọi người thò đầu ra hỏi han như thường lệ mỗi khi có chuyện gì xảy ra trong khu phố. Nhưng lần này tất cả những âm thanh có thể nắm bắt được chỉ là tiếng kéo cửa lén lút. Cậu bé nhanh chóng nhận ra không khí im ắng. Cậu hạ tay xuống rồi bỏ đi.

Tôi quay lại. Thu Kim đang ngồi như hóa đá, hai tay khoanh lại, khuôn mặt bất động như cẩm thạch. Cô ấy đang mặc một chiếc sườn xám ở nhà và một chiếc quần màu nâu sòng khiến nước da của cô ấy trông trắng nhợt. Tôi vẫn đứng nhìn cô ấy, lưng xây lại phía cửa sổ đang mở, phố xá vắng lặng sau lưng. Những ngày này, ánh sáng trong thành phố trông rất lạ, trắng và trong suốt, tràn ngập khắp phòng, soi rõ từng đường nét của Thu Kim như thể tôi đang ngồi rất gần cô ấy vậy. Mặt, cổ và tay của cô ấy có những nốt nhỏ như da gà còn mí mắt của cô ấy thì mờ đi như có thể nhìn thấu những nỗi sợ hãi đang ngấm ngầm cựa quậy.

Nhìn Thu Kim lúc ấy, có cái gì đó trào dâng mãnh liệt trong tôi, cái gì đó có mùi vị của nghệ và khói bếp đậm đặc ở Phồn Dương, cái gì đó khiến tôi sặc sụa và nước mắt giàn giụa. Tôi quanh quẩn xung quanh cô ấy, hai chân líu ríu, không biết phải diễn đạt thế nào với Thu Kim. Thu Kim, tôi đã sai rồi, mình nói đúng. Tôi không thể nói cho mình biết được là tôi đang lo sợ thế nào. Hãy rời bỏ thành phố. Bây giờ hãy nhanh lên, chuẩn bị một ít đồ ăn rồi thu xếp hành lý. Đi thôi. Chúng ta sẽ kịp tới cảng Mi Đàm vào nửa đêm. Hay đỡ mất thể diện hơn thì chỉ nói, Thu Kim, kế hoạch có thay đổi chút ít...

“Thu Kim...” Tôi lên tiếng. “Thu Kim, có thể chúng ta nên...”

“Chúng ta nên làm gì?” Thu Kim nói, nhìn tôi đầy hy vọng.

Tôi chưa kịp trả lời thì nghe thấy một tiếng rít điên cuồng sau lưng mình và có cái gì đó lao qua cửa sổ đập thẳng vào gáy khiến tôi ngã nhào xuống đất. Cả ngôi nhà chìm trong một âm thanh ghê rợn. Tôi hét lên, hai tay ôm đầu nằm sóng soài trên sàn nhà. Trong cơn chấn động, một chiếc bát vỡ tan tành, nước lênh láng khắp bàn còn Thu Kim thì bật dậy, hốt hoảng hất đổ chiếc ghế. Trên đầu tôi có một vật gì đó to và đen sì cứ điên cuồng vùng vẫy giữa bốn bức tường. Tò mò, tôi hé mắt nhìn, tay vẫn ôm mặt.

Đó là một con chim lớn, một con chim lớn và vụng về đang tuyệt vọng vỗ cánh, lao đầu vào tường rồi lại rơi xuống đất, lông rụng tả tơi khắp nhà. Thu Kim đứng nhìn nó chằm chằm sửng sốt trong khi con chim vẫn tiếp tục kêu quang quác và đập cánh phành phạch, hất tung đồ đạc xuống sàn rơi vỡ lỏng chỏng. Rồi nó kiệt sức. Nó rơi bịch xuống đất, buồn bã nhảy lò cò quanh nhà, thỉnh thoảng lại đâm bổ vào tường.

Thu Kim và tôi bước lại gần và cả hai đều không tin vào mắt mình nữa. Đó là một con phượng hoàng kim. Có người coi đó là biểu tượng của Trung Quốc. Thật không thể tin được! Trước đây tôi chỉ mới thấy phượng hoàng kim trong tranh cho nên tôi vô cùng sửng sốt khi tận mắt chứng kiến một con phượng hoàng bay qua cửa sổ. Những chiếc lông chim màu da cam sáng rực khiến ngôi nhà như vừa thắp lửa. Mỗi khi tôi định mon men lại gần thì nó lại nhảy đi chỗ khác, cố gắng bỏ trốn, va quệt lung tung vào đồ đạc trong nhà. Tôi không hiểu sao con chim lại lạc vào đây. Chỉ đến khi nó tuyệt vọng vỗ cánh bay lên ngay trước mặt tôi, tôi nhìn vào mắt nó và hiểu ra.

“Mình tránh ra nào,” tôi bảo Thu Kim rồi chộp lấy chiếc áo choàng bằng gấm thêu, cuộn nó lại và tung lên con chim như một tấm lưới. Con chim sợ hãi nhảy chồm lên, đập cánh phành phạch, và cố bay là là trên mặt đất, nhìn xa giống như chiếc áo đang tự di chuyển trong phòng, như một con ma làm bằng những mụn vải ghép sáng màu lòng thòng trên sàn nhà. Tôi tiến lại gần, chụp lấy con chim bằng cả hai tay. Tôi đứng thẳng dậy, cẩn thận gỡ con chim ra khỏi chiếc áo, đầu tiên là cái đầu nhỏ xíu với đôi mắt mù lòa của nó rồi tới đôi cánh, chìa cho Thu Kim xem.

“Nó bị mù,” tôi lầm bầm.

“Bị mù?”

“Đúng vậy. Chắc là tại các vụ nổ ở cổng Trung Hoa...”

“Không!” Thu Kim đột ngột vung hai tay lên ôm mặt. “Không. Đây là điềm gở nhất trong các điềm gở. Một con phượng hoàng kim. Con chim của Trung Hoa. Bị mù trong tay người Nhật.” Cô ấy thọc sâu các ngón tay vào da đầu như phát điên rồi bấn loạn nhìn xung quanh như muốn tìm kiếm một lối thoát màu nhiệm nào đó. “Đúng thế, bây giờ thì chuyện đó sẽ xảy ra thật. Đất đai của chúng ta. Người Nhật sẽ tàn phá đất đai của chúng ta và phá hủy long mạch.”

“Giờ thì thôi đi. Làm gì có cái gọi là long mạch...”

“Họ sẽ phá hủy long mạch và rồi Trung Quốc sẽ chẳng còn gì ngoài hạn hán và đói kém. Tất cả các con chim phượng hoàng đều bị mù chứ không phải chỉ có mỗi con này đâu. Tất cả bọn chúng. Và tất cả con người nữa. Chúng ta sẽ bị giết ngay trên giường của mình và...”

“Thu Kim, xin mình. Mình hãy bình tĩnh lại đi. Đó chỉ là một con chim thôi mà.”

“Không. Không chỉ là một con chim, đó là một con phượng hoàng kim. Tất cả chúng ta sẽ phải chết.” Cô ấy đi vòng quanh nhà vẻ bấn loạn, hai tay giơ lên rồi lại hạ xuống một cách tuyệt vọng. “Tổng thống, cái ông tổng thống quý báu của mình, người đưa ra quyết định tối cao của mình đã bỏ chạy tới Trùng Khánh như một con chó bị săn đuổi, ở Nam Kinh chỉ còn lại những người nghèo khổ, bệnh tật và…”

“Đủ rồi!”

“Ôi!” Cô ấy kêu lên, buông thõng hai tay và chằm chằm nhìn tôi với vẻ vô cùng đau khổ. “Rồi mình sẽ thấy! Mình sẽ thấy! Em đúng.” Cô ấy nói rồi bỏ chạy ra khỏi phòng, tiếng chân nện thình thịch trên cầu thang.

Tôi đứng một lúc lâu, chăm chú nhìn theo cô ấy, máu rần rật hai bên thái dương, choáng váng vì mọi chuyện thay đổi quá nhanh theo một chiều hướng khác. Tôi đã định nhượng bộ cô ấy và chuẩn bị rời khỏi thành phố. Nhưng những lời chế nhạo của cô ấy lại khiến tôi rơi vào thế phải bảo vệ thể diện của mình. Có lẽ tôi sẽ đứng chết trân tại đó, nhìn mãi vào cái hành lang vắng tanh, nếu con chim phượng hoàng không bắt đầu giãy giụa. Mệt mỏi, tôi giơ một tay túm lấy chân con chim và bắt đầu quật nó vào không khí theo hình vòng cung như mẹ đã dạy tôi khi còn nhỏ, quay con chim như một cái chong chóng giống như cách vắt khô quần áo khoảng một tới hai vòng cho tới khi cổ nó gẫy gập xuống, và trong tay tôi chỉ còn lại một túm lông vấy máu èo uột. Tôi đóng cửa sổ lại và mang con chim đã chết xuống bếp, hai cánh nó yếu ớt rung lên trong động tác giãy chết cuối cùng.

Tôi ít khi lai vãng ở bếp của Thu Kim nhưng lúc này đó là nơi duy nhất tôi muốn tới. Tôi cảm thấy dễ chịu hơn khi ở trong bếp. Ngày xưa khi còn bé, tôi thường hay ngồi trên sàn bếp và nhìn mẹ nhúng gà vào nước sôi để vặt lông. Tôi đổ đầy một nồi nước, nhóm lửa rồi ngồi chờ bong bóng sủi trên bề mặt. Di chuyển trong bếp như một kẻ mộng du, tôi tóm lấy hai chân của con chim, nhúng nó vào nồi nước sôi rồi mang ra bàn ngồi vặt lông, đầu tiên là lông ngực, đầu óc thì mơ màng nghĩ tới hình ảnh mẹ tôi ở trong bếp ngày xưa. Tôi nhớ lại khuôn mặt bà trong những ngày mà công việc làm ăn của bố chưa phát đạt để thuê một amah, mẹ ở trong bếp suốt cả ngày, kiên nhẫn ướp những con vịt đã nấu chín với muối rồi gói cất đi để tích trữ, lòng vịt thì xiên vào que tre để phơi khô trên chạn. Tưởng Giới Thạch, tôi chán ngán nghĩ, muốn Trung Quốc nhìn về phía trước. Nhưng để một dân tộc dứt bỏ lịch sử từ trong tim mình, đâu chỉ đơn giản thế?

Tôi đã vặt lông con chim xong xuôi và cẩn thận bẻ gập đầu nó giấu vào dưới cánh rồi dùng dây buộc nó theo đúng kiểu mẹ tôi ngày xưa vẫn làm, đúng kiểu phụ nữ Trung Quốc từ bao đời nay vẫn làm. Sau đó tôi cho con chim vào nồi và ngồi xuống, những chiếc lông chim rực rỡ vẫn dính ở tay rồi nhìn đám bọt đỏ lừ máu nổi lên trên mặt nước.

史 Nam Kinh, chiều ngày 13 tháng Mười hai

Đêm hôm qua tôi dùng ván bịt khắp nhà, đóng đinh lên tất cả cửa sổ và cửa ra vào (Thu Kim không giúp vì sự mê tín của cô ấy nhắc cô ấy nhớ rằng dùng búa đóng đinh sẽ khiến con chúng tôi bị dị dạng). Cả đêm đó, chúng tôi nghe thấy các tiếng động lạ từ phía Đông và trước khi đi ngủ tôi cũng đặt một thanh sắt trước tấm gương chắn ma. Ai mà biết được liệu có dùng đến nó hay không, biết đâu có khi cần? Sáng nay chúng tôi bị đánh thức bởi một tiếng ì ầm từ xa dội lại nghe như tiếng sấm và mới nửa tiếng trước, khi Thu Kim chạm tay vào vòi nước định nấu mì cho bữa trưa thì chỉ thấy kêu khục khặc và rỉ ra vài giọt nước vàng khè. Chuyện này là thế nào? Có phải quân Nhật đã...

Nó xảy ra đúng lúc tôi đang viết! Chiếc bóng đèn duy nhất trên đầu bỗng dưng tắt phụt. Bây giờ chúng tôi… Chúng tôi chìm trong bóng tối lờ mờ, tôi gần như không nhìn thấy những chữ mình viết trên giấy. Bên ngoài, các loại động cơ, máy móc bị cắt điện đột ngột phát ra những âm thanh chói tai. Thành phố đang lịm dần xung quanh chúng tôi. Thu Kim đang lọ mọ tìm đèn dầu trong bếp, và từ cuối con hẻm, tiếng một ai đó hét lên cuồng loạn.

Tôi không thể ngồi đây thêm một phút nào nữa. Tôi không thể tiếp tục ngồi đây nghe ngóng. Tôi sẽ ra ngoài xem tình hình thế nào.


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder   Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder Icon_minitimeSun Feb 03, 2019 9:04 pm


Chương 19

Khi tôi bước lên nhà trên, ngôi nhà trông tối và mát hơn rất nhiều so với khu vườn nóng bức. Tôi đi tắm trong cái nhà tắm cũ kỹ với những đường ống lộ thiên và rêu xanh mọc đầy trên sàn lát gạch. Tôi kỳ cọ một cách cẩn thận, chăm chú nhìn hình phản chiếu của mình, nhìn nước chảy trên làn da trắng bóc, nhìn khắp các lỗ chân lông và lớp lông tơ lấp lánh. Sử Trùng Minh muốn tôi tiếp cận với Fuyuki. Điều mà ông nói, tôi chắc chắn, đó là tôi phải tán tỉnh Fuyuki. Ông muốn nói rằng tôi phải tỏ ra khêu gợi.

Trong bệnh viện, người ta không bao giờ chán rao giảng cho tôi về các hành vi tình dục của tôi, khiến tôi sớm đi đến quyết định dứt khoát rằng sẽ chẳng khôn ngoan gì nếu nói với họ về cảm xúc thực của tôi đối với các cậu thanh niên trên xe tải. Tôi có thể đoán được họ sẽ nói gì: “Ồ! Có thấy không? Một câu trả lời hoàn toàn không thích đáng.” Thế nên tôi đã không thú nhận sự thực là sau khi tất cả các cậu thanh niên đã thay nhau làm chuyện đó, khi chúng tôi mặc quần áo và tiếp tục rong ruổi trên con đường A303 thì tôi cảm thấy vui hơn bao giờ hết. Tôi đã không kể với họ là lúc đó tôi nhìn thấy mọi vật rạng rỡ như thế nào với những vì sao sáng lấp lánh và những dải phân cách màu trắng cứ trôi dần dưới bánh xe. Bốn cậu thanh niên ngồi đằng sau không ngừng la hét để anh chàng lái xe tránh các ổ gà còn tôi ngồi ở phía trước lắng nghe và ngâm nga theo điệu nhạc phát ra từ chiếc băng casset cũ rích có tên là XTC với nhiều đoạn bị vấp và vỡ tiếng do chiếc loa trên xe đã bị hỏng.

Tôi cảm thấy lòng mình nhẹ bỗng như thể bên trong tôi có một thứ gì đó tối tăm và bí ẩn đã được các cậu thanh niên gột sạch.

Chúng tôi trở lại ngã tư đường nơi các cậu đón tôi lúc nãy và anh chàng lái xe táp xe vào vệ đường. Vẫn để xe nổ máy, anh ta vươn người qua người tôi và mở cửa. Tôi nhìn anh ta chằm chằm, không hiểu gì cả.

“Rồi,” anh ta nói, “hẹn gặp lại cô ở đâu đó.”

“Gì cơ?”

“Hẹn gặp lại.”

“Tôi phải ra khỏi xe bây giờ à?”

“Đúng vậy.”

Tôi im lặng một lúc nhìn nửa khuôn mặt của anh ta đang nghiêng về phía tôi. Anh ta có mấy cái mụn trứng cá nằm ngay phía trên cổ áo. “Thế tôi không đi với các anh đến quán rượu nữa à? Anh nói là chúng ta sẽ cùng tới đó mà. Tôi chưa bao giờ vào bên trong một quán rượu.”

Anh ta búng tàn thuốc lá rồi vứt điếu thuốc ra ngoài. Phía chân trời đằng sau vai trái của anh ta có một đường viền mảnh mai xanh biếc, những đám mây bay cuồn cuộn qua đó như thể chúng đang sôi lên. “Đừng ngốc thế,” anh ta nói, “cô chưa đủ tuổi vào quán rượu. Cô sẽ khiến chúng tôi bị tống cổ ra ngoài mất.”

Tôi quay lại nhìn về phía thùng xe. Bốn cái đầu đều quay đi, giả bộ ngó ra ngoài cửa sổ. Cậu bé tóc hung ngồi ở dưới cùng nhìn vào mắt tôi với vẻ vô cùng nghiêm nghị, như thể cậu ấy vừa bắt quả tang tôi ăn trộm. Tôi lại quay sang nhìn anh chàng lái xe, nhưng anh ta đang cố tình nhìn ra ngoài cửa sổ, sốt ruột gõ gõ ngón tay lên tay lái. Tôi mở miệng định nói điều gì đó nhưng lại thay đổi ý định. Tôi đu chân ra khỏi xe và tụt xuống đường.

Anh chàng lái xe nhoài người ra đóng cửa lại. Tôi đặt tay lên cửa sổ, chuẩn bị lên tiếng thì anh ta nhả phanh. Anh ta sang số, đồng hồ tốc độ bắt đầu chạy, chiếc xe từ từ lao đi. Tôi bị bỏ lại một mình trên đường nhìn theo ánh đèn xe xa dần rồi mất hút. Trên đầu tôi, những đám mây vẫn cuồn cuộn trôi cho đến khi che khuất mặt trăng và cái chấm nhỏ bé của nước Anh nơi tôi đang đứng hoàn toàn chìm trong bóng tối.

Rồi tôi cũng buộc phải đồng ý với các bác sĩ rằng những hậu quả tức thì của chuyện đó không hề giống như tôi mong đợi. Và với tình trạng thể xác hiện nay của tôi thì tôi e rằng mình sẽ chẳng bao giờ có những lần khác nữa để mà so sánh. Tôi không dám thổ lộ chuyện đó với các bác sĩ. Tôi không dám nói với họ là tôi mong muốn có một người bạn trai, mong muốn được lên giường với một người nào đó tới mức nào: Tôi biết nếu mình nói bất kỳ điều gì thì họ cũng sẽ cho rằng những ham muốn mãnh liệt của tôi chính là gốc rễ của sự xấu xa, rằng một con sói đang sống bên trong con người tôi. Tôi lắng nghe những bài giảng về phẩm giá con người, về lòng tự trọng, về những thứ phức tạp như lương tâm, sự tự chủ và mau chóng đi đến kết luận rằng tình dục là một cái gì đó nguy hiểm và không lường trước được, giống như con sếu quá khứ ma quái của Sử Trùng Minh, về quả cầu phốt-pho dưới bầu trời vần vũ mây. Tôi đi đến kết luận là tốt hơn hết tôi chỉ cần giả vờ như nó không tồn tại.

Cuối cùng lại chính là cô gái ở giường bên, người đã dạy tôi hút thuốc, lại là người mang đến cho tôi một giải pháp. Cô ấy thường thủ dâm hàng đêm. “Nhảy điệu jig đi,” cô ấy gọi nó như thế. “Tớ sẽ chết già ở trong này. Đừng để ý. Chừng nào tớ còn thuốc lá và còn nhảy jig được thì tớ vẫn ổn.” Cô ấy làm chuyện đó trong chăn khi đèn đã tắt. Cô ấy không hề ngượng ngùng. Tôi nằm ở giường bên, chăn kéo lên tận cằm, mở to mắt mà nhìn chằm chằm vào chiếc chăn nhô lên hạ xuống. Cô ấy làm chuyện đó một cách khoái trá như không có gì sai trái.

Ngay sau khi xuất viện, khi không bị theo dõi, cứ năm phút một lần, tôi bắt đầu tự mình làm chuyện tội lỗi đó. Tôi nhanh chóng biết cách làm cho mình đạt khoái cảm và mặc dầu tôi chưa bao giờ làm chuyện đó trước gương (cô gái nhảy điệu jig đảm bảo với tôi rằng có những người làm như vậy), tôi chắc rằng không cô gái nào trên đời này lại có thể biết rõ chỗ đó của mình hơn tôi. Đôi khi tôi nghĩ về con sói. Tôi sợ rằng một ngày nào đó khi sờ vào chỗ đó, những ngón tay của tôi sẽ chạm phải cái mũi ươn ướt của nó.

Giờ đây, trong buồng tắm ở Takadanobaba, tôi vắt chiếc khăn tắm lên rồi chăm chú nhìn vào hình phản chiếu của mình, một bóng ma khẳng khiu đang ngồi trên chiếc ghế cao su nhỏ xíu. Có lẽ cô gái đó sẽ đi xuống mồ mà cả đời chỉ biết đến năm chàng trai ở phía sau một chiếc xe Ford Transit, những người được coi như tình yêu của đời cô. Tôi múc đầy nước vào cái gáo nhựa nhỏ, hòa nước nóng vào nước lạnh rồi dội lên người, để dòng nước chảy tràn trên hõm cổ rồi nhỏ xuống những vết sẹo trên bụng. Tôi đặt gáo nước xuống và chậm rãi, mơ màng, đặt hai tay lên bụng, chụm hai ngón trỏ vào nhau và xòe những ngón tay khác ra tạo thành một cái khung nhỏ, đờ đẫn nhìn dòng nước đọng lại thành những giọt nhỏ, lấp lánh như thủy ngân.

Không có ai, ngoại trừ các bác sĩ và một nhân viên do cảnh sát cử đến để chụp ảnh, từng nhìn thấy những vết sẹo của tôi. Trong những mơ mộng hão huyền của mình, tôi vẫn thường tưởng tượng ra có một người nào đó sẽ hiểu, một người nào đó sẽ nhìn chúng và không giật mình lùi lại, một người nào đó sẽ lắng nghe câu chuyện về chúng và thay vì lấy tay che mặt kinh hãi hay nhìn vội đi chỗ khác thì người đó sẽ nói với tôi những lời sẻ chia ngọt ngào. Nhưng dĩ nhiên, tôi biết điều đó sẽ không bao giờ xảy ra bởi ngay chính bản thân tôi cũng chưa bao giờ làm được như thế. Chưa bao giờ. Chỉ hình dung ra việc cởi quần áo, chỉ hình dung ra việc thú nhận sự thực với ai đó thì tôi cũng đã cảm thấy chóng mặt, mọi cảm xúc dồn vào trong tai khiến đầu gối tôi mềm nhũn, và buộc tôi phải điên cuồng túm lấy bất cứ thứ gì có thể buộc chặt quanh bụng mình, cứ như là tôi có thể che đậy những gì đang nằm ở đó.

Tôi cho rằng có những điều mà ta cần phải lớn lên cùng với nó. Đôi khi ta phải hít một hơi thật sâu và nói: “Đây không phải là thứ tôi mong đợi xảy ra với mình.” Và nếu như ta cứ tiếp tục nói như vậy ở một tần số nhất định thì sau một thời gian, ta thậm chí sẽ không còn cảm thấy điều đó có gì ghê gớm nữa.

Khi tôi ở trong bồn tắm, nghĩ về Fuyuki thì hai chị em người Nga đã mặc xong quần áo và giờ thì họ đang trên đường xuống vườn. Chắc họ đã nhìn thấy tôi ở dưới đó nên cũng muốn thử mạo hiểm xem sao. Svetlana chỉ mặc độc có một bộ bikini nhỏ xíu màu xanh lá cây và lấy tay giữ một chiếc mũ nan đội trên đầu. Khi đã lau khô người và mặc quần áo, tôi đứng trên hành lang tầng thượng nhìn cô ấy băng qua đám cây bụi, đôi chân rám nắng lấp ló sau đám lá cây. Irina đi sau, mặc một chiếc áo bikini và một chiếc váy ngắn màu hồng, đeo kính râm và đội mũ bóng chày màu hồng tươi, lưỡi trai quay ra phía sau để che gáy. Cô giắt một bao thuốc lá vào giữa khe ngực. Cả hai vừa đi vừa tranh cãi, thỉnh thoảng lại rú lên, chân đi giày cao gót giống như hai con cò chân dài đi kiếm ăn gặp trời nắng. “Mặt trời, mặt trời!” Cả hai đồng thanh kêu lên, chỉnh đôi kính râm và ngửa mặt nhìn trời.

