Nhanbkvn 2024
Chào Mừng Các Bạn Tham Gia Và Chia Sẽ Tại Diễn Đàn Nhanbkvn
Nhanbkvn 2024
Chào Mừng Các Bạn Tham Gia Và Chia Sẽ Tại Diễn Đàn Nhanbkvn
Nhanbkvn 2024
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Nhanbkvn 2024

Chia Sẽ Không Giới Hạn
 
Trang ChínhTrang Chính  Sự kiệnSự kiện  Latest imagesLatest images  PublicationsPublications  Tìm kiếmTìm kiếm  Đăng kýĐăng ký  Đăng NhậpĐăng Nhập  

 

 Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam

Go down 
Chuyển đến trang : Previous  1, 2, 3  Next
Tác giảThông điệp
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam   Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam - Page 2 Icon_minitimeSat Feb 02, 2019 3:39 am

26. SỰ TÍCH HỒ GƯƠM

Vào thời ấy, giặc Minh đặt ách đô hộ ở nước Nam. Chúng coi dân ta như cỏ rác, thi
hành nhiều điều bạo ngược làm cho thiên hạ căm giận đến tận xương tủy. Bấy giờ, ở
vùng Lam-sơn nghĩa quân đã nổi dậy chống lại chúng, nhưng buổi đầu thế lực còn
non yếu nên nhiều lần bị giặc đánh cho tan tác, Thấy vậy, đức Long quân quyết định
cho họ mượn thanh gươm thần để họ giết giặc.
Hồi ấy ở Thanh-hóa có một người làm nghề đánh cá tên là Lê Thận. Một đêm nọ.
Thận thả lưới ở một bến vắng như thường. Tự nhiên trong một lần kéo lưới, chàng
thấy nằng nặng, trong bụng mừng thầm chắc là có cá to. Nhưng khi thò tay bắt cá.
Thận mới biết đó là một thanh sắt. Chàng vứt luôn xuống nước rồi lại thả câu ở một
chỗ khác.
Lần thứ hai cất lưới lên cũng thấy nặng tay. Thận không ngờ thanh sắt vừa rồi lại chui
vào lưới mình. Chàng lại nhặt lên và ném xuống sông. Lần thứ ba vẫn là thanh sắt ấy
mắc vào lưới. Lấy làm quái lạ, Thận ghé mồi lửa lại nhìn xem. Bỗng chàng reo lên
một mình:
- Ha ha! Một lưỡi gươm!
Thận về sau gia nhập quân đoàn khởi nghĩa Lam-sơn. Chàng đã mấy lần vào sinh ra
tử ở nơi trận mạc để diệt lũ cướp nước. Một hôm, chủ tướng Lê Lợi cùng mấy người
tùy tòng đến nhà Thận. Trong gian nhà tối om, thanh sắt hôm đó chợt sáng quắc lên ở
một xó nhà. Lấy làm lạ, Lê Lợi đến gần cầm lấy xem và nhận ra chữ "Thuận Thiên"
khắc sâu vào lưỡi. Song tất cả mọi người đều không biết đó là báu vật.
Một hôm bị giặc đuổi, Lê Lợi và các tướng chạy tháo thân mỗi người một ngả. Lúc đi
qua một khu rừng, Lê Lợi bỗng thấy ánh sáng trên ngọn cây đa. Ông trèo lên mới biết
đó là cái chuôi gươm nạm ngọc. Nhớ tới lưỡi gươm ở nhà Lê Thận, Lê Lơi rút lấy
chuôi gươm giắt vào lưng.
Ba ngày sau, Lê Lợi gặp lại tất cả các bạn, trong đó có Lê Thận. Khi lắp lưỡi vào với
chuôi thì kỳ lạ thay, vừa vặn khớp nhau. Lê Lợi bèn kể lại câu chuyện. Mọi người
nghe xong đều hồ hởi vui mừng. Lê Thận nâng gươm lên ngang đầu nói với chủ
tướng:
- Đây là thần có ý phó thác cho "minh công" làm việc lớn. Chúng tôi nguyện đem
xương da của mình theo "minh công" và thanh gươm thần này để báo đền xã tắc!
Từ đó khí thế của nghĩa quân ngày một tăng. Trong tay Lê Lợi, thanh gươm thần tung
hoàng trên mọi trận địa và làm cho quân Minh bạt vía. Chẳng mấy chốc tiếng tăm của
quân Lam-sơn lan khắp nơi. Họ không phải trốn tránh trong rừng nữa mà xông xáo đi
tìm giặc. Họ không phải ăn uống khổ cực như trước nữa, đã có những kho lương thực
của giặc mới cướp được tiếp tế cho họ. Gươm thần đã mở đường cho họ đánh tràn ra
mãi cho đến lúc không còn bóng một tên giặc nào trên đất nước.
Sau khi đuổi giặc Minh về được một năm, ngày hôm ấy Lê Lợi - bấy giờ đã là một vị
thiên tử - cưỡi thuyền rồng dạo quanh hồ Tả-vọng trước kinh thành. Nhân dịp đó,
Long quân sai rùa vàng lên đòi lại thanh gươm thần. Khi chiếc thuyền chèo ra giữa hồ
thì tự nhiên có một con rùa lớn nhô đầu và mai lên khỏi làn nước xanh. Theo lệnh
vua, thuyền đi chậm lại. Vua đứng trên và nhận thấy lưỡi gươm đeo bên mình cũng
đang cử động. Con rùa vàng không sợ người, nhô thêm nữa, tiến sát về phía thuyền
vua. Nó đứng nổi lên trên mặt nước và nói:
- Bệ hạ hoàn gươm cho Long quân!
Nghe nói thế nhà vua bỗng hiểu ra bèn thò tay rút gươm ra khỏi bao. Chỉ một lát
thanh gươm thần rời khỏi tay vua bay đến phía rùa vàng. Nhanh như cắt, rùa há miệng
đớp lấy ngang lưỡi. Cho đến khi gươm và rùa lặn xuống, người ta vẫn thấy có vệt sáng
le lói dười mặt nước hồ xanh.
Khi những chiếc thuyền của bá quan tiến lên kịp thuyền rồng thì vua liền báo ngay
cho họ biết:
- Đức Long quân cho chúng ta mượn thanh gươm thần để trừ giặc Minh. Nay đất nước
đã thanh bình, Người sai rùa lấy lại.
Và từ đó, hồ bắt đầu được mang tên là hồ Gươm hay hồ Hoàn-kiếm.

Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam   Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam - Page 2 Icon_minitimeSat Feb 02, 2019 3:40 am

27. SỰ TÍCH HỒ BA-BỂ

Vào hồi đó ở xã Nam-mẫu có mở một hội "vô già" cúng Phật. Mọi người nô nức đi
xem. Ai nấy đều lo ăn chay niệm Phật và làm những việc từ thiện như buông cá, thả
chim.v.v... để cầu phúc trong mấy ngày hội.
Hôm ấy, xuất hiện ở đám hội một bà già ăn mày. Người ta không biết mụ ta từ đâu đi
lại. Bộ dạng thật là gớm ghiếc: những mảnh vải vá víu của mụ không đủ che tấm thân
gầy còm và lở loét. Mùi hôi thối xông ra rất khó chịu. Đến đâu, mụ cũng thều thào
mấy câu: - "Đói lắm các ông các bà ơi!". Rồi cầm cái rá, mụ giơ ra khắp bốn phía, đầy
vẻ cầu khẩn
Nhưng mãi đến chiều, người đàn bà đó vẫn chả được tý gì. Đến đâu mụ cũng bị xua
đuổi. Đám trẻ tuổi nhất là các cô gái cho mụ là hủi nên trốn như trốn dịch. Hễ thấy
mụ đâu là họ xô nhau chạy đi chỗ khác. Mấy bà đang lễ thì rất bực tức. Họ ngừng
những tiếng "Nam mô Phật" lại và quay ra mắng xả vào mụ sao dám đi sát vào người.
Cuối cùng bọn hương lý sai tuần phu đuổi mụ đi. Mụ không thể kiên gan trước những
trận mưa roi của bọn tuần, đành phải lê mình ra khỏi đám hội.
Sau khi ra khỏi đám hội, người đàn bà ấy thất thểu bước vào xóm. Cũng như ở đám
hội, vào nhà nào mụ cũng bị nghi là hủi và bị đuổi. Mấy nhà giàu có đóng chặt cửa lại
và thả chó ra. May sao đến ngã ba, mụ gặp hai mẹ con bà góa vừa đi chợ về. Thấy bà
lão ăn mày tội nghiệp, người mẹ đưa về nhà lấy cơm nguội cho ăn.
Khuya hôm đó hai mẹ con đang ngủ thì người đàn bà ấy lại gọi cửa. Mụ xin ngủ ngờ
một đêm vì mọi chỗ, người ra đều cấm cửa không cho vào. Hai mẹ con vui lòng đón
người ấy vào nhà, lấy cơm cho ăn và trải chiếu ở một cái chõng cho mụ ngả lưng. Còn
mẹ con thì nằm tạm ở một chỗ khác.
Người đàn bà vừa nằm ngủ liền, tiếng mụ ngáy như sấm. Hai mẹ con nhìn ra thấy
chõng sáng rực lên trong bóng tối. Đây không phải là một mụ ăn mày già yếu lở loét
nữa mà là một con giao long đang cuộn mình lù lù một đống, đầu gác lên xà nhà, đuôi
thò xuống đất. Người mẹ rụng rời kinh hãi, nhưng vì chỗ ở của mình cách biệt với
làng xóm, không biết kêu cứu ai, đành trùm chăn kín mít, phó mặc cho may rủi.
Nhưng đến sáng hôm sau, khi người mẹ nhìn ra chả thấy giao long đâu cả. Trên
chõng, mụ ăn mày đã dậy và sắp sửa ra đi. Trước khi từ biệt, mụ bỗng lên tiếng:
Chúng nó thờ Phật mà kỳ thực là buôn Phật. Chúng nó xứng đáng phải chịu trầm
luân. Chỉ có mẹ con nhà ngươi là tốt bụng. Hãy cầm lấy gói tro này, nhớ rắc xung
quanh chỗ ở và nội trong đêm hôm nay chớ đi đâu cả. Hoặc nếu có đi thì đưa nhau
lên đỉnh núi cao mà tránh.
Người mẹ băn khoăn hỏi thêm:
- Nhưng làm thế nào để cứu mọi người được?
Người đàn bà ấy ngần ngừ hồi lâu rồi lấy từ trong áo một hạt thóc ra cắn tách đôi vỏ
trấu đưa cho hai mẹ con và nói:
- Hai mảnh vỏ trấu này sẽ giúp hai mẹ con ngươi làm việc thiện.
Người mẹ toan hỏi thêm thì vụt một cái đã không thấy người đàn bà hủi đâu nữa. Hai
mẹ con vội làm theo lời dặn rồi đi kể chuyện cho mấy người gần đó biết. Họ nghe nói
chỉ mỉm cười cho là một chuyện bâng quơ.
Quả nhiên tối hôm đó giữa đám hội náo nhiệt, lúc thiện nam tín nữ đang tấp nập lễ bái
thì bất ngờ có một dòng nước từ dưới đất phun lên chính giữa đàn tràng. Nước càng
phun càng mạnh làm lở dần đất xung quanh. Người ta ngơ ngác không hiểu thế nào,
tưởng là phép Phật hiển hiện nên càng vái lấy vái để. Nhưng dòng nước mỗi lúc một
mạnh nuốt hết người và vật. Chỉ trong nháy mắt đã ngập bằng một cái ao. Thấy thế
mọi người hoảng hốt bỏ cả lễ bái đua nhau chạy. Nhưng họ không thể chạy được nữa.
Ở dưới chân họ đất nứt nẻ, rung động hất họ ngã xuống. Bỗng chốc một tiếng ầm dữ
dội phát ra, đất đá, nhà cửa, người vật đều chỉm nghỉm, nước tung tóe mù trời. Một
con giao long to lớn từ mặt nước nhô lên bay vòng quanh xã Nam-mẫu. Trong khi đó
thì nền nhà, chuồng lợn, chuồng gà của mẹ con người đàn bà từ thiện kia mỗi lúc một
nâng cao hơn mực nước.
Đau xót trước cảnh nước lụt, hai mẹ con đem hai mảnh vỏ trấu ra. Vừa đặt xuống
nước, họ bỗng thấy hai mảnh vỏ biến ngay thành hai chiếc thuyền. Thế rồi, mặc gió
mặc mưa, họ chèo đi mọi nơi cố sức vớt những người bị nạn.
Chỗ đất sụt ấy ngày nay là hồ Ba-bể ở Bắc cạn, còn cái nền nhà ấy tức là một hòn đảo
nhỏ ở giữa hồ mà người địa phương gọi là Pò-già-mải

Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam   Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam - Page 2 Icon_minitimeSat Feb 02, 2019 3:40 am

