Nhanbkvn 2024
Chào Mừng Các Bạn Tham Gia Và Chia Sẽ Tại Diễn Đàn Nhanbkvn
Nhanbkvn 2024
Chào Mừng Các Bạn Tham Gia Và Chia Sẽ Tại Diễn Đàn Nhanbkvn
Nhanbkvn 2024
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Nhanbkvn 2024

Chia Sẽ Không Giới Hạn
 
Trang ChínhTrang Chính  Sự kiệnSự kiện  Latest imagesLatest images  PublicationsPublications  Tìm kiếmTìm kiếm  Đăng kýĐăng ký  Đăng NhậpĐăng Nhập  

 

 Án Mạng Nhà Ở Mục Vụ - Agatha-christie

Go down 
Chuyển đến trang : Previous  1, 2
Tác giảThông điệp
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Án Mạng Nhà Ở Mục Vụ - Agatha-christie - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Án Mạng Nhà Ở Mục Vụ - Agatha-christie   Án Mạng Nhà Ở Mục Vụ - Agatha-christie - Page 2 Icon_minitimeWed Feb 06, 2019 4:57 am

Chương 25

Thật khó mà giũ bỏ vết hằn do lá thư nặc danh kia để lại. Quả là trò bôi bẩn!

Tuy vậy, tôi vẫn gom ba lá thư còn lại, xem đồng hồ rồi lên đường, tự nhủ không rõ cái điều cả ba quý bà cùng lúc ‘biết được’ kia là điều gì. Tôi nghĩ là cùng một sự việc. Ở đây, tôi phải thừa nhận là về tâm lý mình đã có sự nhầm lẫn.

Không chủ định, nhưng bước chân tôi cứ bị lôi về hướng đồn cảnh sát. Tôi nóng lòng muốn biết Thanh tra Slack đã từ Old Hall về chưa. Đến nơi, tôi thấy ông ta đã về, và cả cô Cram cũng trở về với ông ta. Cô Gladys xinh đẹp ngồi ở đồn cảnh sát đang tỏ vẻ kiêu căng ngạo mạn và tuyệt đối bác bỏ việc mình mang vali vào rừng.

“Chỉ vì một bà già ngồi lê đôi mách chẳng biết làm gì ngoài việc suốt đêm nhóng cổ nhìn ra cửa sổ mà ông đổ riệt vụ này cho tôi sao? Nhớ lại coi, bà ta đã một lần nói tầm bậy là nhìn thấy tôi đứng ở cuối đường làng vào buổi chiều xảy ra án mạng; ban ngày ban mặt mà còn trông gà hóa cuốc thì dưới ánh trăng làm sao nhận ra tôi chứ! Cái lối cư xử của quý bà ở làng này thiệt hết sức tồi tệ, hễ muốn nói gì là nói à. Còn tôi thì hôm đó tôi đang ngủ ngon lành trên giường. Các ông phải biết xấu hổ chứ, cả đám mấy ông đó!”

“Giả sử bà chủ nhà trọ Blue Boar xác nhận chiếc vali ấy là của cô thì sao, cô Cram?”

“Nếu bà ta mà nói vậy thì bà ta sai bét. Trên vali đâu có ghi tên! Mà hầu như ai cũng có loại vali đó. Còn với tiến sĩ Stone, biết bao công trình mang tên ông ấy, vậy mà mấy ông dám kết tội người ta như thằng ăn cắp vặt!”

“Vậy cô từ chối giải thích chuyện này với chúng tôi sao cô Cram?”

“Hổng có từ với chối gì hết. Ông sai rồi, có vậy thôi. Ông và cái bà Marple chuyên chõ mỏ vào chuyện thiên hạ đó. Tôi sẽ không nói thêm một lời nào — nếu không có mặt luật sư của tôi. Nếu ông không định bắt tôi thì bây giờ tôi về đây.”

Thay cho câu trả lời, viên thanh tra đứng dậy mở cửa, và cô Cram ngẩng cao đầu bước ra.

“Cô ta cứ khăng khăng như thế,” Slack vừa trở lại chỗ ngồi vừa nói. “Phủ nhận hoàn toàn. Mà dĩ nhiên bà già ấy cũng có thể nhìn lầm. Không quan tòa nào tin anh nhận diện được một người từ khoảng cách xa dưới ánh trăng. Và dĩ nhiên như tôi đã nói, có thể bà ấy đã nhầm lẫn.”

“Có thể thôi, nhưng tôi không nghĩ bà ấy nhầm,” tôi nói. “Thường thì bà Marple luôn đúng, chính vì vậy mà nhiều người không ưa bà ấy.”

Viên thanh tra toét miệng cười.

“Hurst cũng nói vậy đó. Chúa ơi, cái làng này!”

“Về đồ bạc thì sao rồi, thanh tra?”

“Mọi việc có vẻ hoàn toàn đâu vào đấy. Dĩ nhiên một trong hai bộ phải là hàng nhái. Ở Much Benham có một chuyên gia cao cấp về đồ bạc cổ, tôi đã gọi cho ông ta và cho xe đi đón ông ta rồi. Chúng ta sẽ sớm biết tên trộm đã đánh tráo các món ấy chưa hay chỉ mới dự định, mà dù đằng nào thì cũng không làm khác đi cái việc — ý tôi là việc chúng ta đang quan tâm. So với án mạng thì vụ trộm chỉ là chuyện nhỏ, và hai người ấy không liên quan gì đến việc giết người. Thông qua cô gái, ta có thể nắm thông tin về hắn ta — tôi để yên cho cô ta đi là vì vậy đó.”

“Tôi ngờ lắm,” tôi nói.

“Khổ thân ông Redding. Ít thấy người nào lại vô cớ nhận tội như ông ta.”

“Tôi lại không nghĩ vậy,” tôi cười nhẹ.

“Phụ nữ gây ra lắm phiền phức,” ông thanh tra lên mặt dạy đời.

Ông ta thở dài và nói tiếp trước sự ngạc nhiên của tôi: “Dĩ nhiên, là Archer.”

“Ồ, ông cho là anh ta ư?”

“Sao chứ, đương nhiên rồi, ngay từ đầu tôi đã nghĩ thế. Chẳng cần thư nặc danh thì anh ta mới lọt vào tầm ngắm của tôi đâu.”

“Thư nặc danh à,” tôi hỏi ngay. “Vậy ông có nhận được thư nặc danh nào không?”

“Chuyện đó thì có gì lạ đâu mục sư. Mỗi ngày chúng tôi nhận ít ra cũng cả chục lá ấy chứ. Ồ vâng, người ta đã tố giác Archer với chúng tôi. Cứ như cảnh sát không tự tìm ra vậy! Archer là nghi can đầu tiên, nhưng rắc rối là ở chỗ hắn ta có chứng cứ ngoại phạm. Không phải là do không có liên quan mà phiền nỗi chứng cứ ấy có thể giúp hắn thoát tội.”

“Ý ông rốt cuộc hắn ta không liên quan, nghĩa là sao?” tôi hỏi.

“Chà, hình như cả chiều hôm ấy hắn ngồi với hai thằng bạn. Như tôi vừa nói, chuyện đó không nghĩa lý gì mấy, vì hạng người như Archer và lũ bạn hắn có thể thề thốt bất cứ chuyện gì. Bọn ấy thì đến một lời cũng không tin được, chúng tôi biết rõ mà. Nhưng công chúng thì không hiểu điều đó, và đáng tiếc là tòa lại tin vào công chúng. Họ chẳng biết gì cả, cứ hễ có người đứng ở ghế nhân chứng nói gì là họ tin ngay lập tức, cho dù đó là ai. Và lẽ dĩ nhiên thằng Archer sẽ thề sống thề chết là hắn ta không phạm tội.”

“Anh ta không được sốt sắng như ông Redding nhỉ?” tôi mỉm cười.

“Không phải ông ấy đâu,” viên thanh tra nói chắc như đinh đóng cột.

“Ai cũng muốn sống, tôi hiểu chứ,” tôi trầm ngâm.

“Nếu mục sư biết có những tên sát nhân thoát tội nhờ biết cách làm bồi thẩm đoàn mủi lòng thì ông sẽ ngạc nhiên đó,” thanh tra rầu rĩ nói.

“Nhưng ông thực sự tin rằng Archer là thủ phạm sao?” tôi hỏi.

Ngay từ đầu tới giờ tôi lấy làm lạ là dường như Slack chưa hề có ý kiến riêng về vụ mưu sát này. Ông ta chỉ quan tâm đến việc tìm cách kết tội dễ hay khó mà thôi.

“Tôi muốn chắc chắn hơn một chút nữa,” Slack thú nhận. “Một dấu vân tay hoặc dấu chân của hắn, hoặc giả có ai nhìn thấy hắn ở gần hiện trường vào thời điểm xảy ra án mạng. Vì không thể đánh liều tống giam hắn mà không có bằng chứng. Hắn bị bắt gặp một đôi lần lảng vảng quanh nhà ông Redding, nhưng hắn khai là đến gặp mẹ mình. Bà ta là người tử tế. Không, nói chung tôi ngờ bà phu nhân kia. Giá như tôi có chứng cứ xác thực về vụ tống tiền — nhưng trong vụ này ta không tìm ra bất cứ bằng chứng xác thực nào! Toàn là lý thuyết với giả định thôi. Thật đáng buồn là chẳng có bà cô già nào sống dọc theo con đường trước nhà mục vụ, chứ nếu có thì tôi dám cá hễ xảy ra chuyện gì thì bà ta đã nhìn thấy ngay, mục sư Clement ạ.”

Lời của Thanh tra Slack khiến tôi nhớ đến các lời mời, và tôi cáo từ ông ta. Đây là dịp hiếm hoi tôi gặp thanh tra lúc ông ta đang vui vẻ.

Người đầu tiên tôi đến thăm là bà Hartnell. Chắc bà ta đã đứng chờ tôi bên cửa sổ, vì tôi chưa kịp nhấn chuông thì bà đã mở cửa chính và siết chặt tay tôi rồi đưa tôi bước qua thềm nhà.

“Quý hóa quá! Mời mục sư vào đây cho kín đáo hơn.”

Chúng tôi bước vào một căn phòng nhỏ xíu như cái lồng gà. Bà Hartnell đóng cửa và ra vẻ tuyệt mật, bà vẫy tay ra hiệu mời tôi ngồi xuống một chiếc ghế (trong phòng chỉ có ba chiếc). Tôi nhận thấy bà đang hứng thú.

“Tôi chẳng bao giờ thích nói vòng vo,” giọng bà vui vẻ, sau đó giảm bớt cho phù hợp tình huống. “Trong cái làng này, mọi chuyện lan truyền như thế nào thì chắc mục sư đã biết.”

“Thật đáng tiếc là tôi có biết.”

“Tôi đồng ý với mục sư. Không ai ghét chuyện ngồi lê đôi mách bằng tôi đâu. Nhưng mà có chuyện, nên tôi nghĩ phải có nhiệm vụ báo cho thanh tra cảnh sát biết. Buổi chiều xảy ra án mạng, tôi ghé qua nhà bà Lestrange nhưng bà ta đi vắng. Tôi chẳng mong người ta cảm ơn mình về việc ấy, đơn giản là tôi làm nhiệm vụ. Nói chung đời này sao lắm kẻ vô ơn. Tại sao hôm qua cái bà Baker vô liêm sỉ ấy…”

“Vâng, vâng,” tôi nói mong ngăn chặn tràng đả kích quen thuộc ấy. “Vâng, thật tệ, tệ quá đi. Nhưng bà đang nói…”

“Bọn tầng lớp dưới chẳng biết ai là bạn tốt,” bà Hartnell nói. “Bao giờ đến thăm ai tôi cũng ăn nói đúng mực. Không phải vì tôi cần người ta cám ơn.”

“Bà đã báo ông thanh tra về việc đến nhà bà Lestrange,” tôi nhắc.

“Đúng thế — mà ông ta có cám ơn tôi đâu ạ. Bảo là khi nào cần thì sẽ hỏi thêm — không nguyên văn câu chữ, nhưng tinh thần là thế. Bây giờ cảnh sát cũng có loại này loại nọ nhỉ.”

“Chắc chắn là thế,” tôi nói. “Nhưng bà định nói điều gì?”

“Lần này tôi quyết định không bén mảng đến gần bất cứ loại thanh tra tồi tệ nào nữa. Nói cho cùng thì chỉ có thầy tu mới đáng mặt quý ông — ít ra có một vài người như thế,” bà nói thêm.

Tôi hiểu sự đánh giá có ý bao hàm cả tôi trong đó, vì thế tôi mở lời:

“Giá mà tôi có thể giúp được gì cho bà.”

“Đây là vấn đề bổn phận,” bà Hartnell nói rồi chép miệng rõ to. “Tôi không muốn nói những chuyện như thế này, mà cũng chẳng ai muốn. Nhưng bổn phận vẫn là bổn phận.”

Tôi chờ đợi.

“Người ta bảo tôi rằng bà Lestrange tuyên bố hôm ấy bà ta ở nhà suốt ngày,” bà Hartnell hơi đỏ mặt nói tiếp, “rằng sở dĩ bà ta không trả lời là vì — à, là vì bà ta không muốn mà thôi. Làm ra vẻ ta đây quý phái lắm ấy! Tôi chỉ vì bổn phận mà đến, vậy mà bà ta lại đối xử với tôi như thế đó!”

“Bà ấy đang bị bệnh,” tôi ôn tồn nói.

“Bệnh à? Láo toét. Mục sư quá thanh cao rồi, thưa mục sư Clement. Bà ta chẳng ốm đau gì sất. Bệnh quá nên mới không đến dự buổi cho lời khai chứ gì! Lại còn có cả giấy chứng nhận của bác sĩ nữa! Ai chẳng biết bà ta xỏ mũi ông Haydock cơ chứ. À, tôi nói đến đâu rồi nhỉ?”

Tôi hoàn toàn chẳng biết. Với bà Hartnell, khó mà biết đâu là lời tường thuật và đâu là lời phỉ báng lăng mạ.

“Ô, đến đoạn tôi ghé nhà bà ta chiều hôm ấy. Nói bà ta có mặt ở nhà là dối trá. Bà ta đi vắng, tôi biết chắc.”

“Làm thế nào bà biết được?”

Mặt bà Hartnell càng ửng đỏ hơn. Với cái kiểu ít nhiều hung hăng như bà thì thái độ đó có thể gọi là đang bối rối.

“Tôi gõ cửa rồi nhấn chuông hai ba lần,” bà giải thích. “Rồi tôi chợt nghĩ biết đâu chuông bị hỏng.”

Tôi buồn cười vì thấy bà Hartnell không dám nhìn thẳng vào tôi khi nói điều này. Nhà chúng tôi được xây dựng một kiểu hệt như nhau, và khách đứng nhấn chuông ở cửa chính bao giờ cũng nghe rõ tiếng chuông kêu. Cả bà Hartnell và tôi đều biết rõ điều đó, nhưng vì lịch sự nên tôi vờ không biết, chỉ lẩm bẩm:

“Thế ư?”

“Tôi không muốn bỏ danh thiếp vào hộp thư vì như thế có vẻ khiếm nhã, mà dù gì đi nữa thì tôi cũng chưa bất lịch sự bao giờ.”

Bà ta tuyên bố điều đáng ngạc nhiên ấy mà không hề chớp mắt.

“Vậy nên tôi nghĩ mình nên đi một vòng quanh nhà — và gõ vào cửa kính,” bà trơ trẽn nói tiếp. “Tôi đánh một vòng và nhìn vào tất cả các cửa sổ, nhưng chẳng có ai trong nhà cả.”

Giờ tôi đã hoàn toàn hiểu ý bà Hartnell. Lợi dụng lúc cả nhà đi vắng, bà không cưỡng được thói tò mò nên đã đi vòng quanh, quan sát khu vườn, săm soi tất cả các cửa sổ và tìm cách nhìn vào trong. Bà ta chọn tôi để kể lại chuyện này vì tin rằng tôi dễ đồng cảm và khoan dung hơn là cảnh sát. Là mục sư, hễ còn nghi ngờ thì không buộc tội giáo dân.