Tôi lặng lẽ gí mũi vào cửa kính nhìn họ bôi kem chống nắng, bóc gói kẹo cao su anh đào KissMint và uống bia lạnh mua từ chiếc máy bán hàng trên phố. Móng chân của Svetlana sơn đỏ như màu xe cứu hỏa. Tôi nhìn bàn chân trắng của mình và tự hỏi liệu mình có cam đảm sơn móng hay không. Đột nhiên, lòng tôi tràn ngập một cảm giác nóng bỏng, mãnh liệt, khiến tôi run lên và xoa xoa tay - một cảm giác gì đó về sự lãng phí thời gian và rằng hai cô gái kia mới may mắn làm sao khi làn da của họ có được cảm giác dễ chịu đến thế. Được cựa quậy, nằm duỗi ra phơi nắng một cách tự nhiên dưới ánh mặt trời, mà không một ai bảo họ điên.

Ngay lúc đó, tôi đã quyết định dứt khoát. Chừng nào tôi còn mặc quần áo và bụng tôi không bị hở ra thì chừng đó sẽ không có gì, không một dấu hiệu nào trên cơ thể, có thể tố cáo chuyện đó. Nếu bạn không biết, và không ai ở Tokyo này biết, bạn sẽ nhìn tôi và cho rằng tôi là một người bình thường. Tôi cũng có thể trở nên khêu gợi như bất cứ ai.


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder   Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder Icon_minitimeSun Feb 03, 2019 9:05 pm


Chương 20

Tôi không thể nào ngừng nghĩ tới Fuyuki. Mỗi khi cầu thang máy đổ chuông và các nữ tiếp viên xúm lại đồng thanh: “Irasshaimase! Chào mừng quý khách!” thì tôi lại nhoài người ra khỏi ghế, mạch đập liên hồi, tưởng rằng mình sẽ nhìn thấy chiếc xe lăn của ông ta xuất hiện. Nhưng đêm đó ông ta không tới, cả đêm hôm sau cũng thế.

Những ngày sau đó, tôi thường lấy tấm danh thiếp của ông ta ra ngắm nghía. Đôi lúc, tôi cầm nó như bị thôi miên, liên tục xoay xoay nó trong tay mình. Tên của ông ta có nghĩa là Cây Mùa đông, và trong sự kết hợp giữa bản chất của những chữ này với nghệ thuật thư pháp, có một điều gì đó mạnh mẽ đến mức tôi chỉ cần nhìn vào màu đen trên nền trắng này là đã có thể tưởng tượng ra, một cách rõ ràng đến kinh ngạc, hình ảnh một khu rừng ngập trong tuyết. Tôi cũng thảo lại chữ kanji này bằng bút lông của mình, hình dung ra một sườn núi, một rừng thông phủ đầy hoa tuyết và nhũ băng.

Giờ đây, khi biết được điều gì sẽ khiến Sử Trùng Minh phải nhượng bộ và cho tôi xem bộ phim, khi biết được tôi sắp thực hiện một bước đột phá, thì tôi trở thành một học trò nghiêm túc của nghệ thuật khiêu dâm. Tôi bắt đầu quan sát các cô gái Nhật đứng đường với những chiếc áo khoác xinh xắn kiểu Victoria, váy len ngắn, tất dài và giày búp bê buộc dây. Theo truyền thống Nhật Bản, sự kích dục là cái gì đó mảnh mai, nhợt nhạt như cuống hoa, sự gợi tình là khoảng da trần nhỏ xíu trên gáy nàng geisha. Là cái gì đó khác biệt hoàn toàn với quan điểm của cả thế giới còn lại. Hàng giờ liền, tôi nhìn chằm chằm vào hai cô gái Nga với những đôi giày cao gót to xù và nước da rám nắng màu cam.

Tôi có cả một đống bao đựng tiền lương dự phòng, chỉ tống vào một chiếc túi rồi nhét trong tủ sẽ chẳng có công dụng gì khác ngoài việc làm tôi lo lắng. Mãi gần đây tôi mới có đủ cam đảm nghĩ đến chuyện mua sắm. Tôi tới những khu thương mại sầm uất ở Ginza và Omotesando, với những gian hàng chất đầy những đôi giày đính xêquin, những chiếc áo khoác màu hồng mỏng tang, mũ nhung hồng đính lông chim màu đỏ tía. Cả những đôi bốt đế thấp màu hồng sẫm, và những chiếc túi xách màu lam có đính hình của Elvis Presley. Các cô gái bán hàng ở đây không biết phải làm gì với tôi. Họ vừa cắn móng tay vừa ngoẹo đầu nhìn tôi ngơ ngác chạy ngang chạy dọc, nhìn ngắm xem người khác làm thế nào để trở nên khêu gợi.

Tôi bắt đầu mua sắm - tôi mua một chiếc váy bằng vải nhung và taffeta, một chiếc đầm bằng lụa đáp vai. Và giày, cơ man nào là giày, giày ba phân, giày gót nhọn, giày khiêu vũ, và săng đan buộc dây màu đen. Tại một nơi có tên là Trung tâm Giải trí và Thương mại Những Cô gái Ngọt ngào, tôi mua được một hộp tất liền quần. Trước đây, tôi chưa bao giờ mặc quần tất. Tôi vác về nhà một đống đồ, nặng trĩu như một con kiến tha mồi.

Nhưng, tất nhiên, tôi không có can đảm mặc bất cứ thứ gì trong số đó. Những chiếc váy gói trong giấy màu đỏ, tất cả đều được xếp ngăn nắp trong tủ, từ ngày này sang ngày khác. Tuy nhiên, tôi vẫn nghĩ về chúng, tôi nghĩ rất nhiều về chúng. Có những đêm, tôi tiến hành những nghi lễ nho nhỏ chỉ mình tôi biết. Khi mọi người đã ngủ say, tôi mở tủ và lôi ra tất cả những thứ mình đã mua. Tôi rót một ly rượu mận mát lạnh rồi kéo chiếc bàn trang điểm ra dưới ánh đèn để chiếc gương được sáng rõ hơn. Rồi tôi mở tủ và lấy ra một chiếc váy.

Vừa rùng mình vừa phấn khích. Mỗi lần nhìn mình trong gương, máy móc đưa tay lên chiếc khóa kéo và chuẩn bị cởi váy ra tôi lại nghĩ tới cảnh Fuyuki ngồi trên xe lăn hỏi tôi: “Có phải ở Anh, ai cũng xinh đẹp như thế không?” Rồi tôi dừng lại, hít một hơi thật sâu trước khi chậm rãi kéo khóa xuống và buộc mình quay lại nhìn, quan sát khoảng ngực trên trắng muốt và đôi chân thì sẫm như màu mực sau lớp lụa mềm. Tôi đi giày cao gót và tô môi màu đỏ, đỏ như máu đào. Tôi kẻ lông mày rồi tập châm thuốc và hút thuốc. Tôi cố tưởng tượng ra cảnh mình yên vị trong nhà Fuyuki, ngả người về phía ông ta, nhả khói thuốc từ đôi môi tô son của mình. Trong hình dung của mình, một tay tôi đang đặt trên chiếc rương khóa kín, còn tay kia duyên dáng chìa ra, ngửa lòng bàn tay, đỡ lấy chiếc chìa khóa to tướng mà Fuyuki trao cho.

Một lúc lâu sau, tôi mở mắt ra, đến bên tủ quần áo và lôi hết đồ ra khỏi giấy gói và xếp chúng thành một vòng tròn xung quanh mình. Những đôi săng đan buộc dây nhung, những chiếc áo mỏng màu vàng sẫm và màu kem, một chiếc áo lót hiệu Ravage đỏ thẫm, hình con bướm vẫn nằm trong chiếc túi nhựa trong. Hết món đồ này đến món đồ khác được trải ra trong bóng tối. Tôi nằm xuống, duỗi đôi tay trần, lăn vào trong đám đồ của mình, hít thở mùi quần áo mới và để chúng cọ vào da. Đôi khi tôi xếp chúng theo các tiêu chí khác nhau, theo chất liệu như vải bông đen với vải len màu đào, hay theo màu sắc, vàng nghệ với màu đồng, màu bạc với màu trắng xám, màu tím nhạt với màu hồng và màu xám. Tôi áp chúng vào mặt và hít hà cái mùi sang trọng của chúng. Và chuyện này khiến tôi có phần hưng phấn đến mức có vẻ như nghi thức này luôn luôn dẫn đến một kết cục: bàn tay tôi lần vào trong quần lót của mình.

Ngôi nhà ở Takadanobaba này rất lớn nhưng âm thanh trong nhà lại như nước tràn theo các thanh gỗ và những tấm màn che bằng giấy mỏng. Tôi phải giữ im lặng. Tôi nghĩ mình đã rất thận trọng cho đến một đêm khuya, khi tôi vừa xong, kéo cửa đi ra nhà tắm thì bắt gặp Jason đang đứng cách đó vài bước, trong hành lang tràn ngập ánh trăng, vươn người ra ngoài cửa sổ, tay kẹp một điếu thuốc.

Khi nghe tiếng kẹt cửa anh ta liền quay ra nhìn tôi. Anh ta không nói gì cả. Anh ta lơ đễnh nhìn xuống bàn chân trần, rồi chiếc yukata ngắn và phần ngực nhô lên của tôi. Anh ta nhả khói thành một vòng tròn rồi mỉm cười, một bên mày nhướng lên như thể bắt gặp một sự ngạc nhiên dễ chịu.

“Xin chào,” anh ta nói.

Tôi không trả lời. Tôi kéo sập cửa lại rồi khóa vào và ngồi dựa lưng vào đó. Ăn mặc khêu gợi - đó là một chuyện. Nhưng điều đáng sợ hơn rất nhiều là Jason, đúng thế, Jason cứ luôn khiến tôi nghĩ tới chuyện tình dục.



Chương 21

史 Nam Kinh, đêm 13 tháng Mười hai năm 1937

Chúng đang ở đây! Chúng đang ở đây. Đó là sự thực.

Tôi ra khỏi nhà vào buổi trưa, đường phố có vẻ yên ắng. Tôi không nhìn thấy một bóng người, chỉ thấy những ngôi nhà đóng kín cửa và những cửa hiệu niêm phong bằng ván gỗ, vài nơi có dán địa chỉ sơ tán phỏng chừng của gia chủ. Tôi rẽ phải sang đường Trung Ương, đi quá đường ray xe lửa thì rẽ vào một hẻm nhỏ thông ra đường Trung Sơn. Ở đây tôi nhìn thấy ba người đàn ông đang cắm đầu cắm cổ chạy hết tốc lực về phía mình. Họ ăn vận như nông dân và tất cả đều lem luốc như vừa chui ra từ một vụ nổ. Một cột khói xám ngùn ngụt bốc lên từ khu vực cổng thành Thủy Tây (Giang?). Ba người đàn ông tiếp tục chạy về hướng tôi vừa đến, không nói không rằng, tiếng giày rơm loẹt xoẹt trên hè phố. Tôi đứng trên phố, nhìn theo họ và dỏng tai nghe ngóng xung quanh. Lúc này khi đứng yên, tôi có thể nghe thấy văng vẳng tiếng còi xe ôtô xen lẫn tiếng người kêu khóc. Tim tôi chùng xuống. Tôi tiếp tục đi về phía Nam, dự trù khả năng xấu nhất có thể xảy ra, tôi sẽ trườn qua các con phố, bám sát những ngôi nhà, sẵn sàng đâm bổ vào bên trong bất kỳ lúc nào, hay phủ phục xuống và kêu lên, “Dongyang Xiansheng! Giáo sư Đông phương học!”

Ở trên phố, gần trại tị nạn vẫn có vài cửa hiệu dũng cảm mở cửa, nhưng chủ tiệm đứng bên ngoài lo lắng nhìn về cổng thành phía Đông.

Tôi chạy len lỏi giữa các tòa nhà, qua các đường phố quen thuộc, tim đập dồn dập. Tôi nghe thấy tiếng rì rầm của đám đông ở phía trước và khi rẽ vào một phố nhỏ dẫn ra đường Trung Sơn thì tôi thấy một đoàn người đang lũ lượt kéo nhau về cổng thành Ấp Giang, cánh cổng “nước” vĩ đại mở ra ngoại thành và dẫn ra sông Dương Tử - trên khuôn mặt ai cũng lộ rõ vẻ kiên quyết. Tất cả bọn họ đều kéo theo các xe thồ chất đầy đồ đạc. Một vài người liếc nhìn tôi tò mò không hiểu tại sao lại có người không lo bỏ trốn, còn những người khác thì không thèm để ý, đầu cúi gằm, dồn hết sức đẩy xe. Những đứa trẻ cuộn mình trong chiếc áo bông tránh rét, đeo găng tay len, ngồi trên nóc xe im lặng nhìn tôi. Một con chó hoang chạy lăng quăng tìm thức ăn.

“Chúng vào thành rồi à?” Tôi hỏi một người phụ nữ vừa tách ra khỏi đám đông và chạy về phía tôi đang đứng. Tôi bước đến trước mặt chặn bà ta lại và đặt hai tay lên vai bà. “Bọn Nhật đã vượt qua cổng thành chưa?”

“Chạy đi!” Mặt bà ta dại đi, lớp than bôi mặt ướt nhòe nước mắt. “Chạy đi.”

Bà ta vùng ra chạy tiếp, vừa chạy vừa la hét gì đó. Tôi nhìn bà ta biến mất khỏi tầm mắt, trong khi đó, sau lưng tôi, tiếng la hét của đám đông trở nên to dần, tiếng chân chạy uỳnh uỵch vang khắp các con hẻm xung quanh. Rồi dần dần, tiếng bước chân không còn nữa, đám đông co lại. Cuối cùng, tôi rón rén tiến lên phía trước, ngó về phía con phố trung tâm. Bên tay phải tôi, nằm về hướng Tây, tôi nhìn thấy cái đuôi của đoàn người đang di chuyển về phía sông, mấy người hành khất, già cả và ốm yếu, đang vội vã bám gót. Con đường bên trái vắng tanh, lòng đường ngập ngụa bùn sau khi bị giẫm đạp bởi đám đông hàng trăm người.

Tôi thận trọng bước ra, tim gần như bắn ra ngoài, quay người đi về hướng ngược lại. Tôi lặng lẽ bước. Bên ngoài đống đổ nát của khu cung điện nhà Minh, nơi tôi đứng tán gẫu với ông bạn giáo sư ngày hôm qua, có vài chiếc xe tăng của chính phủ Dân Quốc đang ậm ì di chuyển, xới tung đám bụi đường, những người lính trên xe la hét và vẫy tay ra hiệu cho tôi rời chỗ này. Rồi thành phố lại dần trở nên yên lặng, chỉ còn mình tôi dạo bước trên con đường Trung Sơn không một bóng người.

Cuối cùng, tôi dừng lại. Xung quanh tôi, mọi vật như hóa đá. Ngay cả chim chóc dường như cũng im lặng trên cành. Phóng tầm mắt theo hai hàng cây thẳng tắp dài hun hút, con đường hoàn toàn trống vắng và tĩnh lặng, cách chỗ tôi đứng khoảng năm trăm mét, mái vòm tam nguyệt của cổng Trung Sơn lấp lánh dưới ánh mặt trời mùa đông. Tôi đứng giữa đường, hít một hơi thật sâu rồi chậm rãi xòe tay ra giơ lên trời. Tim tôi đập mạnh tới mức tôi nghe rõ cả những tiếng thình thịch vang lên trong đầu.

Phải chăng mặt đất dưới chân tôi đang rung chuyển như trong một cơn động đất? Khi tôi đưa mắt nhìn xuống chân thì từ phía cổng thành vang lên một tiếng nổ long trời lở đất khiến hàng cây sung dâu bên vệ đường co rạp lại như trong cơn gió lớn và chim chóc sợ hãi bay dáo dác lên không. Lửa phụt lên trời, bụi khói cuồn cuộn phía bên trên cổng thành. Tôi khuỵu xuống, hai tay ôm đầu khi một tiếng nổ nữa rạch ngang bầu trời. Rồi một âm thanh như tiếng mưa rơi xa xăm càng lúc càng rõ dần, cho tới khi thành tiếng ầm ầm, bầu trời đột nhiên tối sầm lại, bụi cát, vôi vữa từ đâu bay tới tấp lên đầu tôi. Từ phía chân trời hiện ra hơn mười chiếc xe tăng, lừ lừ tiến vào đường Trung Sơn với những lá cờ hi no mare bay phấp phới.

Tôi chồm dậy chạy về nhà, tiếng hơi thở và tiếng bước chân tôi chìm trong tiếng xe tăng chuyển động rầm rầm và tiếng còi chói tai phía sau lưng. Tôi chạy mải miết, mạch đập dồn dập, hai lá phổi như muốn nổ tung, lao vào đường Trung Sơn trước khi rẽ phải sang đường Trung Ương, cắm đầu chạy vào một con phố nhỏ rồi vòng ra phía sau nhà ông Lưu, chui vào con hẻm nơi cuối cùng mưa bụi và đất cát đã yếu đi phần nào. Căn nhà hoàn toàn im ắng. Tôi gõ cửa cho tới khi Thu Kim xuất hiện nhìn tôi chằm chằm như đang nhìn một bóng ma.

“Chúng đến đây rồi,” cô ấy hỏi khi thấy vẻ mặt tôi, khi nhận ra tôi đã đứt hết hơi. “Đúng không?”

Tôi không trả lời. Tôi bước vào trong nhà, cẩn thận khóa trái cửa và kiểm tra lại tất cả các chốt cửa và ổ khóa. Rồi khi hơi thở đã điều hòa trở lại, tôi đi lên gác, ngồi xuống chiếc giường đơn trong thư phòng, giữa đống sách tiếng Nhật ngổn ngang, kéo chăn trùm lên chân.

Và, vậy là - tôi có thể viết gì đây? Chỉ viết về những gì vừa mới xảy ra. Một cách thành thật. Vào buổi chiều khô lạnh này, một buổi chiều lẽ ra rất đẹp trời, họ đã chiếm được Nam Kinh dễ như trẻ con thò tay bắt chuồn chuồn. Tôi sợ phải nhìn ra ngoài cửa sổ - cờ Nhật chắc hẳn đang tung bay khắp thành phố.

史 Nam Kinh, buổi sáng ngày 14 tháng Mười hai năm 1937 (ngày mười hai tháng Mười một âm lịch)

Đêm trước tuyết rơi, nhưng sáng nay, bên ngoài cổng thành, núi Tử Kim, ngọn Tử Kim hùng vĩ, không có màu trắng mà đỏ rực trong lửa. Lửa bọc lấy mọi vật trong màu máu, hắt lên trời một vầng hào quang đáng sợ. Thu Kim đứng rất lâu bên cửa sổ nhìn về hướng đó, hơi lạnh từ ngoài ùa vào khiến ngôi nhà gần như đóng băng, và tôi có thể nhìn thấy hơi thở của mình đang phả ra.

“Thấy chưa?” Cô ấy nói và quay lại nhìn tôi. Tóc cô ấy buông xõa sau lưng, ánh mắt chiến thắng sáng lên những tia màu đỏ. “Tử Kim đang bốc cháy, có đúng như em đã nói không?”

“Thu Kim,” tôi nói. “Tránh xa cái cửa sổ ra. Nó không an toàn đâu.”

Cô ấy nghe theo, nhưng vẫn lần lữa. Cô ấy đóng cửa sổ vào rồi ngồi im trong một góc, khư khư ôm trong lòng hai chiếc bài vị tổ tiên mà cô ấy mang theo từ Phồn Dương, má đỏ ửng vì lạnh.

Gần như cả sáng nay tôi ngồi cạnh bàn với ấm trà cứ nguội dần, các chốt cửa đều đã đóng. Đêm hôm qua chúng tôi ngủ rất ít, cả hai vợ chồng đi ngủ mà vẫn mặc nguyên quần áo và không cởi giày phòng trường hợp phải chạy trốn. Thỉnh thoảng, tôi hoặc Thu Kim lại chồm dậy nhìn ra phía cửa sổ cài then kín mít, nhưng không ai nói gì nhiều. Lúc này, mặc dù giữa ban ngày nhưng trong nhà chúng tôi vẫn tối tăm, cửa giả đều đóng im ỉm. Cứ nửa tiếng chúng tôi lại bật đài lên. Các bản tin không đồng nhất, một mớ hổ lốn không thể tưởng tượng được trộn lẫn thông tin sai lệch với thông tin tuyên truyền. Ai mà biết được đâu mới là sự thật? Chúng tôi chỉ có thể phỏng đoán chuyện gì đang diễn ra. Thỉnh thoảng tôi nghe tiếng xe tăng lăn ầm ầm trên đường Trung Sơn và tiếng súng nổ lẹt đẹt nhưng mọi thứ đều như đang xảy ra ở nơi xa xôi nào đó, phần lớn thời gian thành phố chìm trong yên lặng đến mức có những khi tâm trí tôi để ở đâu đâu, và trong một giây phút ngắn ngủi, tôi quên mất là chúng tôi đang ở trong cảnh bị chiếm đóng.

Vào khoảng bảy giờ tối chúng tôi nghe thấy tiếng gì đó như một vụ tấn công bằng súng cối, và trong một thoáng, ánh mắt chúng tôi chạm vào nhau. Rồi những tiếng nổ từ xa vẳng lại, một chuỗi bất ngờ một - hai - ba - bốn, rồi sự im lặng được lập lại. Mười phút sau trong con hẻm vang lên những tiếng ồn ào ma quái. Tôi ra phía cửa hậu ghé mắt qua tấm lá chắn và nhìn thấy một con dê sổng chuồng đang hốt hoảng chạy lung tung trong khu đất phía sau nhà, nhảy dựng lên húc vào cây cối và những ngôi nhà mái tôn. Chân nó giẫm lên đống quả lựu rụng khiến màu lựu đỏ loang trên tuyết giống như màu máu. Không ai đuổi theo để bắt con dê, có lẽ chủ nó đã đi sơ tán, và phải mất gần hai mươi phút, nó mới tìm được đường ra phố lớn và căn hẻm lại trở về với sự tĩnh lặng vốn có.


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder   Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder Icon_minitimeSun Feb 03, 2019 9:05 pm


Chương 22

Kể từ đêm hôm đó, Jason bắt đầu quan sát tôi. Anh ta bắt đầu có thói quen nhìn tôi chòng chọc, khi chúng tôi từ hộp đêm trở về nhà, khi tôi nấu nướng hay khi cả nhà ngồi xem tivi trong phòng khách. Thỉnh thoảng khi quay ra châm thuốc cho khách thì tôi lại phát hiện anh ta đứng cách đó có vài bước, và nhìn tôi như thể anh ta đang vui thích một cách kín đáo trước tất cả những gì tôi làm. Tôi vừa cảm thấy sợ hãi vừa phấn khích. Chưa từng có ai nhìn tôi như thế và tôi không tưởng tượng nổi mình sẽ làm gì nếu anh ta lại gần. Tôi tìm cách tránh xa anh ta.

Thu đến. Cái nóng hầm hập như rang với mùi kim loại bị hun đốt và mùi cống rãnh của Tokyo đã phải nhường bước cho một Nhật Bản mát mẻ và ảm đạm hơn, một Nhật Bản hẳn đã chờ cơ hội lộ diện từ bấy lâu nay. Bầu trời quang đãng sau khi giũ bỏ được lớp sương mù mùa hè, những cây gỗ thích lá đỏ rụng đầy đường và đâu đó thoang thoảng mùi khói như mùi nấu nướng ở Tokyo thời hậu chiến. Đứng trong hành lang, tôi có thể thò tay ra hái những trái hồng chín đỏ ngoài vườn. Trong vườn, đàn muỗi đã kéo nhau đi hết. Sự ra đi của chúng khiến Svetlana thấy buồn - cô ấy nói rằng giờ đây, chúng đã bỏ lại chúng tôi trong sự suy tàn tột độ.

Fuyuki vẫn chưa tới câu lạc bộ. Sử Trùng Minh thì vẫn kín miệng và cố chấp khiến tôi đôi khi nghĩ rằng mình sẽ chẳng bao giờ có cơ hội được xem bộ phim đó. Một ngày khi tôi không thể chịu đựng hơn được nữa, tôi đi tàu tới Akasaka, tìm một trạm điện thoại công cộng và gọi điện cho Fuyuki. Mụ Y Tá, tôi chắc đó là mụ ta, trả lời điện thoại với một giọng đàn bà: “Moshi moshi.” Chỉ thế thôi cũng đủ làm tôi sợ đứng cả tim, ống nghe vẫn lủng lẳng bên tai, nhưng mọi can đảm đều tan biến. “Moshi moshi?” mụ ta nhắc lại nhưng tôi đã thay đổi ý định. Tôi dập máy và bỏ đi thật nhanh. Có lẽ Sử Trùng Minh đã đúng khi nói tôi không bao giờ có khả năng dệt lá dâu thành lụa.