28. SỰ TÍCH ĐẦM NHẤT-DẠ VÀ BÃI TỰ-NHIÊN

Vua Hùng Vương thứ ba có một nàng công chúa rất xinh đẹp. Người ta nói thuở mới
lọt lòng, nàng được các bà tiên tô điểm, nên về sau mới có nhan sắc như thế. Vì vậy
vua đặt tên là Tiên Dung. Vua Hùng là người hay nuông con. Đối với Tiên Dung vua
lại càng yêu chiều, muốn gì được nấy.
Nhưng công chúa Tiên Dung chỉ có mỗi một sở thích là đi chơi mọi nơi trong nước.
Vua phải sắm cho nàng một chiếc thuyền rất xinh, có đủ mọi người hầu hạ và mọi
thức ăn cần dùng. Mỗi năm vào khoảng cuối mùa xuân, chiếc thuyền công chúa bắt
đầu xuất phát. Cho đến lúc những con chim hậu điểu bay từng đàn ở phía Bắc sang thì
công chúa mới trở về nơi cấm cung. Cũng có lúc công chúa quá vui quên cả về, làm
cho vua lo lắng. Năm nàng mười tám tuổi, từng có một vài hoàng tử ở các nước láng
giềng ngỏ ý muốn được kết duyên nhưng công chúa nhất thiết từ chối. Nàng nói với
vua Hùng trong một bữa tiệc:
- Cha à! Con sẽ không lấy chồng đâu!
Hồi đó ở Chử-xá có một người đánh cá tên là Chử Cù Vân và con trai là thằng bé Chử.
Tuy nghèo, họ vẫn sống vui vẻ trong túp lều dựng trên bãi cát.
Không may một hôm trong khi cha con đi câu vắng, ở nhà lửa bèn cháy sạch chả còn
tý gì. Hai cha con chỉ còn một bộ đồ nghề và mỗi một chiếc khố vải đang mặc. Chiếc
khố độc nhất ấy dùng để làm vật che thân cho cả hai mỗi lần ra ngoài. Khi người này
mang khố thì người kia phải chịu khó cởi truồng nằm co để đợi đến lượt mình.
Cha con nhà họ Chử hết nạn này đến tiếp nạn khác, Chử Cù Vân thiếu áo, không chịu
được lạnh dần dần sinh bệnh. Bệnh của ông mỗi ngày một nặng. Trước còn gắng
gượng đi câu được nhưng sau nằm liệt nhà. Một hôm biết mình sắp chết,ông gọi con
lại dặn dò mọi việc. Qua hơi thở phều phào ông nói: "Có mỗi một chiếc khố... con giữ
mà mặc cứ chôn trần là được rồi". Nhưng thằng bé Chử - sau này người ta gọi là Chử
Đồng Tử - rất thương cha, không muốn người cha chết lạnh lẽo. - "Rồi ta sẽ cố kiếm
nhiều cá để đổi lấy cái khố khác!". Nghĩ thế, anh quyết định dùng chiếc khố độc nhất
đó cuốn cha lại từ đầu đến chân rồi chờ đến nửa đêm, anh đưa đến cồn cao rồi vùi lại.
Từ đó không có cái gì để che thân, Chử Đồng Tử phải làm việc ban đêm. Cứ chiều
hôm khi không còn trông rõ mặt người nữa, anh bắt đầu ra bãi câu cá. Cho đến mờ
sánh anh sẽ lội ngập nửa người, lần mò đến bến đổi cá cho thuyền buôn lấy gạo. Thế
rồi lại lội đến bến vắng người, lén về lều của mình nấu ăn và ngủ một giấc đến chiều
mới dậy. Rồi lại ăn uống và chuẩn bị đi câu nữa. Đồng Tử đã sống cuộc đời lén lút
như thế đã hơn hai năm. Có lúc anh câu được nhiều cá, lúc ít cá không chừng, cũng
có lúc không câu được gì cả đành men theo thuyền cá xin ăn. Nhưng chẳng có lúc nào
câu được một số cá đủ để đổi lấy một cái khố cả.Vì thế anh cứ chịu trần truồng mãi.
Một hôm, Đồng Tử mang cá đi đổi gạo thì chợt có tiếng huyên náo. Mọi người kháo
nhau có thuyền của Công chúa sắp tới địa phương. Từ đàng xa, chiếc thuyền sơn hiện
ra mỗi lúc một lớn, có quân gia cờ quạt, chiêng trống đàn sáo vang rộng cả một khúc
sông. Thấy mọi người đổ ra đường, ra bến đi xem rất đông, Chử Đồng Tử bí lối
không về được, Anh đành rúc vào một bụi lau ở bãi rồi bỗng nghĩ ra một kế giấu mình kín hơn
là bới cát thành một huyệt rồi nằm xuống, tự vùi mình lại
Giữa lúc đó thì Tiên Dung sai cắm sào rồi bỏ thuyền lên bộ. Tự nhiên công chúa có ý
muốn tắm. Theo lệ thường, người ta quây màn lại một chỗ kín đáo trên đất rồi đun
nước thơm vào để công chúa dùng.
Không ngờ chỗ mà bọn thị tỳ quây màn hôm nay lại chính là chỗ mà Đồng Tử vùi
mình dưới đó. Anh nằm dưới đất chả biết gì hết, chỉ nghe có tiếng nện, tiếng chân
người giẫm thình thịch và tiếng nước dội rào rào. Cho đến lúc anh toàn thân ướt đẫm
cả nước. Rồi chỉ một lúc sau, dòng nước dội hẳn vào người anh. Biết là bại lộ. Đồng
Tử ngượng ngùng ngồi nhổm dậy. Công chúa xiết bao kinh ngạc, khi thấy có một
người lạ cũng trần truồng như nàng trong màn. Thoạt đầu, Tiên Dung tưởng là ma
quái, toan la lên để bọn quân hầu vào cứu, nhưng thấy người con trai đó chẳng có
chút gì là độc ác, nên nàng cố trấn tĩnh, ôn tồn bảo:
Ngươi là ai? Tại sao lại vùi mình ở đây? Nói mau!
Nghe người trai lạ kể nông nỗi của mình, công chúa rơm rớm nước mắt. Nàng không
ngờ trong đất đai của cha nàng trị vì lại có hạng người đói khổ đến nỗi không có lấy
một mẩu vải che thân.
Cảm lòng chí hiếu của người con trai trước mặt, Tiên Dung nói một mình: - "Những
người thế này chưa chắc bọn con trai trong thiên hạ đã sánh kịp!". Bỗng chốc nàng
đưa gáo cho Đồng Tử:
Thôi anh tắm rửa rồi đi nhé. Lạ thật! Chắc có trời!
Bọn thị tỳ và lính tráng hôm đó rất lấy làm sửng sốt vì thấy từ trong màn bước về
thuyền không phải chỉ một mình công chúa mà là hai người và người thứ hai lại
không phải là nữ mà là một chàng trai khỏe đẹp. Nàng bèn sai lấy một bộ võ phục của
một viên quan hầu cho Đồng Tử mặc. Bấy giờ trước mặt mọi người, công chúa thẳng
thắn kể cuộc gặp gỡ kỳ dị lúc nãy rồi nói:
- Người này sẽ là chồng tôi!
Nghe thế. Chử Đồng Tử đỏ mặt:
- Tôi không dám, không dám.
Nhưng Tiên Dung bảo:
- Tôi vốn không có ý định lấy chồng. Nay tình cờ gặp gỡ thế này chắc có Trời xui.
Tất cả đều theo ý Tiên Dung. Duy có hai viên quan hầu và một số thị tỳ, lính tráng
không cho là cuộc phối hợp tốt đẹp. Nhưng thấy công chúa táo bạo lại thường được
vua chiều chuộng cho nên cuối cùng họ cũng không dám cản. Và rồi hôn lễ cử hành
ngay trên sông, có một số bô lão địa phương tới dự.
Nhưng khi tin bắn về cung, vua Hùng không ngăn được cơn giận dữ. Vua bảo quần
thần:
- Thà nó không có chồng còn hơn. Thực là đốn mạt! Tại sao nó không chịu hỏi ta.
Thôi từ nay nhất thiết cấm cửa. Hễ nó vác mặt về Phong-châu thì cho phép Lạc tướng
chém chết trước, tâu sau.
Thuyền của Tiên Dung vừa nhổ neo ra về thì một người em gái của nàng đã lên sai
một người đầy tớ trung thành, hỏa tốc báo tin không hay đó cho nàng biết. Nàng nhận
tin với một vẻ lo ngại. Nàng đã biết tính vua cha khi thương thì thương rất mực mà khi
giận cũng có thể đang tay được. Hai vợ chồng cùng nhau bàn bạc. Cuối cùng, nàng
hội họp tất cả những người dưới quyền mình lại rồi nói rõ ý định:
Vua cha nay không thương ta nữa. Vậy vợ chồng ta quyết định không về. Cho các
ngươi được về với cha ta và về với bà con làng nước.
Hai vợ chồng từ đó sống một cuộc đời mới. Họ giao thiệp với các thuyền buôn nước
ngoài vẫn thường ghé vào để bán hàng và cất hàng. Công cuộc buôn bán của họ mỗi
ngày một khá. Chỗ bến sông ấy dần dần trở thành một cái chợ quyến rũ được nhiều
người.
Một hôm, Đồng Tử mang vàng theo một khách buôn lớn định ra nước ngoài mua
hàng tận gốc để kiếm một số lãi to.
Họ dong buồm đi về phương Nam. Chỉ trong năm ngày đến một ngọn núi giữa biển,
gọi là núi Quỳnh-viên, thuyền dừng lại lấy nước ngọt.
Đồng Tử bước lên đất rồi vui chân, anh trèo mãi lên tận đỉnh đảo. Đang say sưa ngắm
cảnh, bỗng nhiên Đồng Tử thấy một cái am nhỏ. Trước am có một đạo sĩ ngồi định
thần trên một phiến đá. Anh bước tới toan cất tiếng thì người kia đã hỏi trước:
- Thằng bé Chử! Sao lại muộn thế?
Biết là bậc thần dị, anh phủ phục xuống cạnh người người lạ, xin làm đồ đệ.
Khi bọn lái buôn đến am tìm Đồng Tử thì anh trao tất cả vàng cho họ và nói:
Các bác cứ cầm lấy mà buôn bán. Tôi sẽ ở đây cho đến khi thành đạo.
Đồng Tử hiểu đạo rất chóng. Sư phụ còn dạy cho anh nhiều phép mầu nhiệm. Cho
đến khi chiếc thuyền buôn trở lại đón, thì anh được sư phụ trao cho một chiếc gậy và
một cái nón và bảo:
- Thế là con có thể hạ sơn được. Ta giao cho con những vật này. Tất cả sự linh diệu
đều ở đó cả.
Bước xuống thuyền, Đồng Tử không ngờ số vốn của mình hồi trước giờ đây người ta
đã làm nảy nở gấp mười. Nhưng nhìn những thoi vàng sáng chóe, anh không thấy
thích thú như xưa. Những câu chào hỏi, những lời bàn bạc tính toán nhao nhao của
các bạn buôn bấy giờ đối với anh đều nhạt nhẽo.
Về đến nhà, Đồng Tử truyền đạo lại cho vợ. Cũng như chồng, Tiên Dung học đạo rất
chóng. Thế rồi một hôm, hai vợ chồng đem tất cả gia sản của mình phân phát cho
những người nghèo khổ trong vùng. Mọi người đều lấy làm lạ khi thấy hai vợ chồng
công chúa bỏ sự làm ăn đang thịnh để ra đi, không biết là đi đâu.
Hai vợ chồng ngày đêm nghỉ cốt tìm thầy học đạo thêm nữa. Một hôm, trời đã tối, họ
đi mãi, rất mệt nhưng vẫn chưa gặp một cái quán nào. Chỗ này không nghe qua một
tiếng gà gáy chó sủa. Cuối cùng họ nghỉ lại trên bãi cỏ. Đồng Tử cắm gậy của mình
xuống đất rồi úp nón lên che sương. Canh ba đêm hôm đấy, bỗng có tiếng chuyển
động dữ dội. Thế là phút chốc họ không phải nằm trên bãi cỏ nữa mà nằm trên một
chiếc giường ngọc trong một tòa lầu chăn gối êm dịu như nhung. Quần áo của họ mặc
là thứ quần áo mầu, lấp lánh như vảy bạc.
Khi ra dãy hành lang có bao lơn trắng như tuyết, hai vợ chồng mới biết không chỉ có
một nhà mà có rất nhiều nhà, nhiều lầu. Ngoài xa xa lại có một bức thành dày ôm lấy
khu vực này. Đến đâu cũng có người hầu hạ và quân lính canh gác. Họ ăn bận nhiều
mầu nhiều kiểu rất đẹp. Tiên Dung hỏi hai thị nữ:
- Đây là chốn nào?
Họ đáp:
- Đây là giang sơn riêng của công chúa như lời ước muốn của người.
Khi hai vợ chồng bước tới chính đường thì một viên quan từ trong tiến ra, giơ cao một
mớ sổ sách, quỳ chào họ:
Xin dâng lên công chúa tất cả mọi vật ở đây!
Hai vợ chồng cùng giở ra xem thì thấy trong đó kê tất cả bao nhiêu lâu đài nhà cửa,
bao nhiêu vật dụng linh tinh, bao nhiêu khí giới, v.v... Trong mười gian nhà kho chứa
trữ bao nhiêu châu ngọc, vàng bạc, lương thực. Ngoài ra còn kê tên tuổi bao nhiêu
viên quan văn võ, bao nhiêu lính tráng, bao nhiêu nô tỳ, v.v... Chồng bảo vợ:
- Thế là từ nay chúng ta làm chủ giang sơn này đây!
Từ đó hai vợ chồng lưu lại vui hưởng một cuộc sống khác trước. Nhân dân quanh
vùng nghe đồn hai vợ chồng công chúa có phép tiên xây dựng lâu đài thành quách
trong một đêm, nên ai nấy rủ nhau đến xin che chở. Họ lũ lượt mang hoa quả, nếp
gạo, gà lợn để làm lễ chào mừng những người chủ mới.
Tiếng đồn thổi mỗi ngày một rộng và sau cùng tới tai Hùng Vương. Mấy tên quân lính
do thám về báo cho vua biết nào quân lính đông hàng mấy vạn, nào giáp sắt trống
đồng tề chỉnh, nào nhân dân quy phục mỗi ngày một đông, v.v... Chúng quả quyết
rằng hai vợ chồng công chúa không có gì hơn là muốn rạch đôi sơn hà với thiên tử.
Hùng Vương từ lâu đã quên Tiên Dung, nay nghe tin báo, tự nhiên lòng giận lại bốc
lên bừng bừng. Những lúc như thế mọi người rất lo sợ, người ta thấy các Lạc tướng
chuẩn bị ráo riết dường như sắp có một cuộc chiến tranh xảy tới. Trong suốt mười lăm
ngày các tay nỏ được lệnh ra sức tập luyện. Trống đồng được dùng báo hiệu liên miên
không nghỉ. Trước khi đoàn quân xuất phát, vua Hùng bước ra cửa điện nói với họ:
- Nó từ lâu là giặc, hoàn toàn không phải là con ta. Các người cố gắng lấy đầu của hai
tên giặc về đây sẽ có trọng thưởng.
Nghe tin cáo cấp, tất cả các tướng sĩ bộ hạ của Tiên Dung hội nhau định kế chống lại.
Một viên tướng đến trình bày với hai vợ chồng:
- Nếu công chúa muốn, chúng tôi có thể tiêu diệt quân địch trong khoảnh khắc.
Tiên Dung lắc đầu bảo họ:
- Không được. Ta đâu dám cự lệnh vua cha?
Chiều hôm ấy, quân đội của Lạc tướng đã hạ trại ở bên kia bờ sông. Bóng cờ đã thấp
thoáng trong lùm cây. Bên này sông trong giang sơn của công chúa vẫn chưa có lệnh
chuẩn bị. Quân canh trên mặt thành luôn luôn đưa tin mới cho hai vợ chồng. Nhưng
họ vẫn thản nhiên tươi cười. Cũng như lệ thường, đêm hôm nay họ vẫn ngủ trên chiếc
giường ngọc.
Khoảng canh ba, bỗng có tên quân vào báo tin rằng cầu phao bên địch đã bắc xong và
hiện nay họ đang nấu ăn. Hai vợ chồng ngồi dậy cùng hướng mặt trời lên. Thế là một
trận bão vụt lên, mỗi lúc một dữ dội. Đồng thời đất chuyển động ầm ầm. Gió xoáy
một cách kinh khủng đến nỗi có thể bốc tất cả mọi cái trên mặt đất ném đi một nơi
khác.
Sáng hôm sau, nhân dân quanh vùng cũng như quân đội vua Hùng đều thấy một sự lạ
chưa từng có. Bão đã tạnh từ lâu nhưng thành quách của công chúa, kể cả cung điện,
nhà cửa, quân gia, súc vật, đồ dùng đều bay đâu mất cả không còn sót một tý gì. Giữa
đó một cái đầm rộng mênh mang, đầy nước trắng xóa. Duy chỉ có cái nền cung của
hai vợ chồng công chúa thì vẫn còn. Người ta gọi cái đầm ấy là đầm Một-đêm
(Nhất dạ) và cái nền ấy là bãi Tự-nhiên. Về sau trên cái nền ấy, người ta có lập miếu thờ hai
vợ chồng Chử Đồng Tử
Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam   Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam - Page 2 Icon_minitimeSat Feb 02, 2019 3:41 am

29. SỰ TÍCH ĐẦM MỰC

Ngày ấy vào đời nhà Trần có một cụ đồ nho ở xã Quang-liệt tên là Chu An. Học vấn
của cụ sâu và rộng. Cũng vì tiếng tăm của cụ truyền khắp mọi nơi nên học trò xa gần
đến học rất đông.
Về sau nhà vua nghe tiếng, vời cụ về kinh giao cho trông nom trường Quốc tử và dạy
thái tử học. Cụ để nhà lại cho vợ con rồi đi nhậm chức. Nhưng được hơn một năm đã
thấy cụ chống gậy trở về. Cụ bảo mọi người rằng:
- Ta không thể chịu được bảy tên quyền thần dối vua hại nước!
Từ đó người ta thấy cụ trở lại nghề dạy học. Lần này những người đến xin "Nhập
môn" đông vô kể. Cả một cái gò cao ở xóm Văn phải dựng thêm ba bốn mái nhà nữa
mới đủ chỗ để chứa học trò. Nhà trong xóm chật ních những anh đồ nho, đủ mặt
người kinh, người trại. Đó là chưa kể những người ở quanh vùng hàng ngày cơm đùm
cơm gói đi về học tập.
Trong số học trò của cụ có hai anh em con vua Thủy. Nghe tiếng cụ đồ, vua Thủy
cũng cho con lên học. Ngày ngày hai anh em đến bờ sông trút lốt thuồng luồng ở
nước rồi lên đất, nói năng, cử chỉ không khác gì người trần.
Một hôm cụ đồ đang chấm bài thì anh trưởng tràng đến kể cho biết rằng sáng hôm
nay, khi chưa rõ mặt người, anh có việc đi chợ huyện đến cầu Bưa tình cờ dưới sông
có hai người đi trên mặt nước tiến vào bờ:
- Đúng là hai anh em nhà Gàn thầy ạ! Con đầu tiên sợ nhưng cũng cố đi theo. Quả
nhiên họ vào đây. Thầy bảo bây giờ nên làm thế nào?
Cụ đồ gật gù đáp:
- Con cứ để yên mặc họ, con ạ! Nếu là quỷ thần mà họ chuộng đạo thánh hiền thì lại
càng hay chứ sao!
Năm ấy vùng Thanh-đàm trời làm đại hạn. Suốt từ cuối năm ngoái cho đến tháng Hai
năm nay không có lấy một giọt mưa. Đồng ruộng nứt nẻ. Mấy đám lúa, đám ngô cứ
héo dần. Thấy mọi người nhao nhác, cụ đồ sốt ruột không kém.
Một chiều kia sau buổi học, cụ đồ lưu hai anh em chàng Gàn ở lại rồi bảo:
- Thầy muốn các con thương đến dân một chút.
Hai anh em là bộ ngơ ngác không nói gì. Thấy họ còn giấu mình, ông cụ nói:
- Các con bất tất phải giấu. Thầy đã biết cả. Bây giờ đây chỉ có các con là cứu được
dân sự. Các con hãy làm mưa cho họ nhờ.
Hai anh em đưa mắt nhìn nhau, hồi lâu bảo cụ:
- Dạ, nhưng hiềm vì sông hồ đều có lệnh "phong bế" cả thì lấy đâu ra nước bây giờ.
Ông cụ khẩn khoản:
- Các con nghĩ thử xem có thể lấy nước ở đâu được không. Không cứu được nhiều thì
ta hẵng tạm cứu ít vậy!
Hai anh em ngần ngừ hồi lâu rồi chỉ vào nghiên mực đặt trên án thư, bảo cụ đồ:
- Dạ, oai trời thì rất nghiêm nhưng lời của thầy thì rất trọng. Chúng con xin vâng lời
thầy. Chúng con sẽ dùng nước ở nghiên mực này tạm thấm nhuần trong một vùng vậy.
Cụ đồ mừng rỡ chạy lại án thư bê cái nghiên mực lớn còn đầy mực và cả quản bút
lông của mình thường dùng, đưa cho họ. Hai anh em đỡ lấy rồi cả ba người cùng tiến
ra bờ sông. Đến nơi họ xắn ống tay áo rồi sau đó em bưng nghiên mực, anh cầm quản
bút nhúng mực vẩy lên trời nhiều lần. Đoạn họ vứt cả nghiên lẫn bút xuống nước, cúi
vái cụ đồ rồi biến mất.
Đêm hôm ấy quả nhiên mây mù tối tăm rồi mưa một trận như trút. Cụ đồ vừa mừng
vừa sợ , suốt đêm chạy ra chạy vào không ngủ. Sáng dậy, điều mà ai nấy đều lấy làm
lạ là nước chỉ lênh láng suốt mấy cánh đồng trong vùng Thanh-đàm mà thôi. Hơn nữa
sắc nước chỗ nào chỗ nấy đều đen như mực. Trận mưa đêm hôm đó quả cứu vớt được
biết bao nhiêu là ruộng lúa, ruộng ngô và các hoa màu khác. Dân trong vùng Thanh-
đàm lại vui vẻ như xưa.
Nhưng trong lúc đó ở thiên đình, các thiên thần đều lấy làm lạ về một trận mưa bất
ngờ. Ngọc hoàng nổi giận sai một thiên thần đi bắt cho được thủ phạm trị tội. Và cả
hai anh em đều không thoát được khỏi lưới trời nghiêm ngặt: cả hai đều rơi đầu dưới
lưỡi búa của thần sét.
Xác của họ hiện nguyên hình là hai con thuồng luồng song đầu một nơi mình một
nẻo, giạt vào gậm cầu Bưu. Cụ đồ nghe tin rất thương xót. Cụ khóc và cụ bắt tất cả
học trò đưa đám chôn hai con thuồng luồng. Khăn áo hôm ấy trắng phau cả một bờ
sông. Xác hai con vật được chôn cất một cách tử tế ở bên trên cầu và cũng đắp thành
nấm như mộ của người.
Cái nghiên mực của cụ đồ Chu An sau đó trôi về làng Quỳnh-đô làm đen cả nước cái
đầm ấy, ngày nay người ta vẫn quen gọi là đầm Mực. Còn quản bút thì trôi về làng Tó
cho nên cho nên các cụ thường truyền rằng nhờ thế làng Tó tức làng Tả Thanh-oai
bây giờ mời có lắm người học hành đỗ đạt. Còn chỗ ngôi mộ hai con quái vật tức hai
anh em thuồng luồng sau đó người ta lập miếu thờ ngày nay còn có tên là miếu Gàn

Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam   Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam - Page 2 Icon_minitimeSat Feb 02, 2019 3:42 am

30. SỰ TÍCH SÔNG NHÀ-BÈ HAY LÀ TRUYỆN THỦ HUỒN

Ngày xưa ở Gia-định có một người tên là Thủ Huồn. Hắn xuất thân làm thơ lại. Trong
hơn hai mươi năm luồn lọt trong các nha các ti, hắn đã làm cho bao nhiêu gia đình tan
nát, bao nhiêu người bị oan uổng; do đó hắn đã vơ vét được bao nhiêu là tiền của. Vợ
hắn chết sớm lại không có con cho nên tiền bạc của hắn không biết tiêu đâu cho hết.
Ngoài số chôn cất, hắn đem tiền tậu ruộng làm nhà. Ruộng của hắn cò bay thẳng
cánh, mỗi mùa thu hoạch kể hàng ngàn "giạ" lúa.
Khi thấy cuộc sống quá thừa thãi, hắn bèn thôi việc về nhà, sống một cuộc đời trưởng
giả.
Một hôm, có người mách cho Thủ Huồn biết chợ Mạnh-ma ở Quảng-yên là chỗ người
sống và người chết có thể gặp nhau. Muốn gặp người chết, người sống phải chờ đến
mồng một tháng Sáu, mang một món hàng vào chợ hồi nửa đêm mà đi tìm. Thủ Huồn
là người rất yêu vợ. Tuy vợ chết đã ngoài mười năm nhưng hắn vẫn không lúc nào
quên. Hắn bèn giao nhà lại cho người bà con rồi làm một chuyến du lịch ra Bắc, mong
gặp lại mặt vợ cho thỏa lòng thương nhớ bấy lâu.
Khi gặp vợ, Thủ Huồn không dám hỏi vì thấy vợ ăn mặc rất đài các. Sau cùng người
đàn bà ấy cũng nhận ra được. Thủ Huồn mừng quá vội dắt vợ ra một chỗ kể cho vợ
nghe cảnh sống của mình từ lúc âm dương cách biệt. Rồi hắn hỏi vợ:
- Mình lâu nay làm gì?
- Tôi làm vú nuôi trong cung vua. Cuộc đời của tôi không có gì đáng phàn nàn. Tôi
có một gian nhà riêng trong hoàng cung, cái ăn cái mặc được chu cấp đầy đủ.
Hắn nói:
- Tôi nhớ mình quá. Tôi muốn theo mình xuống dưới ấy ít lâu có được không?
- Đi được. Nhưng chỉ trong vài ngày là cùng, nếu quá hạn sẽ nguy hiểm.
Thủ Huồn và vợ cùng đi. Qua mấy dặm đường tối mịt, chả mấy chốc đã đến cõi âm.
Hắn rùng mình khi lọt qua bao nhiêu cổng trước lúc vào thành nội, qua những tên quỷ
gác cổng có những bộ mặt gớm ghiếc. Nhờ có vợ nên chỗ nào cũng vào được trót lọt.
Đến một gian nhà thấp, vợ bảo chồng:
- Đây là nhà bếp, đằng kia là nhà ngục, trước mặt là cung hoàng hậu, chỗ tôi túc trực
hàng ngày. Qua khỏi đấy là cung vua. Cứ ẩn tạm trong buồng vắng này vì không thể
lên buồng tôi trên kia được. Tôi sẽ kiếm cách cho chàng đi xem một vài chỗ, nhưng
rồi phải vềngay.
Chiều hôm đó người vợ về trao cho Thủ Huồn một mảnh giấy phép và nói:
- Chỉ có cung vua và cung hoàng hậu thì đừng có vào còn mọi nơi khác chàng cứ đi
xem cho thỏa thích.
Hắn lượn mấy vòng xung quanh nhà bếp rồi tiện chân đến nhà ngục. Chưa lọt khỏi
cổng mà những tiếng kêu khóc, tiếng la hét ở phía trong làm cho hắn bồn chồn. Qua
mấy phòng chuyên mổ bụng, móc mắt, cắt tay, v.v... hắn thấy đây quả là nơi hành hạ
tội nhân kinh khủng, đúng như lời đồn ở trên trần thế.
Sau cái bàn xẻo thịt là cả một kho gông. Trong đó có một cái gông đặc biệt: nó vừa to
vừa dài, làm bằng những thanh gỗ nặng như sắt. Thủ Huồn lân la hỏi người cai ngục:
- Thứ gông này để làm gì?
- Để chờ một thằng ác nghiệt ở trần xuống đây. Bao nhiêu những cái gông trong này
đều đã có chủ cả. Cứ xem gông to hay nhỏ thì biết tội ác của nó.
Thủ Huồn lại hỏi:
- Thế cái thằng sẽ đeo cái gông vừa to vừa dài đó là ai?
Lão cai ngục thủng thỉnh giở một cuốn sách vừa to vừa dày chỉ vào một hàng chữ,
đọc: "Hắn là Võ Thủ Hoằng [1] tức là Thủ Huồn". Rồi nói tiếp:
Thằng cha đó ở Đại-nam quốc, Gia-định tỉnh, Phúc-chính huyện...
Nghe nói thế, Thủ Huồn giật mình mặt xám ngắt. Nhưng hắn vẫn giữ được vẻ bình
tĩnh. Hắn hỏi thêm:
- Thế nào? Hắn có tội gì?
Lão cai ngục mắt vẫn không rời quyển sách.
- Khi làm thơ lại hắn bẻ mặt ra trái làm bao nhiêu việc oan khốc đến nỗi tội ác của
hắn đen kín cả mấy trang giấy đây. Này nghe tôi đọcnày: năm Ất sửu hắn sửa hai chữ
"ngộ sát" thành "cố sát" làm cho hai mẹ con thị Nhân bị chết để cho người anh họ
chiếm đoạt gia tài. Việc này Thủ Huồn được mười nén vàng và mười nén bạc, một
trăm quan tiền. Cũng năm đó, hắn làm cho ông Ngô Lai ở thôn Bình-ca bị hai mươi
năm tội đồ chỉ vì trong nhà có cái áo vải vàng, để đoạt không của ông ta mười hai
mẫu ruộng. Năm...
Thủ Huồn tái mặt, không ngờ mỗi một cái cất tay động chân của mình trên kia, dưới
này đều rõ mồn một. Hắn ngắt lời đánh trống lảng.
- Thế vợ hắn có cùng đeo gông không hở ông?
- Ồ! Ai làm người ấy chịu chứ! Vợ hắn nghe đâu là người tốt đã xuống đây rồi.
Thủ Huồn lại hỏi gặng:
Ví thử hắn muốn hối cải thì phải làm thế nào?
Lão cai ngục hạ sách xuống bàn, đáp:
- Đã vay thì phải trả! Nếu hắn muốn thì phải đem những thứ của cải cướp giật được
đó bố thí và cúng lễ cho hết đi.
Từ biệt lão cai ngục và những hình cụ khủng khiếp, Thủ Huồn không còn bụng dạ
nào để đi xem nơi khác nữa. Vợ thấy chồng đòi về, lại đưa chồng ra khỏi hoàng cung
của Diêm vương và ra khỏi mấy dặm đường tối tăm mù mịt. Lúc sắp chia tay hắn bảo
vợ:
- Tôi về trang trải công nợ có lẽ ba năm nữa tôi lại xuống. Mình nhớ lên chợ đón
nghe!
Về tới Gia-định. Thủ Huồn mạnh tay bố thí. Hắn tập hợp những người nghèo khó
trong vùng lại, phát cho họ tiền, lúa. Hắn đem ruộng đất của mình cúng cho làng, cho
chùa, chia cho họ hàng thôn xóm. Hắn mời hầu hết sư, sãi các chùa gần vùng tới nhà
mình cúng đơm, tốn kém kể tiền vạn. Người ta lấy làm lạ không hiểu tại sao một tay
riết róng như hắn bây giờ trở nên hào phóng một cách lạ thường. Ai xin gì được nấy.
Có những người trước chửi hắn bây giờ lại đâm ra thương hại hắn. Nhiều người bảo
nhau: - "Thứ của vô nhân bất nghĩa ấy không trước thì sau thể nào cũng đội nón ra đi
mà thôi!" hay là: - "Có lẽ hắn không con, biết để của cũng chả làm gì nên tự làm cho
vợi bớt". Thủ Huồn có nghe rất nhiều lời đàm tiếu về mình, nhưng hắn chẳng nói gì
sất, cứ việc quẳng của không tiếc tay.
Cứ như thế sau ba năm, Thủ Huồn tính ra đã phá tán được ba phần tư cơ nghiệp. Nhớ
lại lời hẹn, hắn lại khăn gói ra Bắc tìm đến chợ Mạnh-ma. Ở đây, hắn dỗ khéo được
vợ cho hắn xuống thăm cõi âm một lần nữa.
Khi trở lại nhà ngục. Thủ Huồn thấy quang cảnh vẫn như cũ. Lão cai ngục vẫn là lão
cai ngục ba năm về trước. Cách bố trí y hệt như xưa: cũng có nơi mổ bụng, nơi móc
mắt, cắt tay: v.v... Duy chỗ để gông thì có ít nhiều thay đổi. Bên cạnh những cái vẫn
còn nguyên hình như xưa thì lại có những cái trước bé nay đã lớn lên, có cái trước lớn,
nay nhỏ hẳn đi. Đặc biệt cái gông mà Thủ Huồn chú ýnhất thì bây giờ đã rút ngắn lại
tuy vẫn còn to và dài hơn các thứ gông thường một tý. Hắn lân la hỏi lão cai ngục:
Cái gông để ở nơi này trước kia tôi nhớ hình như to lắm thì phải.
- Đúng đấy! Lão đáp. Có lẽ gần đây ở trên dương thế thằng cha ấy đã biết chuộc lỗi
nên nó đã nhỏ lại. Nếu hắn gắng hơn nữa, thì rồi sẽ có phúc lớn.
Thủ Huồn lại lên đất, trở về Gia-định. Hắn lại làm tiếp công việc bố thí vàcúng dàng.
Lần này hắn bán hết tất cả những gì còn sót lại, kể cả nhà của của mình. Hắn đến
Biên-hòa dựng một ngôi chùa lớn để cúng Phật. Hắn xuôi sông Đồng-nai để làm một
việc nghĩa cuối cùng. Hồi đó ở ngã ba sông Đồng-nai và sông Gia-định việc đi lại rất
bất tiện. Cũng vì thế mà bên kia sông Đồng-nai người ta còn ngần ngại chưa dám di
cư sang để sinh cơ lập nghiệp.
Thủ Huồn liền quyết định ở lại đây. Hắn kết một cái bè lớn, trên bè có nhà ở, có đủ
chỗ nghỉ, có sẵn nồi niêu, đồ dùng và tiền gạo. Những thứ ấy hắn dùng để tiếp rước
những người qua lại, nhất là những người nghèo khó. Hắn cho họ trú ngụ tại bè của
mình kẻ năm ba ngày, người một đôi tháng mà không lấy tiền. Hắnlàm công việc đó
mãi cho đến ngày xuống âm phủ thật sự.
Sau đó khá lâu, có lần một ông vua tên là Đạo Quang bên Trung-quốc lúc mới lên
ngôi có cho sứ sang Việt-nam hỏi lai lịch một người ở Gia-định. Số là khi nhà vua mới
sinh, người ta thấy trong lòng bàn tay vua có mấy chữ: "Đại-nam, Gia-định, Thủ
Hoằng", nên nhà vua cần biết rõ gốc gác Thủ Hoằng là ai. Sau khi sứ giả cho biết rõ
lai lịch Thủ Huồn, vua Trung-quốc có cúng vào ngôi chùa Biên-hòa ba pho tượng
vàng. Do việc đó người ta bảo Thủ Huồn nhờ thành thực hối lỗi, chẳng những làm
tiêu mất cái gông chờ hắn ở coi âm, mà còn được Diêm vương cho đi đầu thai làm vua
Trung-quốc.
Ngày nay, một ngôi chùa ở Biên-hòa còn mang tên là chùa Thủ Huồn: chỗ ngã ba
sông Đồng-nai và Gia-định còn gọi là sông Nhà-bè để kỷ niệm lòng tốt của Thủ Huồn
đối với khách hộ hành Nam Bắc qua con sông đó [2] . Có câu tục ngữ:
Nhà bè nước chảy phân hai,
Ai về Gia-định Đồng-nai thì về.

Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam   Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam - Page 2 Icon_minitimeSat Feb 02, 2019 3:42 am

31. TẠI SAO SÔNG TÔ-LỊCH VÀ SÔNG THIÊN-PHÙ HẸP LẠI?

Ngày xưa vềđời nhà Lý có một ông vua bị bệnh đau mắt. Mấy ông thầy thuốc chuyên
môn chữa mắt ở trong kinh thành cũng như ngoài nội đều được vời vào cung chạy
chữa, trong số đó cũng có những tay lương y nổi tiếng, nhưng tất cả mọi cố gắng đều
vô hiệu. Cặp mắt của vua cứ sưng húp lên, đêm ngày nhức nhối rất khó chịu. Đã gần
tròn hai tháng vua không thể ra điện Kính-thiên coi chầu được. Triều đình vì việc vua
đau mà rối cả lên. Những cung giám chạy khắp nơi tìm thầy chạy thuốc, và lễ bái các
chùa đền nhưng mắt của thiên tử vẫn không thấy bớt.
Một hôm có hai tên lính hầu đưa vào cung một ông thầy bói từ núi Vân-mộng về. Ông
thầy chuyên bói dịch nổi tiếng trong một vùng. Sau khi gieo mấy đốt cỏ thi, ông thầy
đoán:
- Tâu bệ hạ, quẻ này có tượng vua rất linh nghiệm. Quả là bệ hạ bị "thủy phương càn
tuất" xuyên vào mắt cho nên bệnh của bệ hạ không thể bớt được, trừ phi trấn áp nó đi
thì mới không việc gì.
Vua bèn sai hai viên quan trong bộ Lễ đi về phía Tây bắc kinh thành. Thuở ấy ở phía
Tây bắc thành Thăng-long có hai con sông nhỏ: Tô-lịch và Thiên-phù đều hợp với
nhau để thông ra sông Cái ở chỗ cứ như bây giờ là bến Giang-tân. Họ tới ngã ba sông
dựng đàn cúng Hà Bá để cầu thần về bệnh của hoàng đế. Đêm hôm đó, một viên quan
ăn chay sẵn nằm trước đàn cầu mộng. Thần cho biết: đến sáng tinh sương ngày ba
mươi cho người đứng ở bên kia bến đò, ai đến đó trước tiên lập tức bắt quẳng xuống
sông phong cho làm thần thì trấn áp được.
Nghe hai viên quan tâu, vua lập tức sai mấy tên nội giám chuẩn bị làm công việc đó.
Một viên đại thần nghe tin ấy khuyên vua không nên làm việc thất đức: nhưng vua
nhất định không nghe. Con mắt của hoàng đế là rất trọng mà mạng của một vài tên
dân thì có đáng kể gì. Hơn nữa sắp sửa năm hết tết đến, việc vua đau mắt sẽ ảnh
hưởng nhiều đến những nghi lễ long trọng và quan hệ của triều đình.
Ở làng Cảo thuộc về tả ngạn sông Tô hồi ấy có hai vợ chồng làm nghề bán dầu rong,
người la vẫn quen gọi là ông Dầu bà Dầu. Hàng ngày hai vợ chồng buổi sáng đưa dầu
vào thành bán, buổi chiều trở ra: vợ nấu ăn, chồng đi cất hàng.
Hôm đó là ngày ba mươi tháng Một, hai vợ chồng định bụng bán mẻ dầu cho một số
chùa chiền vào khoảng cuối năm, người ta cần dùng nhiều dầu để thắp Tết. Họ dậy
thật sớm chồng gánh chảo vợ vác gáo cùng rảo bước đến ngã ba Tô-lịch - Thiên-phù.
Đến đây họ vào nghỉ chân trong chòi canh đợi đò. Đường vắng tanh vắng ngắt chưa
có ai qua lại. Nhưng ở trong chòi thì vẫn có hai tên lính canh đứng gác. Vừa thấy có
người, chúng liền từ trong xó tối xông ra làm cho hai vợ chồng giật mình. Họ không
ngờ hôm ấy lại có quân cấm vệ đứng gác ở đây. Tuy thấy mặt mũi chúng hung ác,
nhưng họ yên tâm khi nghe câu hỏi của chúng:
- Hai người đi đâu sớm thế này?
Họ cứ sự thật trả lời. Họ có ý phân bua việc bán dầu hàng ngày của mình chỉ vừa đủ
nuôi miệng. Nhưng chúng cứ lân la hỏi chuyện mãi. Chúng nói:
- À ra hai người khổ cực như thế đó. Vậy nếu có tiền thừa thãi thì hai người sẽ thích
ăn món gì nào. Nói đi! Nói đi, rồi chúng tôi sẽ kiếm cách giúp cho.
Thấy câu chuyện lại xoay ra như thế, ông Dầu bà Dầu có vẻ ngạc nhiên. Nhưng trước
những lòi hỏi dồn của chúng, họ cũng phải làm bộ tươi cười mà trả lời cho qua
chuyện:
- Tôi ấy à? Người chồng đáp. Tôi thì thấy một đĩa cơm nếp và một con gà mái ghẹ là
đã tuyệt phẩm.
Người vợ cũng cùng một ý như chồng nhưng có thêm vào một đĩa bánh rán là món bà
ấy thèm nhất.
Thấy chưa có đò, hai vợ chồng lấy làm sốt ruột. Nói chuyện bài bây mãi biết bao giờ
mới vào thành bán mẻ dầu đầu tiên cho chùa Vạn-thọ được. Hai người bèn bước ra
nhìn xuống sông. Hai tên lính từ nãy đã rình họ, bây giờ sẽ lén đến sau lưng, thình
lình bịt mắt họ và lôi đi sềnh sệch. Họ cùng van lên: - "Lạy ông, ông tha cho chúng
cháu, chúng cháu chẳng có gì". Nhưng hai thằng khốn nạn chẳng nói chẳng rằng, cứ
cột tay họ lại và dẫn đến bờ sông. Chúng nhấc bổng họ lên và cùng một lúc ném
mạnh xuống nước. Bọt tung sóng vỗ. Và hai cái xác chìm nghỉm. Rồi đó, hai thằng
cắm cổ chạy.
Lại nói chuyện mắt vua sáng mồng một tháng Chạp tự nhiên khỏi hẳn như chưa từng
có việc gì. Nhưng ông Dầu bà Dầu thì căm thù vô hạn. Qua hôm sau: hai tên cấm vệ
giết người không biết vì sao tự treo cỗ ở gốc đa trong hoàng thành. Rồi giữa hôm
mồng một Tết, lão chủ quản bên kia Giang-tân phụ đồng lên giữa chùa Vạn-thọ nói
toàn những câu phạm thượng. Hắn nói những câu đứt khúc, nhưng người ta đều hiểu
cả, đại lược là: - "Chúng ta là ông Dầu bà Dầu đây... Chúng mày là quân man rợ bạc
ác, chúng mày là quân giết người lương thiện... Chúng mày sẽ chết tuyệt chết diệt... họ
Lý chúng mày sẽ không còn một mống nào để mà nối dõi... Chúng tao sẽ thu hẹp hai
con sông Tô-lịch và Thiên-phù lại... Chừng nào bắt đầu thì chúng mày đừng hòng
trốn thoát...".
Những tin ấy bay về đến tai vua làm cho nhà vua vô cùng lo sợ. Vua sai lập một cái
đền thờ ở trên ngã ba Giang-tân và phong cho hai người làm phúc thần. Mỗi năm cứ
đến ba mươi tháng Một là có những viên quan bộ Lễ được phái đến đấy cúng ông Dầu
bà Dầu với những món ăn mà họ ưa thích.
Nhưng đúng như lời nguyền của ông Dầu bà Dầu, ngôi báu nhà Lý chẳng bao lâu lọt
về tay nhà Trần. Dòng họ Lý quả nhiên chết tuyệt chết diệt, đến nỗi chỉ người nào đổi
qua họ Nguyễn mới hòng trốn thoát.
Sông Thiên-phù quả nhiên cứ bị lấp dần, lấp dần cho mãi đến ngày nó chỉ còn một
lạch nước nhỏ ở phía Nhật-tân. Sông Tô-lịch cũng thế: ngày nay chỉ là một rãnh nước
bẩn đen ngòm. Duy có miếu thờ ông Dầu bà Dầu thì hàng năm dân vùng Bưởi vẫn
mang lễ vật theo sở thích của hai vợ chồng đến cúng lễ vào ngày ba mươi tháng Một

Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam   Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam - Page 2 Icon_minitimeSat Feb 02, 2019 3:43 am

32. SỰ TÍCH ĐÁ VỌNG PHU

Ngày xưa, có đôi vợ chồng nghèo sinh được hai mụn con: đứa lớn là trai mười một
tuổi, đứa bé là gái lên sáu tuổi. Mỗi lần hai vợ chồng đi làm đồng hay đi đâu vắng,
thường để hai con ở lại nhà, dặn anh trông nom em gái. Một hôm trước khi đi làm,
người mẹ trao cho hai con một cây mía, bảo con lớn ở nhà chặt cho em ăn và đưa em
đi chơi. Thường ngày mẹ vẫn nhắc:
- Con đừng làm em khóc, kẻo cha về đánh chết nghe không!
Thằng anh đưa em ra sân cùng em trồng đá bẻ cây làm nhà làm cửa chơi với bạn bè
quanh xóm. Chơi chán, anh đưa em vào nhà rồi tìm dao chặt mía. Không ngờ khi nó
vừa giơ dao lên chặt, thì lưỡi dao sút cán văng vào đầu em. Cô bé ngã quay ra bất tỉnh
nhân sự, máu đỏ lênh láng cả một vạt đất. Thấy thế thằng anh rất sợ, nghĩ bụng: - "Tội
ta to lắm. Cha về đánh chết mất!". Thế rồi, anh bỏ em nằm sóng sượt ở giữa nhà mà
trốn đi.
Cậu bé đi, đi mãi. Trên bước đường lưu lạc, hắn ở nhà này ít lâu rồi bỏ đi đánh bạn
với nhà khác. Trong hơn mười lăm năm, hắn không biết mình đã đi những xứ nào, ăn
cơm của bao nhiêu nhà. Cho đến lần cuối cùng, làm con nuôi một người đánh cá ở
miền biển vùng Bình định. Nghề chài lưới giữ chân hắn lại ở đây.
Ngày lại ngày nối nhau trôi qua. Rồi hắn kết duyên cùng một người đàn bà. Vợ hắn
cũng thạo nghề đan lưới. Mỗi lúc thuyền của chồng về bãi, vợ nhận lấy phần cá của
chồng, quảy ra chợ bán. Sau hai năm có được mụn con, hai vợ chồng cảm thấy sung
Hôm ấy biển động, chồng nghỉ ở nhà vá lưới. Cơm trưa xong, vợ xõa tóc nhờ chồng
bắt chấy. Đứa con đi chập chững trước sân nhà, bốc cát chơi một mình. Thấy vợ có
một cái sẹo bằng đồng tiền ở trên tai bên phải, chồng lấy làm ngạc nhiên vì mấy lâu
mái tóc đen của vợ đã hữu ý che kín cái sẹo không cho một người nào biết, trong số
đó có cả chồng. Anh liền hỏi về lai lịch chiếc sẹo. Vợ vui miệng kể:
- Ngày đó cách đây hơn hai mươi năm, tôi mới bằng một tý đã biết gì đâu. Anh ruột
của tôi chặt mía. Chao ôi! Cái mũi mác tai hại. Tôi ngất đi. Sau này, tôi mới biết, lúc
đó hàng xóm đã đổ tới cứu chữa rất lâu cho đến khi cha mẹ tôi về thì mới chạy tìm
thầy tìm thuốc. May làm sao tôi vẫn sống để nhìn lại cha mẹ tôi. Nhưng tôi lại mất
người anh ruột vì anh tôi sợ quá bỏ trốn. Cha mẹ tôi cố ý tìm tòi nhưng tuyệt không
có tin gì. Rồi đó, cha mẹ tôi thương con buồn rầu quá: thành ra mang bệnh, kế tiếp
nhau qua đời. Về phần tôi không có người nương tựa lại bị người ta lập mưu cướp hết
của cải và đem tôi đi bán cho thuyền buôn. Tôi không ở yên một nơi nào; nay đây mai
đó, cuối cùng đến đây gặp anh...
Sau lưng người vợ, nét mặt của chồng từng lúc mỗi biến sắc khi biết là lấy nhầm phải
em ruột. Lòng người chồng càng bị vò xé vì tin cha mẹ, tin quê quán do vợ nói ra.
Nhưng chồng vẫn cố ngăn cảm xúc của mình, gói kín sự bí mật đau lòng đó lại,
không cho vợ biết.
Qua mấy ngày sau, sóng gió yên lặng. Nhưng lòng người đàn ông thì không thể nào
yên lặng được nữa. Như thường lệ, hắn lại chở lưới ra biển để đánh cá. Nhưng lần này
một đi không bao giờ trở lại.
Người vợ ở nhà trông đợi chồng ngày một mỏi mòn. Tại sao sau khi đánh cá xong,
giữa lúc đêm tối, mọi người đều cho thuyền trở về đất liền, thì chồng mình lại dong
buồm đi biệt. Mà chồng mình là người chí thú làm ăn và rất thương con mến vợ. Thật
là khó hiểu. Mỗi chiều, nàng lại bồng con trèo lên hòn núi ở cửa biển,
con mắt đăm nhìn về phía chân trời mù mịt.
Ba tuần trăng qua. Rồi sáu... rồi chín tuần trăng. Tuy nước mắt bây giờ đã khô kiệt,
nhưng người đàn bà vẫn không quên trèo núi trông chồng. Cái hình bóng ấy đối với
dân làng thành ra quen thuộc. Về sau cả hai mẹ con đều hóa ra đá, trở thành hình
bóng quen thuộc vĩnh viễn. Hòn đá ấy ngày nay vẫn còn trên đỉnh núi ở bên cửa biển
Đề-di, thuộc huyện Phù-cát, tỉnh Bình-định. Người ta vẫn gọi là đá Trông-chồng hay
là đá Vọng-phu

Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam   Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam - Page 2 Icon_minitimeSat Feb 02, 2019 3:43 am

33. SỰ TÍCH ĐÁ BÀ-RẦU

Ngày xưa, có gia đình một người thuyền chài có một cô gái rất xinh tươi. Khi cô đã
lớn, nhiều chàng trai muốn xin kết duyên với nàng, nhưng chưa có đám nào thành cả.
Mãi về sau một chàng trai người Quảng lấy được nàng làm vợ. Anh chàng là người
khỏe mạnh, làm nghề buôn hàng bằng thuyền mà ở đây người ta gọi là buôn ghe.
Sau thời kỳ ân ái ngắn ngủi, đôi vợ chồng ấy phải rời nhau vì sinh kế. Người chồng
theo thuyền, theo bạn ra đi, để một mình vợ ở lại với gian nhà nhỏ.
Thế rồi, cứ chiều chiều, người vợ lại ra bờ sông trông đợi bóng những cánh buồm tiến
vào cửa sông. Nhưng qua ba bốn tuần trăng mà chồng và các bạn của chồng vẫn
không thấy về. Những đoàn thuyền khác lần lượt cập bến không nhắc tới họ.
Người đàn bà đâm ra lo sợ: hay là trận bão vừa qua đã nhận chìm thuyền xuống thủy
phủ. Hay là chồng mình làm điều gì thất thố, nên bọn quan quân địa phương đã giam
tất cả mọi người vào ngục tối... Năm, sáu tháng qua, người chồng vẫn chưa thấy về.
Người đàn bà đó hàng ngày ra đứng bờ sông nhìn những cánh buồm tiến vào cửa
biển. Mỗi một cánh buồm đối với nàng là một tia hy vọng, nhưng tia hy vọng ấy vừa
lóe lên, thì một chốc sau đó lại tắt ngay.
Đột nhiên chồng về giữa lúc vợ đinh ninh sống một thân một bóng lạnh lẽo. Người lái
buôn bước vào nhà làm cho mọi người kinh ngạc và mừng rỡ. Anh kể rất dài về cuộc
sống chung đụng với những người khác nòi ở hải đảo. Nếu không có mưu trí thì anh
và bạn hữu chưa chắc đã sống sót để nhìn lại quê hương.
Thế là ngày vui trở lại. Thú ái ân lại tràn ngập chăn gối cho bõ những lúc xa nhau.
Nhưng vui chưa trọn mà buồn đã xuất hiện. Sự nghi ngờ bỗng nảy nở trong lòng
người chồng. Chồng vốn là người cả ghen, lại cũng đã biết vợ ngày trước có phần nào
tự do trong việc giao thiệp. Bây giờ đây, người ta mách nhỏ với anh rằng: trong những
ngày vừa qua người đàn bà hay bỏ nhà ra đi từ buổi chiều cho đến tối mịt mới về.
Nghe đoạn: máu ghen của anh bừng bừng bốc lên. Hắn không ngờ trong những lúc
mình gian lao như thế, thì vợ lại có thể như thế được.
Nhưng lời phân trần của người vợ chẳng ăn thua gì. Trong tình cảnh đó, nàng chỉ
dành ngậm miệng. Vì thế chồng không tiếc tay hành hạ vợ. Không một lời oán trách,
người đàn bà chỉ biết mình khóc với mình mà thôi. Vợ càng làm thế, thì chồng lại
càng lạnh nhạt. Một hôm để cho vợ phải hối hận, người chồng lại cùng bạn dong buồm ra đi, không một lời rỉ tai với vợ.
Người đàn bà ấy không biết chồng đi đâu và bao giờ trở lại.
Nhưng một hôm, người chồng lại cùng với các bạn bè trở về quê hương, sau một thời
gian buôn bán ở phương xa. Hắn làm ra rất nhiều tiền, nhưng hắn thấy tiền của không
đủ lấp sự trống trải trong lòng mình. Hắn ao ước được gặp lại vợ cũ để tìm hạnh phúc
trong sum họp. Lần này, chồng dự định lúc về sẽ khuyên dỗ cho vợ mình tu tỉnh để
nối lại những ngày thắm đẹp xưa kia.
Nhưng khi bước chân vào nhà, người chồng thấy nhà lạnh lẽo. Xóm giềng cho hay
rằng vợ anh bỏ đi đã hơn một tháng. Hắn thấy gánh buồn đè nặng lên người. Hắn vơ
vẩn đi lại bờ sông, chỗ mà người ta cho biết là vợ mình lần trước cũng như lần này
hay đứng đây trông đợi. Sự hối hận tràn ngập trong lòng người đàn ông.
Tự nhiên hắn reo lên vì xa kia bên cạnh cái tháp Chàm có bóng một người thiếu phụ
nổi bật trong ánh chiều giống hệt vợ mình. Mừng quá, hắn cắm đầu chạy tới. Quả
đúng là vợ, nhưng vợ bấy giờ đã hóa thành đá, con mắt vẫn đăm đăm nhìn về phía
chân trời vô tận.
Thời gian bây giờ đã xóa đi mất tích nhiều sự vật, nhưng bức tượng người đàn bà cô
đơn buồn rầu kia ở Quảng-nam vẫn còn. Bên cạnh đó là một ngọn tháp cổ. Cái tượng
đó người ta gọi là tượng Bà-rầu. Vì tượng ở cạnh tháp, nên tháp cũng gọi là tháp Bà-rầu

Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam   Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam - Page 2 Icon_minitimeSat Feb 02, 2019 3:44 am

32. SỰ TÍCH ĐÁ VỌNG PHU

Ngày xưa, có đôi vợ chồng nghèo sinh được hai mụn con: đứa lớn là trai mười một
tuổi, đứa bé là gái lên sáu tuổi. Mỗi lần hai vợ chồng đi làm đồng hay đi đâu vắng,
thường để hai con ở lại nhà, dặn anh trông nom em gái. Một hôm trước khi đi làm,
người mẹ trao cho hai con một cây mía, bảo con lớn ở nhà chặt cho em ăn và đưa em
đi chơi. Thường ngày mẹ vẫn nhắc:
- Con đừng làm em khóc, kẻo cha về đánh chết nghe không!
Thằng anh đưa em ra sân cùng em trồng đá bẻ cây làm nhà làm cửa chơi với bạn bè
quanh xóm. Chơi chán, anh đưa em vào nhà rồi tìm dao chặt mía. Không ngờ khi nó
vừa giơ dao lên chặt, thì lưỡi dao sút cán văng vào đầu em. Cô bé ngã quay ra bất tỉnh
nhân sự, máu đỏ lênh láng cả một vạt đất. Thấy thế thằng anh rất sợ, nghĩ bụng: - "Tội
ta to lắm. Cha về đánh chết mất!". Thế rồi, anh bỏ em nằm sóng sượt ở giữa nhà mà
trốn đi.
Cậu bé đi, đi mãi. Trên bước đường lưu lạc, hắn ở nhà này ít lâu rồi bỏ đi đánh bạn
với nhà khác. Trong hơn mười lăm năm, hắn không biết mình đã đi những xứ nào, ăn
cơm của bao nhiêu nhà. Cho đến lần cuối cùng, làm con nuôi một người đánh cá ở
miền biển vùng Bình định. Nghề chài lưới giữ chân hắn lại ở đây.
Ngày lại ngày nối nhau trôi qua. Rồi hắn kết duyên cùng một người đàn bà. Vợ hắn
cũng thạo nghề đan lưới. Mỗi lúc thuyền của chồng về bãi, vợ nhận lấy phần cá của
chồng, quảy ra chợ bán. Sau hai năm có được mụn con, hai vợ chồng cảm thấy sung
sướng vô hạn.
Hôm ấy biển động, chồng nghỉ ở nhà vá lưới. Cơm trưa xong, vợ xõa tóc nhờ chồng
bắt chấy. Đứa con đi chập chững trước sân nhà, bốc cát chơi một mình. Thấy vợ có
một cái sẹo bằng đồng tiền ở trên tai bên phải, chồng lấy làm ngạc nhiên vì mấy lâu
mái tóc đen của vợ đã hữu ý che kín cái sẹo không cho một người nào biết, trong số
đó có cả chồng. Anh liền hỏi về lai lịch chiếc sẹo. Vợ vui miệng kể:
- Ngày đó cách đây hơn hai mươi năm, tôi mới bằng một tý đã biết gì đâu. Anh ruột
của tôi chặt mía. Chao ôi! Cái mũi mác tai hại. Tôi ngất đi. Sau này, tôi mới biết, lúc
đó hàng xóm đã đổ tới cứu chữa rất lâu cho đến khi cha mẹ tôi về thì mới chạy tìm
thầy tìm thuốc. May làm sao tôi vẫn sống để nhìn lại cha mẹ tôi. Nhưng tôi lại mất
người anh ruột vì anh tôi sợ quá bỏ trốn. Cha mẹ tôi cố ý tìm tòi nhưng tuyệt không
có tin gì. Rồi đó, cha mẹ tôi thương con buồn rầu quá: thành ra mang bệnh, kế tiếp
nhau qua đời. Về phần tôi không có người nương tựa lại bị người ta lập mưu cướp hết
của cải và đem tôi đi bán cho thuyền buôn. Tôi không ở yên một nơi nào; nay đây mai
đó, cuối cùng đến đây gặp anh...
Sau lưng người vợ, nét mặt của chồng từng lúc mỗi biến sắc khi biết là lấy nhầm phải
em ruột. Lòng người chồng càng bị vò xé vì tin cha mẹ, tin quê quán do vợ nói ra.
Nhưng chồng vẫn cố ngăn cảm xúc của mình, gói kín sự bí mật đau lòng đó lại,
không cho vợ biết.
Qua mấy ngày sau, sóng gió yên lặng. Nhưng lòng người đàn ông thì không thể nào
yên lặng được nữa. Như thường lệ, hắn lại chở lưới ra biển để đánh cá. Nhưng lần này
một đi không bao giờ trở lại.
Người vợ ở nhà trông đợi chồng ngày một mỏi mòn. Tại sao sau khi đánh cá xong,
giữa lúc đêm tối, mọi người đều cho thuyền trở về đất liền, thì chồng mình lại dong
buồm đi biệt. Mà chồng mình là người chí thú làm ăn và rất thương con mến vợ. Thật
là khó hiểu. Mỗi chiều, nàng lại bồng con trèo lên hòn núi ở cửa biển, con mắt đăm
đăm nhìn về phía chân trời mù mịt.
Ba tuần trăng qua. Rồi sáu... rồi chín tuần trăng. Tuy nước mắt bây giờ đã khô kiệt,
nhưng người đàn bà vẫn không quên trèo núi trông chồng. Cái hình bóng ấy đối với
dân làng thành ra quen thuộc. Về sau cả hai mẹ con đều hóa ra đá,
trở thành hình bóng quen thuộc vĩnh viễn. Hòn đá ấy ngày nay vẫn còn trên đỉnh núi ở bên cửa biển
Đề-di, thuộc huyện Phù-cát, tỉnh Bình-định. Người ta vẫn gọi là đá Trông-chồng hay
là đá Vọng-phu

Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam   Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam - Page 2 Icon_minitimeSat Feb 02, 2019 3:44 am

34. SỰ TÍCH THÀNH LỒI

Ngày xưa, có một ông vua nước Chăm muốn lấy một nàng công chúa nước Đại Việt
làm vợ. Nhà vua nghe nói công chúa Huyền Trân nhan sắc tuyệt trần, những phi tần
trong cung vua khó bề sánh kịp. Ao ước người đẹp, nhà vua đêm mơ ngày tưởng. Vua
nghĩ đến việc dâng vàng bạc, châu báu, kỳ nam và voi ngựa để làm sính lễ, nhưng
những món ấy chưa hẳn đã đưa lại kết quả như ý muốn. Một viên nội thị rỉ vào tai
vua:
- Muốn chiếm được người đẹp, trừ phi hiến đất không có kế nào khác.
Trước vua còn ngần ngại, nhưng sau đó quả quyết sai một sứ bộ ra cầu hôn với sính lễ
hai châu Ô, Rí ở biên giới. Thấy triều thần có người can ngăn, nhà vua ung dung đáp:
- Tất cả đất đai này đều là của trẫm. Mà trẫm thì chả vui gì nếu không lấy được công
chúa Đại Việt. Hơn nữa, giữa hai nước máu chảy đã nhiều rồi. Ngày nay trẫm muốn
mượn mối nhân duyên để dẹp yên can qua khốc hại.
Trước món sính lễ đặc biệt, triều đình Đại Việt ai nấy đều tỏ vẻ hài lòng. Vua Trần và
công chúa Huyền Trân gật đầu ưng thuận. Được lời như cởi tấm lòng, vua Chăm sai
quan thái bộc chọn ngày lành tháng tốt, rồi phái một sứ bộ mang năm trăm quân sĩ đi
thuyền ra đón vợ về. Đám rước dâu từ kinh thành ra đi, vượt qua muôn trùng sông
nước mới tới kinh đô. Vua Chăm mừng rõ. Công chúa muốn gì đựơc nấy. Bọn nội thị
từ đây mới thấy hoàng cung rộn rịp tươi vui hơn trước. Trong khi đó sư bộ Đại Việt
bắt đầu vào nhận đất mới.
Nhưng việc đời còn éo le nhiều nỗi. Công chúa cùng vua Chăm hương đượm lửa nồng
chưa được một năm thi nhà vua bỗng nhiên mắc bệnh rồi mất. Tin dữ truyền đi khắp
hai nước, riêng đối với công chúa thì không khác gì tiếng sét ngang tai. Đầu xanh đã
phải chịu cảnh góa bụa. Không những thế, công chúa sẽ chịu tang trong một thời kỳ
ngắn để rồi lên hỏa đàn về với vua Chăm bên kia thế giới. Nhập gia tuỳ tục, tuy công
chúa là người Việt nhưng nay đã là hoàng hậu Chăm, không thể không theo đúng tục
lệ có tự nghìn xưa. Vua Trần nghe tin lo sợ, vội sai sứ bộ vào điều tang và tìm cách
cứu công chúa. Nhân lúc mọi người bối rối, sứ bộ Việt giả cách xin phép đưa công
chúa ra bờ biển làm lễ cầu hồn rồi lén đưa xuống thuyền nhỏ, một mạch dong buồm
ra Bắc.
Việc hoàng hậu bỏ trốn làm cho triều đình nước Chăm nổi giận. Đã thế thì lời hứa cũ
không còn có giá trị nữa. Món đồ sính lễ là hai châu Ô, Rí phải được trả lại. Nghĩ thế,
ông vua mới nước Chăm bèn sai năm vạn quân mã ra giữ chắc lấy hai châu đó, mặc
dầu việc bàn giao đã sắp xong, bên Đại-việt không ngờ có chuyện xảy ra như thế chỉ
phái tướng quân Đoàn Nhữ Hài mang mấy ngàn quân vào dò động tĩnh.
Một buổi chiều hè, quân Đại Việt mang theo cát bụi từ Đàng ngoài đã tiến vào tới sát
bờ sông Trong[1]. Quân do thám về báo quân Chăm đã kéo ra đông vô kể, do một
viên tướng mặt đen râu xồm tên là Lồi hiện đang đóng trên mấy ngọn đồi ở bên kia
sông. Thấy tình thế đã trở nên nghiêm trọng, tướng Việt lo lắng vì sức người sức mình
cách nhau một trời một vực. Đoàn tướng quân vò đầu suy nghĩ. Rồi đó người ta thấy
quân lính Việt được lệnh cắm trại rải rác suốt mấy dặm dài dọc theo bờ sông. Mỗi trại
chia ra từng nhóm quân, nhóm nào nhóm ấy cắm cờ la liệt. Để khoa trương thanh thế,
ban đêm mọi nơi thắp đèn đuốc sáng choang, lại đánh trống chiêng và hò reo rầm
trời. Ban ngày có một toán quân đã cắt đặt sẵn, vác gươm giáo sáng quắc, nai nịt chỉnh
tề đi quanh hòn núi nổi lên trên bờ sông
Bên Chăm thấy bên Việt án binh bất động lại thấy quân địch kéo qua núi liên miên
không ngớt, nghĩ tới oai hùng của những người đã chiến thắng trăm vạn quân hùm
beo Mông-cổ nên sinh khiếp sợ. Song vâng mệnh vua đem đại quân ra giữ biên thùy,
không lẽ chưa giao chiến đã vội rút lui. Sau mấy ngày làm kế nghi binh, đoàn tướng
quân cho quân mang thư mời tướng Chăm ra trước trận để cùng thương lượng. Kết
quả, các tướng lĩnh hai bên đi đến mốt đính ước: "Trong một đêm hai bên đều khởi
công, mỗi bên đắp một bức thành cho suốt tới sáng, bên nào hơn thi thắng. Bên thua
lập tức lui binh nhượng đất, để khỏi giết hại sinh linh". Trong khi quân Đại-việt còn
đủng đỉnh nấu ăn coi bộ chưa nghĩ tới cuộc đấu sức đã bắt đâu, thì quân Chăm đã vội
vã kẻ đào người chuyển đất, đắp một bức thành suốt dọc bờ sông vắt qua mấy ngọn
đồi. Tướng Lồi đốc thúc ráo riết. Trời vừa tối hẳn thì quân Chăm đã đắp nổi một
quãng khá cao. Cho đến mờ sáng, cả tướng lẫn quân lấy làm mừng rỡ vì mặt thành đã
cao hơn trượng. Chợt nghe một hồi trống đồng từ bên kia vọng đến, quân Chăm bên
này trông sang, thì kia, thăm thẳm mây dặm dài, thành của bên quân Đại-Việt đã xây
xong từ bao giờ: Tường cao dễ đến mấy trượng, công thành với cái vọng lâu của nó
trông thật là đồ sộ. Chẳng những thế, trong thành lại còn nhà cửa mới xây rất nguy
nga: mái lợp ngói đỏ tường quét vôi trắng, trên mặt thành voi ngựa, quân lính dàn ra
không biết bao nhiêu mà kể. Thật là bạt ngàn san dã... Hàng ngũ của họ rất tề chỉnh,
đứng im phăng phắc dưới bóng cờ như chỉ chờ lệnh là xông ra. Tướng Lồi ở trên chòi
cao đưa mắt nhìn với một vẻ ngơ ngẩn hãi hùng. Quân Việt quả là dồn tất cả lực lượng
vào đây. Trêu vào họ chỉ là chuốc lây một thất bại thảm hại. Khi nghe tiếng loa bên địch thét lên, tướng Lồi nổi hiệu cho toàn quân rút lui khỏi vùng Ô, Rí.
Tuy không phải đánh chác gì, nhưng Đoàn tướng quân cũng báo tin đại thắng về cho
vua Trần, không quên nói hết mưu kỳ của mình trong cuộc đọ trí nguy hiểm này. Bởi
vì quân Chăm có biết đâu thành của quân địch toàn bằng phên tre dựng lên, nhà cửa
đều bằng nan ghép lại, quân sĩ voi ngựa đều bằng cỏ bện hoặc bằng đất, những mái
đỏ tường trắng, cỏ xanh đều là màu thuốc tô điểm.
Ngày nay vẫn còn dấu vết bức thành do quân Chăm đắp dở, thuộc địa phận mấy xã
Dương xuân, Nguyệt-biểu (Thừa-thiên). Người ta gọi là thành Lồi để phân biệt nó với
thành Phật-thệ ở gần đó và cũng để nhắc nhở cái tên viên tướng thua cay trong cuộc
đấu trí vừa hiếm có vừa ly kỳ ấy

Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam   Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam - Page 2 Icon_minitimeSat Feb 02, 2019 3:45 am

35. SỰ TÍCH NÚI NGŨ-HÀNH

Ngày xưa, có một ông cụ già sống một thân một mình trong một túp lều còn trên bãi
biển vắng. Những người dân gần đó không biết ông cụ đến đấy làm gì và đến từ lúc
nào.
Một hôm, tự nhiên ngoài biển khơi có một vùng sóng gió nổi lên dữ dội làm bầu trời
tối mịt. Hồi lâu có một con giao long rất lớn ngoi vào bờ, trườn lên đất liền. Giao long
quằn đuôi trên bãi cát làm vẹt đất thành từng đường ngoằn ngoèo. Gió thổi ào ào, bụi
cát mù mịt. Gian lều của ông già gần đó xem chừng muốn đổ. Cuối cùng một tiếng
gào rống lên, rồi một chiếc trứng lớn trong bụng giao long xuất hiện bên cạnh nhà của
ông già. Đẻ xong, giao long lại trườn xuống biển đi mất.
Một lát sau lại đến lượt một con rùa vàng to lớn cũng từ ngoài khơi tiến vào. Rùa vàng
đào đất chôn trứng vào bãi cát. Đoạn, rùa bò đến trước mặt ông lão bảo rằng:
- Ta là thần Kim quy. Ta muốn người phải hết sức bảo hộ giọt máu này của Long
quân!
Ông già trả lời:
- Sức cùng tài tận nhà tôi thì làm sao mà bảo hộ đựơc.
Rùa liền trao cho ông già một cái móng và nói:
- Người hãy cầm lây cái này, bao giờ có việc gì khó khăn nguy cấp thì đặt nó vào tai,
ta sẽ giúp ngay. Không lo gì cả.
- Được, tôi sẽ xin hết sức.
Một hôm từ đàng xa tiến đến một chiếc xe trâu, trên có mấy tên lính hung dữ. Ông già
hoảng hốt lo sợ vì chiếc xe cứ nhằm đúng hướng trứng mà lao tới. Ông đứng dậy
khoát tay làm dấu cho xe chạy đi ngả khác mà không được. Ông vội đặt móng rùa vào
tai. Tự nhiên có một tiếng nói nhỏ đủ lọt vào tai ông: "Nằm xuống! Nằm xuống!".
Ông vừa phủ phục thì hóa ngay một con hổ lớn. Bọn lính trên xe hoảng hốt đánh xe
quay trở lại.
Sau đó, ông cụ tháo gian nhà của mình đưa tới dựng lên che cho trứng thần. Nhưng
ông không ngờ rằng trứng thần cứ mỗi ngày một lớn mãi. Thoạt tiên nó làm nổi cát
lên. Rồi ngày một, ngày hai nó rẽ dần cát ra và nhô lên khỏi mặt đất. Mỗi lần như thế
thì cụ già lại hì hục xúc cát lấp lại. Nhưng vô ích vì chỉ ngày mai ngày kia nó đã nhô
cao hơn, đến nỗi đội cả gian nhà của ông cụ lên trời. Trứng càng ngày càng lớn làm
cho ông cụ thấy sức của mình bé lại. Tuy nhiên, ông vẫn hết lòng vì trứng thần. Ông
đi chặt cây, chặt lá về che cho kín trứng. Nhưng cây lá cũng không che nổi nữa vì
trứng ngày một phình to ra. Không những nó nhô cao lên trời mà còn nở cả bề rộng.
Màu vỏ trứng xanh đỏ tím vàng lóng lánh như một hòn ngọc khổng lồ.
Một hôm, gian lều của ông cụ bị những tên vô lại đốt cháy. Ông cụ cầu cứu với móng
rùa. Tự nhiên trong lòng trứng hiện ra một cái hang đá có đủ giường chiếu sẵn sàng.
Ông già vừa đặt mình xuống là ngủ thiếp ngay.
Giữa lúc đó thì một cô gái bé từ trong lòng trứng ra đời bên cạnh giường của ông già.
Sữa ở mạch đá trong hang chảy ra nuôi cô gái bé lớn lên như thổi. Nhưng tuy ông già
ngủ mà cô gái cũng không cô quạnh. Hàng ngày có những con khỉ hái hoa quả đến
cho cô ăn, có những con chim cu tha bông đến dệt cho cô mặc. Ông già ngủ một giấc
tỉnh dậy lấy làm kinh ngạc khi thấy một thiếu nữ xinh đẹp ngồi bên cạnh mình. Cô gái
reo lên: - "Mười lăm năm nay con ngày ngày lắng nghe hơi thở đều đặn của cha. Nay
cha đã dậy, con vui mừng biết mấy". Ông già ngơ ngác nhìn trứng thần bây giờ đã
thành một hòn núi đá to lớn, cỏ cây đã rậm rạp, chim chóc thú vật đã đến sinh hoạt
nhộn nhịp. Móng rùa vẫn còn ở đầu giường. Ông vội cầm lấy để vào tai. Móng rùa
mách đường cho ông già và cô gái ra khỏi hang và cho biết phải làm những việc gì.
Từ đây ông già lại có thêm chức trách dạy dỗ săn sóc cô gái của Long quân. Trong khi
đó, chim chóc và thú rừng đến quán quýt bên cạnh hai người. Bọn mục đồng cũng
không quên lui tới làm quen với với bọn họ.
Một hôm có một đội quân không hiểu từ đâu lại, mặt mũi hung ác, gươm tuốt sáng
lòe, đến bổ vây chiếm lấy hòn núi mới. Bọn chúng xô tới định bắt cả trẻ lẫn già đi,
nhưng móng rùa đã làm cho chúng chết không kịp ngáp. Cả một vòng lửa rất dày ùn
ùn bốc lên vây lấy chúng và chẳng cho một tên nào chạy thoát. Thấy núi và người
bỗng dưng xuất hiện ở địa phương mình, nhân dân quanh vùng cho là một sự lạ chưa
từng có. Tin là tiên xuống trần cứu dân, họ đến gặp cô gái và ông già để xin thuốc và
cầu khẩn mọi việc.
Thấv họ cần dùng thuốc, cô gái lấy những mảnh đá có màu xanh, đỏ sáng giấp giới,
buộc lại với nhau rồi ném ra xung quanh chỗ ngồi. Trên mặt đất bỗng mọc lên một
loại cây cỏ hoa năm cánh dùng để chữa bệnh sốt rét rất hiệu nghiệm. Người ta đua
nhau đi hái hoa đó về chữa bệnh. Họ gọi là hoa Tứ quý. Tiếng đồn thổi mỗi ngày một
rộng. Ai ai cũng nhắc đến nàng tiên bé nhỏ với một tấm lòng trìu mến.
Sau đó chẳng bao lâu, nhà vua nghe tin có nàng tiên xinh đẹp, bèn sai quan quân
mang lễ vật đến cầu hôn cho hoàng tử. Khi sứ giả đến thì trông thấy một già một trẻ
đang đánh cờ "gánh" trên tảng đã lớn. Sứ giả bước vào đệ trình lễ vật và quốc thư.
Giữa khi ông cứ già lúng túng chưa biết nên xử trí thế nào thì rùa vàng đã tự dưới biển
hiện lên báo tin cho ông biết là Long quân đã bằng lòng gả. Từ đây núi vắng người
tiên. Cô gái từ biệt cha nuôi lên kiệu đi theo sứ giả, có mấy trăm quân sĩ theo hầu. Còn
ông già trả móng lại cho rùa thần rồi cưỡi lên lưng rùa đi biệt.
Ngày nay hòn núi đá ấy vẫn hãy còn. Nó là hòn núi đẹp nhất nổi lên ở bờ biển
Quảng-nam. Người ta gọi nó là núi Ngũ-hành. Ở phía Tây núi có sông Vĩnh-điện chảy
ra cửa Hàn. Người ta bảo sông đó cũng như sông Cẩm-lệ, sông Hàn đều do bà vợ
Long quân vô tình làm ra trong khi quằn quại ở cữ

Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam   Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam - Page 2 Icon_minitimeSat Feb 02, 2019 3:45 am