Tôi không bình luận gì về tình huống này mà chỉ hỏi:

“Lúc ấy là mấy giờ, bà Hartnell?”

“Theo tôi nhớ thì khoảng gần sáu giờ. Ngay sau đó tôi quay về thẳng và đến nhà khoảng sáu giờ mười phút, rồi bà Protheroe ghé qua khoảng sáu giờ rưỡi, chúng tôi nói về việc trồng hành, còn tiến sĩ Stone và ông Redding thì đang ở bên ngoài. Và trong khoảng thời gian ấy ông đại tá đáng thương gục chết. Cuộc đời mới buồn làm sao!”

“Đôi khi cuộc đời còn xấu xa nữa,” tôi nói.

Rồi tôi đứng dậy.

“Đó là tất cả những gì bà muốn nói với tôi phải không?”

“Tôi chỉ nghĩ điều đó có thể rất quan trọng.”

“Có lẽ thế,” tôi tán thành.

Và không muốn bị lôi kéo thêm, tôi cáo từ trước sự thất vọng của bà Hartnell.

Người kế tiếp tôi đến thăm là bà Wetherby thì đón tôi với vẻ run rẩy như đang bị kích động.

“Kính mục sư, ông tử tế quá. Mục sư đã dùng trà chưa ạ? Thế à, mục sư không uống trà sao? Tấm đệm lưng đây ạ. Mục sư đến ngay thật là quý hóa. Bao giờ mục sư cũng sẵn lòng vì mọi người.”

Cứ dông dài hồi lâu như thế, ngay cả khi chúng tôi vào chuyện thì bà vẫn nói vòng vo tam quốc:

“Mục sư phải hiểu là tôi nghe được chuyện này từ nguồn tin đáng tin cậy nhất đấy.”

Ở St. Mary Mead này, nguồn tin đáng tin cậy nhất còn từ ai khác ngoài các cô hầu!

“Bà không thể cho tôi biết là ai nói điều này với bà sao?”

“Kính mục sư, tôi đã hứa với họ rồi, và bao giờ tôi cũng xem lời hứa là thiêng liêng.”

Trông bà rất nghiêm nghị:

“Cứ xem như có người mách với tôi, thế có được không thưa mục sư?”

‘Thật ngu xuẩn quá mức!’ Tôi những muốn thốt lên như thế. Ước gì tôi đã buột miệng nói, tôi chỉ muốn quan sát lời nói ấy tác động thế nào đến bà Wetherby.

“À, người ấy bảo rằng cô ta trông thấy một bà nọ, mà tôi cũng không nói tiện nói tên.”

“Lại một chị chèo bẻo khác nữa ư?” tôi hỏi.

Bà Wetherby bỗng phá lên cười ngặt nghẽo rồi vui vẻ vỗ vai tôi khiến tôi hết sức ngạc nhiên:

“Ôi, mục sư oi, ông đừng có bông đùa như thế.”

Rồi bà nói tiếp sau khi đã ngưng cười:

“Một bà quý tộc, và mục sư có biết cái bà ấy đi đâu không? Bà ta đi về phía nhà mục vụ, nhưng trước đó bà ta len lén trông trước ngó sau suốt con đường — kỳ quặc lắm — để xem có ai quen biết nhận ra bà ta không, tôi nghĩ thế.”

“Còn cô chèo bẻo kia thì đi đâu?” tôi hỏi.

“Đến thăm chàng bán cá — ở căn phòng phía trên cửa hàng cá.”

Giờ thì tôi đã biết các cô hầu đi đâu vào những ngày nghỉ việc. Có một chỗ các cô không bao giờ đến nếu có thể tránh được — là bất cứ chốn thanh thiên bạch nhật nào.

“Và lúc đó là gần sáu giờ đúng,” bà Wetherby nghiêng mình ra chiều bí mật.

“Vào ngày nào?”

“Tất nhiên là ngày xảy ra vụ giết người, tôi đã chẳng nói thế sao?” bà Wetherby khẽ kêu lên.

“Tôi đoán ra rồi,” tôi trả lời. “Quý bà ấy danh tính là chỉ?”

“Bắt đầu bằng chữ L,” bà Wetherby mấy bận gục gặc đầu. Cảm thấy đã nắm hết các thông tin bà Wetherby cung cấp, tôi bèn đứng dậy.

“Mục sư đừng để cảnh sát gọi tôi đến đối chất mục sư nhé,” bà Wetherby vừa đưa cả hai tay siết chặt tay tôi vừa cất giọng lâm li thống thiết. “Tôi rất ngại để thiên hạ biết chuyện này. Và cả chuyện phải đứng trước tòa nữa!”

“Trong những trường hợp đặc biệt, người ta cho phép nhân chứng được ngồi mà,” tôi nói rồi chuồn thẳng.

Còn phải đến thăm bà Price Ridley nữa. Quý bà này ngay lập tức giao nhiệm vụ cho tôi:

“Tôi không muốn dính líu đến công việc của cảnh sát hay tòa án, mục sư hiểu chứ?” bà nói giọng kiên quyết sau khi hờ hững bắt tay tôi. “Mặt khác, vì tôi tình cờ biết được một sự việc chưa được giải thích, nên tôi nghĩ cần phải báo cho nhà chức trách biết.”

“Chuyện có liên quan đến bà Lestrange phải không?” tôi hỏi.

“Sao lại liên quan đến bà ấy?” bà Price Ridley lạnh nhạt vặn lại.

Đến đây thì bà đặt tôi vào tình thế bất lợi.

“Là một việc hết sức đơn giản,” bà nói tiếp. “Clara, con hầu nhà tôi, lúc ấy đang đứng ở cổng nhà — nó bảo ra cổng vài phút cho thoáng đãng. Tôi phải nói là không đúng thế đâu. Nhiều khả năng là nó đang chờ thằng bán cá — cái thằng ranh con càn rỡ mặt dày mày dạn cứ ngỡ mình mười bảy tuổi là bạ đứa con gái nào cũng trêu chòng được. Dù sao thì như tôi đã nói, nó đang đứng ở cổng thì chợt nghe một tiếng hắt hơi.”

“Vâng,” tôi nói, và chờ nghe thêm.

“Có vậy thôi. Tôi thưa với mục sư rằng con bé ấy nghe một tiếng hắt hơi. Mà mục sư đừng cho rằng tôi già cả nên lú lẫn nhé, vì đây là Clara nghe thấy, mà nó chỉ mới mười chín tuổi thôi.”

“Nhưng vì sao cô ấy phải nghe tiếng hắt hơi?” tôi hỏi.

Bà Price Ridley nhìn tôi, lộ rõ vẻ thương hại cho đầu óc ngu muội của tôi.

“Vào ngày xảy ra án mạng, nó nghe thấy tiếng hắt hơi vào thời điểm trong nhà mục vụ không có ai cả. Chắc chắn kẻ giết người đang nấp trong bụi rậm chờ cơ hội ra tay. Điều mục sư cần làm là tìm ra một người đang bị cảm lạnh.”

“Hoặc là một người bị bệnh sốt mùa hè,” tôi gợi ý. “Nhưng thật ra tôi nghĩ có thể giải mã bí mật này rất dễ dàng. Cô hầu Mary nhà chúng tôi đang bị nhức đầu sổ mũi. Gần đây quả là cô ấy cứ sụt sịt mãi khiến chúng tôi phát mệt. Chắc hẳn cô hầu nhà bà đã nghe thấy tiếng hắt hơi của cô ấy.”

“Là tiếng hắt hơi của đàn ông cơ,” bà Price Ridley quả quyết. “Và từ cổng nhà chúng tôi thì không thể nghe tiếng cô hầu bên nhà mục vụ hắt hơi từ trong bếp được.”

“Từ bên cổng nhà bà, cũng không thể nghe được tiếng hắt hơi trong phòng làm việc được,” tôi nói. “Chí ít thì với tôi điều này cũng rất đáng ngờ.”

“Tên kia có thể đang nấp trong bụi rậm. Chắc chắn khi Clara trở vào thì hắn mới thừa cơ lẻn vào nhà mục vụ bằng cửa trước.”

“À, tất nhiên điều đó có thể xảy ra,” tôi nói.

Tôi cố không tỏ ra nhỏ nhẹ, nhưng tôi đã thất bại, vì bà Price Ridley trừng trừng nhìn tôi:

“Tôi đã quen với việc nói mà chẳng ai thèm nghe, nhưng tôi cũng có thể nhắc tới chuyện một cây vợt tennis bị vứt lăn lóc trên bãi cỏ mà bọn nhà báo không làm nó hư hại. Mà thời buổi này thì vợt tennis đắt tiền lắm.”

Cái lối đá xéo này thật chẳng ra làm sao, khiến tôi cực kỳ lúng túng.

“Nhưng có thể mục sư không tin,” bà Price Ridley nói.

“Ồ, tôi tin chứ — chắc chắn là tin mà!”

“Vậy thì tôi rất mừng. Tất cả chỉ có thế. Tôi chẳng chịu trách nhiệm gì về vụ này nữa.”

Bà ngả người ra phía sau, nhắm nghiền mắt như không còn quan tâm hứng thú gì với cuộc đời này. Tôi cám ơn bà và từ biệt.

Ra đến cửa, tôi đánh bạo hỏi Clara về việc bà chủ cô ta nói.

“Hoàn toàn đúng như vậy, thưa mục sư, con nghe tiếng át-xì. Mà không phải át-xì bình thường đâu — không giống chút nào.”

Có điều gì liên quan đến tội ác mà lại bình thường đâu cơ chứ. Tiếng súng cũng không bình thường. Tiếng hắt hơi cũng không bình thường. Tôi đoán chừng là tiếng hắt hơi đặc biệt của kẻ sát nhân. Tôi bèn hỏi cô gái việc ấy xảy ra lúc nào, nhưng cô ta rất mơ hồ — đâu khoảng sáu giờ mười lăm hay sáu rưỡi gì đó, cô ta áng chừng. Dù sao thì cũng ‘trước khi bà chủ nhận điện thoại và phát bệnh’.

Tôi hỏi cô đã từng nghe tiếng nổ bao giờ chưa thì cô đáp tiếng nổ kinh khủng lắm. Sau câu trả lời ấy, tôi thấy khó mà tin vào lời phát biểu của cô.

Khi về tới cổng nhà mình, tôi quyết định đến thăm một người bạn. Liếc nhìn đồng hồ, tôi thấy mình chỉ còn đủ thời gian cho việc này trước khi làm lễ chiều. Tôi đi về phía nhà Haydock. Bác sĩ ra tận cửa đón tôi.

Một lần nữa, tôi lại thấy Haydock lo lắng và phờ phạc. Vụ án này khiến ông già sọm đi thấy rõ.

“Rất vui được gặp mục sư,” ông nói. “Có tin gì mới không?”

Tôi kể cho Haydock nghe phát hiện mới về Stone. “Một tên trộm cao cấp,” ông bình luận. “Chà, điều này sẽ làm sáng tỏ nhiều việc đây. Hắn ta đã nghiên cứu kỹ bài bản, nhưng theo tôi thì đôi lúc hắn ta cũng sơ hở. Đã có lần Protheroe suýt bắt quả tang hắn rồi ấy chứ. Hẳn mục sư nhớ việc họ đã cãi nhau. Còn về cô gái thì mục sư nghĩ sao? Cô ta có dính vào vụ này không?”

“Tôi chưa thể kết luận. Riêng về phần mình, tôi nghĩ cô ấy không liên can.”

Rồi tôi nói thêm: “Cô ta dốt đặc ấy mà.”

“Ồ, tôi không nghĩ vậy đâu. Cái cô nàng Gladys Cram ấy, cô ta sắc sảo khôn ngoan lắm. Loại người cực kỳ mạnh khỏe, chẳng bao giờ làm phiền đến ngành y chúng tôi.”

Tôi bảo Haydock rằng mình đang lo lắng về Hawes, và tôi thiết tha mong cậu ấy đi đổi gió và nghỉ ngơi thực sự.

Bác sĩ có vẻ lảng tránh khi tôi nói chuyện này, và câu trả lời của ông không mấy thật lòng. Ông chậm rãi đáp: “Vâng, tôi nghĩ thế là tốt hơn cả. Khốn khổ cho Hawes! Thật đáng thương.”

“Tôi thấy ông không ưa cậu ta.”

“Đúng là không ưa — một chút xíu thôi. Nhưng với những người mình không thích thì tôi lại thấy thương hại cho họ.” Bác sĩ dừng một lúc rồi nói tiếp: “Thậm chí với Protheroe tôi cũng thấy thương hại. Khổ thân ông ta — có mấy người quý mến ông ấy đâu. Quá thẳng tính mà cũng tự tin quá mức, hai thứ ấy hợp lại thì quả là khó ưa. Ông ta bao giờ cũng thế — ngay từ hồi còn trẻ.”

“Vậy ra ông quen ông ta từ hồi ấy kia à?”

“Ồ vâng! Khi ông ta sống ở Westmorland thì tôi có phòng khám ở cách đó không xa. Từ ấy đến nay đã lâu lắm, gần hai mươi năm rồi.”

Tôi thở dài. Hai mươi năm trước thì Griselda chỉ mới năm tuổi. Ôi, thời gian quả là kỳ quặc…

“Đó là tất cả những gì ông đến để nói với tôi sao, mục sư Clement?”

Tôi giật mình ngước lên. Haydock đang nhìn như xoáy vào tôi:

“Còn có điều gì khác nữa, đúng không?”

Tôi gật đầu.

Khi đến đây, tôi còn lưỡng lự chưa biết có nên nói hay không, nhưng giờ thì tôi quyết định nói ra. Tôi mến Haydock như bất cứ người nào tôi quen biết. Ông là người tuyệt vời về mọi mặt, và tôi thấy điều mình phải nói ra có thể sẽ có ích cho ông. Nghĩ vậy, tôi bèn kể lại cuộc nói chuyện với bà Hartnell và bà Wetherby.

Nghe xong, Haydock im lặng hồi lâu.

“Hoàn toàn đúng thế, Clement ạ,” cuối cùng ông cất tiếng. “Tôi muốn bằng mọi cách bảo vệ bà Lestrange tránh khỏi những chuyện phiền nhiễu. Thật ra, bà ấy đúng là bạn cũ của tôi, nhưng đó không phải là lý do duy nhất khiến tôi làm thế. Giấy chứng nhận sức khỏe của tôi không phải là trò sắp đặt gian dối như mục sư nghĩ đâu.”

Ông dừng một lúc rồi nghiêm nghị nói:

‘‘Chuyện này chỉ tôi với mục sư biết thôi nhé, Clement. Bà Lestrange chẳng còn sống bao lâu nữa.”

‘‘Sao cơ?”

“Nhiều lắm là một tháng nữa thôi. Mục sư có còn ngạc nhiên vì sao tôi muốn bà ấy tránh khỏi bị quấy rầy và thẩm vấn nữa không?”

Bác sĩ nói tiếp:

“Chiều hôm ấy, khi bà Lestrange rẽ vào con đường này, là bà ấy đến đây — đến nhà tôi.”

“Sao trước đây ông không nói ra?”

“Là vì tôi không muốn sinh chuyện. Mọi người đều biết từ sáu đến bảy giờ không phải là giờ tôi tiếp bệnh nhân. Nhưng mục sư có thể tin lời tôi là bà ấy đã đến đây.”

“Thế nhưng khi tôi cho người đến nhà mời ông thì bà ấy không có ở đó, ý tôi là khi chúng tôi phát hiện ra tử thi.”

“Đúng là không có,” Haydock tỏ ra lúng túng. “Lúc ấy bà Lestrange đã ra về vì bà có cuộc hẹn.”

“Cuộc hẹn ở đâu? Ở tại nhà bà ấy ư?”

“Tôi không rõ Clement ạ. Xin thề là tôi không biết gì cả.”

Tôi tin Haydock, nhưng…

“Thử nghĩ, nếu có một người vô tội bị treo cổ thì sao?” tôi hỏi vặn.

Bác sĩ lắc đầu.

“Không, sẽ không có ai bị treo cổ vì mưu sát đại tá Protheroe đâu, mục sư tin tôi đi.”

Nhưng đây chính là điều tôi không thể nào tin được. Tuy vậy vẻ quả quyết trong giọng nói của ông rất tuyệt.