Tôi tìm đến hiệu sách Kinokuniya ở Shinjuku và mua tất cả những ấn phẩm nói về các chế phẩm thuốc thay thế, từ điển Trung Nhật và một tuyển tập các bài viết về yakuza. Những ngày sau đó, trong khi chờ đợi Fuyuki tới hộp đêm thì tôi khóa mình lại trong phòng và đọc về y học cổ truyền Trung Hoa cho đến khi tôi biết khá nhiều về các phương pháp châm cứu của Biển Thước, về những thí nghiệm đầu tiên về giải phẫu và gây mê của Hoa Đà, cũng như các phương pháp luyện khí công của ông, như “ngũ cầm hỉ” bắt chước động tác của năm loại thú rừng như cọp, nai, khỉ, gấu và chim. Tôi cũng có thể nhớ bảng phân loại các lá thuốc theo sách của Thần Nông. Tôi còn đọc về cao hổ cốt, mật gấu và mai rùa. Tôi tìm đến một cửa hàng Nhật dược ở Kabuizawa và lấy về mấy mẫu thuốc thử miễn phí làm từ dầu lươn và mật gấu. Tôi cũng tìm đọc tất cả những gì liên quan đến sự tái sinh cũng như sự thoái hóa sức khỏe. Chìa khóa cho sự trường sinh. Công cuộc tìm kiếm sự trường sinh bất tử đã được khơi mào ngay từ thuở sơ khai của loài người dưới nhiều dạng khác nhau. Người ta nói rằng, ngay cả đậu phụ cũng được phát minh ra bởi một vị hoàng đế Trung Quốc trên con đường tìm kiếm đông dược trường sinh.

Nhưng Sử Trùng Minh có nhắc tới một cái gì đó mà chưa ai biết đến, một cái gì đó vô cùng bí mật.

Một hôm tôi dùng tất cả số màu còn lại vẽ một người đàn ông đứng giữa những tòa nhà đổ nát mà tôi vẽ trên tường lần trước. Ông ta có khuôn mặt của một nghệ sĩ nhạc kịch kabuki, nhưng lại mặc một chiếc áo sơ mi Hawaii và sau lưng ông ta là một chiếc ôtô của Mỹ, một kiểu ôtô mà các tay anh chị ưa chuộng. Rải rác dưới chân ông là các lọ thuốc, một thiết bị tinh chế và một nồi chưng cất thuốc. Một loại thuốc rất quý và bất hợp pháp, một loại thuốc mà không ai dám nhắc tới.

“Rất đẹp đúng không,” Sử Trùng Minh nói.

Tôi nhìn ra khuôn viên trường đại học phía bên ngoài cửa sổ phòng ông ta. Cây cối đã chuyển sang sắc vàng và đỏ, đám rêu mọc trên mái cung thể thao chuyển sang màu xanh tím giống như những trái mận chín và thỉnh thoảng ở phía cổng lại xuất hiện một bóng người mặc đồng phục và đeo mặt nạ của môn kiếm đạo kendo. Những tiếng la hét từ võ đường vang khắp nơi khiến đám quạ trên cây đập cánh xào xạc. Nó đã rất đẹp. Tôi không hiểu tại sao mình không thể tách rời nó ra khỏi bối cảnh chung của thành phố. Nó bị bao vây giữa một thành phố hiện đại của một nước Nhật khát khao quyền lực. Khi thấy tôi không rời mắt khỏi cửa sổ, Sử Trùng Minh phá lên cười.

“Vậy ra, cô cũng nằm trong số những người không thể tha thứ được.”

Tôi quay lại nhìn thẳng vào ông ta. “Tha thứ?”

“Tha thứ cho nước Nhật vì những gì họ đã làm ở Trung Quốc.”

Những lời của một giáo sư sử học người Mỹ gốc Trung mà tôi học tại trường đại học lại vang lên. “Người Nhật tàn bạo ngoài sức tưởng tượng. Họ đã nâng tội ác lên thành một môn nghệ thuật. Liệu một lời xin lỗi chính thức có đủ để chúng ta tha thứ cho họ?”

“Tại sao ông lại hỏi thế, ông đã tha thứ cho họ sao?”

Ông gật đầu.

“Làm sao ông có thể tha thứ được?”

Sử Trùng Minh nhắm mắt lại, một nụ cười nở trên gương mặt. Ông im lặng một lúc lâu đến mức nếu không nhìn thấy ông vặn vẹo hai bàn tay thì tôi đã cho rằng ông ngủ gật. “Làm sao à?” Cuối cùng ông lên tiếng. “Nghe giống như một việc bất khả thi. Nhưng tôi đã mất rất nhiều, rất nhiều năm nghĩ về chuyện đó. Một thời gian dài tôi không thể ra khỏi đất nước mình, không thể ra khỏi nhà mình. Cho đến khi bị ném đá trên đường phố, bị diễu đi khắp thị trấn với những tấm biển tuyên truyền trên lưng.” Nói đến đây ông xòe bàn tay ra và đặt nó lên ngực. Tôi nghĩ ngay đến những bức ảnh về cách mạng văn hóa với hàng trăm người đàn ông bị Hồng Vệ binh săn đuổi, dồn lại một chỗ, tròng quanh cổ các áp phích cổ động với các biểu ngữ như Thành phần phản cách mạng hay Trí thức tạo phản. “Cô sẽ không có được những phương tiện để hiểu được bản chất của con người cho đến khi trải qua tất cả những chuyện đó. Tôi mất một thời gian dài nhưng rồi cũng hiểu được một điều hết sức giản đơn. Tôi đã hiểu được sự thiếu hiểu biết. Tôi càng suy ngẫm về nó thì càng hiểu ra rằng hành vi của họ đơn giản chỉ là sự thiếu hiểu biết. Đúng là có những người lính ở Nam Kinh, một vài người, thực sự độc ác. Tôi không tranh cãi điều này. Nhưng còn những người khác? Tội lỗi lớn nhất của họ là sự thiếu hiểu biết. Chỉ đơn giản thế thôi.”

Sự thiếu hiểu biết. Đó là một thứ mà tôi nghĩ là tôi biết rất rõ. “Thế họ đã làm gì trong bộ phim mà ông đang giữ. Có phải đó là điều ông muốn nói? Cái đó có phải là sự thiếu hiểu biết?”

Sử Trùng Minh không trả lời. Mặt ông kín như bưng và ông giả vờ bận bịu với đống giấy tờ. Cứ mỗi khi nhắc tới bộ phim là ông lại trở nên lặng lẽ.

“Có phải ý ông nói thế không, giáo sư Sử?”

Ông đẩy đống giấy tờ sang một bên, dọn dẹp bàn, sẵn sàng làm việc. “Lại đây nào,” ông nói và ra hiệu cho tôi lại gần. “Lúc này hãy tạm không nói về chuyện đó. Tới đây và ngồi xuống kể cho tôi nghe cô đến đây làm gì?”

“Tôi muốn biết ông định nói gì, có phải ông muốn nói những gì họ làm đối với...”

“Xin cô! Xin cô, cô không định đến đây hôm nay để chơi không đấy chứ. Cô đến đây với mục đích nào đó - tôi có thể nhìn thấy nó trên mặt cô. Ngồi xuống đi.”

Tôi miễn cưỡng bước tới chiếc bàn. Tôi ngồi xuống trước mặt ông, hai tay để trong lòng.

“Sao?” Ông hỏi. “Có chuyện gì?”

“Tôi có đọc về y học Trung Hoa,” tôi thở dài nói.

“Tốt.”

“Có một huyền thoại. Một câu chuyện về một vị thần, một người nông dân thần thánh đã phân loại cây cỏ, xếp chúng theo những trật tự khác nhau. Tôi nói đúng chứ?”

“Theo mùi vị, nhiệt độ và chất lượng. Đúng vậy. Cô đang nói về Thần Nông.”

“Như vậy có phải việc tôi nên làm là xác định phương thuốc của Fuyuki có tuân theo quy luật này hay không? Tôi có phải coi đó là một khả năng cần xem xét hay không?”

Sử Trùng Minh nhìn tôi chăm chú.

Tôi hỏi: “Tôi vừa nói cái gì không đúng sao?”

Ông thở dài và ngồi xoay lưng lại, tay đặt lên bàn, gõ gõ các ngón tay lên mặt bàn. “Đã đến lúc tôi phải kể cho cô nghe nhiều hơn về tôi.”

“Gì ạ?”

“Tôi không muốn cô lãng phí thời gian. Cô nên biết là tôi đã có những nghi ngờ rất có cơ sở về những gì chúng ta đang tìm kiếm.”

“Vậy thì ông không cần tôi...”

“Có, tôi cần cô.”

“Tại sao?”

“Bởi vì tôi không muốn nghe thấy những điều tôi muốn nghe. Tôi không muốn một con vẹt trơ tráo đến xun xoe bảo tôi rằng, ‘Đúng vậy, thưa ngài, đúng vậy, thưa ngài, ngài luôn đúng, ngài quả là thông thái.’ Không, tôi muốn sự thật.” Ông lôi ra một cặp tài liệu cũ mèm từ đống sách vở trên bàn. “Tôi đã nghiên cứu chúng lâu tới mức không thể cho phép mình phạm sai lầm. Tôi sẽ nói cho cô biết tất cả những gì cô cần biết. Nhưng tôi sẽ không nói cho cô một cách chính xác là tôi đang nghi ngờ cái gì.”

Ông lôi từ trong cặp hồ sơ ra một tập giấy úa vàng buộc bằng dây đen bẩn thỉu.

“Tôi mất rất nhiều thời gian để tìm ra Fuyuki, tới mức chẳng muốn tính nữa. Tôi phát hiện ra rất nhiều điều về ông ta. Đây này.” Ông đẩy tập giấy sang chỗ tôi. Tôi nhìn vào đống giấy vừa được mở tung, nghễu nghện trên bàn chỉ chực rơi xuống đất. Đó là những tài liệu bằng tiếng Nhật và tiếng Trung, thư từ, các bản copy báo chí và có vẻ như cả một bản ghi chép được viết trên giấy viết thư của một văn phòng chính phủ. Tôi nhận ra chữ Bộ Quốc phòng được viết bằng kiểu chữ kanji.

“Cái gì đây?”

“Kết quả của bao năm làm việc. Phần lớn chúng được hoàn tất trước khi tôi được phép sang Nhật. Thư từ, các bài báo và - có lẽ là hành động mạo hiểm nhất của tôi - các báo cáo có được từ các nhân viên điều tra đặc biệt. Tôi không hy vọng cô hiểu chúng nhưng cô cần phải biết Fuyuki nguy hiểm tới mức nào.”

“Ông đã nói chuyện này với tôi rồi.”

Ông mỉm cười đăm chiêu. “Đúng, tôi có thể hiểu được sự hoài nghi của cô. Ông ta giống như một lão già. Thậm chí có khi còn tử tế nữa. Rộng lượng?”

“Ông không thể nhận xét về một người nếu chưa nói chuyện với họ.”

“Thú vị, có đúng không? Thật thú vị khi cái tay trùm cho vay nặng lãi sarakin quyền lực nhất Tokyo, một trong những tay sản xuất và nhập khẩu bất hợp pháp ma túy tổng hợp lớn nhất nước ấy lại trông có vẻ vô hại làm sao. Tuy nhiên chớ có lú lẫn.” Sử Trùng Minh cúi người về phía trước, nhìn tôi đầy ngụ ý. “Hắn ta cực kỳ nhẫn tâm. Cô không thể tưởng tượng được bao nhiêu người đã chết vì quyết tâm của hắn nhằm thiết lập một mạng lưới buôn bán chất ma túy tổng hợp từ Nhật tới các cảng biển nghèo của Hàn Quốc. Độc đáo nhất là cách hắn ta chọn tay chân của mình. Hắn ta có một kỹ năng độc nhất vô nhị - tất cả đều nằm trong đống tài liệu này, nếu cô biết cách đọc chúng. Một bậc thầy về dân vận! Hắn ta tìm kiếm thông tin trên báo chí về các vụ bắt bớ, cẩn thận lựa ra những bị can nhất định rồi lo chi phí bào chữa tại tòa án. Nếu bị can thoát tội, hắn sẽ thề suốt đời trung thành với Fuyuki...”

“Thế ông có biết gì về...” Tôi cúi người lại gần ông, hạ thấp giọng theo bản năng, “... về mụ Y Tá của ông ta không?”

Sử Trùng Minh nghiêm nghị gật đầu. “Có, tôi có biết mụ Y Tá kiêm vệ sĩ của ông ta. Ogawa. Người ta hoàn toàn có cơ sở để mà sợ mụ.” Ông cũng hạ thấp giọng như tôi, làm như chúng tôi có thể bị nghe lén vậy. “Cô phải biết rằng Fuyuki rất thích những kẻ tàn bạo. Những kẻ không phân biệt xấu hay tốt. Và hắn chọn mụ Y Tá vì những tội ác trứ danh của mụ ta, vì mụ ta hoàn toàn không có khả năng mủi lòng trước nạn nhân.” Ông chỉ vào đống tài liệu. “Nếu cô có thời gian xem qua đống tài liệu này cô sẽ thấy báo chí gọi mụ ta là Quái vật Saitama. Xét về các phương pháp, mụ ta là một huyền thoại sống ở Nhật, đối tượng của một loạt các tin đồn rùng rợn.”

“Phương pháp của mụ ta?”

Ông gật đầu, và bóp nhẹ mũi, dường như đang cố gắng chặn một cái hắt hơi hay một ký ức nào đó. “Về bản chất,” ông vừa nói vừa thả tay xuống và thở hắt ra, “bạo lực là một phần không thể thiếu trong cuộc sống của yakuza. Nhưng có lẽ không có gì đáng ngạc nhiên ở đây, nếu xem xét tới khía cạnh bệnh lý, cộng thêm chứng rối loạn giới tính của mụ ta thì chẳng có gì là lạ khi mụ ta có vẻ thích thú với việc...” Nói tới đây mắt ông chợt lướt rất nhanh qua một điểm ở phía trên đầu tôi trước khi tiếp tục: “với việc tô điểm cho các tội ác của mình.”

“Tô điểm?”

Ông không trả lời. Thay vào đó, ông cắn môi rồi hỏi tôi, “Tôi chưa bao giờ gặp mụ ta nhưng theo tôi biết thì mụ ta rất cao đúng không?”

“Một vài người trong hộp đêm nghĩ mụ ta là đàn ông.”

“Ấy thế mà mụ ta lại là phụ nữ. Một người phụ nữ với một… - tôi không biết từ này trong tiếng Anh nói thế nào - có lẽ là một sự rối loạn về xương cốt. Nhưng thế là đủ rồi. Không nên lãng phí buổi sáng của chúng ta.” Ông nhìn tôi chăm chú. “Tôi cần phải biết. Cô có chắc là cô muốn tiếp tục không?”

Tôi cựa vai, chợt cảm thấy lạnh sống lưng. Cuối cùng tôi xoa tay, lên tiếng: “Thôi được, có, tôi thực sự muốn tiếp tục. Ông thấy đấy, đây là điều quan trọng nhất của đời tôi. Tôi đã theo đuổi nó suốt chín năm, tám tháng, hai mươi chín ngày và chưa một lần nghĩ tới chuyện bỏ cuộc. Đôi khi tôi nghĩ nó làm phiền mọi người.” Tôi suy nghĩ một lúc rồi ngẩng đầu lên nhìn ông. “Đúng vậy, nó quả có làm phiền mọi người.”

Ông phá ra cười và thu nhặt đống tài liệu lại. Khi đang cất chúng vào cặp thì ông chợt chú ý tới một bức ảnh nằm khuất ở dưới cùng. “A,” ông thốt lên, rút tấm ảnh ra. “Đúng rồi, không biết cô có muốn xem cái này hay không?” Ông đẩy nó về phía tôi, những ngón tay nâu dài che mất nửa tấm hình. Tôi nhìn thấy những chữ kanji ở góc trên phía bên phải, dấu tem của Sở Cảnh sát, còn phía dưới tay ông là một bức hình đen trắng. Tôi nghĩ có lẽ mình đã nhìn thấy một sợi dây chăng ở hiện trường phạm tội và một chiếc ôtô đang mở cốp. Trong cốp xe có cái gì đó mà tôi không thể nhận ra, cho đến khi Sử Trùng Minh nhấc tay của ông lên và tôi đã hiểu.

“Ôi!” Tôi thì thào, lấy hai tay che miệng theo bản năng. Dường như tất cả máu trong đầu tôi đều bị hút kiệt trong giây lát. Bức ảnh chụp một cánh tay - một cánh tay người vắt ra ngoài cốp xe, đeo một chiếc đồng hồ đắt tiền. Tôi từng thấy ở thư viện trường đại học có nhiều bức ảnh tương tự chụp các nạn nhân của giới xã hội đen, nhưng chính thứ nằm dưới ống bô của chiếc ôtô đã khiến tôi không thể rời mắt. Được sắp đặt gần như theo một nghi thức trang trọng, cuộn lại trên mặt đất như một con trăn, là một đống... “Chúng có phải là...” tôi thì thào, “chúng có phải đúng là cái mà tôi nghĩ không? Là của con người đúng không? Là của anh ta?”

“Đúng vậy.”

“Đây là những gì mà ông gọi là... tô điểm?”

“Đúng, đây là một trong những hiện trường tội ác của Ogawa.” Ông bình tĩnh đặt tay lên bức ảnh và thu nó lại. “Một trong những tội ác được cho là của Quái vật Saitama. Người ta đồn rằng, lần đầu tiên nhìn vào xác chết, cảnh sát cũng không phát hiện ra ngay là nội tạng của anh ta đã bị móc sạch. Chính nó đã khiến tôi choáng váng, thực sự choáng váng, cái mức độ siêu phàm của tội ác mà con người, hay người phụ nữ, có thể đạt tới.” Ông cất bức ảnh đi và cột tập tài liệu bằng sợi dây màu đen cũ mèm. “À, nhân tiện,” ông nói, “nếu tôi là cô, tôi sẽ không phí thời gian tìm hiểu sự phân loại của Thần Nông.”

“Xin lỗi, tôi không hiểu?” Tôi ngước nhìn ông ngơ ngác.

“Tôi nói là cô đừng có mất thời gian nghiên cứu sự phân loại của Thần Nông. Cái cô đang tìm kiếm không phải là một loại cây.”


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder   Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder Icon_minitimeSun Feb 03, 2019 9:06 pm


Chương 23

Tôi không tài nào ngủ được. Bức ảnh trong tập tài liệu của Sử Trùng Minh ám ảnh tôi, làm tôi trằn trọc suốt đêm, khiến tôi tự hỏi tôi sẽ sẵn sàng tiến xa tới đâu để thỏa mãn ông. Và nếu không phải “việc tô điểm tội ác” của mụ Y Tá thì lại đến lượt những ý nghĩ về Jason quấy rầy tôi, khiến cả người tôi có cảm giác như bị điện giật, không tài nào ngủ yên được. Thỉnh thoảng, vào những lúc anh ta tình cờ xuất hiện ở những nơi tôi ít chờ đợi nhất, như trong hành lang bên ngoài phòng tôi hay ở quầy bar khi tôi đến lấy cốc sạch, lặng lẽ quan sát tôi bằng đôi mắt điềm tĩnh của anh ta, tôi lại tự nhủ rằng anh ta đang tìm cách khiêu khích tôi, đang dàn dựng một điệu vũ đôi để tiêu khiển, nhảy múa xung quanh tôi trong bóng tối của ngôi nhà, hàng đêm lướt trong hành lang như một anh hề đeo mặt nạ. Nhưng cũng có những lúc, nhất là khi anh ta nhìn tôi khi chúng tôi đi bộ từ câu lạc bộ về nhà, thì tôi có cảm giác là anh ta đang cố gắng nhìn thấu tôi, cố gắng nhìn thấy những thứ đằng sau quần áo của tôi. Bụng tôi lại quặn lên một cảm giác khó tả, tôi phải siết chặt đai lưng, dựng cổ áo khoác lên, khoanh tay và rảo bước nhanh hơn, để anh ta rớt lại phía sau và chỉ có tập trung nghĩ đến những lời châm chọc của hai chị em sinh đôi.

Căn nhà dường như ngày càng trở nên hiu quạnh. Một sáng nọ, vài hôm sau khi tôi đến gặp Sử Trùng Minh, tôi thức dậy khá sớm và nằm trên giường lắng nghe sự yên tĩnh của ngôi nhà, cảm nhận một cách sâu sắc các căn phòng đang uể oải vươn mình xung quanh tôi, những tấm gỗ trên sàn cọt kẹt, những góc nhà không ai lau dọn, đầy ắp những bí ẩn và có lẽ cả những cái chết bất ngờ. Những căn phòng khóa kín chưa một ai dám bước vào. Những người khác vẫn đang ngủ và đột nhiên tôi cảm thấy không thể chịu đựng sự im lặng này thêm được nữa. Tôi trở dậy dùng bữa sáng với cà phê đặc và món vịt hầm lê kiểu Trung Quốc, thay một chiếc đầm bằng vải lanh rồi thu gom đống giấy tờ và những quyển sách bằng chữ kanji của mình, và mang tất cả xuống vườn.

Trời hôm nay ấm áp và yên tĩnh hơn thường lệ - gần như tiết trời mùa hè. Một trong những buổi sáng mùa thu trong vắt, trong vắt đến độ chỉ sợ thả tay ra là mọi thứ sẽ bị cuốn lên trời và biến mất mãi mãi. Tôi chưa bao giờ tưởng tượng ra bầu trời Nhật Bản lại xanh trong đến thế. Những chiếc ghế xếp vẫn nằm tại nơi hai chị em người Nga đã ngồi tán chuyện hồi mùa hè, xung quanh rải rác những đầu mẩu thuốc lá. Tôi đặt sách vở xuống một chiếc ghế rồi quay sang nhìn xung quanh. Bên cạnh ao sen là dấu vết còn lại của một đường mòn cũ - những phiến đá lát trang trí xếp dọc lối đi, chạy ngoằn ngoèo dưới các bụi cây dẫn về phía dãy phòng bị khóa kín. Tôi bước dọc theo con đường, hai tay dang ra như đi trên cầu thăng bằng. Con đường dẫn tôi đi quanh hồ, đi qua chiếc đèn đá và chiếc ghế đá bước tới khu vực mà Sử Trùng Minh có vẻ ấn tượng sâu sắc. Tôi đến bên rìa bụi cây và dừng lại, nhìn xuống dưới chân.

Con đường xuyên qua đám cây cối, nhưng tôi dừng lại trên một phiến đá lát đường, nằm ngay giữa nó là một hòn đá màu trắng to bằng nắm tay, được buộc lại bằng những sợi rơm đã mục. Trong vườn của người Nhật mọi thứ đều được mã hóa và có những quy tắc riêng, một hòn đá đặt trên một phiến đá lót đường là dấu hiệu rõ ràng cho khách khứa: Không được tiến thêm. Đây là khu vực cấm. Tôi đứng nhìn chăm chăm vào đó một lúc, tò mò không biết khu vực này có gì bí mật. Mặt trời đã khuất sau một đám mây, và tôi xoa tay, bất chợt cảm thấy lạnh. Chuyện gì sẽ xảy ra khi bạn phá vỡ luật lệ ở một nơi không phải là nhà bạn? Tôi hít một hơi thật sâu rồi bước qua viên đá đó.

Tôi dừng lại, chờ xem chuyện gì sẽ xảy ra. Một con chim nhỏ bay vụt lên cành cây, ngoài ra, cả khu vườn vẫn tĩnh lặng. Chú chim đậu trên cành, dường như đang quan sát tôi, và tôi cũng nhìn lại. Rồi, nhận ra cái nhìn chằm chằm của nó, tôi quay người và tiếp tục đi xuyên qua đám rễ và bóng cây, tiến về phía những căn phòng bị khóa kín cho đến khi tôi nhận ra mình đang đứng cạnh một bức tường nơi tôi có thể nhìn xuyên suốt chiều dài của ngôi nhà đến những ô cửa sổ bị niêm phong, cây leo chằng chịt. Tôi bước qua một cành cây gẫy và lại gần một tấm lưới bảo vệ, gí mũi vào đó. Tôi có thể ngửi thấy mùi bụi và mùi ẩm mốc trong các căn phòng bị khóa kín. Mọi người nói rằng khu tầng trệt này bị ngập nước và rất nguy hiểm. Jason có nói là khoảng mấy tháng trước, anh ta đã từng tới đây. Chỉ toàn là rác rưởi và những thứ mà anh ta không muốn lại gần. Hệ thống ống nước bị phá hủy trong các trận động đất nên một số phòng đã biến thành hồ nước ngầm.