“Sẽ không có ai bị treo cổ cả,” ông lặp lại.

“Còn cái thằng Archer…”

Ông phác một cử chỉ sốt ruột.

“Nó chẳng đủ hiểu biết để xóa dấu tay của mình trên khẩu súng đâu.”

“Có thể là như thế,” tôi hồ nghi nói.

Rồi sực nhớ ra, tôi thò tay vào túi lấy mảnh tinh thể màu nâu nhạt vừa tìm thấy trong rừng nhờ Haydock xem đó là gì.

“Hừm,” ông ngần ngừ. “Trông giống acid picric. Mục sư tìm thấy nó ở đâu vậy?”

“Đó là bí mật của Sherlock Holmes,” tồi đáp.

Bác sĩ mỉm cười.

“Acid picric là gì kia?” tôi hỏi.

“À, đó là một loại chất nổ.”

“Tôi hiểu, nhưng nó còn có công dụng khác nữa, đúng không?”

Ông gật đầu.

“Nó được dùng trong y học — để chữa bỏng. Cực kỳ hiệu nghiệm.”

Tôi chìa tay ra, và ông miễn cưỡng trao mảnh tinh thể lại cho tôi.

“Có lẽ vật này không có gì quan trọng,” tôi nói. “Nhưng tôi đã tìm thấy nó ở một chỗ không bình thường.”

“Mục sư không cho tôi biết là ở đâu ư?”

Có thể là hơi trẻ con, nhưng tôi sẽ không nói. Ông ấy có những bí mật của mình, à, vậy thì tôi cũng phải có bí mật của tôi chứ.

Tôi cảm thấy hơi tổn thương vì Haydock chưa hoàn toàn tin tôi để có thể giãi bày tâm sự.


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Án Mạng Nhà Ở Mục Vụ - Agatha-christie - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Án Mạng Nhà Ở Mục Vụ - Agatha-christie   Án Mạng Nhà Ở Mục Vụ - Agatha-christie - Page 2 Icon_minitimeWed Feb 06, 2019 4:57 am

Chương 26

Tối hôm ấy tôi bước lên bục giảng với tâm trạng lạ lùng.

Nhà thờ đông đúc một cách bất thường. Tôi không nghĩ vì mong đợi Hawes giảng mà nhiều người lại kéo đến như vậy. Những bài giảng của Hawes thường buồn tẻ và giáo điều. Còn nếu có tin tôi giảng thay thì cũng chẳng thu hút được họ, bởi lẽ bài giảng của tôi nặng tính học thuật và chán ngắt. Tôi e rằng cả mình cũng không thể khiến giáo dân sốt sắng đến thế.

Tôi kết luận rằng mọi người đến đây để xem có mặt những ai, và có thể để sau đó buôn chuyện đôi chút ngoài cổng nhà thờ.

Haydock đi lễ, việc này không bình thường, và cả Lawrence Redding nữa. Bên cạnh Lawrence Redding, tôi ngạc nhiên nhìn thấy khuôn mặt trắng bệch căng thẳng của Hawes. Anne Protheroe ngồi kia, mặc dù vào các ngày chủ nhật bà ta thường dự lễ chiều nhimg tôi không nghĩ hôm nay bà lại đến. Tôi còn ngạc nhiên hơn khi thấy Lettice. Đi nhà thờ vào sáng chủ nhật là bắt buộc — về điều này thì đại tá Protheroe rất cứng rắn, nhưng trước đây tôi chưa bao giờ trông thấy Lettice đi lễ chiều.

Và kia là Gladys Cram, hoàn toàn trẻ trung mạnh khỏe, nổi bật lên giữa cái nền khô xác héo hơn của những bà cô không chồng. Rồi tôi thoáng thấy một người đến muộn, vừa lẻn vào cuối nhà thờ, đó là bà Lestrange.

Chẳng phải nói cũng biết bà Price Ridley, bà Hartnell, bà Wetherby và bà Marple đều có mặt. Cả làng hiện diện đông đủ, đó là chuyện hầu như chưa bao giờ xảy ra. Tôi không biết từ trước tới nay đã bao giờ tín hữu tập trung đông như thế này không.

Tối nay, đám đông đã tạo ra một bầu không khí lôi cuốn lạ thường, mà người đầu tiên bị tác động chính là tôi.

Như thường lệ, tôi đã chuẩn bị trước bài Phúc âm một cách cẩn thận và chu đáo, nhưng cũng chính tôi chứ không ai khác lại nhận ra sự thiếu sót của chúng.

Tối nay, tôi cần phải ứng khẩu mà giảng, và khi nhìn xuống biển người mỗi lúc một đông, đầu óc tôi bỗng dưng quay cuồng. Tôi không còn là Sứ giả của Chúa Trời. Tôi đã trở thành một diễn viên. Trước mặt tôi là khán giả và tôi muốn lay động tâm can họ — hơn thế, tôi cảm thấy mình có đầy quyền năng để khiến họ xúc động.

Tôi chẳng tự hào gì chuyện mình làm tối hôm ấy. Tôi vốn là người hoài nghi việc thức tỉnh đức tin tôn giáo bằng cách làm người ta xúc động, thế nhưng tối hôm ấy tôi đã diễn tròn vai một nhà truyền bá Phúc âm say sưa cuồng nhiệt.

Tôi chầm chậm nhả từng lời.

“Ta đến đây không phải để đánh thức thiện nhân, mà kêu gọi những kẻ phạm tội nên ăn năn hối cải.”

Tôi lặp lại câu này lần nữa, và tôi nghe tiếng mình ngân nga vang dội chẳng giống chút nào giọng nói thường ngày của Leonard Clement.

Tôi trông thấy Griselda từ hàng ghế đầu ngước nhìn lên vẻ ngạc nhiên, và Dennis cũng bắt chước theo nàng.

Tôi nín thở một lúc rồi thả lỏng.

Giáo dân trong nhà thờ đang trong trạng thái dồn nén cám xúc, đây là thời cơ chín muồi để kích động họ. Tôi kêu gọi những kẻ lầm lỗi phải sửa mình. Tôi tự buông mình vào cơn mê cuồng cảm xúc. Chốc chốc tôi lại chĩa tay như tố cáo và lặp đi lặp lại câu nói:

“Ta đang nói với các anh chị em đây…”

Và mỗi lần như thế, tôi lại thoáng nghe tiếng thở dài sườn sượt từ góc này góc nọ của nhà thờ.

Cảm xúc của đám đông thật lạ lùng và khủng khiếp.

Tôi kết thúc bài giảng bằng những lời đẹp đẽ và sâu sắc — có lẽ là sâu sắc nhất trong toàn bộ Kinh Thánh:

“Tối nay linh hồn các người sẽ được phán xét…”

Trạng thái lạ lùng ấy chỉ xảy ra nhất thời. Khi về nhà mục vụ, tôi trở lại với con người mờ nhạt và hay do dự thường ngày của mình. Tôi trông thấy Griselda. Mặt xanh xao, nàng khoác lấy tay tôi.

“Len ạ, tối nay trông mình kinh khủng lắm. Em — em không thích thế đâu. Trước giờ em chưa từng nghe mình giảng như thế.”

“Tôi cũng không nghĩ sẽ mình sẽ được nghe lần nữa,” tôi vừa nói vừa kiệt sức buông mình xuống ghế sofa. Tôi mệt lả.

“Điều gì khiến mình làm thế?”

“Bỗng dưng tôi như lên cơn mình ạ.”

“Ôi! Mà — không có chuyện gì bất thường chứ mình?”

“Chuyện bất thường — ý mình là sao cơ?”

“Em nghi ngờ vậy thôi. Trông mình lạ lắm Len à. Chưa bao giờ em thấy là em thực sự hiểu mình cả.”

Chúng tôi ngồi xuống dùng bữa ăn nguội vì hôm nay là ngày nghỉ của Mary.

“Có thư ngoài sảnh gửi cho mình đấy,” Griselda nói. “Dennis, cháu đi lấy được không?”

Dennis nãy giờ im như thóc, liền vâng theo.

Tôi đón lấy bức thư rồi lầm bầm. Ở góc trái phía trên là dòng chữ: Thư tay — Khấn.

“Chắc chắn là của bà Marple,” tôi nói. “Còn ai vào đây nữa!”

Tôi đã đoán đúng hoàn toàn.

MỤC SƯ CLEMENT KÍNH MẾN,

Tôi rất muốn trao đổi với mục sư về một số việc vừa xảy ra với tôi. Tôi nghĩ chúng ta phải cố gắng làm sáng tỏ điều bí ẩn đáng buồn này. Nếu mục sư cho phép thì khoảng chín giờ rưỡi tối nay tôi sẽ đến và gõ cửa phòng làm việc của mục sư. Có lẽ Griselda quý mến sẽ sẵn lòng qua bên nhà tôi trò chuyện cho cháu trai của tôi khuây khoả, và dĩ nhiên cả cậu Dennis nữa, nếu cậu ấy cũng muốn sang. Nếu tôi không nghe trả lời gì thì tôi sẽ đón hai người ấy và sẽ đến văn phòng của mục sư vào giờ nói trên.

Thân kính,

JANE MARPLE.

Tôi đưa thư cho Griselda.

“Ô, bọn em sẽ đi mà,” nàng vui vẻ nói. “Vào tối chủ nhật mà được thưởng thức vài ly rượu mùi nhà làm thì tuyệt. Em ngán món bánh của Mary đến tận cổ. Cứ như lấy từ trong nhà xác ra vậy.”

Dennis thì chẳng tỏ vẻ gì vui thú về việc này. Nó càu nhàu:

“Có mà tuyệt cho mình bác thôi. Bác tha hồ bàn chuyện văn chương nghệ thuật cao siêu, còn cháu ngồi nghe thì chỉ thấy mình chẳng khác nào thằng đần.”

“Việc này tốt cho cháu đấy,” Griselda thản nhiên đáp, “vì nó làm cháu hiểu đúng về mình. Dù sao, ta cũng không nghĩ ông Raymond West thông minh xuất chúng như ông ấy cố làm ra vẻ.”

“Người thông minh xuất chúng thực sự thì hiếm lắm,” tôi nói.

Tôi vô cùng băn khoăn không biết đích xác điều bà Marple muốn nói là gì. Trong số quý bà thuộc giáo khu của tôi, bà ta là người khôn ngoan sắc sảo nhất, không chỉ vì việc gì xảy ra thì bà cũng biết, mà còn vì bà luôn suy luận rõ ràng và thích đáng trong nhận định. Ngày nào đó nếu tôi toan làm điều gian dối thì chính bà Marple là người tôi sẽ phải khiếp sợ.

Cái gọi là tiệc vui với người cháu trai bắt đầu sau chín giờ một chút, và trong khi chờ bà Marple đến, tôi giết thời gian bằng cách liệt kê các sự việc liên quan đến án mạng, và cố sắp xếp chúng theo đúng trình tự thời gian. Tôi không phải là người đúng giờ nhưng lại ngăn nắp, và tôi muốn ghi chú mọi việc một cách bài bản.

Đúng chín giờ rưỡi, có tiếng gõ nhẹ vào cửa sổ. Tôi đứng dậy đón bà Marple.

Bà choàng tấm khăn Shetland tinh xảo trùm kín đầu và vai khiến bà trông yếu ớt và già sọm. Bà bước vào, run run vì phấn kích.

“Mục sư thật tử tế khi cho phép tôi đến đây — và Griselda cũng thật tốt — Raymond ngưỡng mộ cô ấy lắm — nó luôn gọi cô ấy là Greuze hoàn hảo… Tôi ngồi đây à? Tôi không ngồi vào ghế của mục sư? Ồ, cám ơn mục sư… Không, tôi không cần ghế để chân đâu ạ.”

Tôi đặt chiếc khăn trùm Shetland lên một chiếc ghế và quay lại kéo chiếc ghế khác ngồi đối diện với bà khách. Chúng tôi nhìn nhau, rồi một nụ cười đượm chút khẩn nài nở trên gương mật bà.

“Tôi cảm thấy mục sư đang tự hỏi vì sao — vì sao tôi quá quan tâm đến toàn bộ việc này. Có thể mục sư nghĩ nó không hợp với phụ nữ. Không — tôi xin mục sư — nếu được thì xin cho tôi giải thích.”

Bà ngập ngừng một lúc, má ửng hồng.

“Mục sư thấy đó,” cuối cùng bà lên tiếng, “sống một thân một mình như tôi ở nơi khỉ ho cò gáy này thì cần có thú tiêu khiển. Tất nhiên có nhiều việc như đan len, vẽ tranh, tham gia hướng đạo hay làm thiện nguyện, nhưng sở thích của tôi bao giờ cũng là tìm hiểu về nhân tình thế thái. Rất đa dạng và lý thú. Và lẽ dĩ nhiên trong một ngôi làng nhỏ không có gì để giải trí thì người ta có biết bao cơ hội để nghiên cứu thành thạo đề tài của mình. Ta phân loại dân làng một cách thật rạch ròi thành nhóm này nhóm kia, chủng này loại nọ, người này là hoa người kia là chim… Dĩ nhiên thỉnh thoảng ta cũng nhầm lẫn, nhưng với thời gian thì ta ngày càng ít sai sót. Và rồi ta cũng tự kiểm tra bản thân mình. Ta có thể gặp những rắc rối nho nhỏ — chẳng hạn chuyện mất xâu tôm lột, khiến Griselda phải buồn cười — có những điều bí mật hoàn toàn chẳng có gì quan trọng nhưng lại cực kỳ khó hiểu nếu không được giải quyết thích đáng. Rồi chuyện những viên thuốc ho bị đánh tráo, chuyện chiếc ô của vợ anh hàng thịt — một chuyện hết sức vô lý, chẳng qua là do người bán rau đã không cư xử đàng hoàng với vợ ông dược sĩ bán thuốc mà thành ra cơ sự. Mục sư biết đó, khi phán đoán một việc gì và thấy mình đúng thì tuyệt vời thế nào.”

“Bà vẫn thường xuyên phán đoán đúng, tôi nghĩ thế,” tôi mỉm cười.

“Điều đó khiến tôi có đôi chút tự phụ, tôi e là thế,” bà Marple thú nhận. “Nhưng tôi luôn băn khoăn tự hỏi, nếu ngày nào đó gặp điều bí mật nghiêm trọng thì liệu tôi có làm được như vậy không — ý tôi là giải quyết rốt ráo không? Về logic thì phải đúng là sự việc ấy. Nói cho cùng, dù là mô hình ngư lôi thì cũng giống như ngư lôi thật.”

“Ý bà đó hoàn toàn là tính tương đối phải không,” tôi chậm rãi nói. “Có thể là thế, về mặt logic thì tôi thừa nhận, nhưng tôi không biết thực tế có như vậy không.”

“Chắc chắn là vậy,” bà Marple đáp. “Cái mà trường lớp gọi là nhân tố ấy — là giống như thế. Nào là chuyện tiền tài, chuyện quan hệ giữa hai người — à — hai người khác phái, chuyện kỳ quặc — nhiều người tính tình kỳ quặc phải không mục sư? Đúng là khi hiểu rõ về nhiều người thì ta thấy họ khá kỳ quặc. Người bình thường đôi khi lại hành động kỳ quặc, còn người không bình thường thì đầu óc lại rất lành mạnh và cư xử bình thường. Thực tế chỉ có cách duy nhất là so sánh họ với những người mà chúng ta quen hoặc tình cờ gặp, mục sư sẽ ngạc nhiên khi biết tổng cộng có rất ít loại người khác nhau.”

“Bà làm tôi hãi quá,” tôi nói. “Có cảm giác như mình đang bị soi dưới kính hiển vi vậy.”

“Dĩ nhiên là có mơ tôi cũng không nói bất cứ điều gì như thế này cho đại tá Melchett đâu — ông ta là người chuyên quyền độc đoán đúng không mục sư? — và cả Thanh tra Slack đáng thương nữa — chà, ông ta giống hệt cô hàng giày, chỉ muốn bán cho mục sư đôi giày bằng da sơn bóng vì cô ta thấy nó vừa nơi chân mục sư mà không thèm đếm xỉa đến việc mục sư đang cần một đôi bằng da bò màu nâu!” Mô tả chân dung Slack như thế quả là tuyệt vời! “Nhưng về vụ án thì tôi tin chắc ông cũng biết nhiều không kém Thanh tra Slack, thưa mục sư Clement. Tôi nghĩ nếu chúng ta hợp tác cùng nhau…”

“Tôi tự hỏi — tôi nghĩ trong thâm tâm mỗi chúng ta, ai cũng tự cho mình là Sherlock Holmes cả.”

Rồi tôi kể bà nghe về ba lệnh triệu tập vừa nhận chiều nay, về việc Anne phát hiện bức tranh bị rạch nát khuôn mặt. Tôi cũng thuật lại thái độ cô Cram ở đồn cảnh sát cùng chuyện Haydock nhận dạng mảnh tinh thể tôi đã nhặt được.

“Tự tôi đã tìm thấy nó,” tôi kết thúc. “Tôi muốn vật này có tầm quan trọng nào đó, nhưng có thể nó chẳng liên quan gì đến vụ án cả.”

“Mới đây tôi vừa vào thư viện đọc nhiều truyện trinh thám Mỹ để xem có giúp ích gì không,” bà Marple nói.

“Có truyện nào nói đến acid picric không?”

“E rằng không. Tuy nhiên tôi nhớ có lần đã xem một truyện trong đó có người bị đầu độc bằng acid picric và bôi mỡ cừu lên mình.”

“Nhưng trong vụ này không có ai bị đầu độc cả, vì thế có vẻ không thích hợp với vấn đề của chúng ta,” tôi nói.

Rồi tôi cầm bản liệt kê trao cho bà:

“Tôi đã cố gắng tóm tắt các sự kiện của vụ án một cách rõ ràng nhất.”

BẢN LIỆT KÊ CỦA TÔI

Thứ năm ngày 21 tháng này

12.30 trưa — Đại tá Protheroe dời cuộc hẹn với tôi từ sáu giờ chiều đến sáu giờ mười lăm. Rất có thể một nửa dân làng đã nghe thấy điều này.

12.45 — Lần cuối người ta nhìn thấy khẩu súng nằm ở chỗ thường ngày của nó (nhưng chuyện này không chắc chắn vì trước đó bà Archer nói rằng bà ta không nhớ rõ.)

5.30 chiều (khoảng đó) — Đại tá Protheroe và phu nhân rời Old Hall vào làng bằng xe hơi.

5.30 — Cú điện thoại giả mạo gọi cho tôi từ khu nhà phía Cửa Bắc gần Old Hall.

6.15 (hoặc một hai phút trước đó) — Đại tá Protheroe đến nhà mục vụ và được Mary đưa vào phòng làm việc.

6.20 — Bà Protheroe theo đường làng phía sau, băng qua vườn đến cửa hông phòng làm việc. Bà không nhìn thấy đại tá Protheroe.

6.29 — Điện thoại gọi cho bà Price Ridley từ nhà Lawrence Redding (theo tổng đài điện thoại.)

6.30-6.35 — Nghe thấy tiếng nổ. (Cho là thời điểm cú điện thoại là chính xác). Theo lời chứng của Lawrence Redding, Anne Protheroe và tiến sĩ Stone thì dường như sớm hơn, nhưng có thể bà P.R nhớ đúng.

6.45 — Lawrence Redding đến nhà mục vụ và tìm thấy tử thi.

6.48 — Tôi gặp Lawrence Redding.

6.49 — Tôi phát hiện tử thi.

6.55 — Haydock khám tử thi.

GHI CHÚ — Chỉ có hai người không có chứng cứ ngoại phạm từ 6.30-6.35 là cô Cram và bà Lestrange. Cô Cram nói mình đang ở chỗ khai quật nhưng không có gì xác nhận. Tuy nhiên, loại cô ta ra khỏi vụ án có vẻ hợp lý vì dường như cô chẳng liên quan gì cả. Sau sáu giờ một chút, bà Lestrange rời nhà bác sĩ Haydock vì có cuộc hẹn. Bà ta hẹn với ai, và ớ đâu? Không thể hẹn với đại tá Protheroe, vì ông ta đã hẹn với tôi rồi. Đúng là vào thời điểm xảy ra án mạng thì bà Lestrange đang ở gần hiện trường, nhưng về động cơ khiến bà giết Protheroe thì có vẻ không chắc chắn. Bà ta chẳng hưởng lợi gì từ cái chết của đại tá, và tôi không chấp nhận giả thiết tống tiền như thanh tra đưa ra. Bà Lestrange không phải loại người như vậy. Hơn nữa việc bà ta lấy được khẩu súng của Lawrence Redding khống thể xảy ra.

“Hết sức rõ ràng,” bà Marple vừa gục gặc đầu tỏ ý tán thành vừa nói. “Quả là rất rõ. Quý ông bao giờ cũng làm bản ghi nhớ thật tuyệt.”

“Bà có đồng ý với những gì tôi viết không?” Tôi hỏi.

“Ồ vâng — mục sư đã liệt kê cực chuẩn.”

Lúc ấy tôi mới hỏi bà điều tôi đã định hỏi từ bữa giờ: “Vậy bà nghi ngờ ai, bà Marple? Có lần bà nói với tôi là có đến bảy nghi can.”

“Đúng là tôi nghĩ thế,” bà Marple lơ đãng đáp. “Tôi nghĩ mỗi chúng ta đều có thể nghi ngờ người này người kia khi trông thấy việc họ làm.”

Tuy vậy bà không hỏi xem tôi nghi ngờ ai.

“Vấn đề là ta phải lý giải sự việc một cách thỏa đáng. Nếu ta đưa ra một giả thiết phù hợp với mọi sự kiện — à, thì giả thiết đó phải đúng. Nhưng điều đó cực kỳ khó khăn. Nếu không phải vì lá thư…”

“Lá thư à?” tôi ngạc nhiên hỏi.

“Vâng, mục sư nhớ không, tôi đã nói với ông đó. Lá thư ấy khiến tôi suy nghĩ mãi từ ấy đến giờ. Nói kiểu nào thì đó là thư giả mạo.”

“Chắc chắn vậy rồi,” tôi đáp, “bây giờ chuyện ấy đã được lý giải. Thư được viết vào lúc sáu giờ ba mươi lăm, và một bàn tay khác — tên sát nhân — đã ghi sai là 6.20 vào đầu trang. Tôi nghĩ chuyện ấy đã được xác minh.”

“Nhưng ngay cả như thế thì nó vẫn sai hoàn toàn,” bà Marple nói.

“Nhưng tại sao?”

“Mục sư nghe này.” Bà Marple chồm tới trước sôi nổi. “Bà Protheroe đi ngang qua vườn nhà tôi, như tôi đã nói đó, rồi bà ấy đến cửa sổ phòng làm việc và nhìn vào trong nhưng không thấy đại tá Protheroe.”

“Là vì ông ấy đang ngồi viết ở bàn,” tôi nói.

“Và đó là điều hoàn toàn sai. Lúc ấy là sáu giờ hai mươi. Chúng ta đã nhất trí là ông ta không thể ngồi đó vào lúc sáu giờ rưỡi để viết rằng mình không thể chờ lâu hơn — vậy thì tại sao ông ta lại ngồi vào bàn viết vào giờ đó?”

“Tôi chưa từng nghĩ đến điều này,” tôi chậm rãi đáp.

“Mục sư Clement kính mến, chúng ta hãy xem xét lần nữa từng chi tiết. Bà Protheroe đến bên cửa hông và nghĩ rằng trong phòng không có ai — chắc hẳn bà ấy phải nghĩ vậy, nếu không bà đã chẳng dám xuống xưởng vẽ gặp ông Redding vì như thế không an toàn. Căn phòng phải tuyệt đối vắng lặng nếu bà ấy nghĩ trong đó không có người. Như thế có ba khả năng, đúng không mục sư?”

“Bà định nói là…”

“À, khả năng thứ nhất là có thể đại tá Protheroe đã chết rồi — nhưng tôi không tin điều đó là sự thật. Trước tiên là vì ông ta chỉ mới ở đó khoảng năm phút và bà ấy hoặc tôi có thể đã nghe tiếng súng nổ; hơn nữa lại khó giải thích việc ông ta ngồi ở bàn viết. Khả năng thứ hai, dĩ nhiên ông ta đang ngồi viết thư trước bàn, nhưng trong trường hợp ấy thì bức thư phải hoàn toàn khác. Thư không thể viết là ông ấy không thể chờ mục sư được. Còn khả năng thứ ba…”

“Sao cơ?”

“À, khả năng thứ ba là bà Protheroe nói đúng, dĩ nhiên thế, và trong phòng lúc ấy không có ai cả.”

“Ý bà là sau khi được người hầu đưa vào phòng, ông ấy lại trở ra rồi sau đó mới quay lại ư?”

“Vâng.”

“Nhưng vì sao ông ấy phải làm vậy?”

Bà Marple xòe hai tay tỏ vẻ khá bối rối.

“Thế có nghĩa bà đang xem xét vụ án ở góc độ hoàn toàn khác,” tôi nói.

“Nhiều lúc người ta phải làm vậy — về mọi việc. Mục sư không nghĩ vậy sao?”

Tôi không trả lời vì đang cẩn thận nhẩm lại ba khả năng bà Marple gợi ra. Bà già khẽ thở dài rồi đứng lên:

“Tôi phải về thôi. Tôi rất vui được nói chuyện với mục sư một chút — mặc dù chưa giải quyết được gì nhiều, phải không mục sư?”

“Thật tình mà nói thì toàn bộ vụ này quá rối rắm,” tôi vừa nói vừa đưa chiếc khăn trùm cho bà.

“Ồ! Tôi thì không nghĩ thế. Nói chung theo tôi có một giả thiết khá phù hợp. Đó là, nếu mục sư thừa nhận một sự trùng hợp ngẫu nhiên — mà tôi nghĩ có thể chấp nhận một sự ngẫu nhiên như thế. Tất nhiên, trùng hợp nhiều hơn là không thể.”

“Bà thực sự nghĩ vậy sao? Ý tôi là về các giả thiết ấy?” tôi nhìn bà hỏi.

“Tôi thừa nhận trong giả thiết tôi đưa ra có thiếu sót — một sự việc mà tôi chưa làm rõ được. Ôi! Giá như bức thư ấy hoàn toàn khác…”

Bà thở dài lắc đầu. Rồi bà bước về phía cửa hông, bàn tay vô tình chạm vào bụi cây hoa héo trong chậu kiểng.

“Cây này phải tưới thường xuyên hơn mục sư Clement ạ. Thiếu nước trầm trọng, khổ chưa! Cô hầu nhà ông phải tưới mỗi ngày mới được. Cô ấy có chú ý việc này không ạ?”

“Cô ấy chẳng để mắt vào bất cứ việc gì,” tôi đáp.

“Chắc cô ta còn non tay nghề,” bà Marple gợi ý.

“Phải,” tôi đáp. “Mà Griselda thì khăng khăng từ chối uốn nắn cô ta, vì bà nhà tôi nghĩ chỉ người hầu mà không ai thèm nhận thì mới ở lâu với chúng tôi. Vậy mà hôm nọ Mary đã dọa nghỉ rồi đấy.”

“Thế à? Tôi cứ tưởng cô ta quý mến ông bà mục sư lắm.”

“Tôi thì không nghĩ vậy. Nhưng thật ra là do Lettice làm cô ta phật ý. Sau khi bị thẩm vấn, Mary trở về trong tâm trạng không bình thường và gặp Lettice ở đây — thế là hai cô lời qua tiếng lại với nhau.”

“Ồ!” bà Marple vừa dợm bước qua cửa sổ bỗng dừng phắt lại kêu lên, mặt bà đổi sắc.

“Ối trời oi! Sao mình lại ngu thế này chứ!” bà lẩm bẩm. “Ra là thế. Chắc chắn rồi.”

“Xin lỗi, gì thế bà?”

Bà quay lại nhìn tôi lo lắng,

“Không có gì, chỉ là tôi vừa nghĩ ra một ý. Tôi phải về và suy xét điều này cho thấu đáo cái đã. Mục sư biết không, tôi nghĩ mình đã quá đần độn — ngu hết chỗ nói luôn.”

“Tôi thấy khó mà tin điều đó,” tôi lịch sự nói.

Đưa bà ra ngả cửa sổ rồi băng qua bãi cỏ, tôi hỏi:

“Bà có thể cho tôi biết mình chợt nghĩ ra điều gì không?”

“Ngay lúc này thì tôi e là không. Mục sư thấy đó, vẫn có khả năng là tôi nhầm lẫn. Nhưng tôi không nghĩ vậy. Đến cổng nhà tôi rồi, mục sư không cần đi xa hơn đâu, tôi cám ơn mục sư nhiều. “

“Bà còn vướng mắc ở chỗ lá thư, đúng không?” tôi hỏi khi bà bước qua cổng và cài then.

Bà lơ đãng nhìn tôi.

“Thư à? Ồ dĩ nhiên là thư giả rồi. Tôi chưa bao giờ nghĩ nó là thật cả. Chúc ông ngủ ngon, mục sư Clement.”

Rồi bà thoăn thoắt bước trên lối vào nhà, mặc tôi đứng đó nhìn sững.

Tôi chẳng hiểu ra làm sao.


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Án Mạng Nhà Ở Mục Vụ - Agatha-christie - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Án Mạng Nhà Ở Mục Vụ - Agatha-christie   Án Mạng Nhà Ở Mục Vụ - Agatha-christie - Page 2 Icon_minitimeWed Feb 06, 2019 4:58 am

Chương 27

Griselda và Dennis vẫn chưa về. Tôi hiểu rõ giờ tôi theo bà Marple vào nhà đón họ về là chuyện hết sức bình thường, nhưng cả bà và tôi đều mải chú tâm vào điều bí mật đến mức quên bẵng mọi thứ.

Tôi đang đứng ở sảnh ngoài, tự hỏi có nên sang bên ấy gặp vợ và cháu mình không thì chuông cửa reo lên. Tôi bước ra và trông thấy một lá thư ở hòm thư; nghĩ rằng vì nó mà có người gọi chuông, tôi lấy thư ra. Tuy nhiên lúc ấy chuông lại reo lần nữa, tôi vội nhét lá thư vào túi áo rồi mở cửa chính.

Là đại tá Melchett.

“Chào, Clement. Tôi đang trên đường từ thị trấn về bằng xe hơi. Chỉ tạt qua thăm mục sư xem có gì uống không.”

“Tuyệt quá,” tôi nói. “Mời ông vào văn phòng.”

Melchett cởi chiếc áo khoác da và theo tôi vào phòng làm việc. Tôi mang hai chiếc cốc cùng với whisky và soda đến. Melchett dang chân đứng trước lò sưởi, tay vân vê bộ ria mép được cắt tỉa cẩn thận.

“Tôi có vài tin mới cho ông, mục sư Clement ạ. Tin động trời đấy nhé. Nhưng hượm đã. Tình hình ở đây sao rồi? Có thêm bà lão nào phát hiện điều gì nữa không?”

“Các bà ấy cừ lắm,” tôi đáp. “Có một bà cho rằng mình đã có manh mối.”

“Bà bạn Marple của chúng ta hử?”

“Là bà Marple, bạn chúng ta.”

“Các bà ấy thì bao giờ cũng tưởng mình biết tuốt,” đại tá Melchett nói, rồi thích thú nhâm nhi ly whisky.

“Có thể là tôi không nên xen vào việc này,” tôi nói. “Nhưng tôi nghĩ nên thẩm vấn thằng bé bán cá. Ý tôi là nếu kẻ giết người đi ra bằng cửa trước thì có cơ may cậu ta đã trông thấy hắn.”

“Slack đã thẩm vấn nó rồi,” Melchett đáp. “Nhưng thằng bé khai nó chẳng nhìn thấy ai cả. Khó mà nhìn thấy lắm. Tên sát nhân có thể đã tìm hiểu kỹ. Ở cổng trước nhà mục vụ lại có nhiều bụi rậm, nên hắn ta có thể quan sát lúc nào thì đường vắng người. Thằng bé bán cá đã ghé lại nhiều nơi — nhà mục vụ, nhà Haydock rồi nhà bà Price Ridley nữa, nên tên giết người rất dễ lẩn tránh nó.”