Tôi quay trở lại phía bên kia khu vườn và nghĩ tới những lời của Sử Trùng Minh: Tương lai của nó đang chờ được khám phá. Tương lai của nó đang chờ được khám phá. Tôi có một cảm giác vô cùng kỳ quái. Cảm giác rằng tương lai của khu vườn này đã quy tụ tại khu vực tôi đang đứng, khu vực xung quanh chiếc đèn đá.



Chương 24

史 Nam Kinh, ngày 14 tháng Mười hai năm 1937

Sự thật được truyền đi từ đài phát thanh. Không phải tin tốt. Hôm qua, sau vụ nổ ở cổng thành Trung Sơn, quân đội Thiên hoàng Nhật Bản tràn vào thành phố qua hai lỗ hổng trên tường thành. Tôi đã may mắn chạy trốn đúng lúc. Suốt buổi chiều, họ tiến vào thành cùng với xe tăng, súng bắn đạn trái phá và súng phun lửa. Đến đêm thì họ đã chiếm giữ được tất cả các tòa nhà chính phủ ở Nam Kinh.

Khi nghe tin này, cả tôi và Thu Kim đều im lặng một lúc lâu. Cuối cùng tôi đứng dậy tắt đài và đặt tay lên vai cô ấy.

“Đừng lo. Mọi chuyện sẽ nhanh chóng kết thúc trước khi con...” Tôi lưỡng lự, cúi nhìn mái tóc đen dày và đường ngôi mảnh mai màu trắng trên đầu cô ấy. “Mọi chuyện sẽ kết thúc trước khi mặt trăng nhỏ của chúng ta chào đời. Chúng ta có đủ thức ăn và nước cho hơn nửa tháng và bên cạnh đó...” tôi lấy hơi, cố gắng để giọng nói có vẻ tự tin và bình tĩnh, “người Nhật là những người văn minh. Chẳng bao lâu chúng ta sẽ lại có thể an toàn ra phố.”

“Tương lai của chúng ta chính là quá khứ của chúng ta và quá khứ của chúng ta là tương lai của chúng ta,” cô ấy thì thầm. “Chúng ta biết rõ cái gì sẽ xảy ra...”

Chúng tôi biết rõ cái gì sẽ xảy ra ư?

Có thể cô ấy đúng. Có thể chân lý đã có ở bên trong chúng ta từ khi chào đời. Có thể trong nhiều năm, chúng ta cứ bơi xa dần khỏi những thứ mà chúng ta đã biết rõ và chỉ có tuổi già và cái chết mới cho phép chúng ta quay trở lại, trở lại với những gì thuần khiết, những gì không thay đổi bởi quy luật sinh tồn. Nếu cô ấy đúng thì sao? Nếu đúng là mọi chuyện đều đã được định sẵn, số phận của chúng ta, tình yêu của chúng ta và con cái của chúng ta nữa? Nếu đúng là tất cả đã ở bên trong chúng ta ngay từ ngày đầu tiên? Nếu đúng vậy thì tôi cũng đã biết cái gì sẽ xảy ra ở Nam Kinh. Tôi chỉ cần chạm vào câu trả lời...

史 Nam Kinh, nửa đêm ngày 15 tháng Mười hai năm 1937 (ngày mười ba tháng Mười một âm lịch)

Ha! Nhìn hai chúng tôi lúc này xem. Chỉ một ngày ngắn ngủi mà tất cả sự tự tin của tôi đã tan như bong bóng xà phòng. Thu Kim, thầy chiêm tinh của tôi đã không nhìn thấy trước được điều này. Thức ăn đã biến mất. Khoảng một giờ sáng nay chúng tôi nghe thấy tiếng động ở phía sân trước. Khi tôi lò dò ra cửa xem thì thấy hai cậu bé quần áo rách rưới đang kéo các tải kê và tảng thịt khô qua tường.

Chúng ném một sợi dây thừng qua tường và đang trèo lên. Tôi hét lên và chạy xuống dưới nhà, tóm lấy một thanh sắt và gầm lên giận dữ, nhưng đến khi tôi mở được chốt cửa và lao ra ngoài phố thì chúng đã biến mất tăm.

“Chuyện gì vậy?” Thu Kim xuất hiện trên ngưỡng cửa với chiếc váy ngủ dài, tóc xõa xuống vai và tay cầm một ngọn đèn dầu. “Trùng Minh, có chuyện gì thế?”

“Suỵt, đưa cho tôi cái áo khoác rồi đi vào trong và khóa cửa lại. Đừng mở ra cho đến khi tôi quay lại.”

Tôi luồn lách giữa những ngôi nhà bỏ hoang và những khu đất trống trước khi tới khu phố nhà ông Lưu. Trong căn hẻm ông đang sống, gia đình ông là gia đình duy nhất trụ lại, và khi rẽ vào đó thì tôi nhìn thấy cả ba người nhà ông đang quanh quẩn dưới ánh trăng. Vợ ông Lưu đang khóc còn cậu con trai thì đứng ở đầu hẻm nhìn trân trân ra ngoài phố, người run lên vì tức giận. Cậu ta đang cầm một chiếc càng xe bằng gỗ như thể sẵn sàng tấn công ai đó. Tôi biết ngay là họ cũng vừa lâm vào cảnh ngộ như mình.

Họ mời tôi vào nhà. Ông Lưu và tôi châm một ống tẩu và ngồi bên cạnh lò than đang cháy để giữ ấm, cánh cửa ra ngõ lúc này để mở vì cậu con trai vẫn khăng khăng đòi ngồi canh cách đó vài bước trong một tư thế hết sức thoải mái, đầu gối gần chạm vai như thể cậu vừa mọc ra hai cái cánh. Cái càng xe nằm dưới chân cậu trong tư thế sẵn sàng nghênh chiến. Mắt cậu căng ra, giận dữ như mắt cọp, quan sát đường phố.

“Chúng ta nên rời thành phố từ lâu mới phải.” Bà Lưu nói một cách cay đắng rồi bỏ đi chỗ khác. “Ở đây chúng ta sẽ chết hết mất thôi.”

Tôi nhìn bà ấy bỏ đi và một lúc sau thì nghe thấy tiếng khóc thổn thức ở phòng trong. Tôi nhìn ông Lưu một cách ngượng ngùng nhưng ông vẫn ngồi, không hề có biểu hiện gì, chỉ nhìn ra cửa về phía đằng xa, lên phía trên các mái nhà, nơi một cột khói xám đang bốc lên trời và che khuất các vì sao.

“Ông nghĩ gì?” Cuối cùng ông nói mà vẫn không quay sang nhìn tôi. “Chúng tôi chỉ có đủ thức ăn cho hai ngày, sau đó chúng tôi sẽ chết đói. Ông có cho là chúng ta nên ra ngoài xem sao không?”

Tôi lắc đầu. “Không nên,” tôi nói khẽ, nhìn ánh đỏ rực lên dưới đám khói đang cuồn cuộn. “Thành phố đã thất thủ. Chẳng bao lâu nữa chúng ta sẽ có thể an toàn ra khỏi nhà, có thể hai ngày hoặc sớm hơn. Họ sẽ sớm thông báo là chúng ta có thể an toàn ra ngoài.”

“Vậy chúng ta nên đợi tới lúc đó chăng?”

“Đúng, tôi nghĩ là chúng ta nên đợi. Sẽ không lâu đâu.”

史 Nam Kinh ngày 17 tháng Mười hai năm 1937

Đã hai ngày chúng tôi không ăn gì. Tôi lo lắng không hiểu Thu Kim có thể chịu đựng như thế trong bao lâu. Các bản tin trên đài có nhắc đến những nỗ lực nhằm thiết lập một Ủy ban Tự quản của thành phố, thông báo chẳng bao lâu nữa chúng tôi có thể đi lại một cách tự do và hội Chữ Thập Đỏ sẽ phân phát gạo cứu đói trên đường Thượng Hải. Thế nhưng trên thực tế vẫn chưa có tuyên bố chính thức nào. Chúng tôi quét dồn chỗ gạo rơi vãi trong vụ trộm rồi nấu cùng với số dưa góp còn lại trong bếp mà Thu Kim đã tình cờ tích trữ, nhưng cũng chỉ đủ ăn trong hai bữa. Vợ ông Lưu lo lắng cho Thu Kim nên đã san sẻ cho chúng tôi một ít thức ăn mà họ còn. Nhưng bây giờ mọi thứ đều đã hết nhẵn. Thu Kim không than vãn nửa lời nhưng tôi rất lo lắng cho đứa bé trong bụng cô ấy. Thỉnh thoảng, khi đêm gần tàn, tôi chợt có những cảm giác kỳ lạ như có cái gì đó ở bên trong Thu Kim, cái gì đó không rõ ràng, giống như một linh hồn, đang vươn ra và tôi không thể không nghĩ đến mặt trăng nhỏ bé của chúng tôi đang muốn vươn ra ngoài trong cơn đói.

Tôi để những việc lặt vặt lại cho đến khi trời tối, bỏ chiếc nồi đất ra ngoài, và nhặt củi vào để đốt. Tôi giữ rịt chút dầu còn lại cho chiếc đèn dầu của mình. Trời lạnh buốt, thậm chí ban ngày chúng tôi cũng phải mặc áo khoác và quấn chăn. Tôi bắt đầu quên rằng thế giới này còn có những thứ đẹp đẽ như sách, niềm tin và sương khói trên sông Dương Tử. Sáng nay tôi tìm thấy sáu quả trứng luộc bọc trong một chiếc áo sườn xám nhét trong cái rương ở chân giường. Sáu quả trứng được nhuộm màu đỏ.

“Đây là cái gì vậy?” Tôi mang xuống dưới nhà hỏi Thu Kim.

Cô ấy không nhìn lên. “Đặt nó vào chỗ cũ đi.”

“Mình định làm gì với chúng?”

“Mình biết rồi còn hỏi.”

“Dành cho lễ chào đời của mặt trăng bé bỏng của chúng ta đúng không?”

Cô ấy không trả lời.

Tôi nhìn mấy quả trứng trong tay. Thật ngạc nhiên khi thấy con người ta có thể thay đổi đến nhường nào chỉ sau hai ngày không có thức ăn. Đầu tôi nhẹ bẫng khi nghĩ đến việc đập trứng ra ăn. Tôi vội vàng đặt chúng lên bàn trước mặt cô ấy, rồi đứng lùi lại một bước. “Ăn đi,” tôi nói và chỉ tay vào mấy quả trứng. “Nhanh lên. Ăn luôn bây giờ đi.”

Cô ấy ngồi nhìn chúng chằm chằm, chiếc áo khoác quấn chặt quanh người, vẻ mặt xa xăm, trống rỗng.

“Tôi nói ăn đi. Ăn ngay bây giờ.”

“Sẽ là điềm gở đối với linh hồn của mặt trăng của chúng ta.”

“Điềm gở? Đừng có nói với tôi về điềm gở. Thế mình tưởng tôi không hiểu thế nào là điềm gở hay sao?” Tôi bắt đầu nổi giận. “ĂN ĐI!”

Nhưng cô ấy vẫn ngồi trơ ra một cách bướng bỉnh, khuôn mặt kín như bưng, trong khi tôi đi đi lại lại trong phòng, cơn thịnh nộ chỉ chực bùng ra ngoài. Sao cô ấy có thể ngốc nghếch thế cơ chứ, mạo hiểm với sức khỏe của con chúng tôi. Cuối cùng, sau một hồi đấu trí căng thẳng, tôi quay lưng lại với mớ trứng, đóng sập cửa và bước lên thư phòng của mình, ngồi lại bên trong suốt từ lúc đó đến giờ mà không tập trung nổi vào bất cứ việc gì khác.

史 Nam Kinh, chiều ngày 17 tháng Mười hai năm 1937

Khi tôi đang viết những dòng cuối cùng này thì có chuyện gì đó đã xảy ra. Tôi phải dừng tay đặt bút xuống và ngẩng đầu lên nghe ngóng. Có mùi gì đó len lỏi vào trong nhà qua chiếc cửa sổ đóng kín mít. Một mùi vừa thơm vừa khó chịu. Mùi thịt nướng. Ai đó đang nấu nướng quanh đây. Cái mùi đó khiến tôi bật dậy, lại gần cửa sổ, run rẩy đứng đó, gí mũi vào tấm lá chắn, hít lấy hít để. Tôi tưởng tượng ra một gia đình, có khi ở ngay hẻm bên cạnh thôi, đang ngồi xung quanh bàn bầy đầy cơm dẻo, bánh ngô và thịt lợn ngon lành. Hay có thể đó chính là bọn trộm đang nấu những thứ cướp được của chúng tôi. Nếu đúng vậy thì hẳn chúng đã quên mất huyền thoại về con gà của những người ăn xin, quên mất điều mà mọi kẻ trộm ở Giang Tô cần phải biết đó là chỉ nấu những thứ cướp được ở dưới hầm, một cách lén lút chứ không nấu ở ngoài trời, giữa thanh thiên bạch nhật vì mùi thơm của thức ăn sẽ bay tới mũi tất cả mọi người.

Tôi phải ngăn mình nhổm dậy khỏi chiếc bàn do bị mùi thơm đó mê hoặc. Nó cứ sực lên và mới ngọt ngào làm sao. Nó khiến tôi thay đổi quyết định. Nếu người ta cảm thấy đủ an toàn khi nấu nướng một cách công khai, để mùi thức ăn bay đi khắp phố phường như vậy thì chỉ có nghĩa là hòa bình sắp tới rồi. Chắc hẳn bên ngoài không có gì nguy hiểm. Bây giờ tôi sẽ ra ngoài. Tôi sẽ đi kiếm thức ăn cho Thu Kim.


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder   Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder Icon_minitimeSun Feb 03, 2019 9:06 pm


Chương 25

Không phải một loại cây. Đó là những gì Sử Trùng Minh đã nói. Không phải là một loại cây.

Sáng hôm đó tôi đã nghĩ tới chuyện này, ngồi trên chiếc ghế xếp chúi mũi vào mấy quyển sách giáo khoa. Tôi đọc liên tục gần một tiếng đồng hồ thì có cái gì đó khiến tôi sao nhãng. Chỉ cách tôi mấy bước chân, một con ve đang lột xác trên mặt đất. Đầu tiên là hai sợi râu, sau đó đến cái mặt bé xíu như một con rồng sơ sinh. Tôi đặt quyển sách xuống và quan sát nó. Nó bò một quãng ngắn đến gần thanh gỗ mục, và sau một vài phút nghỉ ngơi, lại tiếp tục quá trình lột xác, hai cái cánh chui ra cùng một lúc, chậm rãi và đau đớn, chiếc vỏ cứng lúc này bắt đầu nứt vụn ra thành những mảnh óng ánh. Tôi có đọc đâu đó rằng cánh ve có thể dùng như một phương thuốc cổ truyền để chữa các bệnh về tai. Tôi lại nghĩ tới chất bột khô bám vào đáy ly của Fuyuki. Cái cô đang tìm kiếm không phải là một loài cây. Nếu nó không phải là một loài cây thì...?

Con ve lúc này đã hoàn toàn lột xác, bối rối dang đôi cánh trắng sơ sinh mỏng tang nhìn ngó xung quanh. Sao bây giờ nó mới lột xác nhỉ? Những con ve khác đã lột xác và bay đi từ nhiều tuần trước.

“Cô đang mơ mộng gì thế?”

Tôi giật nảy người. Jason vừa bước qua cái đường hầm bằng cây đậu tía và đang đứng cách tôi vài bước, tay cầm một tách cà phê. Anh ta vận quần jean và áo thun, mặt nhẵn nhụi và rám nắng. Anh ta nhìn chằm chằm vào cánh tay và đôi chân trần của tôi, vẻ mặt trông như thể chúng đang gợi cho anh ta nhớ tới điều gì.

Tôi vòng tay ôm lấy đầu gối theo bản năng và cúi xuống thấp hơn một chút, gần chạm vào đống sách tôi đang đọc. “Một con ve,” tôi nói. “Thấy không?”

Anh ta ngồi xổm xuống và nhìn, lấy tay che mắt. Cánh tay của anh ta có màu bơ cháy và chắc là anh ta vừa đi cắt tóc sáng nay nên tôi có thể nhìn thấy cái đầu tròn trịa và cái gáy quyến rũ của anh ta. Mái tóc húi cua cũng để lộ một ít tóc bò liếm ngay dưới tai anh ta.

“Tôi nghĩ là chúng đã chết hết cả rồi,” tôi nói. “Tôi đã nghĩ là trời quá lạnh.”

“Nhưng hôm nay trời nóng,” anh ta nói. “Tuy nhiên, cô biết đấy, trong cái vườn này, cái quái gì cũng bất bình thường. Hỏi Svetlana mà xem. Ở đây mọi thứ đều không tuân theo quy luật bình thường.”

Anh ta lại gần và ngồi xuống một chiếc ghế bên cạnh tôi, chân bắt chéo, tách cà phê để trên đùi. “Hai nàng baba yaga đến công viên Yoyogi để xem các anh chàng rockabilly rồi,” anh ta nói. “Chỉ còn hai chúng ta ở đây thôi.”

Tôi không trả lời. Tôi cắn môi và nhìn chăm chăm về phía cửa sổ hành lang.

“Ổn chứ?” Anh ta hỏi.

“Cái gì ổn?”

“Cô đang nghĩ gì vậy?”

“Tôi không nghĩ gì. Tôi đang nghĩ về… chẳng về cái gì cả.”

Anh ta nhướng mày.

“Chẳng nghĩ gì cả.” Tôi nhắc lại.

“Rồi, nghe thấy rồi.” Anh ta uống cạn ly cà phê, dốc ngược nó xuống để những giọt nước màu nâu nhỏ xuống nền đất khô ráo. Rồi anh ta nghiêng đầu sang bên cạnh bảo tôi: “Hãy nói cho tôi nghe cái gì đó.”

“Nói gì?”

“Nói cho tôi biết tại sao tôi lại cứ hay nhìn cô thế nhỉ?”

Tôi cụp mắt xuống, mân mê bìa sách, giả vờ như không nghe thấy anh ta nói gì.

“Tôi nói là tại sao tôi lại muốn nhìn cô? Tại sao tôi lại cứ hay nhìn cô và nghĩ rằng cô đang giấu giếm cái gì đó, cái gì đó mà tôi thực sự thấy hấp dẫn?”

Đột nhiên tôi cảm thấy lạnh dù trời đang nắng. Tôi chớp mắt nhìn anh ta. “Xin lỗi,” tôi cất lời, giọng nói vang lên nhỏ và xa vắng. “Anh nói gì cơ?”

“Cô đang che giấu cái gì đó,” anh ta nói và giơ tay lên lấy ống tay áo quệt trán. “Rất dễ thấy. Tôi chỉ cần nhìn cô và thấy ngay điều đó. Tôi không biết chính xác đó là gì nhưng giác quan thứ sáu mách bảo tôi rằng đó là một cái gì đó mà tôi sẽ rất thích thú. Cô thấy không, tôi là một...” Anh ta đưa hai ngón tay lên gõ nhẹ vào trán “... Tôi là một người nhìn xa trông rộng trong những vấn đề liên quan đến phụ nữ. Tôi có thể cảm nhận được điều đó từ trong không khí. Ôi, lạy Chúa, da của tôi.” Anh ta rùng mình và sờ dọc cánh tay. “Da tôi vừa mới đổi màu.”

“Anh sai rồi, tôi chẳng giấu giếm cái gì cả,” tôi khoanh tay trước bụng.

“Có đấy, cô có giấu.”

“Tôi không hề.”

Anh ta nhìn tôi vẻ khoái trá. Trong một thoáng, tôi đã nghĩ là anh ta sẽ phá ra cười. Nhưng anh ta lại thở dài. Anh ta đứng dậy vươn vai một cách uể oải rồi kéo lại áo, ánh mắt tôi lướt qua mảng bụng phẳng lì của anh ta. “Không,” anh ta nói, nheo mắt nhìn lên trời. “Không,” anh ta hạ tay xuống và quay người đi về hướng đường hầm bằng cây đậu tía. “Tất nhiên là không rồi.”



Chương 26

Tôi từng đọc câu chuyện về một cô bé người Nhật bị lạc trong một khu vườn vào mùa ve lột xác. Tất cả bọn chúng từ dưới đất chui lên cùng một lúc. Trong nháy mắt, chúng ở khắp mọi nơi, chiếm cứ không khí và cây cối, đông đến nỗi những cành cây nặng trĩu xuống. Mặt đất xung quanh cô bé nứt nẻ, hàng triệu con ve lột xác đập cánh bay lên cây, âm thanh càng lúc càng lớn, vang vọng khắp các bức tường đến đinh tai nhức óc. Hoảng sợ, cô bé chạy đi tìm chỗ ẩn náu, giẫm đạp một cách tuyệt vọng lên những con ve đang hối hả lột xác, làm tấm vỏ bọc của chúng vỡ vụn, khiến chúng kêu ré lên rồi lộn vòng trên mặt đất như những bánh xe, lăn tròn, lăn tròn, mờ mờ những đôi cánh màu đen và nâu. Rồi cuối cùng khi đã tìm được đường ra khỏi khu vườn, cô bé lao thẳng vào vòng tay của một chàng trai, anh ta bế cô trên tay và mang cô đến một nơi an toàn. Lúc ấy cô bé không hề biết rằng lũ ve chính là một điềm lành. Chàng trai đó chính là nửa thứ hai của cuộc đời cô. Một ngày nào đó, cô sẽ trở thành vợ của anh ta.

Tôi giật nảy người. Có cái gì đó vừa châm vào chân tôi. Tôi ngồi bật dậy, mắt nhắm mắt mở ngó nghiêng xung quanh. Khu vườn hoàn toàn thay đổi - tối đen. Mặt trời đã lặn. Tôi đã ngủ quên. Trong giấc mơ của tôi, Jason chính là chàng trai đã tới cứu cô bé và mang cô đi nơi khác. Áo anh ta để phanh cổ và trong khi ẵm cô bé đi, anh ta thì thầm vào tai cô những lời tán tỉnh trâng tráo khiến cô bé ngượng ngùng lấy tay che mặt. Có cái gì đó châm vào tay tôi khiến tôi giật mình ngã ra khỏi ghế, những quyển sách rơi tung tóe. Khắp nơi trên mặt đất xuất hiện những lỗ nhỏ và cát bụi bay tung lên như đạn bắn. Mưa. Chỉ là trời mưa nhưng tôi vẫn đang lạc trong câu chuyện của cô bé người Nhật với hàng triệu con ve từ dưới đất chui lên và nhảy lên đầu lên tóc cô bé. Những giọt mưa rơi trên cánh tay tôi bỏng rát như những giọt axit. Tôi vội vàng thu nhặt đống sách vở và băng qua khu vườn chạy vào đường hàm dưới cây đậu tía.

Tôi kéo cánh cửa liếp che khu vườn lại. Cầu thang lạnh lẽo, những chiếc lá mục nằm rải rác trên các bậc thang. Sau lưng tôi, mưa quất vào lớp giấy bồi trên cánh cửa và tôi hình dung ra khu vườn đang tối dần, những con bọ làm rung chuyển cây lá và túm tụm trên cành cây, giống như một cơn bão cát lớn cuộn trên mái nhà. Trong bóng tối âm u, tôi đá đôi dép đi và chạy vội lên cầu thang.

Jason đứng trong hành lang phía đầu cầu thang như đang đợi tôi. Anh ta ăn mặc chỉnh tề như sắp ra ngoài nhưng vẫn đi chân đất. Tôi dừng lại trước mặt anh ta và thả đống sách xuống sàn.

“Gì vậy?”

“Nó cứa vào người tôi,” tôi nói và vuốt dọc cánh tay, tưởng tượng ra những chiếc cánh côn trùng đang tuột ra khỏi da mình. “Tôi nghĩ là cây đậu tía cứa vào người tôi.”

Anh ta cúi xuống và ấn vào mắt cá chân của tôi. Tôi lùi lại và co chân lên theo bản năng. “Anh làm cái gì...”

“Tôi làm cái gì...” Anh ta đặt ngón tay lên môi và nhại lại, ngẩng đầu lên nhướn mày nhìn tôi. “Tôi cái gì cơ?”