“Vâng, chắc là thế,” tôi nói.

“Mặt khác, nếu chẳng may thằng Archer bất lương kia giết người và Fred Jackson bắt gặp hắn thì tôi cũng hết sức ngờ phải chăng thằng bé khai gian. Archer là họ hàng với nó mà.”

“Ông có nghi ngờ Archer nhiều không?”

“À, mục sư biết đó, lão Protheroe đã tấn công Archer rất kịch liệt. Giữa hai người đã có nhiều trận sống mái. Tính Protheroe thì không mấy nhân hậu khoan dung.”

“Đúng vậy, ông ấy là người rất nhẫn tâm,” tôi nói.

“Ý tôi là, mình muốn sống thì cũng phải để cho người ta sống với chứ,” Melchett tiếp. “Tất nhiên luật pháp thì phải đâu ra đó, không thể có tình trạng nương nhẹ. Đó là điều Protheroe không bao giờ làm.”

“Ông ta luôn tự hào về điều ấy,” tôi nói.

Rồi ngập ngừng đôi chút, tôi hỏi tiếp:

“Cái ‘tin động trời’ ông định nói với tôi là gì?”

“Chà, quả là động trời. Mục sư biết lá thư Protheroe viết dở khi ông ấy bị ám sát chứ?”

“Vâng.”

“Chúng tôi đã tìm được một chuyên gia — để biết dòng chữ 6.20 có phải do bàn tay khác thêm vào không. Đương nhiên chúng tôi gửi cả các mẫu chữ viết tay của Protheroe. Và mục sư có biết chuyên gia kết luận thế nào không? Lá thư ấy hoàn toàn không phải do Protheroe viết.”

“Ý ông là giả mạo ư?”

“Đúng là giả mạo. Họ cho rằng dòng 6.20 lại do một người khác nữa viết — nhưng họ không chắc chắn. Tiêu đề ấy được viết bằng thứ mực khác, nhưng bản thân lá thư là giả mạo. Protheroe không hề viết nó.”

“Họ có chắc chắn không?”

“À, họ quả quyết trăm phần trăm. Mục sư hiểu thế nào là chuyên gia mà! Ô, nhưng họ cũng chỉ khẳng định tương đối thôi.”

“Quá ngạc nhiên,” tôi nói rồi sực nhớ ra. “Sao lúc bà Protheroe nói rằng nét chữ này không giống của chồng bà thì tôi lại không lưu ý nhỉ!”

“Thật vậy sao?”

“Tôi cứ nghĩ các bà thường hay nhận xét ngu ngơ thế thôi, bởi lẽ theo tôi chắc chắn ông Protheroe đã viết bức thư ấy.” Chúng tôi nhìn nhau. Rồi tôi chậm rãi nói: “Thật kỳ lạ, tối nay bà Marple cũng bảo lá thư ấy là hoàn toàn giả mạo.”

“Quỷ tha ma bắt cái bà ấy, nếu chính bà ta là thủ phạm thì bà ta cũng chỉ biết đến thế mà thôi.”

Ngay lúc ấy chuông điện thoại vang lên. Tiếng chuông điện thoại cũng mang yếu tố tâm lý; lúc này đây nó reo dai dẳng như báo hiệu điềm gở.

Tôi bước đến nhấc ống nghe.

“Nhà mục vụ đây,” tôi nói. “Ai ở đầu dây thế?”

Một giọng nói kỳ lạ, the thé cuồng loạn vang lên:

“Tôi muốn xưng tội. Lạy Chúa, tôi muốn xưng tội.”

“A lô, a lô,” tôi nói. “Xem kìa, anh đã ngắt đường dây rồi. Số máy nào vậy?”

Một giọng nói uể oải đáp rằng không biết, rồi xin lỗi vì khiến tôi bị quấy rầy.

Tôi gác ống nghe và quay lại chỗ Melchett:

“Có lần ông nói mình sẽ phát điên nếu lại có thêm người tự nhận mình là thủ phạm phải không?”

“Chuyện gì vậy?”

“Có người muốn thú tội… Nhưng tổng đài đã ngắt đường dây rồi.”

Melchett nhảy bổ tới chụp lấy ống nghe.

“Tôi sẽ nói chuyện với họ.”

“Ông gọi đi, có thể sẽ có hiệu quả đó,” tôi nói. “Giờ thì tôi đi đây. Tôi vừa thoáng nghĩ mình đã nhận ra giọng nói này.”


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Án Mạng Nhà Ở Mục Vụ - Agatha-christie - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Án Mạng Nhà Ở Mục Vụ - Agatha-christie   Án Mạng Nhà Ở Mục Vụ - Agatha-christie - Page 2 Icon_minitimeWed Feb 06, 2019 4:59 am

Chương 28

Tôi hối hả đi vào làng. Đã mười một giờ đêm, và vào mười một giờ đêm chủ nhật thì cả làng St. Mary Mead đã say ngủ. Tuy nhiên khi đi qua, thấy lầu một còn sáng đèn, biết Hawes còn thức nên tôi dừng lại nhấn chuông.

Mãi một lúc lâu sau, bà Sadler, chủ nhà Hawes thuê, mới cạy cục tháo xong hai then cài cổng, một sợi dây xích và tra khóa vào ổ, rồi lom lom nhìn tôi một cách ngờ vực, bà kêu lên:

“Sao, là mục sư à?”

“Xin chào,” tôi đáp. “Tôi muốn gặp cậu Hawes. Thấy phòng sáng đèn nên tôi nghĩ cậu ấy còn thức.”

“Cũng có thể. Từ sau lúc ăn tối đến giờ thì tôi không nhìn thấy anh ta. Tối nay anh ta ở nhà một mình — không ra ngoài mà cũng chẳng có ai đến thăm cả.”

Tôi gật đầu rồi lướt qua bà, bước vội lên cầu thang. Hawes thuê một phòng ngủ và một phòng khách ở lầu một.

Tôi bước vào phòng khách. Hawes đang nằm ngủ say trên chiếc ghế dài, tôi vào mà anh chẳng hay biết. Bên cạnh anh là hộp thuốc rỗng và ly nước đã vơi một nửa.

Trên sàn, gần chân trái của anh, là một mẩu giấy có chữ bị vò nhàu. Tôi nhặt lên và vuốt phẳng. Tờ giấy viết: Mục sư Clement kính mến —

Đọc xong thư tôi kêu lên và đút thư vào túi, rồi cúi xuống xem xét Hawes. Sau đó cầm lấy điện thoại để gần Hawes, tôi gọi về nhà mục vụ. Chắc hẳn Melchett vẫn còn đang cô truy tìm cuộc gọi, vì tổng đài báo máy đang bận. Tôi nhờ họ gọi lại cho mình rồi cúp máy.

Tôi lần vào túi định xem lại tờ giấy vừa nhặt được, nhưng cùng lúc tôi lại lôi cả bức thư lấy từ hộp thư mà tôi chưa kịp đọc. Thật khủng khiếp, lá thư nhìn rất quen, vì nó cùng một nét chữ với thư nặc danh mà tôi nhận được ban chiều.

Tôi bóc thư.

Tôi đọc một lần — rồi hai lần — mà vẫn không sao hiểu nội dung.

Tôi toan đọc lần thứ ba thì chuông điện thoại reo. Như người mộng du, tôi nhấc ống nghe:

“A lô.”

“A lô, chào.”

“Ông đấy à, Melchett?”

“Vâng, mục sư đang ở đâu? Tôi tìm ra cứ gọi rồi. Số máy là…”

“Tôi biết số máy ấy.”

“Ồ, vậy thì tốt quá. Mục sư đang gọi từ số ấy phải không?”

“Đúng vậy.”

“Việc xưng tội ra sao rồi?”

“Tôi đã nghe thú tội.”

“Ý ông là đã bắt được hung thủ sao?”

Đây là lúc tôi cảm thấy bị giằng xé nhất trong đời. Tôi nhìn Hawes. Tôi nhìn lá thư bị vò nhàu. Tôi nhìn lá thư nặc danh viết nguệch ngoạc. Tôi nhìn chiếc hộp rỗng có ghi tên thuốc Cherubim. Tôi nhớ lại một cuộc nói chuyện tình cờ nào đó.

Tôi gắng gượng hết sức mới trả lời:

“Tôi — tôi không biết. Ông nên đến đây ngay thì tốt hơn.”

Và tôi cho ông ta địa chỉ.

Sau đó tôi ngồi xuống chiếc ghế đối diện với Hawes và suy nghĩ.

Tôi có vẻn vẹn hai phút để làm việc này.

Đúng hai phút nữa, Melchett sẽ đến.

Tôi cầm lá thư nặc danh lên và đọc lần thứ ba từ đầu đến cuối.

Rồi tôi nhắm mắt lại và suy nghĩ…


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Án Mạng Nhà Ở Mục Vụ - Agatha-christie - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Án Mạng Nhà Ở Mục Vụ - Agatha-christie   Án Mạng Nhà Ở Mục Vụ - Agatha-christie - Page 2 Icon_minitimeWed Feb 06, 2019 4:59 am

Chương 29

Tôi không rõ mình đã ngồi đó bao lâu — thực tế chỉ vài phút thôi, tôi nghĩ thế, tuy nhiên cảm giác như thời gian trôi qua vô tận cho đến khi tôi nghe tiếng mở cửa. Tôi quay lại ngước lên và thấy Melchett bước vào phòng.

Ông ta nhìn chăm chăm Hawes đang say ngủ trên ghế rồi quay sang tôi:

“Gì vậy Clement? Thế này nghĩa là sao?”

Tôi chọn một trong hai lá thư đang cầm trên tay rồi đưa cho Melchett. Ông khẽ đọc thành tiếng:

MỤC SƯ CLEMENT THÂN MẾN, - Đây là điều cực kỳ tồi tệ mà tôi phải nói ra. Rốt cuộc, tôi nghĩ nên viết thư cho ông, rồi sau đó chúng ta có thể trao đổi tiếp. Chuyện có liên quan đến vụ biển thủ vừa qua. Tôi rất lấy làm tiếc vì đã quá chủ quan trong việc xác định thủ phạm. Thật đau lòng khi tôi phải kết tội một mục sư đã được thụ phong của nhà thờ, nhưng rõ ràng tôi chỉ làm vì nhiệm vụ. Cần phải trừng phạt để làm gương và…

Melchett nhìn tôi dò hỏi. Đến đây dòng chữ trở nên nguệch ngoạc không đọc ra, như thể cái chết bất ngờ ập đến với người viết.

Melchett nặng nề thở dài rồi nhìn Hawes.

“Hóa ra đây là lời giải đáp! Một người thậm chí chúng ta không bao giờ ngờ tới. Vì hối hận nên anh ta mới thú tội!”

“Gần đây cậu ấy tỏ ra rất kỳ quặc,” tôi nói.

Đột nhiên Melchett kêu thét lên đồng thời bước vội đến chỗ người đang ngủ. Ông nắm lấy vai anh ta, ban đầu lay nhè nhẹ rồi sau đó càng lúc càng mạnh dần.

“Hawes không ngủ! Anh ta bị sốc thuốc! Chuyện này nghĩa là sao?”

Mắt ông chạm phải hộp thuốc rỗng. Ông nhặt chiếc hộp lên.

“Có phải anh ta…?”

“Tôi cũng nghĩ vậy,” tôi đáp. “Hôm nọ cậu ấy có đưa cho tôi xem những thứ này và nói rằng được cảnh báo là không dùng quá liều. Đây là cách tự kết liễu, anh chàng đáng thương. Có lẽ đó là cách tốt nhất. Chúng ta cũng không cần phải xét xử anh ta nữa.”

Nhưng Melchett trước hết là cảnh sát trưởng. Những lý lẽ đang lôi cuốn tôi chẳng mảy may tác động đến ông. Ông ta đã tóm được kẻ sát nhân thì ông ta muốn hắn phải bị treo cổ.

Trong tích tắc ông ta đến bên máy điện thoại, liên tục nhấc lên dập xuống ống nghe cho đến khi được nối máy. Ông xin số bác sĩ Haydock, rồi trong khi chờ đợi, ông đứng lặng thinh, tai dán vào máy còn mắt hướng về gương mặt rũ rượi đang nằm trên ghế kia.

“A lô — a lô — a lô — bác sĩ Haydock phải không? Bác sĩ đến High Street ngay lập tức được không? Là trợ tế Hawes. Khẩn cấp… Sao cơ?… À, số máy nào thế?… Ô, xin lỗi nhé.” Ông gác máy, nổi đóa:

“Nhầm số, nhầm số — lúc nào cũng nhầm số! Một mạng người đang treo lơ lửng trên cái nhầm ấy. A lô — cô nối máy nhầm số rồi… ừ — đừng làm mất thời gian nữa — cho tôi số ba mươi chín — chín chứ không phải năm.”

Lại một hồi sốt ruột chờ đợi — lần này thì nhanh hơn. “A lô — Haydock phải không? Là Melchett gọi đây. Ông đến ngay số 19 High Street được không? Trợ tế Hawes uống thuốc quá liều. Ngay lập tức nhé, chuyện sinh tử đấy.”

Rồi cảnh sát trưởng gác máy và nôn nóng sải bước quanh phòng.

“Clement ạ, tôi không hiểu tại sao mục sư lại không gọi bác sĩ ngay? Đầu óc ông để ở đâu vậy hở trời?!”

May thay Melchett chẳng bao giờ nghĩ người khác dám có ý kiến khác với mình. Thấy tôi lặng thinh, ông ta hỏi tiếp: “Mục sư tìm thấy thư này ở đâu?”

“Bị vò nhàu ở trên sàn — từ tay cậu ấy rơi xuống.”

“Lạ thật — bà cô già kia đã nói đúng về bức thư giả mạo chúng ta tìm thấy. Làm thế nào bà ta nhận ra nhỉ? Nhưng cái kẻ không hủy bức thư thì quả là ngu như lừa. Nghĩ mà xem — giữ nó lại là bằng chứng nguy hiểm nhất!”

“Thế gian luôn đầy mâu thuẫn mà.”

“Nếu không như vậy thì không biết bao giờ chúng ta mới tóm được tên sát nhân! Và sớm muộn gì chúng cũng gây thêm chuyện điên rồ. Trông ông có vẻ không được khỏe, mục sư Clement ạ. Cú sốc này quá nặng nề với ông phải không?”

“Đúng thế. Như tôi đã nói, nhiều lúc thái độ của Hawes thật kỳ quặc, nhưng tôi không bao giờ nghĩ rằng…”

“Ai thế nhỉ? Chà, có tiếng xe hơi.” Ông ta bước đến bên cửa sổ đẩy khung kính lên rồi nhoài người ra ngoài. “Phải, đúng là Haydock.”

Một lúc sau bác sĩ bước vào phòng. Chỉ vài từ ngắn gọn, Melchett báo sự tình.

Haydock không phải là người hay bộc lộ cảm xúc. Ông chỉ nhướn mày, gật đầu, rồi sải bước về phía người bệnh. Ông bắt mạch, vạch mi mắt Hawes và chăm chú nhìn vào mắt anh ta.

Đoạn ông quay lại chỗ Melchett.

“Ông muốn tôi cứu Hawes để rồi treo cổ anh ta ư?” bác sĩ Haydock hỏi. “Ông biết đó, anh ta sắp lên đường rồi, dù sao thì… Tôi không biết mình có thể cứu anh ta được không.”

“Còn nước còn tát.”

“Rõ.”

Bác sĩ loay hoay với hộp thuốc mang theo, chuẩn bị một liều thuốc tiêm dưới da và tiêm vào cánh tay Hawes. Rồi ông đứng lên:

“Tốt nhất là nên đưa cậu ấy đến Much Benham — đến bệnh viện ở đó. Giúp tôi một tay đưa anh ta xuống xe nào.”

Cả hai chúng tôi xúm vào khiêng phụ. Khi Haydock ngồi vào tay lái, ông ném về phía sau lời bình phẩm:

“Ông không thể treo cổ trợ tế Hawes được đâu, ông biết đấy Melchett ạ.”