Tôi đứng như trời trồng, hai chân hơi giạng ra, im lặng nhìn chằm chằm khi anh ta bình thản đưa tay lên vuốt dọc hai bắp chân của tôi như một tay lái ngựa đang kiểm tra hàng. Tay anh ta dừng lại lâu hơn một chút ở đầu gối, phía bên trong gấu váy, mắt lim dim như thể những ngón tay của anh ta là một cái ống nghe và anh ta đang căng tai lên để chẩn bệnh. Mồ hôi tôi túa ra vai, phía sau gáy. Rồi anh ta đứng thẳng dậy, nâng cánh tay tôi lên và dùng lòng bàn tay vuốt dọc chúng, ngón tay cái của anh ta day day nơi cổ tay. Tiếng mưa rơi vang vọng khắp căn nhà, lộp độp như mưa đá trên hành lang yếu ớt. Jason đặt tay phải lên vai tôi rồi vén tóc tôi lên, vòng ra phía sau cổ, xoắn lại thành một búi ở phía bên trái rồi luồn ngón tay vào đó. Tôi có thể cảm thấy mạch của mình đập thình thịch trên lòng bàn tay của anh ta.

“Xin anh...”

Anh ta nhếch mép cười, để lộ một chiếc răng mẻ. “Cô hoàn toàn lành lặn,” anh ta nói. “Không một vết xước.”

Tôi những muốn lấy tay che mắt lại vì có vài đốm sáng nhỏ chợt đập vào võng mạc. Tôi có thể nhìn thấy vết bò liếm bên gáy của anh ta và ở dưới đó là những mạch máu đang phập phồng.

“Cô biết bây giờ là mấy giờ không?” Anh ta nói.

“Không, mấy giờ rồi?”

“Đã đến giờ để chúng ta làm chuyện đó.” Anh ta nhẹ nhàng cầm tay tôi, ngón trỏ và ngón cái giữ lấy lòng bàn tay. “Đi nào, chúng ta sẽ tìm ra cô đang che đậy cái gì.”

Tôi khép chặt đầu gối, hai gót chân dính xuống sàn nhà. Da của tôi căng ra, mọi chân tơ kẽ tóc dựng đứng lên như muốn ngăn cản một cái tôi mơ hồ nào đó chực lao ra và ngã vào lòng Jason. Mồ hôi tôi lại toát ra như tắm.

“Này,” anh ta nói, mỉm cười một cách ranh mãnh. “Chớ có lo lắng, tôi sẽ tháo bỏ hết móng vuốt trước khi chúng ta bắt đầu.”

“Đi đi,” tôi rút tay tránh xa người anh ta, bước lùi lại, gần như run rẩy. “Làm ơn để tôi yên.”

Tôi vụng về nhặt đống sách trên sàn rồi chạy về phòng, đầu hơi cúi xuống, các quyển sách siết chặt trước bụng. Tôi đóng sập cửa rồi đứng dựa lưng vào đó một lúc rất lâu trong cảnh tranh tối tranh sáng, tim đập mạnh tới mức tôi không còn nghe thấy bất cứ tiếng động nào khác.

Vào khoảng sáu giờ chiều trời đã sẩm tối và ánh sáng từ tấm bảng quảng cáo Mickey Rourke chiếu xuyên qua tấm màn cửa vào trong phòng. Tôi có thể nhìn thấy bóng mình trong tấm gương viền vàng, ngồi run rẩy ở một chỗ, khói thuốc bay ngoằn ngoèo trước mặt. Tôi đã ngồi như thế gần năm tiếng đồng hồ, không làm gì khác ngoài việc hút hết điếu này tới điếu khác mà vẫn không xua đuổi được cái cảm giác ban nãy. Đó là một cảm giác khoan khoái, phởn phơ như bong bóng nổ khắp người. Mỗi khi cảm giác này nhạt đi thì chỉ cần nghĩ đến câu nói của Jason, “Chúng ta sẽ tìm ra cô đang che đậy cái gì”, là nó lại ùa về.

Cuối cùng tôi gạt mấy sợi tóc rơi xuống trán và dụi tắt điếu thuốc. Đã đến giờ đi làm. Tôi đứng dậy, người run bần bật, cởi quần áo rồi mở tủ lôi ra những túi đựng quần áo mới. Đôi khi trong đời có những thời điểm mà bạn chỉ còn cách là nín thở và nhảy đại.

Tôi tìm thấy một chiếc quần chẽn kiểu Pháp bằng nhiễu lấp lánh với một dải ruybăng lớn bằng vải thô rủ xuống thấp, ở giữa là một ô vải nhung với hàng trăm bông hoa kiểu trung cổ màu đỏ tía đan chéo nhau trước khi nở bung ra trên nền lụa như một bức tranh minh họa trong sách thánh ca. Tôi xỏ chân vào quần và kéo nó lên ngang rốn. Rồi tôi quay lại soi gương. Bụng tôi đã được che kín từ rốn đến gần nửa bắp đùi. Không ai nhìn thấy gì.

Ở phía cuối nhà hai chị em người Nga đang chành chọe nhau như thường lệ mỗi khi chuẩn bị phải đi làm. Những tiếng la hét giận dữ mơ hồ vọng lại dọc hành lang, nhưng tôi không thể nghe được gì. Tôi thò một ngón tay vào trong đũng quần và kéo đám dây lụa sang một bên. Bạn có thể thâm nhập vào chỗ này mà không làm xê dịch phía trên cạp quần. Bạn sẽ hoàn toàn không biết được có khiếm khuyết gì ở phía trên đó. Có lẽ cuộc sống sẽ thay đổi suy nghĩ của tôi. Có lẽ tôi đã sai, có lẽ tôi có thể làm chúng thay đổi.

Tôi thay quần áo như trong cơn mộng du, mặc một chiếc đầm thon thả bằng nhung đen. Tôi ngồi trên ghế đẩu, hai bàn chân hơi giạng ra và cúi đầu xuống giữa hai đầu gối như hai chị em người Nga vẫn làm rồi xịt nước vào tóc nên khi tôi ngồi thẳng dậy, mái tóc trĩu xuống, bóng mượt và đen tuyền, tương phản với làn da trắng của tôi. Chiếc váy nhung ôm khít lấy các đường cong trên cơ thể, chạm vào da thịt khiến tôi chỉ muốn cởi phắt ra và ném nó đi.

Bên ngoài, hai chị em sinh đôi vẫn không ngừng cãi vã, tiếng la hét giận dữ vang khắp hành lang. Tôi cẩn thận tô môi, kẹp chặt chiếc túi da nhỏ, đi giày gót nhọn rồi rời khỏi phòng, bước dọc theo hành lang, đầu ngẩng cao, vai ưỡn ra sau, nhưng hai chân vẫn không được tự tin cho lắm với đôi giày cao gót.

Trong bếp có ánh đèn. Jason đang đứng quay lưng ra phía cửa, vừa hát toáng lên để át tiếng cãi cọ của hai chị em sinh đôi vừa ngó nghiêng vào các tủ bếp và tủ lạnh để pha một ly martini trước khi đi làm. “Dumb-ass Ruskie,” anh ta đang hát. “Dumb-ass, katsap, glimmer girls.” Anh ta ngừng hát khi nghe tiếng bước chân của tôi ngang qua.

Tôi vẫn bước tiếp. Đi được một đoạn thì tôi nghe thấy tiếng anh ta gọi giật lại từ phía sau. “Grey.”

Tôi dừng lại, nhắm mắt, hai tay nắm chặt. Tôi chờ cho đến khi hơi thở của mình trở lại bình thường mới quay lại. Anh ta đang đứng trong hành lang nhìn tôi chằm chằm như thể anh ta nhìn thấy ma.

“Gì thế?” Tôi nói.

Anh ta nhìn vào bộ mặt trang điểm, mái tóc và đôi giày đen mũi nhọn của tôi.

“Gì thế?” Tôi nhắc lại, biết rằng mặt mình đang đỏ bừng lên.

“Nó là đồ mới,” cuối cùng anh ta lên tiếng. “Cái váy ấy. Đúng không?”

Tôi không trả lời, mắt nhìn lên trần nhà, đầu ong ong.

“Tôi biết mà, tôi vẫn biết là dưới cái vẻ bên ngoài ấy, cô là một người hết sức khêu gợi,” anh ta nói, giọng đầy vẻ tự mãn.


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder   Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder Icon_minitimeSun Feb 03, 2019 9:07 pm


Chương 27

Jason rất hiếm khi trò chuyện với chúng tôi nhưng đêm hôm đó, trên đường đi tới hộp đêm anh ta nói không ngừng. “Cô mặc chiếc váy này là vì tôi có đúng không?” Anh ta bước đi cạnh tôi, vừa lải nhải vừa hút thuốc, tay mân mê chiếc quai túi bằng da đeo chéo qua ngực. “Đó là vì tôi đúng không? Thôi nào, thừa nhận đi.”

Hai chị em sinh đôi cho rằng đây là chuyện vui nhộn nhất từ trước tới nay còn tôi thì không biết phải đối đáp với anh ta thế nào nữa. Tôi chắc mặt tôi đang đỏ rần và chiếc quần lót kiểu Pháp như ngọ nguậy dưới lớp váy như thể muốn phụ họa với Jason: Đúng đấy, đúng là cô ta mặc chúng tôi vì anh.

Rồi anh ta cũng chịu bỏ cuộc và cứ thế im lặng suốt đoạn đường còn lại, trên khuôn mặt lộ rõ vẻ đăm chiêu và khoái trá. Khi tất cả bốn chúng tôi chui vào chiếc thang máy pha lê, anh ta đứng quay lưng lại phía chúng tôi, hai tay đút túi, mắt nhìn ra quang cảnh thành phố bên ngoài, thỉnh thoảng lại kiễng chân lên rồi hạ xuống. Tôi nhìn chằm chằm vào gáy anh ta và tự hỏi: Có đúng là anh muốn thế không? Anh không hề trêu chọc tôi. Xin đừng để chuyện này là một trò đùa. Như thế thì quá lắm...

Hộp đêm hôm đó rất đông khách. Công ty Hitachi đặt bốn bàn tiệc và Mama đang trong tâm trạng vui vẻ. Trong chiếc váy nhung, tôi trở nên nổi bật, rực rỡ như một chiếc đèn lồng geisha trong một ngõ hẻm Kyoto. Sự khêu gợi, sự quyến rũ và những lời tâng bốc mới kỳ diệu làm sao. Chỉ khi nhóm người của Fuyuki xuất hiện tôi mới nhận ra rằng suốt cả buổi tối tôi không hề nghĩ tới Sử Trùng Minh. Khi nhìn thấy họ bước vào, tôi lập tức ngồi thẳng lưng và làm ra vẻ hết sức hoạt bát.

Bàn đã sẵn sàng. Strawberry tíu tít phân công đám phục vụ bàn tỏa đi khắp hộp đêm để bỏ khăn lau tay vào phòng vệ sinh nam, thay hoa trong giỏ và chắc chắn rằng các chai rượu Scotch của Fuyuki đã được lau bóng loáng. Tôi cùng sáu nữ tiếp viên khác được cử sang phục vụ họ. Đám người này vừa mới chơi bài tại sòng bạc Gamagori ở Aichi và đang trong tâm trạng vui vẻ. Mụ Y Tá lưỡng lự, không vào trong cái góc quen thuộc mà bắt chéo chân ngồi đợi trên chiếc tràng kỉ ngoài tiền sảnh. Mỗi lần những cánh cửa nhôm mở ra, tôi lại nhìn thấy thấp thoáng hai bàn chân của mụ với đôi giày gót nhọn, và lần nào tôi cũng quên bẵng mất mình đang nói gì, đầu óc chỉ nghĩ đến tấm ảnh hiện trường tội ác của mụ. Con quái vật Saitama. Tôi nhớ vẻ mặt biến dạng của Sử Trùng Minh khi ông nói đến từ tô điểm. Bạn phải khỏe tới mức nào để có thể giết chết một người đàn ông? Bạn phải hiểu biết về giải phẫu học đến mức nào để có thể móc tất cả nội tạng của một người ra mà không để lại một dấu vết gì ở bên ngoài? Hay là Sử Trùng Minh đã bịa ra chuyện đó để dọa tôi?

Hôm đó Fuyuki nói rất nhiều. Ông ta vừa thắng lớn tại sòng bạc và đêm nay sẽ tổ chức một bữa tiệc tại căn hộ của mình. Khắp bàn nhanh chóng truyền đi tin tức ông ta dừng lại ở hộp đêm để chọn một số tiếp viên cho bữa tiệc. Đúng như Sử Trùng Minh dự đoán. Nhà ông ta có lẽ là nơi ông ta cất giấu bí mật của mình, tôi vừa nghĩ vừa đưa tay vuốt tóc, sửa lại tất và kéo lại váy. Có phải ở Anh, mọi người đều xinh đẹp như thế?

Thật đáng ngạc nhiên là Bison cũng có mặt ở đây. Ông ta vẫn tự tin chống hai cùi chỏ lên bàn, tay áo xắn cao để lộ hai cánh tay nần nẫn, liên tục kể chuyện mua vui cho cả nhóm, chuyện về rạp xiếc ở Akasaka, một vụ lừa đảo mà ông ta bị dính vào, tất cả cổ phần được bán cho một câu lạc bộ đánh golf không hề tồn tại. Ông ta kể hết chuyện này tới chuyện khác nhưng trong nét mặt ông ta có cái gì đó thay đổi so với lần trước. Ông ta trở nên nhún nhường, cái nụ cười mua vui đã biến mất và tôi có cảm giác là ông ta tới đây một cách miễn cưỡng. Tôi làm ra vẻ chăm chú lắng nghe, vừa hút thuốc vừa gật gù hưởng ứng nhưng thật tình tôi đang quan sát Fuyuki và nghĩ cách thu hút sự chú ý của ông ta.

“Khi bị phát hiện thì chúng đã bán gần hết cổ phiếu. Thử tưởng tượng xem. Bob Hope đã suýt giết người khi ông ta nghe nói một câu lạc bộ đánh golf ở Nhật lấy danh nghĩa của ông ta để lừa đảo,” Bison vừa nói vừa lắc đầu.

“Xin lỗi,” tôi nói, dụi điếu thuốc vào gạt tàn và đẩy ghế đứng dậy. “Tôi ra ngoài một lát.”

Nhà vệ sinh nằm ở góc phòng, tiếp giáp với cửa ra vào. Để tới đó, tôi phải đi qua chiếc xe lăn của Fuyuki. Tôi vuốt phẳng váy, ưỡn ngực ra phía trước, tay thả dọc hai bên hông và bắt đầu bước đi. Cả người tôi run rẩy nhưng tôi tự nhủ mình phải bước tiếp, một cách chậm rãi, với một vẻ khêu gợi giả tạo khiến mặt đỏ bừng còn hai chân thì dường như không thể đứng vững trên mặt đất. Thậm chí tôi còn nghe thấy cả tiếng loẹt xoẹt của tất chân cọ vào nhau phía trên đùi, bất chấp tiếng nhạc và tiếng trò chuyện ầm ĩ. Cái đầu bé tí của Fuyuki chỉ còn cách tôi vài bước và khi tới gần ông ta, tôi khẽ đánh hông sang một bên, vừa đủ để chạm vào thành chiếc xe lăn khiến ông ta giật mình.

“Xin lỗi ông. Xin lỗi.” Tôi đặt hai tay lên chiếc xe lăn để giữ cho nó khỏi bập bênh. Ông ta hơi nhấc tay lên và cố ngoái cái cổ già nua cứng đờ ra sau để nhìn tôi. Tôi cố gắng xoa dịu bằng cách ấn nhẹ ngón tay lên vai ông ta rồi cố tình cọ đùi phải vào người ông ta để ông ta tiếp xúc với lớp da thịt ấm áp sau lớp tất nylon tĩnh điện. “Tôi vô cùng xin lỗi.” Tôi nhắc lại rồi đẩy chiếc xe lăn về chỗ cũ. “Chuyện này sẽ không xảy ra nữa đâu ạ.”

Đám tay chân của ông ta nhìn tôi chòng chọc. Rồi tôi nhìn thấy Jason đang đứng như hóa đá bên quầy bar với một ly champagne kề trước miệng, mắt dán chặt vào người tôi. Tôi tiếp tục đi thẳng về phía nhà vệ sinh và khóa mình lại trong đó. Tôi nhìn chằm chằm vào khuôn mặt đỏ bừng như lên cơn sốt của mình trong gương, người run lẩy bẩy. Thật không thể tin được. Tôi vừa biến thành một con ma cà rồng. Nhìn tôi lúc này không ai nghĩ đó chính là cô gái mới đến Tokyo hai tháng trước.

“Tôi khuyên cô không nên đi,” Strawberry bảo tôi. “Fuyuki muốn mời cô đến căn hộ của ông ta, nhưng Strawberry không cho rằng đó là một ý hay.” Sau khi sắp xếp chỗ ngồi cho đám người của Fuyuki, Strawberry lập tức rút lui về bàn của mình và ngồi đó suốt buổi, nốc champagne như hũ nút và quan sát tất cả chúng tôi với ánh mắt đầy vẻ nghi hoặc. Khi khách khứa đã về hết, ghế đã được chồng lên bàn và lao công lặng lẽ lau dọn thì bà ta đã say khướt. Dưới lớp phấn hóa trang Marilyn, những nếp nhăn màu hồng hiện rõ xung quanh mũi, cổ và thái dương của bà ta. “Cô không hiểu. Cô không giống các cô gái Nhật khác. Các cô gái Nhật hiểu những người như Ngài Fuyuki.” Bà ta chĩa bót thuốc lá về phía tôi.

“Thế hai chị em người Nga thì sao. Họ cũng đi mà.”

“Thôi được.” Bà ta giơ hai tay lên không cho tôi nói tiếp. Bà ta uống cạn ly rượu, đoạn ngồi thẳng dậy, gãi đầu gãi miệng như cố lấy lại bình tĩnh. “Thôi được.” Bà ta nói, cúi người về phía trước và lại chĩa bót thuốc vào mặt tôi. Thỉnh thoảng những lúc say xỉn như thế này, bà ta vẫn thường để hở răng và lợi. Thật buồn cười là trải qua bằng ấy cuộc phẫu thuật nhưng không bao giờ bà ta nghĩ tới chuyện làm lại răng, chúng đều đã ngả màu, thậm chí có một hay hai chiếc đã biến thành màu đen. “Cô đến căn hộ của Fuyuki thì phải cẩn thận. Được không? Nếu là tôi thì tôi sẽ không ăn bất cứ cái gì trong cái nhà đó.”

“Không cái gì ạ?”

“Tôi sẽ không ăn một miếng thịt nào.”

Tóc gáy tôi bắt đầu dựng đứng hết cả lên. “Ý bà là gì vậy?” Tôi yếu ớt hỏi.

“Có quá nhiều câu chuyện.”

“Những chuyện gì ạ?”

Strawberry nhún vai. Bà ta lơ đãng nhìn ra ngoài hộp đêm. Đoàn xe của Fuyuki đang chờ ở dưới đó năm mươi tầng lầu, và các cô gái đã đi lấy túi và áo khoác. Bên ngoài, trời bỗng nổi gió, từ cửa sổ lớn trong hộp đêm chúng tôi có thể nhìn thấy một vài đường dây điện trong thành phố đã bị cắt. Nhiều khu vực trong thành phố chìm trong bóng tối. “Bà định nói gì? Chuyện gì? Thịt gì?” Tôi hỏi lại.

“Không có gì!” Bà ta lắc đầu quầy quậy, vẫn không chịu nhìn vào mắt tôi. “Nói đùa thôi.” Rồi bà ta phá ra cười, một điệu cười giả tạo, lanh lảnh; rồi nhận ra điếu thuốc đã tàn. Bà ta cho một điếu thuốc khác vào bót rồi vẫy vẫy nó về phía tôi: “Tốt hơn hết là chúng ta kết thúc tại đây. Câu chuyện của chúng ta tới đây là kết thúc. Kết thúc.”

Tôi nhìn bà ta, đầu căng ra. Đừng ăn thịt? Tôi đang nghĩ cách làm sao để bà ta tiếp tục câu chuyện vì chắc chắn bà ta vừa đưa ra một manh mối quan trọng thì Jason đột ngột xuất hiện, ngồi xuống cạnh tôi và xoay chiếc ghế của tôi lại đối mặt với anh ta.

“Cô định đến nhà Fuyuki đấy à?” Anh ta thì thầm.

Anh ta đã thay bộ vét tuxedo bồi bàn bằng một chiếc áo phông màu xám với dòng chữ Goa Trance đã nhạt màu. Chiếc túi da của anh ta đã đeo trước ngực, sẵn sàng để về nhà.

“Hai chị em sinh đôi nói với tôi là cô sẽ đi.”

“Đúng thế.”

“Thế thì tôi cũng phải đi.”

“Gì cơ?”

“Thì chúng ta sẽ ở bên nhau đêm nay mà. Cô và tôi. Đã nhất trí rồi còn gì.”

Tôi mở miệng định nói nhưng không thốt nên lời. Trông tôi lúc đó hẳn rất kỳ quặc, mắt mở to, miệng há hốc, mồ hôi vã ra sau gáy.

“Mụ Y Tá. Đó là lý do tại sao tôi sẽ được hoan nghênh,” Jason nói như thể tôi vừa hỏi anh ta tại sao. Anh ta liếm môi và nhìn sang Strawberry. Lúc này, bà ta đang hút một điếu thuốc mới, hai bên mày nhướng lên như hiểu hết mọi chuyện. “Để tôi nói cho cô hiểu rõ hơn nhé!” Anh ta thì thầm. “Đại loại là mụ ta ngứa ngáy vì tôi. Cô biết thế nghĩa là gì chứ?”


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder   Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder Icon_minitimeSun Feb 03, 2019 9:07 pm


Chương 28

Fuyuki và đoàn tùy tùng của ông ta đi trước, để lại một dãy xe màu đen, có dòng chữ Lincoln Continental đằng sau cốp xe, để chở khách. Tôi là một trong những người cuối cùng rời khỏi câu lạc bộ và khi tôi đi thang máy xuống được dưới tầng trệt dẫn ra phố thì Jason và tất cả các nữ tiếp viên khác đã rời khỏi đó, chỉ còn sót lại duy nhất một chiếc xe hơi. Tôi trèo vội lên băng sau của chiếc xe cùng với ba nữ tiếp viên người Nhật khác mà tôi không biết tên. Trên đường đi, các cô tiếp viên chuyện trò về khách hàng còn tôi thì im lặng hút thuốc và nhìn ra ngoài cửa xe vào dãy hào bao quanh khu Cung điện Hoàng gia. Khi chiếc ôtô rẽ vào đường Nishishinbashi, chúng tôi lướt qua khu vườn nơi tôi gặp Jason lần đầu tiên. Thoạt đầu tôi không nhận ra nó, chỉ đến lúc sắp vượt qua tôi mới nhận ra những dãy ánh sáng kỳ lạ lấp lánh dưới ánh trăng chính là những đứa trẻ bằng đá câm lặng xếp hàng dưới những tán cây. Tôi quay lại nhìn chúng qua lớp kính phía đằng sau xe.

“Chỗ đó tên là gì? Cái đền thờ ấy?” Tôi hỏi người lái xe bằng tiếng Nhật.

“Đó là đền Zojoji.”

“Zojoji? Thế lũ trẻ ở đó có ý nghĩa gì?”

Người lái xe nhìn tôi chăm chú qua gương chiếu hậu như thể tôi làm anh ta ngạc nhiên. “Đó là các Jizo. Thiên thần của các hài nhi đã chết. Những đứa trẻ chết non.” Khi thấy tôi không nói gì anh ta hỏi lại: “Cô có hiểu tiếng Nhật của tôi không?”

Tôi ngoái lại chăm chú nhìn những dòng ánh sáng ma quái dưới hàng cây, và chợt rùng mình. Có thể bạn không bao giờ biết chắc những gì xảy ra trong tiềm thức của bạn. Có lẽ tôi vẫn luôn biết về những bức tượng đá. Có lẽ vì thế mà tôi đã chọn công viên đó để ngủ qua đêm.

“Có,” tôi trả lời người tài xế, giọng xa xăm, miệng khô khốc. “Có, tôi có hiểu.”

Fuyuki sống ở gần Tháp Tokyo trong một tòa nhà bề thế có khu vườn ẩn sau những cánh cổng an ninh. Khi chiếc ôtô của tôi tiến vào cổng, gió thổi qua tán cọ xào xạc. Người gác cổng rời khỏi chiếc bàn lễ tân mờ tối để mở cánh cửa ra vào bằng kính và đưa chúng tôi băng qua một tiền sảnh tĩnh lặng lát đá hoa cương tới một thang máy cá nhân mà ông ta mở bằng một chiếc chìa khóa riêng. Chúng tôi bước vào thang máy, các cô gái Nhật lấy tay che mặt rồi vừa nói chuyện thì thầm vừa cười khúc khích.

Khi cửa thang máy mở ra ở tầng trên cùng, người đàn ông tóc đuôi ngựa đã chờ chúng tôi ở bên ngoài. Ông ta chẳng nói chẳng rằng, cũng chẳng thèm nhìn khi chúng tôi bước ra đứng chật cả hành lang nhỏ bé, mà chỉ lặng lẽ dẫn chúng tôi đi dọc theo một hành lang dài. Các căn hộ ở đây được sắp đặt theo các cạnh của hình vuông. Một hành lang lát gỗ hồ đào nối tất cả các phòng lại với nhau và dường như trải dài bất tận, ngọn đèn trần kín đáo soi thành những vòng sáng nhỏ trước mặt chúng tôi giống như một đường băng mời gọi chúng tôi tiến vào cõi xa xăm. Tôi bước đi một cách thận trọng, thăm dò xung quanh và tự hỏi liệu mụ Y Tá có sống ở đây không, liệu mụ có một hang ổ nào đó nằm ngay sau những cánh cửa này hay không.

Chúng tôi vừa đi qua một lá quốc kì Nhật Bản đã ố rách, lồng trong một chiếc khung đèn treo tường, một hộp đựng tro lễ làm từ gỗ cây đậu tía sơn trắng đặt trong một tủ kính. Tôi để ý thấy nó không khóa. Tôi cố tình đi sau cùng. Chúng tôi đi qua một bộ quân phục dã chiến được đặt trong khung kính, trông sống động đến mức như thể có da có thịt. Khi đi qua cái lồng kính, tôi hơi cúi người, mắt vẫn nhìn theo những người đi trước, thò tay vào bên trong, chạm vào mép bộ quân phục.

“Cô làm gì thế?” Một nữ tiếp viên hỏi khi tôi bắt kịp họ.

“Không có gì,” tôi thì thào, tim đập thình thịch. Không gắn chuông báo động. Tôi đã không dám hy vọng rằng ở đó sẽ không gắn chuông báo động.

Chúng tôi đi qua một dãy cầu thang dẫn ra những khu tối om. Tôi do dự, chỉ muốn tách ra khỏi nhóm và bước xuống những cầu thang đó. Các căn hộ nằm trên tầng hai của tòa nhà. Những phòng ở phía dưới này được dùng để làm gì? Tôi tự hỏi, đột nhiên liên tưởng đến hình ảnh những chuồng thú. Cái cô đang tìm kiếm không phải là một loại cây...

Ngay sau đó, nhóm người đi trước dừng lại ở phòng gửi đồ để cất mũ và áo khoác. Tôi đành phải rảo bước nhanh hơn để bắt kịp họ, và cũng dừng lại một lúc để cởi áo khoác. Rồi chúng tôi nghe thấy tiếng nhạc, tiếng đá chạm vào thành cốc trước khi bước vào một căn phòng trần thấp, mờ mịt khói thuốc với một loạt các tủ tường và hốc tường được chiếu sáng một cách cầu kỳ. Tôi dừng lại một chút để mắt quen dần với ánh sáng. Các nữ tiếp viên đến trước đã ngồi vào chỗ, trên những chiếc ghế bọc da kiểu Chesterfield màu nâu đỏ, thì thào tán gẫu và uống rượu. Jason đang thoải mái ngồi gác chân trong một chiếc ghế bành, tay cầm một điếu thuốc như thể anh ta đang thư giãn ở nhà sau một ngày làm việc vất vả. Fuyuki thì ngồi ở phía cuối phòng trong một chiếc xe lăn. Ông ta mặc một chiếc áo yakuta rộng, chân để trần và di chuyển chiếc xe lăn tới lui xung quanh phòng với Bison bước theo sau. Cả hai đang nhìn ngắm những bức tranh khắc gỗ khiêu dâm treo trên tường, những cô gái điếm mình hạc xương mai với cặp đùi thanh mảnh trắng nõn, những chiếc áo kimono hở hang vén lên để lộ vùng trái cấm.

Tôi không thể cưỡng lại. Tôi ngay lập tức bị những bức hình đó làm cho mê mệt. Tôi cảm thấy Jason đang đứng cách đó vài bước, nhìn tôi với vẻ thích thú nhưng tôi không thể nào rời mắt khỏi chúng. Có một bức mà người phụ nữ đang đạt khoái cảm tới mức dường như có gì đó đang rỏ xuống giữa hai đùi của cô ta. Cuối cùng, không chịu được nữa, tôi quay mặt đi. Jason nhướng mày và mỉm cười, một nụ cười khoan thai và chậm rãi nở trên khóe miệng ngay ở cái góc răng anh ta bị mẻ, giống y như cái nụ cười trong hành lang ở Takadanobaba. Máu tôi bắt đầu dồn lên mặt. Tôi đặt tay lên má và quay đi chỗ khác.

“Thế còn bức này, cô gái trong chiếc áo kimono đỏ?” Bison nói bằng tiếng Nhật và ve vẩy điếu xì gà của ông ta trước một bức tranh trên tường.

“Của Shuncho,” Fuyuki thì thào bằng cái giọng khàn khàn của ông ta. Ông ta chống gậy lên sàn và tì cằm lên đó, nhìn bức tranh vẻ trầm ngâm. “Thế kỷ XVIII. Bảo hiểm bốn triệu yên. Đẹp, đúng không? Một chimpira bên nhà Saitama đã giải phóng nó khỏi một ngôi nhà ở Waikiki và trao cho tôi.”

Người đàn ông tóc đuôi ngựa khẽ hắng giọng một cách kín đáo và Bison quay lại. Fuyuki cũng xoay chiếc xe lăn lại và nhìn chúng tôi.

“Đi theo tôi, lối này,” ông ta thì thầm với đám con gái đang túm tụm.

Chúng tôi đi qua một chiếc cửa có mái vòm vào một căn phòng nơi một nhóm đàn ông mặc áo sơ mi Aloha Hawaii đang ngồi uống rượu Scotch bằng những chiếc ly pha lê, trên đầu họ lơ lửng hai thanh kiếm samurai được ròng xuống từ trần nhà bằng những sợi dây vô hình. Họ đứng lên cúi đầu chào khi Fuyuki đi qua chỗ họ trên chiếc xe lăn. Sau lưng họ là một cửa kính trượt đang mở, thông ra khoảng sân trung tâm được lát toàn bộ nền bằng đá hoa cương đen bóng như tấm gương phản chiếu cả bầu trời đêm lấp lánh. Ở giữa sân, đen trũi như chiếc máy bay phản lực, trông như một hố trũng trên chính nền đá hoa cương đó, là một bể bơi có thắp đèn cao áp, làn hơi nước thoang thoảng mùi clo lơ lửng trên bề mặt. Những chiếc lò sưởi chạy ga cao như cột đèn đặt xung quanh bể bơi và sáu bàn ăn lớn được xếp ngay cạnh đó, mỗi bàn đều có những tấm lót bằng sứ tráng men màu đen, trên bày đũa bạc, ly thủy tinh và khăn ăn.

Nhiều chỗ đã có người ngồi. Những gã đàn ông lực lưỡng, tóc húi cua ngồi hút xì gà và trò chuyện với các cô gái trẻ trong những chiếc đầm hở lưng. Có rất nhiều phụ nữ. Fuyuki hẳn quen biết rất nhiều hộp đêm.

“Ông Fuyuki,” tôi nói và đi lên bên cạnh ông ta khi chúng tôi đi ngang qua các bàn. Ông ta dừng xe lại và quay sang nhìn tôi vẻ ngạc nhiên. Chưa có cô gái nào dám bắt chuyện với ông ta. Chân tôi run lên và một bên mặt đỏ ửng do hơi nóng phát ra từ một chiếc lò sưởi. “Tôi... Tôi muốn được ngồi cạnh ông.”

Ông ta nheo mắt nhìn tôi. Có lẽ ông ta ngạc nhiên bởi sự đường đột của tôi. Tôi bước tới gần hơn, ngay trước mặt ông ta, đủ để cho ông ta nhìn thấy ngực và hông của tôi căng lên sau lớp váy. Trong một phút bốc đồng, con ma cà rồng trong tôi bắt đầu ngọ nguậy, tôi cầm tay ông ta đặt lên hông mình. “Tôi muốn được ngồi cạnh ông.”

Fuyuki nhìn xuống đôi tay và ép chúng vào các nếp váy. Có lẽ ông ta cảm nhận được chiếc quần nịt kiểu Pháp của tôi sau lớp vải, sự sống động của lớp lụa và sức đàn hồi của lớp nylon dưới ngón tay ông ta. Hay có lẽ ông ta chỉ đơn giản nghĩ rằng tôi là một đứa vụng về và mất trí nên sau khi suy nghĩ một lúc, ông ta quay sang nhìn tôi cười và cất giọng khàn khàn: “Thế thì đi, ngồi cạnh tôi, nếu cô muốn.”

Ông ta quay chiếc xe đẩy vào chỗ, dưới chiếc bàn, còn tôi lập cập ngồi xuống rồi dịch ghế của mình lại gần ông ta. Bison đã ngồi cách đó vài ghế, đang mở một chiếc khăn ăn ra và nhồi nó vào cổ. Một người phục vụ bàn mặc áo phông và quần jean màu đen đang đi quanh bàn với những ly vodka cocktail lạnh, hơi nước từ những chiếc ly màu trắng bốc lên mờ mịt như đá khô. Tôi vừa nhấm nháp rượu vừa lén lút nhìn xung quanh sân. Ở một nơi nào đó, tôi nghĩ, nhìn vào những ô cửa sổ chỗ sáng chỗ tối trong ngôi nhà, ở một nơi nào đó trong ngôi nhà này có thứ khiến Sử Trùng Minh thao thức. Không phải là một loại cây. Nếu không phải là cây cỏ thì là gì chứ? Tôi nhìn thấy một chiếc đèn màu đỏ gắn trên tường và tự hỏi không hiểu đó có phải là hệ thống báo động hay không.

Thức ăn đã được mang đến bên bàn: những miếng cá thu được xếp như quân cờ domino trên lớp rau câu; những bát đậu hũ rắc tảo biển; củ cải thái chỉ tươi giòn. Bison ngồi bất động, nhìn chằm chằm vào đĩa thịt gà xiên nướng yakitori như thể nó có vấn đề nghiêm trọng, mặt ông ta tái nhợt và ướt đẫm mồ hôi như người bị ốm. Tôi lặng lẽ quan sát ông ta, nhớ tới lần đầu tiên ông ta tới câu lạc bộ, sự thay đổi kỳ lạ của ông ta kể từ sau câu chuyện về thứ cặn thuốc trong chiếc ly của Fuyuki. Giống như Strawberry, tôi nghĩ. Ông ta không muốn ăn thịt. Ông ta cũng đã nghe cùng những câu chuyện mà bà ta...

Tôi liếm đôi môi khô khốc của mình và cúi sang phía Fuyuki. “Trước đây chúng ta đã gặp nhau rồi. Ông có nhớ không ạ?” Tôi lẩm bẩm bằng tiếng Nhật.

“Đã gặp rồi à?” Ông ta không nhìn tôi.

“Rồi ạ. Hồi mùa hè. Tôi luôn mong được gặp lại ông.”

Ông ta ngừng lại một lúc rồi nói: “Thế à, thế à?” Khi ông ta nói, đôi mắt và cái mũi nhỏ kỳ quái của ông ta không hề chuyển động, nhưng lớp da ở môi trên khẽ vén lên để lộ những chiếc răng nanh trông rất kỳ dị ở hai bên hàm trên, y như răng mèo. Tôi nhìn chằm chằm những chiếc răng đó. “Tôi rất muốn được tham quan nhà ông,” tôi nói nhỏ.

“Cô có thể nhìn nó từ đây.” Ông ta sờ tay vào túi và lôi ra một điếu xì gà, tháo giấy bọc rồi dùng một dụng cụ nhỏ bằng bạc để trong túi áo ngực khều khều, kiểm tra điếu thuốc, quay ngang quay dọc và gắp những vẩy thuốc lá ra ngoài.

“Tôi muốn xem xung quanh... Tôi muốn...” Tôi do dự rồi làm điệu bộ chỉ về phía căn phòng treo tranh khắc gỗ và nói nhỏ, “muốn xem các bức tranh khắc gỗ. Tôi có đọc về trường phái nghệ thuật shunga. Những bức tranh trong bộ sưu tập của ông rất hiếm.”

Ông ta châm điếu xì gà rồi nói bằng một thứ tiếng Anh chật vật: “Tôi là người mang chúng trở lại Nhật Bản. Về quê hương. Sở thích của tôi là Eigo deha nanto iu no desuka? Kaimodosu kotowa - Nihon no bitjutsuhinwo Kaimodosu no desuyo.”

“Hồi hương,” tôi nói. “Mang nghệ thuật Nhật Bản về lại quê hương.”

“Đúng thế, đưa nghệ thuật Nhật Bản hồi hương.”

“Ông có muốn giới thiệu chúng cho tôi không?”

“Không.” Ông ta từ từ nhắm mắt lại như một con bò sát già nhàn nhã, hai tay uể oải giơ lên ngang mắt như muốn ra hiệu cuộc chuyện trò đến đây là kết thúc. “Cảm ơn cô nhưng không phải vào lúc này.”

“Ông chắc chứ?”

Ông ta hé một mắt nhìn tôi vẻ nghi ngờ. Tôi định mở miệng ra nói nhưng có cái gì đó trong cái nhìn của ông ta khiến tôi nghĩ lại. Tôi thả tay vào trong lòng. Phải để cho ông ta không bao giờ đoán ra, Sử Trùng Minh bảo tôi thế. Không bao giờ nghi ngờ gì.

Tôi vân vê chiếc khăn ăn, hắng giọng nói. “Đúng vậy. Tất nhiên rồi. Giờ đúng là không phải lúc. Không đúng lúc chút nào.” Tôi châm một điếu thuốc đưa lên miệng hút, xoay xoay chiếc bật lửa trong tay như thể đó là một trò tiêu khiển thú vị. Fuyuki nhìn tôi thêm vài giây rồi nhắm mắt lại vẻ hài lòng.

Sau đó, tôi không nói gì nhiều với ông ta. Ông ta ngủ gà gật trong vài phút và khi tỉnh dậy thì cô gái ngồi phía bên phải thay tôi tiếp chuyện với ông ta, kể cho ông ta nghe câu chuyện về một cô gái người Mỹ chạy bộ mà không mặc áo lót khiến ông ta cười và lắc đầu quầy quậy. Tôi ngồi im hút hết điếu này đến điếu khác và suy nghĩ. Cái gì tiếp theo đây? Cái gì tiếp theo đây? Cái gì tiếp theo đây. Tôi có cảm giác là tôi đang đến gần, đang tiến gần tới một cái gì đó. Tôi nốc cạn hai ly champagne, dụi thuốc vào gạt tàn, hít thở sâu rồi quay sang ông ta. “Fuyuki san,” tôi lầm bầm. “Tôi muốn vào nhà vệ sinh.”

“Hi hi,” ông ta trả lời vẻ sao nhãng. Cô tiếp viên ngồi cạnh ông ta đang biểu diễn một trò chơi với bao diêm. Ông ta lơ đãng vẫy tay về phía chiếc cửa kính hai lớp. “Qua bên kia.”

Tôi nhìn ông ta chằm chằm. Tôi đã chờ đợi nhiều hơn. Một sự phản đối nào đó chẳng hạn. Tôi đẩy ghế đứng dậy nhìn xuống cái sọ nhỏ thó màu nâu của ông ta, chờ ông ta xê dịch. Nhưng ông ta vẫn ngồi yên một chỗ. Không ai bên bàn buồn ngước mắt lên, họ đều đang mải mê trò chuyện. Tôi đi qua sân, khép cánh cửa kính lại sau lưng rồi đứng yên một lúc, tay đặt trên mặt kính. Không ai chú ý đến sự vắng mặt của tôi. Tôi có thể nhìn thấy gáy của Jason bên một chiếc bàn gần bể bơi, giữa hai cô tiếp viên và gần tôi hơn so với anh ta chính là Fuyuki, vẫn ở nguyên chỗ cũ, vai rung lên mỗi khi cười. Cô tiếp viên đốt bao diêm rồi giơ nó lên cao như một ngọn đèn, vẫy vẫy xung quanh bàn để đáp lại tràng vỗ tay từ các vị khách khác.

Tôi rời khỏi cửa. Tôi đang đứng trong một hành lang lát gỗ giống như cái hành lang tôi đi qua khi nãy với một loạt các tủ kính có gắn đèn. Tôi nhìn thấy một bộ trang phục của diễn viên kịch Noh, một bộ áo giáp samurai lấp lánh trong ánh đèn mờ ảo. Dọc hành lang có rất nhiều cánh cửa không biết dẫn đi đâu. Tôi hít một hơi thật sâu rồi rảo bước.

Những tấm thảm lót sàn khiến tiếng bước chân của tôi trở nên êm ru, tiếng ù ù của máy điều hòa nhiệt độ làm tôi nghĩ đến không khí bức bối, gò bó bên trong máy bay. Tôi khịt khịt mũi, không hiểu là mình đang định đánh hơi cái gì. Đừng ăn thịt… Phải có cầu thang ở đâu đó phía bên này. Tôi đi qua rất nhiều cánh cửa mà không nhìn thấy cái cầu thang nào. Tới cuối hành lang tôi rẽ phải và đâm sang một hành lang khác, mạch đập liên hồi. Phía đằng trước, bên tay phải có một chiếc cầu thang, đầu cầu thang là một cánh cửa kính hai lớp đang để mở.

Khi chỉ còn cách cầu thang có vài bước thì tôi nhìn thấy trên chân tường ở khúc ngoặt phía đằng trước, một bóng người đang hiện lên to dần.

Máu tôi như đông lại. Mụ Y Tá. Chỉ có thể là mụ ta, đang tiến lại gần tới chỗ rẽ bên hành lang trước mặt. Mụ ta có vẻ vội vã vì chiếc bóng lớn lên rất nhanh, càng lúc càng in hình cao hơn trên bức tường, cho tới khi gần chạm đến trần nhà. Tôi vẫn đứng chôn chân tại đó, tim đập thình thịch. Mụ ta có thể xuất hiện ở đằng trước bất cứ lúc nào và nhìn thấy tôi. Tôi có thể nghe thấy cả tiếng giày của mụ kêu cót két. Tôi quờ lấy cánh cửa gần nhất. Nó không khóa. Bên trong đèn tự động bật lên, và ngay khi cái bóng đổ xuống sàn rồi xuất hiện trên bức tường ngay trước mặt tôi, tôi chỉ kịp lẻn vào trong, nhẹ nhàng khép cửa lại.

Đó là một phòng tắm không có cửa sổ lát đá hoa cương màu đỏ tươi như máu với những hoa văn trông giống như các đường gân trên miếng thịt bò. Giữa phòng là một bồn tắm nước nóng gắn gương ở xung quanh và trong hốc tường là một chồng khăn tắm trắng mới tinh. Tôi đứng một lúc, người run bần bật, tai dán vào cửa nghe ngóng. Nếu mụ ta nhìn thấy tôi thì tôi sẽ nói như với Fuyuki là tôi đi tìm nhà vệ sinh. Tôi không dám thở mạnh, cố dỏng tai lên xem có nghe thấy tiếng động nào từ bên ngoài. Vài phút trôi qua nhưng tôi vẫn không nghe thấy gì. Có lẽ mụ ta đã rẽ vào phòng khác. Tôi cài chốt cửa và ngồi xuống nắp bồn cầu vì hai chân không còn đứng vững nữa. Không thể tin được, chuyện này đúng là không thể tin được! Làm sao mà Sử Trùng Minh lại mong đợi tôi làm chuyện này cơ chứ? Ông ta nghĩ tôi là ai chứ?

Một vài phút sau khi thấy không có chuyện gì xảy ra và không nghe thấy động tĩnh gì thì tôi lôi ra một điếu thuốc và châm lửa hút. Tôi lặng lẽ hút thuốc, cắn móng tay và nhìn chằm chằm vào cánh cửa. Tôi kiểm tra đồng hồ, băn khoăn không biết mình đã ở đây bao lâu, liệu mụ ta có còn lảng vảng ở ngoài đó hay không. Người tôi dần dần bớt run. Tôi hút hết điếu thuốc rồi vứt nó vào bồn cầu và châm một điếu khác, chậm rãi hút tiếp. Rồi tôi đứng dậy và lấy tay sờ soạng xung quanh tấm gương trong nhà tắm xem có gắn camera theo dõi hay không. Tôi mở các ngăn kéo, chạm tay vào đống xà phòng và các túi vệ sinh cá nhân miễn phí có logo của Hàng không Nhật và Singapore Airlines. Dường như hàng thế kỷ đã trôi qua khi tôi quyết định giật nước bồn cầu, mở chốt cửa và thò đầu ra ngoài. Hành lang vắng tanh. Mụ Y Tá đã biến mất và cánh cửa hai lớp ở đầu cầu thang đã đóng lại. Khi tôi lại gần thử xoay nắm đấm cửa thì phát hiện ra là nó đã bị khóa.

Bên ngoài, bầu trời vẫn trong vắt, ngoại trừ một đám mây có những đường viền màu hồng do ánh sáng hắt lên từ thành phố, trôi lơ lửng qua các vì sao như hơi thở của gã khổng lồ vào một ngày đông lạnh giá. Khi tôi quay trở lại thì các vị khách đã rời bàn ăn, chuyển vào ngồi trên những chiếc ghế đệm kẻ sọc để chơi mạt chược quanh những chiếc bàn gấp. Những người phục vụ đã dọn bát đĩa. Không ai chú ý khi tôi quay trở lại ngồi vào chỗ của mình bên cạnh bể bơi với vẻ lo âu.

Fuyuki đã di chuyển sang góc sân đằng xa cùng mụ Y Tá, mụ ta đang lúi húi đắp một chiếc khăn bằng lông thú lên chân ông ta. Mụ ta mặc một chiếc váy ngắn bó sát, chiếc áo vét khít cổ và đi giày cao gót như thường lệ. Tóc mụ vén ra sau tai để lộ hai bên má rỗ hoa trắng bệch. Mụ tô son màu đỏ sậm khiến cái miệng mím chặt như biến thành màu xanh đen. Những người ngồi xung quanh quay lưng về phía mụ, bận rộn trò chuyện, vờ như không biết đến sự có mặt của mụ.

Mụ ta không nhìn tôi. Có lẽ mụ ta cũng định khóa cửa cầu thang lại từ trước. Không có lý do gì để cho rằng mụ ta nhìn thấy tôi ở đó. Fuyuki túm lấy tay áo mụ thì thầm gì đó. Mụ ta cúi đầu xuống gần miệng ông ta và tôi nín thở, nhìn chằm chằm vào những móng tay hình ô van sơn đỏ một cách cầu kỳ của mụ. Móng tay út của mụ dài và cong như kiểu những thương gia Trung Quốc ngày xưa vẫn để nhằm chứng tỏ họ không phải là người lao động chân tay. Tôi tự hỏi không biết có phải Fuyuki đang nói với mụ về việc tôi cứ nằng nặc đòi được xem căn hộ hay không, nhưng một lúc sau, mụ đứng dậy, không nhìn về phía tôi mà lặng lẽ đi qua bể bơi về phía chiếc cửa đối diện.

Tôi căng thẳng cúi người ra phía trước, tay bấu chặt thành ghế, tập trung dõi theo từng bước chân của mụ đi dọc theo các hành lang, và có thể là theo cả các bậc thang. Tôi biết mụ ta đang định làm gì. Bản năng của tôi đã mách bảo tôi điều đó. Tiếng ồn ào của bữa tiệc như đang chìm đi và tất cả những âm thanh mà tôi nghe thấy chỉ còn là tiếng thở của đêm, là tiếng lọc nước trong bể bơi. Tai tôi căng ra như trái tim tôi vậy, cho đến khi những tiếng động nhỏ nhất được khuếch đại lên gấp nghìn lần và tôi dường như nghe thấy cả căn hộ đang chuyển động và thì thào xung quanh tôi. Tôi có thể nghe thấy tiếng người rửa bát đĩa trong bếp. Tôi dám chắc mình có thể nghe thấy tiếng bước chân của mụ Y Tá đi xuống cầu thang. Tôi có thể nghe thấy tiếng lách cách của then cài, tiếng cọt kẹt của những cánh cửa sắt được mở ra. Mụ ta đang đi lấy thuốc cho Fuyuki.