“Ông định nói là anh ta không thể hồi phục chứ gì?”

“Có thể được mà cũng có thể không. Ý tôi không phải vậy, mà là ngay cả nếu cậu ấy hồi phục — thì con người bất hạnh này cũng không phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Tôi sẽ làm chứng như thế.”

“Ông ta định nói gì thế nhỉ?” Melchett hỏi khi chúng tôi trở lên lầu.

Tôi giải thích rằng Hawes bị chứng hôn mê vì viêm não.

“Bệnh buồn ngủ hả? Thời buổi này lúc nào người ta cũng tìm ra lý do biện minh cho mọi hành vi bẩn thỉu, mục sư có đồng ý không?”

“Khoa học giúp chúng ta hiểu biết nhiều điều.”

“Khoa học cái con khỉ — xin lỗi mục sư Clement, nhưng tất cả những trò màu mè điệu bộ ấy làm tôi bực mình. Tính tôi vốn ngay thẳng. Chà, tôi nghĩ chúng ta nên nhìn quanh một chút xem sao.”

Nhưng ngay lúc đó câu chuyện giữa chúng tôi bị gián đoạn — một cách đáng kinh ngạc. Cửa bật mở và bà Marple bước vào phòng.

Mặt bà ửng hồng vì phấn khích, và có vẻ bà nhận ra chúng tôi đang lúng túng.

“Xin thứ lỗi — vô cùng xin lỗi — vì không mời mà đến — xin chào đại tá Melchett. Tôi hết sức xin lỗi, nhưng nghe tin trợ tế Hawes bị bệnh, tôi nghĩ mình phải đến xem có giúp được gì không.”

Bà ngập ngừng. Đại tá Melchett bực tức nhìn bà chăm chăm.

“Bà tử tế quá, bà Marple,” ông ta nói cộc lốc. “Nhưng chẳng có việc gì phiền đến bà cả. Mà này, làm sao bà biết được?”

Đó chính là điều tôi đang nóng lòng muốn hỏi!

“Là do điện thoại,” bà Marple giải thích. “Họ quá bất cẩn nối nhầm máy, đúng không? Ban đầu ông gọi tôi mà ngỡ tôi là bác sĩ Haydock. Số máy của tôi là ba lăm.”

“À, ra thế!” tôi thốt lên. Bao giờ cũng có lời giải thích hoàn toàn tốt đẹp và hợp lý cho sự thông tuệ của bà Marple.

“Thế nên tôi đến đây xem có gì cần giúp không.”

“Bà thật quá tốt bụng,” Melchett lặp lại, thậm chí còn lạnh nhạt hơn. “Nhưng chẳng có việc gì mà làm cả. Haydock đưa Hawes đến bệnh viện rồi.”

“Đến bệnh viện thật ư? Tôi nghe mà nhẹ cả người! Vào bệnh viện sẽ rất an toàn cho cậu ấy. Khi ông bảo ‘không có việc gì mà làm’, ông không định nói là không cần giúp trợ tế Hawes đấy chứ? Ông không định nói là cậu ấy sẽ không bình phục chứ?”

“Không có gì chắc chắn cả,” tôi nói.

Bà Marple lướt mắt qua hộp thuốc.

“Chắc cậu ấy dùng thuốc quá liều phải không?” bà hỏi.

Melchett chắc muốn giữ kín việc này, tôi nghĩ thế, còn tôi có lẽ khác hơn. Nhưng cuộc tranh luận với bà Marple về vụ án vẫn còn nguyên trong tâm trí tôi khiến tôi lại đồng quan điểm với ông ta, mặc dù phải thừa nhận rằng tôi hơi khó chịu vì cái lối nhanh nhẩu xuất hiện và cả thói tò mò hăm hở của bà cô này.

“Tốt nhất bà nên xem cái này,” tôi nói đoạn đưa bà xem lá thư viết dở của ông Protheroe. Bà cầm lấy đọc mà không tỏ vẻ gì ngạc nhiên.

“Bà đã luận ra điều gì rồi, đúng không nào?” tôi hỏi.

“Vâng — vâng, đúng thế. Mục sư có thể cho tôi biết được không, vì sao tối nay ông lại đến đây? Đó là điều khiến tôi suy nghĩ rất lung. Cả mục sư và đại tá Melchett — tôi không sao nghĩ ra được.”

Tôi giải thích về cú điện thoại, và rằng tôi nghĩ mình nhận ra giọng của Hawes. Bà Marple trầm ngâm gật gù.

“Rất thú vị. Hết sức may mắn — có thể nói như thế. Vâng, cú điện thoại ấy đã đưa mục sư đến đây kịp thời.”

“Kịp thời việc gì mới được?” tôi chưa chát hỏi.

Bà Marple tỏ vẻ ngạc nhiên.

“Tất nhiên là kịp thời cứu trợ tế Hawes rồi.”

“Bà không nghĩ là nếu Hawes không tỉnh lại thì sẽ tốt hơn sao? Tốt hơn cho cậu ấy và cả cho mọi người. Giờ đây chúng tôi đã tìm ra sự thật và…”

Tôi dừng phắt lại — vì bà Marple lại gật gù một cách dữ dội khác thường khiến tôi lạc mạch quên bẵng mình đang nói gì.

“Dĩ nhiên, dĩ nhiên đó là điều hắn ta muốn mục sư nghĩ!” bà nói. “Rằng mục sư đã biết ra sự thật — và như thế là tốt cho tất cả mọi người, ồ đúng rồi, mọi thứ đều rất ăn khớp với nhau — bức thư, việc uống thuốc quá liều, trạng thái tinh thần của trợ tế Hawes đáng thương và lời thú tội của cậu ấy. Mọi thứ đều trùng khớp — nhưng đều sai cả… ”

Chúng tôi trố mát nhìn bà.

“Bởi thế tôi mới mừng cho trợ tế Hawes được an toàn — trong bệnh viện — nơi không ai có thể đến gần cậu ấy ấy được. Nếu trợ tế Hawes bình phục, cậu ấy sẽ nói hết sự thật với mục sư.”

“Sự thật ư?”

“Phải — rằng cậu ấy chưa hề động đến một sợi tóc trên đầu ông Protheroe.”

“Nhưng cú điện thoại — bức thư — thuốc quá liều,” tôi nói. “Mọi thứ đã rõ ràng.”

“Đó là hắn muốn mục sư nghĩ thế. Ôi, hắn quả rất khôn ngoan! Giữ lại lá thư và dùng nó kiểu này thì thực sự quá đỗi khôn ngoan.”

“Bà bảo ‘hắn’, nghĩa là sao?”

“Ý tôi là tên sát nhân,” bà Marple đáp.

Rồi bà lẳng lặng nói tiếp:

“Tôi muốn nói ông Lawrence Redding…”


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Án Mạng Nhà Ở Mục Vụ - Agatha-christie - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Án Mạng Nhà Ở Mục Vụ - Agatha-christie   Án Mạng Nhà Ở Mục Vụ - Agatha-christie - Page 2 Icon_minitimeWed Feb 06, 2019 5:00 am

Chương 30

Chúng tôi trố mắt nhìn bà Marple. Trong một phút bất chợt chúng tôi nghĩ bà đã hóa rồ bởi lời buộc tội quá phi lý.

Đại tá Melchett là người đầu tiên lên tiếng. Ông tỏ ra lịch sự pha chút thương hại:

“Thật vô lý, bà Marple. Ông Redding hoàn toàn vô tội mà.”

“Đương nhiên rồi,” bà Marple nói. “Mọi việc đã được y lo liệu cả.”

“Ngược lại thì có,” giọng đại tá Melchett lạnh tanh. “Cậu ấy đã cố hết sức để tự tố giác chính mình.”

“Đúng,” bà Marple đáp. “Y đã khiến chúng ta tin như thế, nhất là tôi. Chắc ông còn nhớ, thưa mục sư Clement, việc Redding đi đầu thú đã khiến tôi vô cùng sửng sốt. Mọi suy luận của tôi khi ấy trở nên rối rắm và thậm chí tôi còn tin rằng y thực sự vô tội — ngay khi bản thân tôi đã đoan chắc thủ phạm không ai khác hơn là y.”

“Vậy người bà nghi ngờ là Lawrence Redding sao?”

“Theo lý thuyết thì đó luôn là kẻ ít ai ngờ đến nhất. Nhưng tôi thấy quy luật đó chẳng đúng tẹo nào khi áp dụng vào thực tế. Cũng như lòng quý mến của tôi dành cho phu nhân Protheroe cũng không giúp tôi tránh được phải đi đến kết luận rằng bà ấy hoàn toàn bị Redding giật dây đằng sau và sẽ làm bất cứ điều gì y xúi bẩy. Và hiển nhiên là y chẳng phải loại đàn ông sẵn sàng cao chạy xa bay với một người đàn bà không xu dính túi. Trong thâm tâm y, việc khiến đại tá Protheroe biến mất khỏi thế gian này là cần thiết — vậy nên y khử ông ta. Đúng là cái thể loại trai tơ bảnh mã vô đạo đức!”

Đại tá Melchett sau mấy lần sốt ruột khịt mũi đã bắt đầu nhặng xi lên:

“Ngớ ngẩn hết sức! Các hoạt động của Redding đã hoàn toàn được xác minh cho đến 6 giờ 45 phút, và Haydock cũng nói ràng ông Protheroe không thể bị giết vào lúc ấy. Tôi nghĩ bà luôn tự tin rằng mình thông thái hơn cả bác sĩ. Hay bà lại nghi ngờ Haydock cố ý khai gian — sao vậy hả trời?”

“Tôi nghĩ chứng cứ của bác sĩ Haydock hoàn toàn chuẩn xác bởi ông ấy là người rất chính trực. Và tất nhiên, phu nhân Protheroe mới chính là người bắn chết ngài đại tá — chứ không phải Redding.”

Một lần nữa chúng tôi lại trố mắt nhìn bà. Bà cô Marple hết chỉnh lại cái khăn ren trùm đầu đến tấm khăn choàng bông phủ trên vai rồi nhẹ nhàng ‘lên lớp’ chúng tôi bằng luận điệu đáng kinh ngạc nhất theo cách tự nhiên nhất trên đời.

“Tôi nghĩ giờ là lúc nên nói ra điều này. Niềm tin của một cá nhân — cho dù có vững vàng đến mức ăn sâu vào cả nhận thức đi nữa thì cũng không thể sánh bằng chứng cứ. Trừ khi cá nhân đó có lời giải thích khớp với tất cả các dữ kiện (như tôi đã nói với mục sư Clement lúc tối), thì anh ta không thể đưa ra bất kỳ kết luận nào. Và lời giải thích của tôi cũng chưa đầy đủ — còn thiếu một chi tiết — nhưng bất ngờ ngay lúc rời văn phòng của mục sư Clement, tôi chợt nhận ra dấu bàn tay trên chậu hoa bên cửa sổ — và — à — thì ra là thế! Mọi việc đã rõ như ban ngày!”

“Điên — điên quá rồi,” Melchett thì thào với tôi. Nhưng bà Marple lại thản nhiên tươi cười nhìn chúng tôi và tiếp tục cất giọng nhẹ nhàng đầy quý phái:

“Tôi thực sự không muốn tin vào suy luận của mình — hoàn toàn không muốn. Bởi lẽ tôi rất quý cả hai người bọn họ. Nhưng nhân tình thế thái là vậy đó. Ban đầu, khi y ta rồi bà ấy đều lần lượt nhận tội theo cái cách ngây ngô nhất, lòng tôi thấy nhẹ nhõm hơn bao giờ hết. Tôi đã lầm. Rồi tôi bắt đầu nghĩ đến những người khác có động cơ muốn giết đại tá Protheroe.”

“Có đến bảy nghi can!” tôi lẩm bẩm.

Bà nhìn tôi mỉm cười:

“Chính xác. Trong số đó có Archer — có vẻ không đúng, nhưng cậu ta nghiện rượu (mà rượu vào thì dễ nổi đóa, ai biết được!) Và tất nhiên có cô hầu Mary nhà mục sư. Cô này tính khí thất thường, lại dan díu với Archer lâu nay. Có cả động cơ lẫn thời cơ — vì sao, vì lúc ấy trong nhà mục vụ chỉ có mình cô ta! Bà lão Archer cũng có thể lấy súng từ nhà Redding đưa cho một trong hai người bọn họ. Và rồi cả Lettice nữa — con bé khao khát được tự do cũng như có tài sản để sống theo ý mình. Tôi từng biết nhiều trường hợp quý cô xinh đẹp và tao nhã nhất cũng chính là những kẻ bất chấp luân thường đạo lý không chút do dự — mặc dù chẳng có quý ông nào chịu tin như vậy cả.”

Tôi nhíu mày.

“Rồi đến chuyện cái vợt tennis,” bà Marple nói tiếp.

“Cái vợt tennis ư?”

“Vâng, cái vợt mà con hầu Clara nhà bà Price Ridley nhìn thấy trên bãi cỏ gần cổng nhà mục vụ ấy. Nó cho thấy cậu Dennis đã rời cuộc chơi tennis sớm hơn so với lời khai của mình. Mấy cậu trai tuổi mười sáu thường hay chập choạng lúc thế này khi thế kia vậy mà. Cho dù động cơ là gì đi nữa — vì bênh vực mục sư hay vì Lettice đi nữa thì vẫn có khả năng. Rồi tất nhiên có trợ tế Hawes tội nghiệp với cả mục sư nữa — tất nhiên không phải hai người cùng lúc — mà hoặc người này hoặc người kia, nói như giới luật sư.”

“Tôi sao?” Tôi kêu lên đầy kinh ngạc.

“À vâng. Tôi xin lỗi — thật ra tôi không bao giờ nghĩ vậy — nhưng đã có chuyện tiền quỹ bị bốc hơi. Thủ phạm đánh cắp số tiền chỉ có thể là mục sư hoặc Hawes, nhưng bà Price Ridley thì lại đi la cà bóng gió với cả làng rằng chính là mục sư — bởi vì mỗi khi bị chất vấn chuyện ấy thì mục sư luôn phản ứng dữ dội. Hiển nhiên, bản thân tôi luôn đoan chắc thủ phạm chính là Hawes — cậu ấy luôn khiến tôi nhớ tới người chơi đàn ông bất hạnh mà tôi từng kể. Nhưng dù sao thì cũng không thể hoàn toàn chắc chắn…”

“Rằng đâu là nhân tình thế thái,” tôi dứt khoát kết câu.

“Chính xác. Tiếp theo, có cả Griselda đáng mến nữa.”

“Nhưng phu nhân Clement hoàn toàn vô can,” Melchett cắt ngang. “Bà ấy trở về trên chuyến tàu sáu giờ năm mươi phút kia mà.”

“Là bà ấy nói thế,” bà Marple bật lại. “Đừng bao giờ tin vào lời nói suông. Chuyến tàu sáu giờ năm mươi phút tối hôm đó trễ đến những nửa tiếng đồng hồ. Vậy mà lúc bảy giờ mười lăm thì chính mắt tôi lại thấy bà ấy chuẩn bị đi đến Old Hall. Nghĩa là bà ấy đã bắt chuyến tàu sớm hơn để về đây. Đúng là tôi đã trông thấy bà ấy; nhưng có lẽ mục sư cũng biết chứ?”

Bà nhìn tôi dò hỏi. Cái nhìn đầy uy lực của bà thôi thúc tôi đưa ra bức thư nặc danh mà tôi vừa mở đọc cách đây không lâu. Trong thư ghi rõ Griselda bị bắt gặp rời khỏi nhà Lawrence Redding bằng cửa sau lúc sáu giờ hai mươi phút vào cái ngày định mệnh ấy.

Tâm trí bị vây hãm bởi mối nghi ngờ khủng khiếp, tôi lặng thinh. Mối ngờ vực ấy đã đến với tôi như một chuỗi ác mộng — từ mối quan hệ tằng tịu trước đây giữa Griselda và Redding, đến việc nó lọt vào tai đại tá Protheroe để rồi ông ta thúc ép tôi phải chấp nhận sự thật — rồi việc Griselda liều lĩnh trộm khẩu súng và buộc Protheroe phải câm họng. Như tôi nói — chỉ là cơn ác mộng — nhưng trong mấy phút dài dằng dặc này tưởng như đang thành sự thật kinh hoàng.