Rồi có gì đó xảy ra. Trong bể bơi, dưới độ sâu hơn hai mét, tôi nhìn thấy hai khung cửa sổ có mành che làm bằng các thanh gỗ mỏng. Tôi không chú ý đến chúng từ trước vì chúng khuất trong bóng tối. Nhưng đèn trong phòng vừa được bật sáng, hắt lên mặt nước những tia sáng màu vàng thẳng đứng. Tôi vội vàng thò tay vào túi lấy ra một điếu thuốc rồi đứng dậy đi qua đám đông làm như vô tình đến bên thành bể bơi. Tôi đứng lại, một tay chống eo, một tay cầm thuốc, thỉnh thoảng lại rít vài hơi để tự trấn an. Rồi khi biết chắc không có ai quan sát mình, tôi ngó xuống mặt nước. Một vị khách bên cạnh đang hát rống lên một ca khúc enka và một nữ tiếp viên cười khúc khích phụ họa nhưng tôi chẳng còn đầu óc nào mà chú ý tới họ. Tôi tập trung cao độ cho tới khi không còn tồn tại thứ gì khác ngoài tôi và những sọc ánh sáng trên mặt nước.

Không hiểu tại sao nhưng tôi dám chắc đó chính là cửa sổ căn phòng mà Fuyuki cất giấu bí dược của mình. Những thanh gỗ mỏng trên tấm mành cửa mở hé để lộ một phần sàn nhà và tôi có thể nhìn thấy bóng mụ Y Tá đang di chuyển trên đó. Có đôi lúc, mụ tiến lại gần cửa sổ đến mức tôi có thể nhìn thấy đôi chân đi giày cao gót của mụ. Đầu tôi căng ra. Có cái gì đó ở trong phòng cùng với mụ Y Tá. Cái gì đó làm bằng thủy tinh, hình vuông, giống như một cái hộp hay một...

“Cô đang làm gì đấy?”

Tôi giật mình. Jason đang đứng cạnh tôi, tay cầm ly rượu, mắt nhìn xuống bể bơi. Ngay lập tức, mọi tiếng động lại vang lên và các màu sắc cũng quay trở lại. Vị khách lúc nãy đang ngâm nga những câu cuối của bài hát còn cô tiếp viên thì mở một chai brandy và phân phát ly cho mọi người.

“Cô đang nhìn cái gì đấy?”

“Không có gì.” Tôi nhìn xuống bể bơi. Đèn đã tắt. Mặt nước lại tối đen. “Ý tôi là, tôi đang nhìn xuống nước, nó thật… thật là trong.”

“Cẩn thận đấy,” Jason thì thào. “Phải cẩn thận chứ!”

“Vâng.” Tôi nói và lùi lại. “Tất nhiên rồi.”

“Cô tới đây vì một cái gì đó, đúng không?”

Mắt chúng tôi gặp nhau. “Cái gì cơ?”

“Cô đang tìm cái gì đó.”

“Không, ý tôi là, không, dĩ nhiên là tôi... Anh nói gì buồn cười thế!”

“Cô quên là tôi có thể biết lúc nào thì cô nói dối à.” Anh ta cười một tiếng khô khốc rồi nhìn xuống tóc và cổ tôi như thể chúng vừa hỏi anh ta một câu hỏi khó. Anh ta khẽ chạm vào vai tôi, cả người tôi như có luồng điện chạy qua. “Tôi sẽ xâm nhập vào mọi ngõ ngách trong lòng em,” anh ta thì thầm. “Mọi nơi, mọi chỗ. Nhưng đừng sợ, tôi sẽ làm điều đó một cách từ tốn.”


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder   Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder Icon_minitimeSun Feb 03, 2019 9:08 pm


Chương 29

史 Nam Kinh, ngày 18 tháng Mười hai năm 1937, tám giờ (ngày mười sáu tháng Mười một âm lịch)

Cuối cùng thì tôi cũng có thể cầm bút viết. Cuối cùng thì tôi cũng tìm được một chút bình an. Tôi đã rời khỏi nhà được hơn một ngày. Lúc chiều muộn, khi tôi quyết định ra khỏi nhà, không gì có thể ngăn tôi lại. Tôi ghim tấm thẻ tị nạn vào áo khoác và lẻn ra ngõ, lần theo mùi thức ăn. Kể từ hôm mười ba, đó là lần đầu tiên tôi ra khỏi nhà giữa ban ngày. Không khí có vẻ lạnh và u uất, tuyết rơi lất phất. Tôi lặng lẽ đi xuyên qua các ngõ hẻm và trèo tường để tìm tới nhà ông Lưu. Cửa trước nhà ông mở toang và ông Lưu vẫn đang ngồi ngay trước cửa ra vào như thể ông không hề di chuyển kể từ lần cuối cùng chúng tôi gặp nhau. Ông đang hút tẩu, khuôn mặt lộ rõ vẻ mông lung.

“Lưu Nhuận Đức, già có ngửi thấy không? Già có ngửi thấy mùi thức ăn không?” Tôi bước vào nhà và hỏi. Ông nhô người ra phía trước và hếch mũi lên đánh hơi trong không khí lạnh giá, nghiêng nghiêng đầu và đăm chiêu nhìn lên bầu trời.

“Có thể đó là chỗ thức ăn mà chúng lấy trộm của chúng ta, chúng dám nấu lắm chứ.”

“Có thể.”

“Tôi sẽ đi tìm. Ở ngoài phố. Thu Kim cần phải ăn.”

“Cậu chắc không? Còn bọn Nhật thì sao?”

Tôi không trả lời. Tôi ngượng ngùng nhớ lại trước đây ông cứ khăng khăng rằng chúng tôi sẽ an toàn, nhớ lại việc chúng tôi muốn làm gương cho kẻ khác như thế nào. Sau những giây phút im lặng dài dằng dặc, tôi cố lấy lại can đảm, vỗ vỗ vào tấm thẻ tị nạn trước ngực: “Già có thẻ này chứ, ông bạn già?”

Ông nhún vai rồi đứng dậy, đặt tẩu thuốc xuống. “Đợi tôi ở đây. Tôi sẽ đi lấy.”

Ông vội vã thì thầm gì đó với vợ mình. Tôi có thể nhìn thấy họ trong căn phòng tối lờ mờ phía cuối ngôi nhà, đứng quay mặt vào nhau, chiếc tay áo lụa màu xanh sờn cũ của bà thấp thoáng sau cánh cửa, thỉnh thoảng lại đung đưa mỗi khi bà giơ tay lên để chỉ đạo điều gì đó. Một lúc sau ông trở ra, cẩn thận đóng cửa và nhìn trước nhìn sau. Một chiếc thẻ tị nạn ghim trên áo khoác, khuôn mặt trĩu nặng lo âu. “Tôi không bao giờ nghĩ sự tình lại đến nông nỗi này,” ông thì thầm, dựng cổ áo khoác lên. “Tôi không bao giờ có thể tưởng tượng được. Đôi khi tôi nghĩ, trong hai vợ chồng tôi, ai mới là kẻ dại dột...”

Chúng tôi rón rén đi ra đầu ngõ và nhìn dọc theo khu phố hoang vắng. Khắp nơi, không có lấy một động tĩnh. Thậm chí đến một con chó cũng không. Chỉ có những dãy nhà cửa đóng im ỉm, ám bồ hóng đen sì, một chiếc xe kéo lật úp chỏng chơ trước cửa một ngôi nhà. Những đám lửa nhỏ leo lét cháy bên lề đường và phía bờ sông, bầu trời vằn lên những tia đỏ rực. Tôi khịt mũi đánh hơi trong không khí. Cái mùi thức ăn như trêu ngươi càng trở nên sực nức. Dường như chúng tôi có thể nghe thấy tiếng mỡ rán xèo xèo và nổ lốp đốp bất cứ lúc nào từ một trong những ngôi nhà trước mắt.

Chúng tôi rón rén đi lại trên phố như một cặp mèo hoang, lảng vảng trong bóng tối, mon men từ cửa nhà này sang cửa nhà khác. Chúng tôi đi về phía cổng Trung Ương ở phía Bắc, theo hướng những tên trộm đã bỏ chạy lần trước. Đôi khi chúng tôi lại vấp phải những đống đồ đạc mà chẳng biết chủ nhân của chúng đang ở chỗ nào, và chúng tôi lôi chúng vào cổng nhà gần nhất, tuyệt vọng lục lọi xem có tìm được chút thức ăn nào hay không. Nhìn thấy bất cứ ngôi nhà xập xệ, ọp ẹp nào chúng tôi cũng gí mũi vào cửa và thì thào qua lỗ khóa: “Ai đang nấu nướng ý nhỉ? Ai đang nấu nướng ấy nhỉ?” Một cơn đói xuyên suốt khắp người tôi, cồn cào tới mức khó khăn lắm tôi mới đứng thẳng người lên được. Nhìn vẻ mặt ông Lưu, tôi có thể thấy ông cũng có cảm giác tương tự. “Ra đây,” chúng tôi nói vọng vào trong các ngôi nhà. “Hãy cho chúng tôi xem các người đang nấu nướng gì.”

Vào mùa đông, ở phía Đông Trung Quốc, trời tối rất nhanh và khi chúng tôi mò mẫm đi trên phố với những đốm lửa dẫn đường thì mặt trời đã lặn từ lâu. Chúng tôi đã kiệt sức. Cả hai dường như đã đi được vài cây số, tôi có cảm tưởng như mình đã đi đến tận đường Chùa Cầu, dù trên thực tế cả hai vẫn chưa vượt qua bức tường thành. Sinh vật sống duy nhất mà chúng tôi bắt gặp suốt chặng đường là một con chó hoang đói khát, còm cõi với những vết thương rỉ máu trơ cả xương. Nó đi theo chúng tôi một đoạn đường và cả hai chúng tôi nửa muốn nửa không, đều nghĩ đến chuyện bắt nó làm thịt bất chấp sự ghẻ lở bệnh tật của nó. Nó khá to đủ để cho hai nhà cùng ăn. Nhưng nó tỏ ra hung tợn và sủa ầm ĩ khi chúng tôi lại gần, tiếng sủa vang vọng một cách đầy đe dọa xuyên suốt những khu phố vắng lặng. Cuối cùng chúng tôi đành bỏ cuộc.

“Muộn rồi,” tôi nói và dừng lại đâu đó gần cổng thành. Mùi thức ăn đã bị thay thế bởi một mùi khác, mùi hôi thối của cống rãnh ứ đọng. Tinh thần chúng tôi cũng xuống dốc. Tôi nhìn những tòa nhà ọp ẹp trên phố. “Tôi chẳng thấy đói nữa, già Lưu ạ.”

“Cậu mệt rồi. Chỉ còn thấy mệt thôi.”

Tôi vừa định trả lời thì có cái gì đó ở phía đằng sau ông Lưu đập vào mắt tôi. “Im nào, đừng nói gì cả.” Tôi nói khẽ và túm chặt tay ông.

Ông quay lại. Xa xa phía cuối đường, một tên lính Nhật xuất hiện, vai đeo súng trường, khuôn mặt lờ mờ dưới ánh sáng hắt ra từ một ngọn đèn nhỏ đặt trên thùng nước. Hắn đang đứng đúng chỗ chúng tôi đứng năm phút trước đây.

Chúng tôi nhanh chóng tấp vào cổng ngôi nhà gần nhất, dựa lưng vào cửa, hổn hển nhìn nhau.

“Một phút trước còn không thấy hắn đâu,” ông Lưu thì thào. “Cậu có nhìn thấy hắn không?”

“Không.”

“Làm thế quái nào để về nhà bây giờ?”

Chúng tôi đứng đó khá lâu, tim đập thình thịch, ai cũng hy vọng chính người kia sẽ quyết định phải làm gì. Tôi biết con đường này tiếp tục chạy thẳng rất lâu mới có ngã rẽ, để sang được một hẻm khác chúng tôi phải băng qua một đoạn đường dài trước mặt tên lính Nhật kia. Tôi hít một hơi thật sâu, kéo sụp mũ xuống trán và mạo hiểm thò đầu ra ngoài phố chỉ thoáng có một giây, đủ để kịp nhìn thấy tên lính kia. Tôi rụt đầu lại, nép sát vào tường và thở dốc.

“Sao rồi?” Ông Lưu thì thào. “Cậu nhìn thấy gì?”

“Hắn ta đang đợi cái gì đó.”

“Đợi á? Đợi cái...”

Nhưng trước khi ông kịp nói hết câu thì chúng tôi đã có câu trả lời: một âm thanh quen thuộc vọng lại từ xa, một tiếng động rì rầm đáng sợ khiến những ngôi nhà ọp ẹp quanh chúng tôi rung lên. Cả hai chúng tôi đều biết rõ âm thanh đó. Xe tăng.

Theo bản năng cả hai chúng tôi đều tránh khỏi con đường, lùi vào phía trong, dùng hết sức lực lao người vào cánh cửa hy vọng tiếng động của xe tăng sẽ hỗ trợ cho nỗ lực của chúng tôi. Chúng tôi sẵn sàng trèo tường nếu cần thiết nhưng cánh cửa đã vỡ toác ra đúng lúc tiếng xe tăng vang lên ầm ĩ ngay sau lưng, chắc chúng vừa rẽ từ một góc phố nào đó ra. Cánh cửa bật vào trong, một làn khí lưu cữu xộc ra và chúng tôi nhảy vào nhà, một đống hổ lốn mặc quần áo dày cộp, đầy sợ hãi, mồ hôi mồ kê trượt vào trong bóng tối. Bên trong nhà tối om ngoại trừ một lỗ hổng trên mái nơi ánh trăng lọt qua.

“Già Lưu ơi, già vẫn còn ở đó chứ?”

“Ừ, tôi đây.”

Chúng tôi cố gắng đóng lại cánh cửa vỡ được chừng nào hay chừng ấy rồi men theo tường đi xung quanh phòng, theo ánh trăng trên mái nhà. Thật đáng kinh ngạc khi người ta vẫn thản nhiên du nhập vào thành phố những thói quen ở nông thôn, người ta để gia súc sống cùng trong nhà để giữ ấm cho người vào ban đêm. Ông Lưu và tôi bước qua cái ổ ấm áp và bãi phân gia súc. Tiếng xe tăng ngày càng to khiến ngôi nhà nhỏ cọt kẹt như muốn đổ sập xuống.

“Lối này,” ông Lưu thì thầm. Ông đã dừng lại, và lúc này tôi mới thấy ông đang túm vào chiếc thang cói dẫn lên lỗ hổng trên mái nhà. Tôi đến bên cạnh ông và ngẩng đầu nhìn lên. Trên đầu chúng tôi, bầu trời đêm sáng trong với những vì sao xa lạnh lẽo, thanh thoát. “Đi thôi.”

Ông bám thang leo lên một cách lanh lẹ không ngờ so với tuổi của mình rồi dừng lại ở đầu cầu thang, đưa tay xuống cho tôi. Tôi nắm lấy tay ông vội vã leo lên, nhờ ông kéo qua lỗ hổng. Lên tới đầu thang, tôi đứng thẳng người lên và nhìn ra xung quanh. Chúng tôi đang đứng ở ngoài trời, tòa nhà này chỉ còn là một đống đổ nát, mái nhà đã bị phá hủy từ lâu chỉ còn lại những đám vôi vữa lổn nhổn và những thân gỗ mục ruỗng.

Tôi ra hiệu cho ông Lưu và hai chúng tôi bò đến bên mép, cẩn thận nhòm qua bức tường đổ nát. Chúng tôi đã bỏ chạy đúng lúc. Phía dưới chúng tôi một hàng xe tăng đang chậm rãi lăn xích. Tiếng ầm đinh tai nhức óc. Nó chạy dọc phố theo hình phễu rồi vươn lên không trung như một làn sóng nhiệt nóng tới mức dường như có thể chạm vào và lay chuyển cả mặt trăng. Những ngọn đèn trên ụ tăng rọi ánh sáng ma quái vào các ngôi nhà ven đường. Binh lính mang kiếm và súng cạc bin sáng loáng hành quân thẳng tắp hai bên xe tăng, khuôn mặt vô cảm. Đây hẳn là một đợt tổng hành quân tới các khu vực khác nhau của thành phố vì sau xe tăng còn có các phương tiện khác như xe ôtô do thám, xe tải lọc nước và một xe tải chở theo hai chiếc cầu phao.

Trong khi quan sát, tôi cũng để ý thấy một con chó, có lẽ vẫn là con mà chúng tôi nhìn thấy lúc nãy, từ một xó xỉnh nào đó chui ra và lạc giữa rừng chân của đám lính Nhật. Những tiếng kêu ăng ẳng và rên rỉ của nó chỉ được đáp lại bằng những cú đá dã man vào mạng sườn và chỉ vài phút sau nó bị ném ra vệ đường, đúng ngay trước đường đi của xe tăng và nhanh chóng biến mất khỏi tầm nhìn. Hai tên lính ngồi trên ụ tăng nhìn thấy con chó, tò mò cúi sang bên cạnh để xem, cười phá lên khi xích xe cán qua con vật. Rồi chiếc xe lăn tiếp, để lại con vật bị cán nát, chỉ còn lại duy nhất một chiếc chân sau lành lặn thò ra ngoài co giật liên hồi. Tôi không thích chó, nhưng sự khoái trá trong tiếng cười của những tên lính đó làm tim tôi buốt giá.

“Nhìn xem, già Lưu ơi, hãy nhìn xem.” Tôi thì thào. Lúc này tôi mới ngộ ra là mình đã ngờ nghệch làm sao khi tưởng lính Nhật cũng giống như chúng tôi, thậm chí còn tưởng tượng ra rằng chúng tôi có thể an toàn với chúng. Những người này không giống như chúng tôi. Tôi ngồi sụp xuống góc tường hai tay ôm đầu. “Chúng ta đã phạm phải sai lầm gì thế này. Một sai lầm thật khủng khiếp!”

Ông Lưu ngồi xuống bên cạnh tôi, nhẹ nhàng đặt cánh tay to bè lên lưng tôi. Tôi cảm thấy dễ chịu vì ông không nói lời nào. Dễ chịu vì nếu tôi mở miệng ra để trả lời thì tôi sẽ phải nói những từ đó: Có thể không phải bây giờ, không phải đêm nay nhưng kết cục sẽ sớm xảy ra thôi. Tin tôi đi già Lưu ạ, các bà vợ của chúng ta đã nói đúng. Chẳng bao lâu nữa chúng ta sẽ chết hết thôi.


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder   Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder Icon_minitimeSun Feb 03, 2019 9:08 pm


Chương 30

Trong taxi trên đường trở về nhà, Jason và tôi ngồi im lặng không nói năng gì. Irina và Svetlana thì hút thuốc, thỉnh thoảng lại cười khúc khích và xổ ra một tràng tiếng Nga. Tôi không nghe thấy gì cả. Cả người tôi ngứa ngáy như một con thú muốn được người ta vuốt ve. Tôi ngồi không yên, cứ ngọ nguậy liên tục cho đến khi Irina phát cáu và huých một nhát vào sườn tôi. “Im nào, đừng có ngọ nguậy như con giun thế. Điên à?” Bên cạnh cô, gần cửa xe, Jason lắc đầu vẻ ngấm ngầm thích thú. Anh ta cúi mặt xuống và đặt một đầu ngón tay lên mũi, gật gù như thể có một người vô hình vừa thì thầm gì đó vào tai anh ta.

Khi chúng tôi về đến nhà, hai chị em sinh đôi leo thẳng lên phòng của họ còn tôi dừng lại treo áo khoác của mình lên cái móc ở đầu cầu thang, ngay bên cạnh chiếc túi da của Jason rồi lẳng lặng bước về phòng. Anh ta đi theo tôi. Khi bước vào trong phòng tôi, anh ta có thể nhìn thấy tôi đang bồn chồn lo lắng. “Tôi biết là em sợ.”

“Không,” tôi vuốt dọc cánh tay. “Không. Tôi không sợ.”

Anh ta hẳn đang tự hỏi cái gì đã khiến tôi bối rối đến thế. Có lẽ anh ta đã nghĩ đến sự bạo hành, ngược đãi trẻ em hay hiếp dâm. Tôi run tới mức tôi phải hít một hơi thật sâu mỗi khi anh ta chạm vào người tôi. Tôi cố gắng giữ bình tĩnh và hình dung ra một cái gì đó bình yên, tối và vững chãi nằm ngay dưới xương sườn tôi và tôi không thể nào suy sụp. Nhưng dường như Jason không hề chú ý đến chuyện gì cho đến khi anh ta ép được tôi đứng sát vào chiếc bàn trang điểm với chiếc váy hất cao lên tới tận eo. Anh ta đứng giữa đôi chân dang rộng của tôi và nhìn chằm chằm như thể bị thôi miên vào bụng dưới của tôi, nơi chúng tôi sẽ kết hợp với nhau. Nơi da thịt kín đáo nhất của tôi sẽ chạm vào anh. Tôi có thể cảm thấy trái tim anh đang đập thình thịch trong từng mạch máu đi lên háng anh. “Cái này,” anh nói, luồn tay vào cạp quần của tôi. “Hãy cởi nó ra.”

“Không,” tôi túm chặt lấy chúng. “Xin đừng.”

“À,” anh nói với giọng trầm trầm đầy phấn khích, tò mò quan sát khuôn mặt tôi. “Có phải đây chính là điều mà em luôn che giấu?” Anh lại luồn tay vào chiếc cạp chun.

“Không!” Tôi quay ngoắt người lại, làm rơi một vài thứ trên bàn trang điểm xuống đất. “Xin đừng, xin anh đừng…”

“Lạy Chúa tôi,” anh nói và thở gấp như thể tôi vừa làm gì đó khiến anh bị thương tổn. “Thoải mái nào, thoải mái nào.” Anh đột nhiên bước sang bên cạnh, chống hai tay xuống bàn để lấy lại thăng bằng. “Khỉ thật, cô gái lập dị. Thoải mái nào.”

Tôi ngồi thụp xuống, lấy tay che mặt. “Tôi xin lỗi, xin lỗi. Làm ơn đừng cởi nó ra.”

Anh không trả lời. Cả hai chúng tôi không nói gì trong một lúc lâu. Bầu không khí im lặng khó chịu bao trùm lấy chúng tôi. Chỉ nghe thấy tiếng tim tôi đập thình thịch. Giá như tôi có thể nói cho anh biết. Giá như tôi có thể. Tôi ước gì mọi chuyện đã khác. Cuối cùng anh đặt môi lên gáy tôi và phả ra một hơi thở ấm nóng. Người tôi như đông lại vì sợ những điều anh sắp nói ra.

“Em có biết không, cô gái lập dị? Em không thể tưởng tượng được chúng ta giống nhau như thế nào đâu. Em và tôi. Tôi biết chính xác trong đầu em đang nghĩ gì.”

“Xin đừng cởi chúng ra.”

“Tôi sẽ không cởi chúng ra. Bây giờ thì không. Nhưng để tôi nói cho em biết chuyện gì sẽ xảy ra nhé! Một ngày nào đó, em sẽ tự nói cho tôi biết đó là gì. Và em biết không?”

Tôi bỏ tay ra khỏi mặt và nhìn anh: “Biết cái gì cơ?”

“Rằng hóa ra nó chẳng có gì to tát cả. Bởi vì…” Anh ngừng lại đưa mắt lên bức tranh tường tôi vẽ cảnh Tokyo và những bức họa Nam Kinh tôi ghim lên trên đó. Mắt anh lấp lánh trong ánh sáng mờ nhạt của căn phòng. “Bởi vì em và tôi, chúng ta giống nhau. Em có biết không?”

Tôi lắc đầu, lấy hai tay chùi mặt rồi hất sợi tóc vương trên mắt. “Em xin lỗi,” tôi thì thào. “Em thật sự xin lỗi.”

“Em không cần phải xin lỗi.” Anh hôn lên cổ tôi, lưỡi anh chạm vào lớp da ngay dưới tai tôi, chờ một lúc cho tôi bình tâm trở lại và tiếp nhận anh. “Em không cần phải xin lỗi, vấn đề duy nhất là...”

“Ừmmm.”

“Là nếu em giữ chiếc quần này lại thì anh sẽ làm tình với em bằng cách nào cơ chứ?”

Tôi hít một hơi thật sâu, đẩy anh ra rồi vén váy lên cao. Tôi dùng ngón trỏ luồn vào đũng quần rồi kéo nó sang một bên. Chỉ trong nháy mắt, anh đã hiểu ra phép nhiệm mầu của chiếc quần nịt.

Sau đó, mọi chuyện xảy ra hoàn toàn tuyệt vời, giống như mọi nguyên tử và tế bào trong người tôi chợt căng ra cùng một lúc và thoát khỏi người tôi, quay cuồng giữa các vì sao và các hành tinh. Sau khi mọi chuyện kết thúc, tôi gần như không thốt nên lời. Jason kéo quần lên, lấy một điếu thuốc của tôi đưa lên miệng và châm lửa, vểnh cằm lên hút khiến điếu thuốc trông giống như đang trồng cây chuối. Anh đứng khoanh tay nhìn chằm chằm vào những bông hoa nhỏ xíu trên quần lót của tôi qua lớp khói thuốc như thể nghi ngờ tôi đang chơi xỏ anh chuyện gì.

“Chuyện gì vậy?” Tôi lo lắng hỏi, đưa tay vuốt nhẹ chiếc cạp quần phía trên bụng xem các vết sẹo có bị hở ra không. “Chuyện gì vậy?”

Anh rút điếu thuốc ra khỏi miệng và cười phá lên. “Không có gì.” Anh búng tàn thuốc vào không khí thành một đường lấp lánh như nhà ảo thuật. Rồi anh bước ra khỏi phòng không nói một tiếng nào. Tôi nghe tiếng anh ở phía cuối hành lang, lấy chìa khóa, xỏ giày và bước xuống cầu thang. Rồi ngôi nhà lại trở nên yên lặng. Tôi ngồi một mình bên chiếc bàn trang điểm, hầu như trần truồng, ngoại trừ chiếc quần nịt mầu nhiệm.

Tôi trượt khỏi bàn và lại gần cửa sổ. Ngõ hẻm vắng tanh. Jason mất tăm. Đúng là anh đi thật rồi. Tôi ngước mắt nhìn Mickey Rourke, bắt gặp đôi mắt của ông ta. Ông ta vẫn đang mỉm cười như không có chuyện gì xảy ra. Một cơn gió êm ái nhất, ngọt ngào nhất từ phía vịnh Tokyo thổi tới khiến những cây tre rung rinh và tôi như ngửi thấy hương vị của những hòn đảo từ biển Nam với mùi tôm chiên bay ra từ những chiếc thuyền mành. Âm thanh duy nhất lúc này là tiếng gió thổi xào xạc qua bụi tre và tiếng ồn của xe cộ từ xa vẳng lại.

Thế này là thế nào? Phải chăng anh đã bỏ tôi lại, giống như mấy anh chàng trên chiếc xe tải? Phải chăng tôi đã làm hỏng mọi chuyện. Tôi ngồi xuống sàn nhà, sờ tay vào bụng. Tim tôi đập dồn dập. Lẽ ra tôi không bao giờ được để mọi chuyện đi xa như thế này... Lẽ ra tôi phải để mọi chuyện dừng lại đúng lúc. Tôi nhìn chiếc bao cao su mà anh bỏ lại trong sọt rác và cái cảm giác trống rỗng, hụt hẫng y như cái lần tôi nhìn theo chiếc xe tải mất hút trong đêm lại ùa về, khiến tôi cảm thấy nôn nao. Mày vẫn chưa rút ra bài học từ lần đó hay sao?

Cuối cùng tôi mặc váy vào. Tôi đi đến thùng rác, lấy móng tay kẹp chiếc bao cao su và đi ra hành lang tối đen. Tôi vứt nó vào chiếc bồn cầu kiểu Nhật nhìn nó một lúc rồi giật nước. Nước tràn vào, lấp lánh dưới ánh trăng, khiến chiếc bao cao su quay quay nhiều vòng. Rồi nó chìm xuống và tôi không còn nhìn thấy gì nữa.

Từ phía cuối ngôi nhà vang lên tiếng sập cửa và tôi nghe tiếng bước chân trên cầu thang.

“Grey?”

Anh đã quay trở lại. Tôi bước ra hành lang và nhìn thấy anh đang đứng đó, tay trĩu nặng những túi đồ mua từ siêu thị 24 giờ. Bây giờ nghĩ lại thì nó có vẻ thật ngớ ngẩn, nhưng lúc đó, khi anh trở lại, với tôi, trông anh giống hệt như một thiên thần. Tôi nhìn thấy những chai rượu sake lớn và một gói khô mực to đùng thò ra ngoài miệng túi.

“Chúng ta cần nhiên liệu.” Anh lôi một túi bánh sembei ra cho tôi xem. “Chúng ta cần năng lượng để tiếp tục.”

Tôi nhắm mắt lại và thả hai tay xuống.

“Gì vậy?”

“Không có gì. Không có gì,” tôi nói và tự dưng mỉm cười một cách ngốc nghếch.


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder   Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder Icon_minitimeSun Feb 03, 2019 9:08 pm


Chương 31

史 Nam Kinh, ngày 18 tháng Mười hai năm 1937

Sau đoàn xe thiết giáp, sau những tiếng ầm đinh tai nhức óc và ánh đèn sáng chói là lính bộ binh. Chúng tràn vào phố như những tên hung thần mà ông Lưu nhìn thấy ở Tô Châu. Mỗi khi đường phố trở lại im ắng và chúng tôi vừa bắt đầu hy vọng tẩu thoát thì lại nghe thấy những tiếng loảng xoảng của lưỡi lê, tiếng những chiếc ủng da lợn va vào nhau rồi lại có ba, bốn tên lính Nhật xuất hiện, súng arisaka gắn lưỡi lê trong tư thế sẵn sàng. Một tên lính tuần tra đang ngồi hút thuốc trên một chiếc sọt ở đầu đường vẫy tay ra hiệu cho đồng đội tiến tới. Kiệt sức và lạnh cóng, cuối cùng hai chúng tôi ngồi sát vào nhau cho ấm, lưng dựa vào tường, quàng vai nhau như hai huynh đệ.

Khi chúng tôi ở trên đó được hơn hai tiếng thì mặt trăng trông giống như một chiếc đĩa bằng bạc, sáng tới mức những vết lồi lõm trên bề mặt hiện ra lồ lộ, bỗng di chuyển tới một tọa độ khác, xuống phía Tây của bầu trời và chiếu sáng lên một khối vật thể dị thường, méo mó, đen sì, che kín cả một vùng trời. Cả hai chúng tôi nhìn chằm chằm về phía đó một lúc lâu.

“Cái gì thế nhỉ?” Ông Lưu thì thào.

“Có phải núi Lão Hổ không?”

Người ta nói rằng chỉ có vài địa điểm ở Nam Kinh có thể nhìn thấy rõ cái đầu hổ của núi Lão Hổ. Phải tìm đúng chỗ thì mới nhìn thấy được. Từ góc này, tôi khó có thể nhận ra núi Lão Hổ vì trông nó khác hẳn, nhỏ bé một cách kỳ lạ, giống như vừa bị quân xâm lược san bằng. “Chỉ có thể là núi Lão Hổ mà thôi.”

“Không ngờ chúng ta đi xa thế.”

“Tôi biết,” tôi thì thầm. “Nghĩa là chúng ta ở gần tường thành hơn chúng ta tưởng.”

Một đám mây bay ngang qua mặt trăng, một dải màu đỏ và bạc khiến những mảng tối trên mái nhà chập chờn, xao động. Tôi nhắm mắt lại và ngồi sát vào ông Lưu. Sau lưng chúng tôi, đường phố vẫn văng vẳng tiếng hành quân của lính Nhật. Đột nhiên tôi cảm thấy rã rời và chán nản. Tôi biết cả hai sẽ phải ngủ lại đây trên mái nhà này. Ông Lưu siết lại áo khoác rồi bắt đầu thầm thì kể chuyện. Ông kể về cái ngày con trai ông sinh ra ở Thượng Hải, trong một ngôi nhà ở gần khu Bund thượng lưu. Tất cả họ hàng đã tới tham dự lễ đầy tháng của cậu bé với những phong bì quà tặng đầy những đồng xu bên trong, chơi đùa với cậu khiến cậu khoái chí cười vang, đạp chân đạp tay làm những chiếc chuông nhỏ bằng vàng đeo trên cổ tay và cổ chân kêu leng keng. Ông Lưu nói không thể tin được giờ ông đang sống trong một ngôi nhà tuềnh toàng trong ngõ hẻm và chạy khắp phố săn lùng một con chó ốm làm thức ăn.

Trong khi ông nói thì tôi nhét tay áo vào trong găng và kéo lại áo dài để che kín người. Những lời của ông Lưu tràn ngập đầu óc tôi, khiến tâm trí tôi dập dềnh, trôi nổi ra khỏi Nam Kinh, qua núi Lão Hổ, qua sông Dương Tử, qua những đồng bằng phù sa ngập mặn, qua hàng ngàn dặm đường làng với những miếu thờ nghi ngút khói hương bên vệ đường, những bãi tha ma gần đường tàu, tiếng quàng quạc của lũ vịt bị lôi ra chợ bán, những ngôi nhà xây bằng đá màu vàng, nóng như rang vào mùa hè nhưng biệt lập và an toàn vào mùa đông, trôi tới tận Thượng Hải. Tôi nghĩ tới các gia đình trên khắp mọi làng quê Trung Hoa đang kiên nhẫn chờ đợi dưới những cây gỗ tếch, nghĩ tới những tá điền trung thực và tiết kiệm, không lãng phí một thứ gì, rơm rạ dùng để nhóm lửa, bong bóng lợn được dùng làm đồ chơi cho trẻ con. Tôi cố gắng không nghĩ đến cảnh xe tăng Nhật hành quân qua đó. Tôi cố gắng không hình dung ra cảnh chúng giày xéo làng quê, trên xe lá cờ mặt trời mọc phấp phới bay còn dưới chân bọc thép, đất đai run rẩy.

Cuối cùng, mắt tôi cũng sụp xuống. Ông Lưu đã im lặng từ lâu. Tôi dần chìm vào một giấc ngủ mơ màng.

史 Nam Kinh, ngày 19 tháng Mười hai năm 1937 (ngày mười bảy tháng Mười một âm lịch)

“Dậy thôi.”

Tôi mở choàng mắt và điều đầu tiên tôi nhìn thấy, ngay sát mặt mình, là gương mặt ướt đẫm và ửng hồng của Lưu Nhuận Đức, hai hàng lông mi bám đầy tuyết. “Dậy nhìn xem.”

Trời mới tờ mờ sáng, và ông đang chỉ lên trên mái nhà, mặt lộ rõ vẻ bất an. Tôi choàng tỉnh giấc. Tôi đã quên mất là mình đang ở đâu. Mái nhà lúc này phủ đầy tuyết và bình minh choàng lên mọi vật một màu hồng yếu ớt.

“Nhìn xem,” ông giục. “Nhìn xem.”

Tôi vội vàng phủi lớp tuyết bám trên người và cố gắng ngồi dậy. Người tôi lạnh cóng tới mức các khớp xương kêu răng rắc và cứng đơ lại khiến ông Lưu phải nắm lấy vai tôi và đỡ tôi ngồi dậy nhìn về phía Tây.

“Núi Lão Hổ. Cậu có nhìn thấy gì không?” Trong giọng nói của ông Lưu có cái gì đó kinh hoàng. Ông đang đứng cạnh tôi, vừa nói vừa phủi tuyết bám trên găng tay. “Hãy nói cho tôi biết, Sử Trùng Minh, đây có phải là cái núi Lão Hổ mà cậu biết hay không?”

Tôi chớp mắt bối rối, vẫn còn ngái ngủ. Chân trời phía trước đỏ rực với những đám cháy như thể chúng tôi đang ở dưới địa ngục, những tia sáng nhuốm màu máu của chúng rọi lên ngọn núi khủng khiếp trước mặt tôi. Bây giờ thì tôi mới hiểu ông Lưu muốn nói gì. Không. Đây hoàn toàn không phải là núi Lão Hổ. Tôi đang nhìn thấy một thứ hoàn toàn khác. Như thể mặt đất vừa khạc ra ngoài một thứ độc tố, một thứ độc tố kinh hoàng mà nó không thể giữ lại trong lòng được.

“Không thể nào,” tôi thì thào, lập cập đứng dậy như trong cơn mê ngủ. “Lạy trời, có phải là tôi đang tưởng tượng ra hay không?”

Đó là hàng trăm, đúng hơn là cả nghìn xác chết. Chúng chồng chất lên nhau tầng tầng lớp lớp, cơ man nào là thây người, đầu quay tứ phía, những đôi chân mềm rũ, giày tụt ra ngoài lủng lẳng. Ông Lưu và tôi đã ngủ trước một núi thây người dưới ánh trăng. Tôi không thể nào ghi chép ra đây tất cả những gì tôi nhìn thấy lúc đó, sợ rằng sự thật tàn khốc ấy sẽ thiêu cháy những trang giấy này - những người cha, những người con trai, những người anh em, những biến thể vô hạn của nỗi đau. Còn có cả một tiếng động, một âm thanh rì rầm vang lên từ phía ngọn núi. Giờ đây khi tôi nghĩ về nó, tôi chợt nhận ra rằng chắc ngọn núi đã nằm ở đó từ lâu lắm rồi, từ trước khi tôi tỉnh giấc. Từ khi tôi còn đang nằm mơ, nó đã xuất hiện trong những giấc mơ của tôi. Ông Lưu đứng dậy và rón rén bước lên phía trước. Tôi lập cập bò theo sau, cả người tê cóng. Trước mắt chúng tôi là toàn cảnh khu vực phía Đông Nam Kinh; bên tay phải là sông Dương Tử lấp lánh và mũi đất hẹp của đảo Baguazhou còn bên trái là ống khói màu nâu của các nhà máy ở Hạ Quan. Và ở chính giữa, chỉ cách khoảng hơn hai trăm mét, lấn át mọi vật xung quanh nó là một núi thây người, mọc lên từ mặt đất.

Ở giữa ngôi nhà mà chúng tôi đang lẩn trốn và núi thây người kia có một bãi đất trống, lúc này đang nhung nhúc người. Những người này đang di chuyển về cùng một hướng. Một số người còn xách theo đồ đạc, chăn chiếu, nồi niêu và gạo như thể họ đang chuẩn bị cho một đợt vắng nhà ngắn ngày. Đi canh chừng đám đông là các sĩ quan Nhật, đầu đội mũ lưỡi trai màu nâu, cử động như những cỗ máy vừa được bôi trơn dầu mỡ. Chúng đang giải tù binh đi. Ánh nắng chiếu lên gáy họ, và mặc dù chúng tôi không nhìn thấy mặt các tù binh nhưng từ những tiếng rì rầm khi họ nhận ra bản chất cái ngọn núi trước mặt, chúng tôi có thể đoán được chuyện gì đang xảy ra. Đó là lời thì thào của hàng nghìn con người đang đối mặt với nỗi sợ hãi.

Tất cả bọn họ đều là đàn ông nhưng không phải ai cũng là quân nhân. Điều này rõ như ban ngày. Tôi nhìn thấy những mái tóc hoa râm. “Họ chỉ là dân thường, già có nhìn thấy không?” Tôi nói khẽ với ông Lưu.

“Cậu Sử Trùng Minh ơi, tôi không còn biết nói gì nữa. Không có gì ở Thượng Hải có thể so sánh với cảnh tượng này.” Ông đặt tay lên tay tôi, buồn bã nói.

Khi chúng tôi đứng đó quan sát thì đám đông bắt đầu hoảng loạn, những người đi đầu hẳn đã hiểu ra là họ đang bị dẫn tới chỗ chết. Người ta bắt đầu la hét, một đợt sóng người chững lại, cố tránh xa cái số phận đang chờ đón họ, tuyệt vọng tìm mọi cách để đảo ngược tình thế. Họ đâm sầm vào những tù nhân phía sau, tạo nên một tình trạng hỗn loạn, tất cả đều cuống cuồng tìm cách bỏ chạy về các hướng khác nhau. Nhìn thấy cảnh lộn xộn đó, những tên lính Nhật không nói không rằng, di chuyển theo bài bản thành một vành móng ngựa xung quanh đám tù binh, dồn họ lại và giơ súng lên. Những tù binh ở hàng ngoài trông thấy súng bắt đầu lấy mọi vật dụng trong tay lên để che chắn, giày, mũ, ly, cốc... Bọn Nhật bắt đầu xả đợt đạn đầu tiên.

Tác động thật đáng kinh ngạc. Dường như cái mà chúng tôi đang chứng kiến không phải là một đám đông mà là một thực thể sống, nước hay cái gì đó sền sệt, di chuyển như một sinh vật đơn bào. Một đợt sóng chồm lên. Dòng thác người dựng những người bị thương và sắp chết lên làm khiên chắn còn ở giữa đám đông người ta co cụm lại, giống như mặt đất đang chồi lên vì người ta bắt đầu giẫm đạp lên nhau để tiến về phía trước.

Lại có thêm nhiều tiếng súng nổ. Thậm chí, giữa tiếng la hét, tôi còn nghe thấy cả tiếng lên đạn. Những người ở giữa đám đông tiếp tục trèo lên người nhau để chạy trốn, cho đến khi trước mắt tôi hiện lên một cột người, mọc vươn về phía mặt trời, giống như một ngón tay đang chỉ thẳng lên trời.

Rồi chúng tôi nghe thấy những tiếng kêu khóc. Bên cạnh tôi, ông Lưu lấy tay ôm mặt, người run lên bần bật. Tôi không đưa tay ra cho ông vì đang bị hút vào cái vật hình ngón tay run rẩy kia. Tôi chợt nghĩ xa xăm, nghị lực của con người thật phi thường, có thể vươn tới trời xanh mà không cần phải níu giữ vào bất cứ vật gì. Thế nhưng, chỉ vài phút sau, cái cột người cao tới sáu, bảy mét ấy bỗng đổ sập xuống, và đè lên tất cả những gì nằm ở phía dưới. Rồi trong nháy mắt, chiếc tháp người ấy lại được dựng lên từ một khu vực khác giữa đám đông, sự khởi đầu khá lỏng lẻo của một ngón tay mọc ra từ hồ nước trước khi nhô lên cao, cao mãi cho tới khi nó chỉ thẳng lên bầu trời một cách gay gắt với lời buộc tội: Sao người lại cho phép chuyện này xảy ra?

Đột nhiên tôi nhìn thấy một người đột ngột tách ra khỏi đám đông và chạy về phía ngôi nhà chúng tôi đang lẩn trốn. Một người khác đang rượt theo anh ta. Tôi túm lấy tay ông Lưu. “Nhìn kìa!”

Khi anh ta lại gần, tôi nhận ra đó là một người lính Nhật trẻ măng, đầu cạo trọc, mặt bừng bừng quyết tâm. Có ba người khác rượt theo anh ta, qua bộ quân phục của chúng, tôi có thể đoán đó là cấp trên của anh ta. Những thanh kiếm đeo bên hông làm giảm tốc độ của chúng, nhưng những người này rất to cao, và nhanh chóng bắt kịp người lính đang bỏ chạy kia. Một tên tóm được tay áo của anh ta và kéo lại khiến anh ta loạng choạng, tay vung ra chới với. Tôi và ông Lưu cúi thấp người hơn nữa. Đám người kia chỉ còn cách chúng tôi vài bước. Chúng tôi có thể thò đầu ra và nhổ vào mặt chúng.

Người lính bỏ trốn vẫn loạng choạng thêm vài bước, tay vung vẩy giữ thăng bằng. Rồi anh ta dừng lại, hai tay đặt trên gối và thở hổn hển. Tên sĩ quan buông tay áo anh ta ra, lùi lại một bước rồi quát: “Đứng nghiêm. Đứng nghiêm, đồ con lợn.”

Người lính trẻ miễn cưỡng đứng thẳng dậy, quay lưng nhìn thẳng vào mặt những kẻ vừa rượt đuổi anh ta, ngực phập phồng. Bộ quân phục của anh ta rách tả tơi và anh ta đứng gần tới mức chúng tôi có thể nhìn thấy các nốt mụn rộp trên gáy anh ta.

“Mày nghĩ là mày đang làm gì cơ chứ?” Một tên sĩ quan hỏi. “Mày đã tự động rời bỏ hàng ngũ.”

Người lính bắt đầu lẩm bẩm gì đó nhưng vì quá run nên anh ta không nói nên lời. Anh ta quay lại nhìn khung cảnh địa ngục trước mặt, nhìn cái cột người khổng lồ, xác người từ đó rơi xuống như những con quạ. Khi anh ta nhìn sang cấp trên của mình, mặt anh ta tràn ngập một nỗi đau đớn khiến tôi cũng cảm thấy thương hại. Nước mắt anh ta bắt đầu rơi lã chã, nhưng dường như điều đó chỉ làm cấp trên của anh ta thêm khó chịu. Chúng đứng xung quanh anh ta, mặt đằng đằng sát khí. Một tên nghiến răng đến trẹo cả quai hàm rồi chẳng nói chẳng rằng, rút kiếm ra. Người lính trẻ lùi lại phía sau.

“Suy nghĩ lại đi,” tên sĩ quan ra lệnh, bước lên phía trước. “Quay lại đi.”

Người lính lại lùi thêm bước nữa.

“Suy nghĩ lại và quay về đi.”

“Chúng nói gì vậy?” Ông Lưu hỏi khẽ.

“Anh ta không muốn bắn vào tù binh.”

“Quay lại ngay!”

Người lính vẫn lắc đầu. Cử chỉ đó khiến viên sĩ quan càng tức giận. Hắn ta chộp hai tay người lính, xoay ngược anh ta lại rồi dúi anh ta ngã xuống đất. “Suy nghĩ lại đi.” Hắn giơ chiếc giày đinh lên và gí vào má anh ta. Hai viên sĩ quan kia cũng tiến lại gần hơn. “Đồ con lợn.” Tên sĩ quan lại tiếp tục nghiến giày lên mặt người lính trẻ, cho đến khi má của anh ta bị kéo xệ sang quá miệng và nước bọt chảy tràn ra. Anh ta sẽ bị rách cả thịt ra ngay thôi, tôi nghĩ. “Một cơ hội nữa đấy - Hãy nghĩ lại đi.”

“Không,” anh ta lắp bắp. “Không.”

Tên sĩ quan lùi lại một bước và giơ kiếm lên quá đầu. Người lính giơ tay lên định nói gì đó nhưng tên sĩ quan vẫn tiếp tục dấn tới trong cơn hung bạo. Thanh kiếm chém xuống, bóng in dài trên mặt đất, lưỡi kiếm sáng lóa dưới ánh mặt trời. Người lính lăn lộn trên mặt đất, hai tay ôm mặt, mắt nhắm nghiền.

“Không. Trời ơi, không,” ông Lưu thì thào rồi lấy hai tay che mắt. “Cậu có thấy gì không? Anh ta chết rồi à?”

“Không.”

Người lính đang lăn lộn trên mặt đất. Viên sĩ quan chỉ dùng sống kiếm đập vào mặt người lính trẻ nhưng thế cũng đã đủ hạ gục anh ta. Anh ta cố đứng thẳng dậy nhưng không được, hai chân xoạc dài trên tuyết. Anh ta ngã khuỵu xuống, và một trong hai tên sĩ quan còn lại bồi thêm cho anh ta một nắm đấm khiến anh ta ngã ngửa người ra phía sau, máu miệng phụt ra ngoài. Tôi nghiến chặt răng, chỉ muốn nhảy qua bức tường tóm lấy tên sĩ quan đó.

Cuối cùng người lính cũng gượng dậy được. Trông anh ta thật thảm thương, toàn thân co giật, rúm ró, mặt đầy máu. Anh ta lẩm bẩm gì đó rồi giơ tay về phía viên đại úy trước khi quay trở lại phía đám tù binh. Anh ta nhặt khẩu súng trường khoác lên vai rồi loạng choạng đi tiếp như một người say rượu, nhắm bừa vào đám đông rồi xả một loạt đạn vu vơ. Một vài người lính trong hàng liếc sang anh ta nhưng khi phát hiện ra ba tên sĩ quan mặt mũi lầm lì ở phía sau liền quay lại nhìn đám tù binh đang hoảng loạn.

Đám sĩ quan này chỉ lặng lẽ quan sát sự khuất phục của người lính mà không có bất cứ biểu hiện nào khác. Không tên nào cử động hay nói năng gì, thậm chí chẳng thèm quay sang nhìn nhau. Chỉ đến khi người lính không tỏ ra bất kỳ dấu hiệu bỏ trốn nào nữa thì chúng mới di chuyển. Một tên lấy tay quệt trán, tên khác lau kiếm rồi tra vào bao trong khi tên thứ ba nhổ toẹt một bãi nước bọt xuống tuyết như thể hắn không thể chịu đựng chuyện này lâu hơn được nữa. Rồi, một lúc sau, chúng chỉnh mũ thẳng lại, quay về với cuộc thảm sát, đi cách xa nhau, tay hết giơ lên rồi lại hạ xuống, cả gươm lẫn bóng gươm đều mệt mỏi kéo lê trên mặt đất ngay bên cạnh chúng.


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Sponsored content





Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder   Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder Icon_minitime

Về Đầu Trang Go down
 
Ác Quỷ Nam Kinh - Mo Hayder
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 3 trangChuyển đến trang : 1, 2, 3  Next

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
Nhanbkvn 2024 :: THƯ VIỆN SÁCH TRUYỆN :: Truyện Trinh Thám-
Chuyển đến