Tôi chẳng biết liệu bà Marple có chút nghi hoặc nào về tất cả những chuyện này hay không. Chắc hẳn bà ấy sẽ nghi. Ít có chuyện gì qua nổi mắt bà.

Bà trả lại tôi bức thư và khẽ gật đầu.

“Cả làng ai cũng biết chuyện đó,” bà nói. “Và có vẻ đáng ngờ thật, đúng không? Nhất là bà Archer khi bị thẩm vấn đã thề rằng lúc bà ta rời nhà Redding vào buổi trưa thì khẩu súng vẫn còn ở trong nhà.”

Bà ngập ngừng đôi chút rồi nói tiếp:

“Nhưng tôi đang bị lạc đề mất rồi. Điều tôi muốn nói — và tôi tin đó là nghĩa vụ của bản thân tôi — là đưa ra lời giải của riêng mình. Nếu các ông không tin — à, thì tôi cũng đã làm hết sức. Nhưng trước khi nói ra thì tôi vẫn chỉ mong sao điều này sẽ cứu được mạng sống của trợ tế Hawes đáng thương.”

Bà lại ngưng, và khi nói tiếp thì bà đổi giọng. Bớt hối tiếc và thêm kiên quyết.

“Đây là giải thích của tôi về toàn bộ vụ án. Âm mưu giết người này đã được lên kế hoạch chi tiết vào khoảng xế trưa ngày thứ năm. Đầu tiên Lawrence Redding ghé sang nhà mục sư vì biết ông đi vắng. Hắn mang súng theo và giấu vào chậu cây cạnh cửa hông. Khi mục sư trở về, Lawrence giải thích sự có mặt của mình bằng cách tuyên bố hắn đã quyết định rời bỏ nơi này. Đến năm giờ rưỡi, hắn giả giọng phụ nữ gọi cho mục sư từ khu nhà ở Cửa Bắc (các vị cũng biết trình diễn xuất tay ngang của Redding khá như thế nào).

“Bà Protheroe và chồng cũng vừa lên đường vào làng. Và — điều kỳ lạ hông phòng làm việc nơi ngài đại tá xấu số đang ngồi ở bàn viết thư cho mục sư. Chúng ta đều biết ông ấy bị điếc. Bà ta lấy súng để sẵn trong chậu, đến sau lưng đại tá bắn vào đầu ông ấy rồi vứt súng và nhanh như chớp chạy ra ngoài, băng qua vườn xuống xưởng vẽ. Hầu như ai cũng nghĩ không đủ thời gian để làm việc đó!”

“Nhưng còn phát súng?” đại tá Melchett phản đối. “Bà đâu có nghe thấy tiếng nổ?”

“Dựa theo những truyện trinh thám mà tôi thu thập được thì có một phát minh mới gọi là ống giảm thanh Maxim. Tôi tự hỏi phải chăng tiếng hắt hơi mà cô hầu Clara nghe được chính là tiếng súng? Nhưng điều đó không quan trọng. Phu nhân Protheroe gặp Redding ở xưởng vẽ, họ cùng vào trong, và — đời là thế, tôi sợ họ nhận ra tôi sẽ không rời khu vườn cho đến khi họ chưa trở ra!”

Chưa bao giờ tôi cảm thấy thích bà Marple như lúc này, khi bà nhận định một cách hài hước về nhược điểm của mình.

“Khi trở ra, thái độ của họ tự nhiên và hớn hở. Và đó chính là sai lầm, vì nếu họ thực sự đã dứt tình với nhau như đang giả vờ thì trông họ phải hoàn toàn khác. Nhưng rồi mọi người thấy đó, họ đã để lộ sơ hở. Đơn giản chỉ tỏ ra đau khổ một chút họ cũng không dám. Bởi lẽ trong mười phút tiếp theo ấy, họ mải lo ngụy tạo cho mình cái gọi là bằng chứng ngoại phạm, tôi nghĩ thế. Cuối cùng, Redding đến nhà mục vụ và nán ở lại đó càng lâu càng tốt. Có thể y đã thấy mục sư đang đi trên đường mòn từ xa nên có cơ hội để tính toán thời giờ một cách hợp lý nhất. Y ta lấy đi khẩu súng và ống giảm thanh, để lại lá thư giả mạo được viết bằng loại mực khác bởi một nét chữ khác. Để khi bị phanh phui thì nó sẽ giống như một màn vải thưa che mắt thánh đầy vụng về nhằm đổ tội cho Anne Protheroe.

“Nhưng khi để lại thư, y lại nhìn thấy lá thư thật do đại tá Protheroe đang viết dở — là điều y không ngờ tới. Là người rất thông minh, khi nhận thấy lá thư sẽ có lợi cho mình, y ta cuỗm nó luôn. Tiếp đến y chỉnh đồng hồ cho khớp với với giờ ghi trên thư — nên nhớ đồng hồ ấy bao giờ cũng chạy nhanh mười lăm phút. Cũng với ý đồ hướng mọi nghi ngờ vào phu nhân Protheroe. Rồi y bỏ đi, gặp mục sư ngoài cổng và vào vai một người đang quẫn trí. Như tôi đã nói, y ta tinh khôn lắm. Một kẻ vừa phạm tội thì sẽ làm gì? Tất nhiên kẻ ấy sẽ cố cư xử một cách tự nhiên. Vậy nên Redding không làm thế. Y ta phi tang cái ống giảm thanh nhưng vẫn xách khẩu súng đến đồn cảnh sát và lừa tất cả chúng ta bằng một màn kịch tự thú cực kỳ hoàn hảo.”

Có điều gì đó hết sức lôi cuốn ở cách bà Marple tóm tắt toàn bộ vụ án. Sự đoan chắc trong từng câu nói của bà khiến cho chúng tôi cảm thấy tội ác nhất định đã xảy ra đúng như vậy chứ không thể khác hơn.

“Còn tiếng súng phát ra từ khu rừng thì sao?” tôi thắc mắc. Liệu đó có phải là sự trùng hợp ngẫu nhiên mà bà nói lúc tối không?”

“Chúa ơi, không hề!” bà Marple lắc đầu nguầy nguậy. “Đó không phải là trùng hợp — không hề, mà hoàn toàn cố ý để người khác nghe được — nếu không thì phu nhân Protheroe vẫn bị tiếp tục nghi ngờ. Về chuyện Redding đã làm điều đó như thế nào thì tôi không rõ, nhưng tôi biết nếu một lượng lớn acid picric rơi xuống đất thì nó sẽ phát nổ, và mục sư kính mến, chắc ông còn nhớ mình đã bắt gặp Redding khuân ra từ trong rừng một tảng đá, đúng ở vị trí ông nhặt được mảnh tinh thể sau đó. Quý ông thật khôn ngoan dàn xếp mọi thứ — từ hòn đá được treo lơ lửng trên các mảnh tinh thể đến ngòi nổ hẹn giờ — ý tôi là cái kíp nổ chậm! Kíp ấy phải mất khoảng hai mươi phút để phần lõi bên trong cháy hết — rồi phát nổ vào đúng sáu giờ ba mươi phút, ngay lúc hắn ta và phu nhân Protheroe rời xưởng vẽ trước mắt mọi người. Một mưu kế rất an toàn vì thứ có thể bị phát hiện sau đó chỉ là một hòn đá bự chảng! Tuy vậy Redding vẫn muốn xóa nó đi — thì y bị mục sư bắt gặp.”

“Tôi tin là bà nói đúng,” tôi thốt lên, chợt nhớ vẻ mặt sửng sốt của Lawrence khi bất ngờ chạm mặt tôi hôm nọ. Hành động ấy khi đó trông cũng bình thường, nhưng giờ thì…

Bà Marple có lẽ đọc được ý nghĩ của tôi nên tinh ý gật đầu: “Phải, chắc hắn ta rất hoảng khi bất ngờ gặp mục sư lúc đó. Tuy vậy hắn vẫn khéo che đậy — vờ như đang đem tảng đá đó về cho khu vườn đá của tôi. Chỉ là…” Bà Marple đột nhiên dằn giọng. “Nó lại không cùng loại với mấy viên đá trong vườn của tôi. Và điều đó đã dẫn tôi đi đúng hướng!”

Đại tá Melchett như hồi tỉnh sau một lúc ngồi ngẩn người ra từ nãy giờ. Ông hết khịt mũi liên tục đến bối rối thở phì phò rồi thốt lên:

“Ôi chao, thật hết nói nổi! Hết nói nổi!”

Ông ta chả ý kiến ý cò gì thêm ngoài bấy nhiêu đó nữa. Tôi nghĩ có lẽ ông cũng như tôi đã quá ấn tượng với những kết luận cực kỳ logic của bà Marple. Tuy nhiên lúc này ông vẫn chưa sẵn sàng thừa nhận. Thay vào đó, ông xòe tay cầm lá thư nhàu nhĩ lên và quát:

“Khá lắm. Nhưng bà định giải thích thế nào về việc trợ tế Hawes đây! Rõ ràng cậu ta gọi điện đầu thú mà!”

“Đúng vậy, việc đó đúng là Chúa sắp đặt. Là do bài Phúc âm của mục sư đây, không còn nghi ngờ gì nữa. Thưa mục sư, ngài đã có một bài giảng đặc biệt xuất sắc. Chắc chắn nó đã tác động mạnh mẽ đến Hawes khiến cậu ấy không thể kìm lòng và phải thú nhận — việc biển thủ tiền quỹ của giáo xứ.”

“Sao?”

“Vâng — cũng nhờ Chúa Trời chở che mà cậu ấy được cứu mạng. (Tôi tin là cứu được, vì bác sĩ Haydock rất tài giỏi.) Như tôi nói lúc nãy, Redding đã giữ lá thư này (việc làm khá mạo hiểm, nhưng tôi cho rằng y giấu nó ở nơi nào đó an toàn) chờ đến khi y xác minh rõ người được đề cập trong thư là ai. Rồi y sớm biết người đó chính là Hawes. Tôi tin là tối qua y đã trở lại đây và ở lại khá lâu với cậu ấy. Tôi cũng ngờ rằng chính y đã đánh tráo viên thuốc, rồi lén bỏ lá thư vào bộ áo lễ của Hawes. Chàng trai trẻ tội nghiệp đó sẽ vô tình nuốt viên thuốc oan nghiệt — mọi điều cậu ta biết cũng sẽ bị chôn theo xuống mồ. Và khi lá thư được tìm thấy, mọi người sẽ nhanh chóng đi đến kết luận là chính Hawes đã sát hại đại tá Protheroe rồi tự kết liễu mình vì quá ăn năn hối hận. Bản thân tôi cũng nghĩ rằng Hawes phát hiện lá thư ngay sau khi vừa uống viên thuốc chết người kia. Đang trong tình trạng bất ổn nên điều ấy với Hawes hẳn siêu nhiên kinh hãi lắm, thêm vào đó là bài Phúc âm của mục sư đây, đã khiến cậu ấy phải thú nhận tất cả.”

“Không tin nổi, không sao tin nổi!” đại tá Melchett nói. “Bất thường hết sứcl Tôi… Tôi không tin chút nào!”

Lời tuyên bố của ngài đại tá chưa bao giờ thiếu sức thuyết phục như lúc này. Có lẽ chính mình cũng thấy thế nên ông nói tiếp:

“Vậy bà có thể giải thích về cuộc gọi cho bà Price Ridley từ nhà của Redding không?”

“À!” bà Marple nói. “Cái đó mới là sự trùng hợp ngẫu nhiên. Griselda thân mến là người đã gọi cuộc điện thoại đó — bà ấy với Dennis, theo phỏng đoán của tôi. Hai bác cháu họ nghe được lời đồn về mục sư mà bà Price Ridley đi rêu rao, và họ nghĩ ra cách (hơi bị trẻ con) hòng bịt mồm bà ta lại. Trùng hợp ở chỗ cuộc gọi đó lại xảy ra cùng lúc với phát súng ‘dỏm’ trong rừng, khiến hai việc trên được xem có liên quan đến nhau.

Tôi chợt nhớ rằng những ai có đề cập đến phát súng đó đều nói rằng âm thanh của nó hơi-bị-khác so với tiếng súng bình thường. Họ đã đúng. Chỉ là họ không biết phải giải thích cái sự ‘khác’ đó như thế nào thôi.

Đại tá Melchett hắng giọng:

“Những suy luận của bà rất hợp lý, bà Marple ạ. Tuy nhiên, cho phép tôi lưu ý rằng chẳng có chứng cứ nào cả.”

“Tôi hiểu,” bà Marple đáp. “Nhưng ông tin đó là sự thật, đúng không?”

Ngập ngừng một lúc, đại tá miễn cưỡng trả lời:

“Phải, tôi tin. Mẹ kiếp, mọi chuyện chỉ có thể diễn ra như thế. Nhưng lại không có chứng cứ — một mẩu cũng không.”

“Cũng chính vì vậy mà tôi nghĩ — trong trường hợp này…” bà Marple đằng hắng, “có thể…”

“Làm sao?”

“Có thể tính đến việc giăng bẫy.”


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Án Mạng Nhà Ở Mục Vụ - Agatha-christie - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Án Mạng Nhà Ở Mục Vụ - Agatha-christie   Án Mạng Nhà Ở Mục Vụ - Agatha-christie - Page 2 Icon_minitimeWed Feb 06, 2019 5:00 am

Chương 31

Đại tá Melchett và tôi lại nhìn bà chằm chằm:

“Bẫy à? Bẫy gì mới được chứ?”

Bà Marple trông hơi thiếu tự tin, nhưng rõ ràng bà đã có sẵn kế hoạch:

“Chẳng hạn như Redding nhận được một cuộc gọi cảnh báo.”

Đại tá Melchett mỉm cười:

“‘Lộ rồi, chuồn mau!’ Diệu kế này đã cũ mèm, bà Marple à. Không phải vì nó kém hiệu quả, mà vì thằng cha Redding quá láu cá nên khó bị sập bẫy lắm.”

“Thì mình phải có cách riêng, tôi hiểu chứ,” bà Marple nói. “Tôi đề nghị — chỉ là đề nghị thôi nhé — rằng người cảnh báo cho hắn ta phải là người bị xem là có cái nhìn khác thường về vụ án này. Những ai từng nói chuyện với Haydock đều thấy rằng ông ấy nhìn nhận vụ án mạng theo một góc cạnh khác người ta. Giả sử bác sĩ nói bóng gió rằng có ai đó — bà Sadler hoặc một trong mấy đứa nhỏ nhà bà ấy chẳng hạn — đã tình cờ chứng kiến vụ tráo thuốc — à, nếu Redding vô tội thì dĩ nhiên lời bóng gió ấy chẳng hề hấn gì với y, nhưng nếu ngược lại thì…”

“Nếu ngược lại thì sao?”

“À, thì có lẽ y sẽ dại dột mà manh động lần nữa.”

“Và rồi tự tra tay vào còng. Có vẻ khả thi đó. Bà quả là đa mưu tức trí, bà Marple! Nhưng liệu Haydock có chịu giúp chúng ta không? Bà vừa nói cách nhìn của ông ấy…”

Bà Marple vui vẻ ngắt lời ngài đại tá:

“Ô, đó chỉ là lý thuyết thôi, còn thực tiễn lại hoàn toàn khác, đúng không? Nhưng dù sao ông ấy cũng đang ở đày, ta có thể hỏi ông ấy thử xem sao.”

Haydock khá kinh ngạc khi thấy bà Marple đang ở cùng với chúng tôi. Trông ông mệt mỏi và phờ phạc.

“Suýt chút nữa thì không kịp cứu,” ông nói. “Thật là chỉ mành treo chuông. Nhưng cậu ấy sẽ hồi phục. Trách nhiệm của bác sĩ là phải cứu sống bệnh nhân và tôi đã làm thế, nhưng tôi sẽ vui hơn nếu tôi không cứu được cậu ta.”

“Ông có thể nghĩ khác sau khi nghe những gì bọn tôi sắp nói với ông đây,” Melchett nói.

Ngắn gọn và súc tích, cảnh sát trưởng truyền đạt lại giả thuyết của bà Marple về vụ án cho bác sĩ nghe, và kết thúc bằng lời đề nghị của bà.

Chúng tôi sau đó được tận mắt chứng kiến sự khác biệt giữa lý thuyết và thực tiễn mà bà Marple nói. Thái độ bác sĩ Haydock dường như thay đổi hoàn toàn. Tôi nghĩ chắc ông ấy còn muốn Redding bị bêu đầu luôn, không phải vì việc mưu sát đại tá Protheroe khiến ông căm ghét hắn ta mà vì vụ tấn công Hawes xấu số.

“Quân vô lại chết tiệt,” Haydock chửi. “Đồ khốn nạn trời đánh thánh đâm! Khổ thân Hawes, cậu ta còn mẹ và em gái nữa kia mà! Nỗi nhục là người nhà của một kẻ sát nhân sẽ đeo bám họ suốt đời, thử nghĩ họ sẽ đau đớn khổ sở ra sao! Tất cả chỉ vì trò ném đá giấu tay hèn hạ kia!”

Cơn thịnh nộ dữ dội đó cho tôi thấy một con người cực kỳ nhân văn vừa được thức tỉnh trong ông.

“Nếu đây là sự thật thì các vị có thể tin ở tôi,” Haydock nói. “Thằng khốn ấy không đáng sống nữa. Hãm hại người không có khả năng tự vệ như Hawes ư!”

Bất kỳ kẻ khốn khổ nào cũng có thể tin cậy vào sự thương cảm của bác sĩ Haydock. Ông hăm hở bàn bạc kế hoạch chi tiết với đại tá Melchett trong khi bà Marple đứng dậy và tôi nài nỉ đưa bà ấy về nhà.

“Ông thật tử tế, mục sư Clement,” bà Marple nói trong lúc chúng tôi dạo bước trên con đường vắng vẻ. “Ôi trời, đã hơn mười hai giờ, tôi hy vọng giờ này Raymond đã đi ngủ chứ không thức chờ tôi.”

“Lẽ ra Raymond nên cùng đi với bà,” tôi nói.

“Tôi không cho nó biết mình đi đâu cả,” bà Marple đáp.

Tôi mỉm cười khi nhớ lại khả năng phân tích vụ án đầy tài tình của Raymond West.

“Nếu như những suy luận của bà mà đúng thật — bản thân tôi không nghi ngờ gì về việc ấy, thì bà sẽ ghi bàn với cháu mình nhiều lắm nhé.”

Bà Marple cũng nhoẻn miệng cười — một nụ cười đầy khoan dung.

“Tôi nhớ bà dì Fanny của tôi từng có một câu châm ngôn. Hồi ấy tôi mới mười sáu tuổi nên tôi đã nghĩ câu đó cực kỳ vớ vẩn.”

“Câu đó như thế nào?” tôi hỏi.

“Bà dì thường nói: ‘Người trẻ nghĩ rằng người già là xuẩn ngốc, nhưng người già thì lại biết rằng người trẻ mới đúng là dại khờ!’”


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Án Mạng Nhà Ở Mục Vụ - Agatha-christie - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Án Mạng Nhà Ở Mục Vụ - Agatha-christie   Án Mạng Nhà Ở Mục Vụ - Agatha-christie - Page 2 Icon_minitimeWed Feb 06, 2019 5:01 am

Chương 32

Cũng không còn gì để kể thêm. Kế hoạch của bà Marple đã thành công. Lawrence Redding không phải là người vô tội, và màn kịch bóng gió về nhân chứng vụ tráo thuốc cũng đã lừa được y dại dột ‘động thủ’. Đúng là tâm địa xấu xa thì có lúc phải lộ chân tướng.

Hiển nhiên là hắn đã bị đặt vào thế bị động. Tôi nghĩ ý định đầu tiên thôi thúc, y chính là cao chạy xa bay. Nhưng còn đồng phạm của mình nữa, y không thể chuồn đi mà không nói lời nào với bà ta, và y cũng không dám chờ đến sáng. Vậy là đêm hôm đó hai trong số những cảnh sát mẫn cán nhất của đại tá Melchett đã lén theo y đến Old Hall. Redding ném hòn sỏi vào cửa sổ phòng của Anne Protheroe hòng đánh thức bà ta dậy và thì thầm khẩn nài bà ta ra ngoài để nói chuyện. Không một chút hoài nghi, họ nghĩ như vậy sẽ an toàn hơn ở trong nhà — vì sợ làm Lettice tỉnh giấc. Nhưng vì thế hai viên cảnh sát kia cũng nghe được hết toàn bộ cuộc nói chuyện của họ. Và không còn nghi ngờ gì nữa. Bà Marple buộc tội hoàn toàn đúng.

Phiên tòa xét xử Lawrence Redding và Anne Protheroe trở thành đề tài được mọi người bàn tán. Tôi không có ý định đi sâu vào chuyện đó mà chỉ sẽ nói đến việc vụ án đã đánh bóng tên tuổi của Thanh tra Slack, ‘người đã đem tội ác ra trước ánh sáng công lý bằng nhiệt tâm và trí tuệ của mình’. Tất nhiên chẳng ai đề cập đến công lao của bà Marple cả. Bản thân bà ấy chắc cũng đang khó chịu về việc đó lắm.

Lettice đến gặp tôi trước phiên xử. Cô gái thần sắc nhợt nhạt, thẫn thờ nhìn ra cửa sổ văn phòng. Cô nói rằng trước giờ cô luôn tin chắc mẹ kế của mình là đồng lõa. Việc mất cái mũ bêrê vàng chỉ là lý do để cô vào văn phòng tìm kiếm mà thôi. Dẫu hy vọng hão huyền, cô luôn mong tìm được manh mối nào đó mà cảnh sát đã bỏ sót.

“Mục sư biết không, họ không ghét bà ta như con,” Lettice mơ màng nói. “Và sự thù ghét khiến mọi việc trở nên dễ dàng hơn cho ta.”

Thất vọng vì kết quả điều tra của mình, cô bé đã cố tình để chiếc hoa tai của Anne gần bàn viết.

“Vì con biết thủ phạm chính là bà ta nên việc đó cũng đâu hề hấn gì! Coi như nhất cử lưỡng tiện thôi. Chính bà ta đã giết bố con.”

Tôi khẽ thở dài. Luôn có những điều mà một người bị khiếm khuyết về mặt đạo đức như Lettice sẽ không bao giờ nhận ra.

“Giờ con định sẽ làm gì hả Lettice?” tôi hỏi.

“Khi nào — khi nào mọi chuyện kết thúc, con sẽ ra nước ngoài.” Lettice chần chừ đôi chút rồi nói tiếp. “Con sẽ ra nước ngoài với mẹ con.”

Tôi ngước lên nhìn đầy ngạc nhiên.

Lettice gật đầu.

“Mục sư chưa bao giờ nhận ra bà Lestrange chính là mẹ con hay sao? Mẹ con chẳng còn — chẳng cồn sống bao lâu nữa, thưa mục sư. Vì muốn gặp con nên mẹ đã nhờ một người bạn cũ là bác sĩ Haydock giúp đỡ và đến đây dưới một danh tính khác. Bác ấy đã từng yêu mẹ con rất sâu đậm! Đến giờ vẫn thế. Mấy ông thường hay phát điên phát rồ vì mẹ con như vậy đó, vì đến tuổi này mà mẹ vẫn còn rất quyến rũ. Dù sao đi nữa thì bác sĩ Haydock đã làm tất cả những gì bác ấy có thể để giúp mẹ. Vì sợ miệng lưỡi cay độc của thiên hạ nên mẹ không dám xuất hiện ở đây bàng tên thật của mình. Tối hôm ấy, mẹ đến gập bố để nói rằng bà sắp rời khỏi trần thế này và khao khát mong được gặp con một lần. Nhưng bố con quả là thô bạo. Ông ta bảo mẹ không có quyền làm vậy, rằng con luôn nghĩ mẹ đã chết — cứ như con thực sự chấp nhận chuyện đó! Loại người như bố con là thiển cận như thế.

“Nhưng mẹ con không dễ chịu thua. Mẹ nghĩ nên xin phép bố con trước cho phải lẽ, nhưng ngay sau khi bị bố cự tuyệt một cách tàn nhẫn, mẹ đã gửi thư cho con, thế là con sắp đặt để rời cuộc chơi tennis sớm và gặp mẹ ở cuối phố lúc sáu giờ mười lăm. Hai mẹ con chỉ gặp nhau chút xíu và sắp xếp cho cuộc hẹn lần sau rồi chia tay trước sáu giờ rưỡi. Sau đó con sợ rằng mẹ sẽ bị nghi ngờ là đã giết bố, vì dù gì bà cũng đã có mối hận với ông. Đó là lý do khiến con cắt rạch bức chân dung cũ của mẹ để trên tầng áp mái. Vì con sợ rằng cảnh sát sẽ gí mũi vào và thu giữ tranh rồi nhận ra người trong tranh. Theo con bác sĩ Haydock cũng khiếp vía vì có lúc bác ấy nghĩ mẹ đã giết bố. Mẹ con giờ đã — tuyệt vọng rồi, bà chả sợ hậu quả đâu.”

Cô ngập ngừng.

“Thật là lạ, hai mẹ con con như đã thân thuộc với nhau tự bao giờ, còn bố với con thì lại không hề như thế. Nhưng mẹ thì — à mà thôi, dù sao thì hai mẹ con con cũng sẽ ra nước ngoài sống với nhau. Con sẽ ở bên mẹ đến — đến phút cuối…”

Cô gái đứng dậy và tôi cầm lấy tay cô.

“Chúa phù hộ hai người,” tôi nói. “Ta mong những điều tốt đẹp sẽ sớm đến với con Lettice ạ.”

“Nhất định là thế,” Lettice gượng cười đáp. “Nhưng đến giờ vẫn chưa có gì — phải không thưa mục sư? Nhưng thôi, con cũng chẳng trông mong gì nhiều. Tạm biệt, mục sư Clement. Mục sư lúc nào cũng rất tử tế với con — mục sư và cô Griselda.”

Griselda!

Tôi đã thừa nhận với Griselda việc lá thư nặc danh đó khiến tôi bối rối đến độ nào. Thoạt đầu nàng cười phá lên, nhưng sau đó nghiêm túc lên lớp cho tôi một trận.

“Tuy thế,” nàng nói thêm, “từ nay em sẽ tỏ ra thật chín chắn và kính sợ Thiên Chúa — giống như nhóm Pilgrim Fathers* ấy.”

Tôi chẳng thể hình dung Griselda có điểm nào giống nhóm Pilgrim Fathers cả.

Nàng tiếp tục:

“Len này, cuộc sống của em sắp ổn định lâu dài, và mình cũng vậy nữa, mình sẽ trẻ ra cho mà xem — chí ít là em mong thế! Khi chúng ta có con thì mình không thể xem em là trẻ con được nữa. Mình ạ, giờ đây em quyết định sẽ trở thành ‘người vợ và người mẹ’ thật sự (như trong sách hay nói ấy) cũng như lo quán xuyến việc nhà. Em đã mua hai cuốn sách viết về tề gia nội trợ và tình mẫu tử, và nếu mấy thứ đó không khiến em trở thành mẫu mực thì em cũng chẳng biết làm sao nữa! Mình biết không, mặc dù không cố tình nhưng mấy cuốn sách đó viết cực kỳ khôi hài luôn. Nhất là cái phần nuôi dạy con trẻ đó mình.”

“Mình không phải mua cuốn nào viết về cách đối xử tốt với chồng chứ?” tôi vừa hỏi vừa ôm ghì nàng vào lòng.

“Đâu cần,” Griselda đáp. “Em là người vợ cực tốt và em yêu mình tha thiết, mình còn muốn gì nữa?”

“Không gì hết,” tồi trả lời.

“Mình có thể nói rằng mình yêu em khờ dại — một lần thôi, được không mình?”

“Griselda, anh yêu em nồng nàn! Anh tôn thờ em! Anh say mê em điên cuồng, vô cùng vô tận đến mức vượt qua mọi giáo điều!”

Cô vợ của tôi liền thở ra sườn sượt đầy thỏa mãn.

Chợt nàng vùng thoát khỏi vòng tay tôi.

“Phiền ghê! Bà Marple lại sang nữa kìa. Đừng để bà ấy nghi ngờ gì mình nhé. Em không muốn ai tiếp thị cho em mấy cái đệm rồi nài nỉ em đặt chân lên chúng đâu. Bảo với bà ấy em đi ra sân golf rồi. Như vậy bà ấy sẽ không đánh hcri được gì — mà thật ra em cũng phải ra đó lấy cái áo len màu vàng em bỏ quên.”

Bà Marple đến bên cửa hông, khựng lại xin cáo lỗi rồi hỏi tìm Griselda.

“Griselda đã đi ra ngoài sân golf rồi,” tôi nói.

Ánh mắt bà Marple chợt lóe lên chút lo âu:

“Ô, nhưng lúc này làm thế là không thận trọng đâu nhé!”

Rồi mặt bà ửng đỏ, vừa kiểu cách như mệnh phụ vừa bẽn lẽn như thiếu nữ.

Sau đó nhằm xóa tan ngượng ngùng, chúng tôi quay sang huyên thuyên về vụ án Protheroe, rồi về vụ ‘tiến sĩ Stone’, hóa ra là một tên trộm khét tiếng với nhiều bí danh khác nhau.

Còn cô Cram thì đã thoát được tội đồng lõa. Cuối cùng cô đã thú nhận việc đem chiếc vali vào rừng, nhưng cô làm điều đó với thiện ý, vì Stone nói rằng y ta sợ các nhà khảo cổ kình địch khác sẽ đánh cắp các mẫu vật nhằm làm mất uy tín cho mấy cái học thuyết của y. Rõ ràng cô gái đã tin sái cổ vào câu chuyện khó tin đó. Theo làng xóm thì hiện giờ cô đang tìm một cơ hội chắc chắn hơn, một ông đứng tuổi độc thân nào đó đang cần thuê thư ký.

Trong lúc nói chuyện, tôi rất băn khoăn tự hỏi làm sao bà Marple lại phát hiện bí mật mới đây của vợ chồng tôi, nhưng ngay sau đó chính bà đã kín đáo cho tôi biết manh mối.

“Tôi hy vọng Griselda không chơi golf quá sức,” bà lẩm bẩm sau một lúc thận trọng ngần ngừ. “Hôm qua tôi đã ở nhà sách ở Much Benham mà…”

Tội nghiệp Griselda — cuốn sách về ‘tình mẫu tử’ kia đã làm lộ bí mật của nàng mất rồi!

“Bà Marple à,” tôi vụt nói, “tôi tự hỏi nếu có lúc nào bà phạm tội ác thì liệu bà có bị phát hiện không nhỉ?”

“Mục sư nghĩ gì mà ghê vậy!” bà Marple sửng sốt kêu lên. “Tôi hy vọng mình sẽ không bao giờ làm chuyện tội lỗi đó!”

“Nhưng nhân tình thế thái mà,” tôi nói lẩm bẩm.

Bà Marple hiểu ra lời nói đùa và đĩnh đạc cười to:

“Ông nghịch ngợm quá, mục sư Clement!” Bà đứng lên. “Nhưng bản tính của ông thì lại rất lương thiện.”

Đến bên cửa hông, bà dừng bước.

“Nhờ mục sư chuyển lời hỏi thăm của tôi đến Griselda nhé — và bảo cô ấy yên tâm — tôi nhất định sẽ giữ bí mật.”

Thật vậy, bà Marple quả là đáng mến…

HÉT
Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Sponsored content





Án Mạng Nhà Ở Mục Vụ - Agatha-christie - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Án Mạng Nhà Ở Mục Vụ - Agatha-christie   Án Mạng Nhà Ở Mục Vụ - Agatha-christie - Page 2 Icon_minitime

Về Đầu Trang Go down
 
Án Mạng Nhà Ở Mục Vụ - Agatha-christie
Về Đầu Trang 
Trang 2 trong tổng số 2 trangChuyển đến trang : Previous  1, 2

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
Nhanbkvn 2024 :: THƯ VIỆN SÁCH TRUYỆN :: Truyện Trinh Thám-
Chuyển đến