36. THẠCH SÙNG CÒN THIẾU MẺ KHO HAY LÀ SỰ TÍCH CON MỐI

Ngày xưa, có hai vợ chồng một người nghèo khó tên là Thạch Sùng. Họ sống chui rúc
trong một túp lều gần chợ, xin ăn qua ngày. Cuộc sống thật là vất vả. Nhưng Thạch
Sùng là người có chí kinh doanh lớn, lại có nhiều thủ đoạn. Từ lâu hai vợ chồng ăn
nhịn để dành, lần hồi góp nhặt một số vốn chôn ở góc nhà. Số tiền ấy ngày một lớn
mãi lên. Nhưng họ vẫn giả bộ nghèo khó, làm nghề hành khất như cũ.
Một hôm Thạch Sùng đi ăn xin về khuya. Dọc theo bờ sông ông trông thấy hai con
trâu từ dưới nước lội lên và húc nhau chí tử. Đoán biết ấy là điềm trời sẽ mưa lụt to[1],
nên từ đó có bao nhiêu tiền chôn, ông đào lên đong gạo tất cà. Quả nhiên, tháng Tám
năm ấy trời làm mội trận lụt kinh khủng, nước lênh láng khắp mọi miền: mùa màng,
nhà cửa và súc vật. v. v... đều trôi nổi. Nạn đói đe dọa khắp mọi nơi. Giá gạo từ một
tăng lên gấp mười rồi dần dà tăng lên gấp trăm. Thế mà vẫn không ai có gạo để bán.
Thạch Sùng chờ đến lúc dân tình cùng kiệt mới ném số gạo tích trữ của mình ra. Có
những nhà giàu phải đổi cho ông ta một thỏi vàng mới được một đấu gạo.
Từ khi có vốn, hai vợ chồng Thạch Sùng thôi nghề bị gậy. Họ đem tiền cho vay một
vốn năm bảy lớp lãi. Thế rồi chẳng bao lâu Thạch Sùng nghiễm nhiên trở thành một
phú ông. Ông ta tậu biết bao nhiêu là trâu bò ruộng vườn, những thứ đó mỗi năm mỗi
nhiều lên mãi. Nhưng Thạch Sùng còn có nhiều mánh khóe làm tiền khác. Ngoài việc
thu lúa rẻ, cho vay lãi, ông ta còn buôn bán lớn. Thuyền buôn của Thạch Sùng dong
buồm đi khắp mọi cửa biển. Rồi hắn thông lưng với bọn cướp trong vùng. Mỗi một
chuyến làm ăn, chẳng những được chia phần mà hắn còn oa tàng và tiêu thụ hộ những
của bất nghĩa. Cứ như thế sau mười năm, Thạch Sùng trở nên một tay cự phú, tiền của
châu báu như nước như non, không ai địch nổi. Những tay thiên hộ bá hộ so với hắn
chỉ bằng cái móng tay. Có tiền trong tay, Thạch Sùng rất dễ kiếm được địa vị. Hắn
dâng vua bao nhiêu là vàng bạc ngọc ngà, nên được vua phong tước quận công. Hắn
ra ở kinh thành, xây dựng phủ đệ, không khác gì phủ đệ của ông hoàng bà chúa.
Trong phủ đệ của hắn có một trăm nàng hầu vợ lẽ, người nào người ấy ăn mặc toàn
lụa là gấm vóc. Còn hắn và vợ con thì giờ đây sống một cách xa xỉ, đến nỗi trong
nước trừ hoàng đế ra khó có một người nào dám sánh.
Hồi đó ở kinh đô có một người em hoàng hậu họ Vương. Y cũng là tay cự phú nổi
tiếng tiền rừng biển bạc và xài phí vào bậc nhất. Một hôm, y gặp Thạch Sùng trong
một bữa tiệc đủ các bậc vương công đại thần. Câu chuyện dần dần chuyển thành một
cuộc khoe của giữa hai bên. Họ Vương nói: - "Bọn nô tỳ nhà tôi đều mặc đồ tơ lụa.
Chúng nó đông đến nỗi năm hết tết đến phải có hàng kho vải lụa để may mặc cho
chúng mới tạm đủ". Thạch đáp: - "Bọn nô tỳ nhà tôi thì phải có lúa gạo của cả một
huyện mới đủ cho chúng ăn". Vương lại khoe: - "Bếp nhà tôi phải dùng đường thay
cho củi". Nhưng Thạch cướp lời: "Để sưởi ấm các phòng trong mùa đông, chúng tôi
phải đốt mỗi ngày hàng hòm nến". Nghe bọn họ không bên nào chịu bên nào, có một
vị quan khách dàn xếp: - "Hai ngài cãi nhau như thế không ích gì cả. Cần phải có
chứng cớ thì chúng tôi mới tin. Âu là một hôm nào đó, hai ngài hãy trưng của cải ra cho chúng tôi xem.
Ai thua phải nộp cho bên được mười thúng vàng. Chúng tôi sẽ
làm chứng cho". Cả hai người đều khảng khái nhận lời.
Đến ngày đấu của, có mấy vị đại thần ra làm chứng cho bọn họ. Hai bên ký vào giấy
giao ước. Hoàng hậu lo cho em mình thua cuộc, có phái mấy viên hoạn quan nhiều
mưu trí đi theo để giúp sức. Đầu tiên, Vương sai lấy lụa căng làm màn trần trong tất cả
các dinh thự của mình. Đến lượt Thạch Sùng, hắn sai lấy gấm căng che và trần trướng
tất cả mọi nhà cửa của hắn. Thấy vậy, Vương sai lấy thuỷ tinh thay ngói lợp tất cả các
nhà cửa phủ đệ của y, khiến chúng trở thành những tòa lầu sáng choang như ngọc.
Nhưng đổi lại, Thạch Sùng sai lấy ngọc thạch cho thợ đá cắt ra từng phiến lát cái sân ở
trước nhà.
Mọi người đều tấm tắc khen ngợi Thạch Sùng.
Cuộc đấu của lại tiếp tục. Thạch hỏi Vương: - "Nhà ngươi có san hô chăng?". Vương
đưa ra một cây san hô cao mấy thước, và hỏi lại: - "Nhà ngươi có tê giác không?".
Thạch bĩu môi ra hiệu cho một người hầu bưng ra một bộ đồ trà bằng sừng tê nạm ngọc.
Cà hai người còn khoe nhiều nữa, chưa ai chịu thua ai. Đến lượt họ bắt đầu khoe các
vật kỳ lạ. Thạch Sùng nói: - "Ta có con thiên lý mã mua từ bên Thiên-trúc về mỗi
ngày chạy được một ngàn dặm". Người ta xúm nhau xem và tán tụng con ngựa quý.
Nhưng Vương lại mời họ về vườn của mình thưởng thức một con hươu có hai cái đầu.
Lần này Thạch Sùng yên lặng khá lâu. Tiếng xôn xao nổi lên khắp nơi. Ai cũng tưởng
Thạch Sùng đã hết cả vật quý. Nhưng bất ngờ hắn rút trong bọc ra một viên ngọc và
nói: - "Ta có một viên ngọc, mùa nóng đeo vào thì mát, mùa rét đeo vào thì ấm. Tôi
chắc trong thiên hạ có một không hai".
Thấy thế họ Vương bắt đâu bối rối. Y toan sai người vào mượn hoàng hậu viên ngọc
như ý để địch lại, nhưng ngay lúc đó một viên hoạn quan ngôi bên cạnh, nói nhỏ vào
tai hắn mấy câu. Thế rồi người ta thấy Vương quay sang hỏi Thạch Sùng: - "Nhà
người tuy rất giàu nhưng có đầy mà không đủ. Ta thì cho rằng thế nào trong nhà nhà
người cũng còn thiếu nhiều đồ vật".
Thạch Sùng đang cơn đắc ý: - "Nhà ta không thiếu một đồ vật gì cả. Nếu nhà ngươi
chỉ ra được một vật mà ta thiếu ta sẽ mất với nhà ngươi không phải mười thúng vàng
mà còn tất cả gia sản nữa. Trái lại, nếu ta mà có đủ thì nhà người cũng phải mất cho ta
y như vậy!". Thế rồi trong một cơn kiêu căng đến cực điểm, Thạch bắt Vương cùng
mình ký tên vào bản giao ước mới. Khi ký xong, Vương bảo hắn: - "Nhà ngươi hãy
đưa mau ra đây cho các vị xem mẻ kho của nhà ngươi đi". Nghe đến đó, Thạch Sùng
giật mình. Mẻ kho là thứ gì hắn cũng đã biết. Đó là thứ nồi đất mẻ mà chỉ nhà nào
cùng khổ lắm mới dùng để nấu thức ăn. Ngày xưa hồi còn hàn vi, hắn đã từng đi nhặt
vật đó trong đống rác đưa về đánh chùi để kho cá. Nhưng đã từ lâu, lâu quá rồi, hắn
không còn nhớ đến thứ đồ dùng hèn hạ ấy nữa. Vì nhà hắn bây giờ toàn dùng đồ đạc
bằng vàng bạc, tệ nhất cũng bằng đồng thau, có bận tâm chứa những thứ của ấy để
làm gì. Nhưng hắn cũng cố giục bọn đầy tớ lục tìm trong xó vườn góc bếp xem sao.
Tìm đi kiếm lại khắp mọi nơi mà vẫn không nhặt được dù chỉ là một mảnh nồi vỡ.
Quả là nhà Thạch Sùng không thể làm gì kiếm được những món ấy
Thế rồi sau đó một lúc lâu, những người làm chứng công nhận sự thắng cuộc về phía
em hoàng hậu. Thạch Sùng không ngờ mình bị thua một vố đau như thế. Hắn cay
đắng nhìn thấy tất cả gia sản cho đến vợ con, nàng hầu, nô tỳ. v. v... đều chạy sang tay
họ Vương. Còn lại một mình ngồi trong túp lều, hắn tặc lưỡi tiếc cho cơ nghiệp tự tay
mình gây dựng trong bao năm đến nay tay trắng lại hoàn tay trắng. Rồi hắn chết, hóa
thành con mối tức là con thằn lằn, cũng gọi là con thạch sùng. Loài mối thỉnh thoảng
lại chắt lưỡi kêu lên mấy tiếng: "Thạch Thạch" là vì thế.
Ngày nay người ta còn có câu tục ngữ: Thạch Sùng còn thiếu mẻ kho, có ý nói trên
đời khó có ai được hoàn toàn đầy đủ.
Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam   Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam - Page 2 Icon_minitimeSat Feb 02, 2019 3:46 am

37. BÒ BÉO BÒ GẦY

Ngày ấy vào thời vua Lê chúa Trịnh có hai vợ chồng một người nho sinh họ Lê. Nhân
ngày cuối năm dắt nhau về thăm quê quán trong thành. Sau mấy năm đi làm ăn xa, họ
có để dành được một số bạc nhỏ đưa về định làm vốn sống ở quê nhà.
Qua bến đò Khuốt, họ đi vào giữa làng Đa-giá thượng. Đến đây trời đã xế chiều lại
lấm tấm mưa. Thấy thế, người chồng quyết định nghỉ lại trong một cái quán bên
đường.
Làng Đa-giá thượng bấy giờ vẫn có một ổ gian phi lớn, chuyên cướp của giết người.
Khách bộ hành đi qua đây thường thường nghỉ lại vì chỉ ở đây mới có dân cư quán xá,
lại có chỗ ăn chỗ trọ tươm tất. Mà khi khách đã nghỉ lại thì kẻ nào coi chừng tay nải
nằng nặng, lại cô đơn, là đêm đến sẽ có người kéo lên núi xô xuống một cái hang sâu
và kín gần Kẽm-trống. Thế rồi những món đồ cướp sẽ tùy công lao mà chia nhau giữa
mọi huynh thứ trong làng. Chúng giữ việc đó rất kín. Có những tiếng lóng thay cho
tiếng nói thường. Từ bao lâu, hang núi thiên tạo đó như một cái giếng sâu, là mồ
chung của bao nhiêu mạng người vô tội. Thế nhưng, bề ngoài đối với vua quan, đối
với người các làng khác, chúng vẫn là những kẻ làm ăn lương thiện.
Khi hai vợ chồng bước vào quán, bà hàng chạy ra đỡ chiếc thúng khảo trên tay người
đàn bà.
- Ông bà đến vừa đúng dịp! Hôm nay lại đang sẵn rượu ngon và nhắm tốt.
Trời mùa đông, ăn xong thì đã không trông rõ mặt người. Nhà hàng dọn sẵn giường
chiếu để cho họ nghỉ. Nhưng khi những cánh liếp vừa hạ xuống đựơc một chốc thì ở
ngoài đường có tiếng hỏi vọng vào.
- Nhà hàng mai cho chúng tôi mượn bò với nhé?
- Có!
- Bò béo bò gầy?
Bò béo.
Bà chú quán thản nhiên trả lời rồi dọn dẹp đi ngù. Hai vợ chồng yên tâm trèo lên
giường, bỏ cái tay nải ra gối đầu. Và rồi họ ngủ thiếp đi.
Đêm ấy vào khoảng canh hai, trong quán đã có mấy tên lực lưỡng lẻn vào từ lúc nào.
Người nho sinh họ Lê vẫn còn mê man trong giấc mộng. Mấy chén rượu có pha thuốc
mê làm anh chàng chẳng còn biết gì trời đất. Nhưng người vợ thì vẫn tỉnh táo. Bọn
cướp xông lại ấn giẻ vào miệng người chồng và lôi đi xềnh xệch. Người vợ toan la lên
thì tên cướp thứ hai đã giơ lưỡi dao sáng loáng. Thấy hắn sắp động vào người, nàng
quỳ xuống lầm bẩm: - "Thiếp cắn rơm cắn cỏ lạy ông. Ông tha cho, thiếp xin nhớ ơn
trọn đời". Ngọn đuốc khoa vào mặt nàng. Nàng còn trẻ và rất xinh đẹp. Tên cướp
bỗng thấy động lòng. Hắn giục: - "Thế thì đi. Nhưng khôn hồn hãy ngậm mồm lại. Hễ
kêu lên thì cho chết!". Thế rồi, trong khi đi đường, tên cướp nghĩ ra được một kế để
được chung chăn gối với người đàn bà có cặp mắt rất xinh kia. Hắn sẽ gửi nàng ở nhà
một người thủ hạ tin cẩn, nhờ giấu kín cho, rồi khi về chỉ đưa đôi hoa tai ra trình mọi
người là ổn.
Từ đó tên cướp thường lui tới chỗ ở của người vợ mới không cheo cưới của hắn.
Thình thoảng hắn biếu nàng một bộ xà tích hay mấy vuông lụa. Nàng không phải lo gì
đến cái ăn cái mặc, đã có người hầu hạ chu tất. Nhưng nhất thiết nàng không được
bước ra khỏi buồng, luôn luôn cửa đóng kín mít. Người đàn bà ấy đành nhắm mắt
tuân theo như một kẻ không hồn. Dần dần nàng hiểu rõ cách sinh nhai của lũ cường
bạo.
Nhưng nàng vẫn cố nuốt những giọt nước mắt, vui vẻ đón tiếp kẻ thù của mình để
hắn thí cho chút sống thừa. Tuy nhiên, chỉ được năm tháng là việc tên cướp giấu nàng
ở đây bị bại lộ. Ba ngày trước, xã trưởng rỉ tai bảo hắn: - "Nếu anh không hạ thủ ngay
thì đã có những người khác cho anh xuống hang cùng với con mụ ấy". Lệ làng đặt ra
ai nấy đều phải tuân theo răm rắp. Tất nhiên hắn không thể phá lệ làng. Đêm ấy cơm
xong, hắn đưa nàng lên núi. Hơn cả lần trước, lần này nàng van lạy hắn rất thảm thiết.
Nhưng bây giờ trái tim hắn không còn lay chuyền. Hắn bảo:
- Ta làm phúc cho nàng xuống suối vàng với chồng cho có bạn!
Khi sắp đến miệng hang: người bàn bà bỗng nhiên bỏ chạy. Nhưng hắn đã đuổi theo
và bắt được ngay. Đúng vào lúc hắn đẩy nàng xuống hang thì không ngờ nàng cũng
níu chặt lấy áo hắn. Cà hai người cùng lăn tòm vào vực sâu. May mắn làm sao nàng lại
nhanh tay thả hắn ravà bám được vào một nhánh cây mọc chìa ra ở lưng chừng. Thế
rồi người đàn bà ấy lần mò rất khó nhọc, cuối cùng lên được khỏi miệng hang. Và
nàng cứ nhằm hướng Bắc đi luôn một mạch.
Nói chuyện ngày hôm ấy xa giá Chúa đi qua cửa Đại-hưng. Khi đội tiền vệ vừa qua
cầu thì vợ của chàng nho sinh họ Lê xấu số từ dưới gầm cầu chạy vụt lên quỳ ngay
giữa đường cái. Đầu nàng đội một lá đơn trắng. Bị quân lính xua đuổi, nàng không
chịu lùi, chỉ sửa lại vành khăn trắng, bảo họ: - "Lạy các bác, tiện thiếp oan ức tày trời
xin cho gặp chúa thượng". Thấy có tiếng ồn ào đằng trước, chúa sai dừng kiệu, cho
đòi khổ chủ đến hỏi chuyện. Nghe người đàn bà kể xong, chúa lập tức rút bảo kiếm,
sai viên thám tướng mang ngay 2000 quân mã đi gấp ngày đêm vào Đa-giá thượng với
lệnh "tiền trảm hậu tấu".
Thê rồi sau đó hai ngày, có một thầy lang bán thuốc, vai đeo cái tay nải đỏ nặng trĩu đi
qua đò Khuốt rồi tiến vào làng. Chưa vào quán, khách đã trao tay nải cho bà hàng và
giục rượu inh ỏi. Chỉ một chốc khách đã say mềm, không còn nghe gì những tiếng
trao đổi "bò béo bò gầy" giữa chủ quán với người ngoài cổng. Chưa đến lúc đi ngủ,
khách đã bị trói giật cánh khỉ và điệu lên hang.
Nhưng lần này vừa sắp đến hang thì một tiếng hô vang làm cho bọn cướp giật nảy
mình. Từ bụi rậm xông ra một toán lính với mã tấu sáng lòe cởi trói cho khách và trói
lũ sát nhân lại. Rồi từ bốn phía chân núi, bốn phía làng: tiếng reo hò, tiếng trống, tiếng
mõ vang trời động đất của hai ngàn quân sĩ.
Ngay hôm sau, làng Đa-giá thượng bị triệt hạ. Nhà cửa, tre phe, cây cối đều bị san
phẳng. Đất đai và ruộng phân phát cho cả tỉnh: mỗi làng được một mảnh ruộng con,
ngày nay vẫn còn gọi là ruộng kỳ tại. Bọn cướp hết thảy bị tử hình: đàn ông đều chém
ngang lưng, đàn bà một hạng bỏ rọ trôi sông, một hạng sung làm thị tỳ ở các nhà
quan. Người ta có bắt được một quyển sổ ghi từng năm một bao nhiêu bò béo, bao
nhiêu bò gầy, bao nhiêu vàng bạc, bao nhiêu tiền và vật hạng. Một số quân sĩ được
lệnh đẵn tre làm thang xuống hang rồi thòng dây xúc hài cốt của những người vô tội lên thiêu hóa

Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam   Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam - Page 2 Icon_minitimeSat Feb 02, 2019 3:47 am

38. NỮ HÀNH GIÀNH BẠC

Ngày xưa có nhà phú hộ có một người con trai mười lăm tuổi cho đi học tại nhà một
cụ đồ trong làng. Anh chàng bẩm tính ngu độn lại thích chơi bời lêu lổng, nhét cho
mấy, chữ cũng không vào. Rồi qua năm sau cha mẹ kiếm cho một người vợ. Vợ hắn
là con gái một nhà nho, nhan sắc xinh đẹp, đã hay chữ lại tính nết rất đoan chính.
Khi sắp bước chân về nhà chồng, cô gái được một người chị em thân mách nhỏ cho
biết rằng người sắp làm chồng mình là một anh chàng dốt nát ngu độn. Nàng rất buồn.
Lễ cưới đã xong, họ nhà trai đã đến xin rước dâu, mọi việc đã đâu vào đó, không thể
trì hoãn hay giờ giáo được. Cuối cùng cô gái quyết định cứ chịu lấy anh chồng dốt,
nhưng sẽ cố tìm cách làm cho hắn chăm học nên người.
Cho nên, vừa làm lễ gia tiên, nàng xin với cha mẹ chồng cho hai vợ chồng mình ở
riêng một gian nhà nhỏ. Khi đã được ở riêng, nàng vào buồng đóng chặt cửa lại, bảo
chồng hãy cố học hành cho kịp chúng bạn thì mới cho chung chăn gối. Hắn ta tức
mình bào vợ: - Tôi học đã kém ai đâu mà nàng lại bảo phải cho kịp chúng bạn, và kịp
như thế nào mới đuợc chứ ?". Vợ nói: - "Để thiếp ra một câu này, lúc nào chàng đối
được sẽ xin mở cửa mời vào: Chồng phương Đông, vợ phương Tây, nín lặng cho hay,
chớ lòng Nam Bắc".
Sức học của hắn làm gì có thể đối nổi loại câu đối như thế. Nhưng hắn làm bộ nghĩ
ngợi, hẹn đến sáng trả lời. Rồi hắn đành chịu lên ngủ nhà trên, định mai đến trường
nhờ thầy gà hộ.
Khi cụ đồ nghe người học trò cho biết chuyện đêm tân hôn của hắn, cũng có phần
thương hại, bèn dặn hắn đến lúc tan học chờ cho học trò về hết cả, sẽ mách cho.
Chiều hôm đó sau khi bọc trò giải tán, ông cụ bảo hắn.
- Con cứ đối lại thế này: "Trai phận cấn, gái phận tốn, không nên cãi lộn, trái đạo
càn khôn".
Bất đồ hôm ấy còn sót một người học trò vì bận chép bài nên ở lại ngồi đằng sau vách
chưa về. Hắn ta nghe lỏm được câu chuyện oái oăm của bạn và có câu đối thầy gà cho
bạn, liền nhẩm lấy thuộc ngay. Thế rồi hắn ta không kém khôn ngoan, đoán biết rằng
bạn hắn còn phải mất nhiều thì giờ mới thuộc nổi câu đó. Vậy thì nhân khi nhá nhem,
hắn sẽ cất lẻn vào trước buồng vợ bạn bắt chước giọng bạn nói lên câu đối ấy, rất có
hy vọng bẻ hoa trước tiên. Quả nhiên khi cô gái nghe xong câu đối, tấm tắc khen hay
và giữ đúng lời hứa mở cửa cho người mà nàng tưởng là chồng mình vào buồng. Nàng
để cho hắn chung chăn gối. Mãi đến nửa đêm hắn mới thác chuyện lên nhà trên rồi đi
một mạch về nhà.
Lại nói chuyện về anh chồng thật thì suốt một đêm học mãi mới thuộc câu đối nói
trên. Vào khoảng canh ba hắn mới tìm đến buồng vợ. Vợ lại mở cửa đón chồng. Nàng
ngạc nhiên khi thấy chồng đọc lại câu đối hồi hôm. Rồi nàng giật mình hỏi dồn
chồng:
- Sao chỉ có một câu tối hôm qua đã đối, bây giờ lại còn đối nữa?
Nghe chồng nói tối hôm qua không hề đến, lại nghe giọng nói hai lần có khác nhau,
nàng mới biết là mắc mưu một tên vô lại nào đó làm ô nhục, bèn vào buồng kêu trời
khóc đất một mình rất thảm thiết. Rồi trong một cơn đau dẫn đến mất trí, nàng cắn
lưỡi tự tử.
Chồng thấy vợ chết không hiểu thế nào cả. Hắn lẳng lặng tìm đến nhá cụ đồ báo cho
thầy biết tin đó. Nghe nói cụ đồ rất đổi kinh ngạc, nghĩ mãi không biết vì cớ gì. nhưng
cũng dặn học trò cứ giữ thật kín câu chuyện để ông cụ tìm cách truy cho ra thủ phạm.
Ngày hôm sau giữa khi các môn sinh tề tựu đông đủ, cụ đồ tươi cười bảo mọi người:
- Thầy có nghĩ được một câu đối cũng vừa sức học của các con. Nếu ai ứng khẩu đối
được hay thì thầy sẽ thưởng thoi mực và một quản bút. Rồi ông cụ đọc luôn vế câu
đối của cô con gái nọ đã ra cho chồng.
Trong khi những người học trò khác đang nghĩ ngợi thì đứa bất lương phản bạn kia đã
hý hửng đọc lại nguyên văn vế câu đối mà hắn nghe lỏm được chiều hôm qua:
- Thưa thầy con xin đối lại là: "Trai phận cấn, gái phận tốn... "
Lập tức cụ đồ thét học trò bắt hắn trói lại. Ông cụ vạch tội hắn trước mặt mọi người,
vì chỉ có người đàn ông thứ hai nghe lỏm đựơc vế câu đối của mình và nghe lỏm được
câu chuyện của bạn mới có thế làm nổi được việc đánh lộn sòng kia. Cuối cùng hắn
đành cúi đầu nhận tội.
Trong khi ở nhà người phú hộ đám tang người con dâu bạc mệnh cử hành thì ở bên
này người ta cũng giải đứa gian ác lên quan. Nhờ có cụ đồ xin khoan giảm nên hắn
khỏi bị trảm quyết, chỉ phải bị án chung thân và phải đền cho khổ chủ một giành bạc.
Từ đó người ta thường truyền cái câu nữ hành giành bạc mà cho đến ngày nay nhiều
người không rõ nghĩa tiếng "hành" là gì

Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam   Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam - Page 2 Icon_minitimeSat Feb 02, 2019 3:47 am

39. LẨY BẨY NHƯ CAO BIỀN DẬY NON

Ngày xưa ở Trung-quốc có Cao Biền rất giỏi nghề địa lý. Những phép hô thần tróc
quỷ, ông đều thông thạo. Tiếng đồn vang khắp nơi. Hoàng đế Trung-quốc nghe tiếng
liền triệu Biền vào cung ủy thác cho việc kiếm một ngôi đất xây dựng lăng tẩm. Cao
Biền vâng lệnh và sau năm năm tìm tòi, đã kiếm được một kiểu đất quý mà theo ông
có thể giữ ngôi nhà Đường vững như bàn thạch.
Sau khi công việc hoàn thành, hoàng đế rất khen ngợi, sai ban nhiều vàng bạc cùng
phong tước lớn cho Biền. Nhưng Biền vốn biết trong kho tàng của hoàng đế có một
ngòi bút thần có phép mầu nhiệm mà chính hoàng đế và cả triều thần không một ai
biết cả. Vì thế Biền không nhận vàng, chỉ nói:
- Tâu bệ hạ, hạ thần không muốn lấy vàng bạc của bệ hạ. Chỉ muốn xin một kho
trong trăm ngàn kho đồ dùng của bệ hạ bằng cách là để hạ thần tự tay rút trong chùm
chìa khóa kho tàng mà quan tổng quản đang nắm giữ, nhằm đúng chìa kho nào thì
được phép lấy kho ấy.
Hoàng đế nghe nói hơi ngạc nhiên những vốn trọng tài Biền, tại thấy ý kiến hay hay
nên vui lòng để Biền làm chuyện may rủi xem thử thế nào. Quả nhiên kho mà Biền
chỉ, đúng là kho đựng toàn bút lông dùng cho triều đình. Khi được sử dụng hàng vạn
cây bút, Biền mang đến một hòn đá, lần lượt đem chọc mạnh từng ngòi lông vào đá.
Nhưng chẳng có ngòi nào được toàn vẹn. Mỗi lân thấy tòe ngòi, ông lại vứt đi và tiếp
tục chọc ngòi khác vào đá. Cứ thế cho đến lúc trong kho sắp vợi cả bút thì bỗng có
một quản bút chọc thủng vào đá mà ngòi lông vân còn nguyên vẹn. Biền mừng quá
reo lên:
- Ta tìm được ngòi bút thần rồi!
Biền liền cầm bút thần vẽ thử một con rồng lên mặt tường, chừa hai con mắt. Đến khi
điểm nhãn, rồng tự nhiên cuộn mình được và tách ra khỏi bức tường. Rồi rồng vụt lên
trời, bay biến vào đám mây trước con mắt kinh ngạc của mọi người. Biền lại vẽ thêm
nhiều con vật khác và những con ấy đều hoạt động không khác gì những con vật có
thực.
Sau cùng Cao Biền vẽ một con diều rất lớn, dùng bút thần nhúng mực điểm mắt cho
diều. Diều đập cánh bay lên. Lập tức Biền cưỡi lên lưng và diều đưa vút lên trên
không. Thế là Biền cưỡi diều vượt qua muôn trùng núi sông sang đến nước Nam. Trên
lưng diều, Biền đưa mắt xuống tìm huyệt đất quý. Quả nhiên không bao lâu ông tìm
thấy ở gần một con sông, cứ như bây giờ là sông Trà-khúc tỉnh Quảng-ngãi, một huyệt
đất phát đế vương. Huyệt đất ấy quý không đâu bằng mà lại chỉ trong một ngàn ngày
là phát. Đó là một cái hàm con rồng lấp dưới nước mà chỉ có con mắt của Biền mới
khám phá được.
Từ đó, Biền có ý muốn hưởng một cuộc sống sung sướng xa xỉ vào bậc nhất thiên hạ.
Nhưng khi nghĩ lại thì hắn rất tiếc là không có con trai mà thân mình lại đã già mất rồi;
nếu được làm vua cũng không còn hưởng được mấy nỗi. Biền mới tính sẽ nhường cho
rể. Nếu nó làm vua thì ông bố vợ tất cũng được bội phần trọng đãi, mà dòng dõi con
gái mình cũng hưởng phúc lâu dài. Những muốn thực hiện công việc "đại sự" này cần
phải giữ hết sức bí mật, nếu không sẽ mất đầu như chơi.
Nghĩ vậy, Biền trở về Trung-quốc bảo người con rể đào lấy hài cốt cha y đem sang
nước Nam để cải táng. Trong việc này Biền chỉ bàn kín với một người học trò mà thôi.
Nhưng người học trò mà Biền tin cậy lại muốn miếng đất quý ấy hoàn toàn thuộc
phần mình hưởng, nên khi được lệnh thầy mang hài cốt thì hắn cũng đào luôn hài cốt
của cha mình sang Nam.
Bấy giờ hàm rồng đang thời kỳ há miệng. Biền bảo học trò lặn xuống ném gói xương
vào giữa miệng rồng chờ cho nó ngậm lại hãy lên. Người học trò đem gói xương của
cha mình đánh tráo vào, còn gói xương kia thì bỏ ở một bên mép.
Xong việc đó, Cao Biền bảo con rể chọn năm giống lúa, mỗi thứ một thúng mang đến
huyệt đất nói trên, sai đào đúng vào chỗ vai rồng thành năm cái huyệt. Mỗi huyệt Biền
sai rấm một thúng lúa rồi lấp đất lại thành năm ngôi mộ. Hắn giao cho chàng rể một
ngàn nén hương, dặn mỗi ngày thắp một nén, đúng hai năm chín tháng mười ngày thì
tự khắc quan gia dưới huyệt nhất tề dậy cả. Dặn đâu đấy, Biền trở về Trung-quốc.
Thời gian trôi qua. Hôm ấy chỉ còn mười ngày nữa là hết hạn công việc mà Cao Biền
đã dặn, thì tự nhiên con gái hắn ở nước đẻ luôn một lúc ba né trai, mặt mũi dị kỳ. Vừa
mới sinh ra, ba đứa đã biết đi biết nói: một đứa mặt đỏ tay cầm ấn, một đứa mặt màu
thiếc, một đứa mặt màu xanh, đều cầm dao sáng quắc. Cà ba nhảy tót lên giường thờ
ngồi. đòi đem quân thu phục thiên hạ. Người nhà ai nấy xanh mặt. Chỉ trong một buổi
tiếng đồn rầm lên. Mọi người thấy sự lạ đổ tới xem như đám hội. Người rể của Biền sợ
quá, bào vợ: - "Mày đẻ ra ma ra quỷ, nếu không sớm trừ đi thì khó lòng sống được
với triều đình. Chẳng qua cha mày làm dại, nên mới sinh ra như thế". Thế rồi y chém
tất cả.
Trong lúc bối rối, người nhà của y vì lầm nên đốt luôn một lúc hết thảy những nén
hương còn lại. Bỗng dưng mặt đât chuyển động. Ở dưới năm ngôi mộ có tiếng rầm
rầm mỗi lúc một lớn. Rồi nắp mộ bật tung ra, bao nhiêu quân gia tề dưới đó nhảy lên.
Nhưng vì còn non ngày nên sức còn yếu, đứng chưa vững, người nào người ấy đi lại
bổ nghiêng bổ ngửa, cuối cùng đều chết sạch.
Lại nói chuyện Cao Biền chờ cho đến tận ngày hẹn mới cưỡi diều bay sang nước Nam.
Nhưng lần này diều bị ngược gió nên sang không kịp. Khi diều hạ cánh xuống thì
người con rể đã phá hỏng mất công việc của hắn. Hắn bực mình vô hạn. Sau khi căn
vặn để hiểu rõ câu chuyện, hắn rút gươm chém chết cả học trò lẫn rể.
Từ đó Cao Biền sinh ra chán đời, chả thiết gì nữa. "Không được ăn thì đạp đổ", nghĩ
thế, hắn bèn cưỡi diều đi khắp nước Nam để ếm huyệt và phá tất cả những long mạch
của nước này. Ngày chỗ hàm rồng nói trên, hắn dùng phép chém đứt cổ con rồng đó
đi. Cũng vì vậy mà ngày nay người ta nói nước sông Trà-khúc đỏ như máu là bởi máu
tự cổ con rồng chảy ra đến nay vẫn chưa dứt.
Đến Nghệ-an, Biền thấy trên một hòn núi mà ngày nay còn gọi là núi Đầu-rồng ở sát
bờ biển có huyệt đế vương. Hắn bèn làm bùa bằng gang đóng vào đỉnh núi. Từ đó trở
đi trên đỉnh núi ấy không một cây cối gì còn mọc được.
Ở Thanh-hóa, Cao Biền cũng thấy có huyệt đất quý. Nhưng hắn thấy con rồng đó què
một chân, cho rằng nếu có phát đế vương thì không thể phát to được. Cho nên hắn
cho diều đi thẳng không ếm nữa. Cũng vì thế người ta nói mấy đời vua chúa trị vì ở
nước Nam đều phát tích ở Thanh-hóa.
Khi diều bay qua làng Thiên-mỗ (bây giờ là làng Đại-mỗ, tỉnh Hà-đông) Biền thấy có
cái giếng ở vệ sông mà bây giờ là Nhuệ-giang cũng có huyệt đế vương. Hắn bèn cho
diều hạ xuống là là sát mặt đất, đoạn thuận tay ném luôn cây bút thần của mình xuống
lòng giếng. Người ta nói cây bút ấy sau rồi hóa thành một khúc gỗ cắm chặt xuống
đáy giếng.
Không một ai dám động đến nó. Mãi về sau trong làng có một ông thám hoa có tính
hiếu kỳ mới tâu vua xin hai con voi về kéo thử khúc gỗ đó lên. Họ tết một chiếc thừng
lớn; một đầu buộc vào khúc gỗ còn một đầu buộc vào cổ voi. Nhưng khi voi cất bước
thì tự nhiên ở những xóm làng bên cạnh, đất chuyển động ầm ầm, đồng thời nhà cửa
phát hỏa tứ tung. Lần ấy ông thám đành bỏ dở công việc vì ông ta sợ con rồng bị đau
giãy dụa làm hại đến dân sự. Điều đặc biệt là từ bấy đến nay nước giếng ấy không bao
giờ cạn. Mỗi khi nước trong người ta vẫn thấy có bóng khúc gỗ đen đen ở dưới
đáy[3].
Để tâng công với hoàng đế, Cao Biền vẽ bản đồ từng kiểu đất một rồi viết thành sách
ghi chú rất tinh tường đem dâng lên vua Đường. Đại ý nói tất cả những mạch đất quý
nhất của nước Nam, hắn đều đã trấn áp xong. Duy có kiểu đất ở chỗ trung độ (tức bây
giờ là Hà-nội) thì hắn đã sai đắp một cái thành gọi là thành Đại-la để chặn long mạch.
Lễ trấn áp này Biền làm rất công phu và linh đình. Trên hòn núi ở xa xa về phía Bắc
thành Đại-la, hắn cho dựng một cái đàn tràng. Trong thành Đại-la, hắn sai nung một
lúc tám vạn cái tháp bằng đất nhỏ. Nung xong, Biền huy động tám ván quân, mỗi tên
quân vai vác giáo, mũi giáo xóc một cây tháp, đi từ Đại-la tiến dần lên núi. Vừa đi họ
vừa hô mấy tiếng "Thống vận hoàng đế". Đến nơi đặt tháp xuống đỉnh núi rồi tám vạn
quân ấy lại rùng rùng kéo về Đại-la. Cũng vì có những việc kỳ dị như thế nên núi ấy từ đó mang tên là núi Bát-vạn
Hoàng đế Trung quốc đọc sách của Cao Biền lại càng khen ngợi hắn. Nhưng việc làm
của Biền bị dân chúng nước Nam oán ghét. Họ lập tâm chờ dịp giết hắn cho bõ hờn.
Một hôm, Biền cưỡi diều bay vào miền cứ như bây giờ là Ninh-bình. Ở đây người ta
đã chuẩn bị cung nỏ chờ khi diều của hắn bay qua là là mặt đất, là cả bao nhiêu người
cùng nhất tề phóng tên. Diều bị gãy cánh rơi xuống núi. Biền bị trọng thương, sau đó
phải đưa về Trung-quốc. Hòn núi ấy ngày nay còn mang tên là núi Cánh-diều, một
trong ba ngọn núi ở gần trị sở Ninh-bình[5].
Ngày nay chúng ta có câu " Lẩy bẩy như Cao Biền dậy non" là ý nói nóng nẩy vội
vàng sẽ thiếu chu đáo, và thế nào cũng thất bại.

Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam   Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam - Page 2 Icon_minitimeSat Feb 02, 2019 3:48 am

40. BỤNG LÀM DẠ CHỊU HAY LÀ TRUYỆN THẦY HÍT

Ngày xưa, có một anh chàng vô công rồi nghề, ngày ngày chỉ biết ăn bám vợ và khoác
lác. Người vợ rất lấy làm bực mình vì phải nai lưng ra làm nuôi chồng và ba đứa con.
Một hôm, chị vợ bắt anh ta phải đi học một nghề gì để nuôi thân vì mình không cáng
đáng nổi nữa. Anh chàng đi lang thang suốt buổi, hết đứng bụi này lại ngồi bụi kia
chả học nghề ngỗng gì cả, cho đến xế trưa lại về.
Trước khi vào nhà, hắn đứng nấp sau vách có ý nghe ngóng xem vợ có nói xấu gì
mình chăng. Vừa khi người vợ đi chợ về mua được năm tấm bánh gói, chia cho ba
đứa con mỗi đứa một cái. Còn lại hai cái, mẹ bảo con đưa vào buồng cất vào trong vại
gạo cho cha. Nghe thấy thế, anh ta rất thích, chờ một lúc lâu mới giả bộ đi từ phía
cổng bước vào nhà. Vợ hỏi:
- Đã tìm được nghề gì chưa?
- Đã, hắn đáp.
- Nghề gì mà học nhanh thế?
- Tao đi dọc đường gặp một ông thầy hít, ông ấy dạy cho tao bói bằng cách hít. Bây
giờ có cái gì cất giấu ở đâu, tao chỉ dùng lỗ mũi hít hít mấy cái là tìm ra ngay. Nào, có
cái gì cần tìm để tao làm thử cho mà xem?
Vợ tiếp lời ngay:
Vậy thì tôi có mua cho hai cái bánh còn cất đi một nơi, cứ hít cho ra mà ăn, như
không tìm được thì nhịn vậy!
Thế là anh chàng ngước mũi lên giả bộ hít mấy cái, rồi nói:
- Đúng rồi, nó ở trong vại gạo.
Rồi hắn chạy vào lấy bánh ra ăn trước con mắt kính phục của vợ con.
Người vợ tưởng thật, mừng quá, vội chạy đi loan báo với xóm giềng rằng chồng mình
học được nghề thầy hít, thử đoán một việc thấy hay như thần. Từ nay ai có một cái gì
cứ đến nhờ anh ấy tìm hộ.
Hôm ấy, trong xóm có một bà mất một ổ lợn con, kiếm khắp mọi nơi không thấy.
Nghe nói thế, bà ta vội chạy đến khẩn khoản nhờ tìm. Thật là may cho anh chàng, vì
lúc đứng nghỉ ở một bụi tre dọc đường, hắn đã trông thấy bầy lợn con chạy lạc vào
đó. Hắn ta mừng quá, bảo bà già: - "Nếu kiếm được thì bà sẽ cho tôi những gì!". Bà ta
hứa cho hai con lợn con. Anh ta cũng giả vờ hít mấy cái rồi dắt bà đến ngay chỗ có
lợn. Bầy lợn được tìm ra ngay và sau đó anhđược chia hai con như lời chủ nhân đã
hứa. Vợ thấy chồng chỉ học một nghề giản dị mà làm ra của dễ dàng thì sung sướng
quá, vội chạy về khoe với cha mẹ đẻ. Người cha nghe nói con rể học được phép lạ
cũng có ý hâm mộ. Ông ta nói riêng với vợ : - "Bà cứ bảo gọi rể sang đây. Nếu nó chỉ
đúng món tiền chôn ở gốc táo sau vườn thì cho nó một nửa". Ông ta không ngờ chàng
rề của ông đã lén theo vợ sang từ lúc nãy và đứng nấp ở một góc nhà. Nghe cha vợ
bảo thế, anh ta lén chạy một mạch về nhà rồi giả cách nằm ngủ. Khi vợ và mẹ vợ về,
phải thức mãi hắn mới chịu dậy. Thế là anh chàng theo sang nhà ông nhạc,
chỉ đúng chỗ chôn của, và được thưởng một nửa số tiền chôn.
Từ đó tiếng đồn về thầy hít lan đi rất nhanh. Cũng vào thời gian ấy trong hoàng cung
bỗng xảy ra một vụ trộm lớn. Nhà vua mất trộm một con rùa vàng và một con rùa bạc
là hai món bảo vật của vua Trung-quốc tặng. Trong cung rối rít cả lên, chả có cách gì
tìm ra thủ phạm cả. Vừa nghe tiếng đồn có thầy hít đại tài, vua vội sai quân lính đi
mời về cho bằng được.
Khi thấy sứ giả đến nhà triệu mình, anh chàng vô cùng hoảng hốt. Chót đánh lừa mọi
người, anh ta không còn biết than thở với ai cả. Nằm trong cáng dọc đường về kinh
đô, anh ta nghĩ bụng: - "Thôi phen này thì bay đầu đến nơi rồi!". Anh chàng buồn
quá, tưởng tượng những nhục hình đang chờ mình ở cung vua mà rụng rời chân tay.
Vì thế khi qua sông, anh ta nhảy đại xuống nước, nghĩ rằng thà chết ở đây còn hơn bị
kìm kẹp khổ thân. Hai người lính khiêng cáng sợ rằng hắn chết thì tai vạ sẽ đổ lên đầu
mình, bèn chia nhau lặn xuống nước tìm và cuối cùng cũng lôi được anh chàng lên
bờ. Khi tỉnh lại, hắn ta rất thất vọng, nhưng cũng làm bộ giận, mắng hai người đó:
- Tao xuống để hỏi vua Thuỷ tề xem ai là thủ phạm chứ có can gì mà chúng mày hốt
hoảng lên như thế.
Nhưng trong bụng anh ta nghĩ: - "Thế là muốn thoát cũng không thoát nổi. Biết tính
làm sao bây giờ?". Anh chàng lại nằm lên cáng cho hai người kia khiêng đi, miệng lẩm
bẩm mấy tiếng:
- Bụng làm dạ chịu, chớ khá than van!
Không ngờ hai người khiêng cáng mà vua sai đi: một người tên là Bụng và một tên là
Dạ. Hai đứa đã đồng mưu ăn trộm hai con rùa của vua. Tang vật hiện còn giấu trên
máng nhà, chưa đưa đi thoát được. Nay nghe thầy hít lẩm bẩm như thế, tưởng là thầy
đã hỏi vua Thủy tề biết rõ cơ sự rồi, bọn họ bèn hạ cáng xuống và lạy thầy như tế sao.
Cả hai thú tội cho thầy nghe rồi cuối cùng xin thầy làm ơn giấu giùm, nếu không sẽ
khó mà thoát án tử hình.
Nghe đoạn, thầy như mở cờ trong bụng, vội hứa để bọn họ an tâm. Khi gặp vua, anh
chàng lại giở giói phép hít của mình và quả nhiên tìm được hai bảo vật còn giấu ở trên
ống máng. Nhà vua thán phục tài năng của anh, tặng thưởng rất hậu, lại ban cho tước lớn.
Anh ta về nhà chưa được bao lâu thì bỗng một hôm được sứ Trung quốc tìm đến tận
nhà ngỏ lời mời mọc khẩn khoản. Số là trong cung cấm của hoàng đế Trung-quốc vừa
xảy ra một mẻ trộm rất lớn. Nhiều món bảo vật quý giá nhất trần đời đều bị bọn người
táo gan lấy mất. Nhiều thầy bói được vời đến cung nhưng chả nên tích sự gì cả. Nay
nghe tiếng có thầy hít Việt-nam đại tài nên phái sứ giả sang mời tìm hộ. Nếu tìm được
bảo vật, hoàng đế sẽ ban tứ rất hậu.
Anh chàng lần này lại lo sốt vó, có thể nói hơn cả mấy lần trước. Vừa qua một khúc
sông, anh ta đã nhảy ngay xuống nước định tự vẫn như lần trước. Không ngờ người ta
lại cứu được lên. Nhưng lần này không hiểu anh ta nhảy thế nào mà khi lên bị sứt một
một bên mũi. Hồi tỉnh lại, anh chàng chỉ cái mũi sứt nói với sứ giả Trung-quồc rằng: -
"Tôi nhờ có cái mũi này mới làm ăn được. Nay con cá nóc đã cướp mất sự mầu nhiệm
của tôi rồi, còn gì mà sang nữa". Sứ giả không biết nói thế nào, đành phải để cho anh
ta trở lại nhà
Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam   Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam - Page 2 Icon_minitimeSat Feb 02, 2019 3:48 am

41. ĐỒNG TIỀN VẠN LỊCH

Ngày xưa có người lái buôn tên là Vạn Lịch. Hắn ta buôn to, giàu có vào hạng nhất
nhì trong nước. Hắn có ngót một trăm chiếc thuyền dùng vào việc chở hàng. Chiếc
thuyền riêng của Lịch có buồng ăn, buồng nằm.... không khác gì nhà ở trên đất. Xung
quanh chỗ ngồi trang sức bằng gấm vóc. Đồ dùng toàn bằng vàng bạc.
Lịch có một người vợ trẻ và đẹp là Mai thị. Trong những lúc đi buôn bán xa, hắn
thường ngờ vợ không thực lòng với mình. Hắn hay xét nét từng ly từng tý làm cho
nàng tuy sung sướng nhưng cũng rất khổ tâm.
Một hôm thuyền của Lịch đậu ở một bãi vắng. Mai thị ngồi trước mũi nhìn ra ngoài.
Bỗng có một người đánh giậm ở đâu đến cạnh thuyền xin một miếng trầu. Mai thị thấy
người đó đóng khố, mình mẩy lấm láp thì thương hại, hỏi thăm mấy câu rồi lấy mấy
miếng trầu trong cơi vàng đem cho. Lịch đang ngủ chợt thức giấc thấy thế, cơn ghen
nổi lên đùng đùng. Chờ cho anh đánh giậm đi khỏi, hắn gây chuyện với vợ rồi xỉ vả
nàng thậm tệ. Mặc dầu Mai thị thề thốt hết lời nhưng hắn không nghe. Hắn trả xống áo
cho nàng, vứt cho một thoi vàng, một thoi bạc và đuổi đi ngay
Mai thị bơ vơ một mình trên bãi biển. Nàng gặp lại người đánh giậm bèn gạt nước mắt
kể lể sự tình. Anh chàng đánh giậm ngẩn ngơ cả người, không hiểu ra làm sao cả. Khi
biết anh ta chưa có vợ lại sống một thân một mình, nàng bảo:
- Hắn bảo tôi dan díu với anh. Âu là số tôi không lấy được kẻ giàu sang, tôi xin lấy
anh làm chồng, dù có khổ sở thế nào đi nữa tôi cũng chịu được. Chúng ta sẽ làm ăn
nuôi nhau.
Anh chàng đánh giậm không biết từ chối thế nào cuối cùng dẫn người đàn bà kia về
túp lều của mình dựng bên bờ sông. Và họ trở nên vợ chồng. Hàng ngày chồng vẫn
làm nghề cũ, còn vợ thì ở nhà chăn nuôi gà vịt. Tuy nghèo nhưng họ sống êm ấm,
không xô xát với nhau bao giờ.
Ba năm trôi qua. Một hôm trời mưa, chồng rỗi việc ở nhà, vợ ngồi vá áo. Chồng thấy
đàn gà thi nhau mổ thóc ở thúng, sẵn có thỏi vàng của vợ trong thúng khâu, hắn
không biết là vật gì liền cầm lấy ném đàn gà. Chằng may ném mạnh quá thỏi vàng
văng luôn xuống sông. Thấy vậy, vợ trách chồng:
- Kìa, người sao mà ngu đần thế! Anh có biết anh vừa ném cái gì không?
Chồng đáp gọn lỏn:
- Chả biết.
- Đấy là vàng quý nhất ở trên thế gian đấy.
- Thứ ấy thì thiếu gì. Những lúc bắt cá ở một vũng kia tôi vẫn nhặt được luôn nhưng
không biết dùng làm gì nên lại vứt bỏ.
Đến lượt vợ lại ngẩn cả người, liền hối hả giục chồng đi lấy về. Quả nhiên đó là vàng
thực và lạ thay mỗi thỏi đều có dấu hiệu riêng của Vạn Lịch. Nguyên do Vạn Lịch từ
ngày đuổi vợ, buôn bán có phần thua lỗ. Một chuyến bị bão, thuyền đắm, Lịch chỉ
thoát được thân còn bao nhiêu vàng bạc của cải đều chìm xuống nước và trôi dạt vào
đây. Thế là kho vàng của Lịch lại thuộc về tay vợ chồng Mai thị.
Từ khi có của, Mai thị bèn xây dựng nhà cửa và sắm ăn sắm mặc cho chồng. Thấy
chồng quá ngờ nghệch, vợ bảo phải năng chơi bời với người ta để học khôn học khéo
hòng mở mặt với đời.
Chồng nghe lời, vào xóm gạ chuyện với mọi người để làm quen nhưng chả có ai thèm
chơi với thằng nghèo lại nổi tiếng đần độn. Luôn mấy hôm liền, hắn đi không về rồi.
Vợ hỏi: - "Đã chơi được với ai chưa?" - "Chưa". Mai thị lắc đầu nói một mình rằng: -
"Người đâu u mê đến thế. Suốt mấy hôm trời mà không làm quen được một ai. Họa có
chơi với phỗng thì được!". Nghe nói thế, chồng tưởng vợ bảo mình không chơi với
người thì chơi với phỗng, bèn tìm đến một ngôi đền vắng ở xa xóm. Hắn lân la toan
làm quen với mấy bức tượng phỗng đặt ở hai bên sân đền. Thấy tượng phỗng nhe
răng cười, hắn cũng cười theo, rồi lại quàng vai bá cổ làm như chơi đùa với người
thật. Sau đó hắn đi mua bún lòng về mời ăn, nhét cho mỗi tượng một miếng vào
miệng. Cuối cùng chẳng thấy phỗng nói gì, hắn tức mình xô phỗng từ trên bệ lăn kềnh
xuống đất rồi bỏ ra về. Khi vợ hỏi, hắn kể lại tình thực. Mai thị giẫm chân kêu trời,
đành giữ chồng lại nhà để dạy khôn cho hắn.
Không ngờ ngôi đền mà anh chàng đánh giậm đến chơi lại là nơi phát tích của nhà
vua. Tự nhiên, sau khi anh đánh giậm xô đổ tượng phỗng: nhà vua bị đau bại một nửa
người. Bao nhiêu danh y được triệu vào cung chữa bệnh cho thiên tử đều lắc đầu bó
tay. Một ông quan thái bốc gieo quẻ báo tin rằng ngôi đền này động. Lập tức triều
đình phái quan tình về làm lễ tạ. Pho tượng phỗng đổ xuống đất làm cho họ chú ý.
Nhưng khi định dựng tượng dậy thì lạ thay, hàng chục người mó vào đều nâng không
nổi. Quan truyền cho mấy cơ lính dùng đòn dây xúm vào cùng khiêng nhưng rốt cuộc
tượng vẫn không hề nhúc nhích. Tin ấy bắn về kinh đô, nhà vua rất lo, liền sai yết
bảng cho tất cả thần dân ai có phép gì dựng được phỗng lên bệ thì sẽ hậu thưởng.
Hôm ấy Mai thị đi chợ qua đó thấy bảng yết thế, bèn về hỏi chồng:
- Hôm ấy anh làm thế nào đẩy ngã pho tượng xuống được?
Hắn đáp:
- Tôi chỉ khẽ ẩy một cái là đổ ngay.
- Thế bây giờ có dựng lên được không?
- Làm gì mà chả được.
Vợ bèn cùng chồng ra giật bảng xin quan cho vào nâng thử. Quả nhiên khi người
đánh giậm mó tay vào tượng liền đứng lên được.
Từ hôm đó nhà vua khỏi bệnh. Vua sai lấy vàng bạc thưởng cho vợ chồng Mai thị
nhưng họ không nhận, chỉ xin làm một chân tuần ty ở sông Cả. Chức vụ tuần ty chỉ
ngồi thu thuế không cần biết chữ. Vua ưng cho ngay. Hai vợ chồng liền đi nhậm chức.
Sẵn vàng bạc, họ đưa ra xây dựng nhà cửa rất nguy nga ở bên cửa sông. Từ đó họ nổi
tiếng giàu có trong vùng.
Một hôm, thuyền của Vạn Lịch đi qua đây, đỗ lại ở cửa tuần cho người lên nộp thuế.
Mai thị biết vậy liền ra lệnh bắt chủ phải thân đến nộp. Tiến vào công đường, Lịch xiết
bao kinh ngạc khi thấy ngồi trước án là người vợ cũ của mình cùng anh chàng đánh
giậm ngày xưa. Mai thị mỉa mai bảo hắn:
Biết rằng anh vẫn đi buôn,
Em về kiếm chốn nha môn ngồi tuần.
Dù anh buôn bán xa gần,
Làm sao tránh khỏi cửa tuần em đây.
Nghe câu ấy, Vạn Lịch vô cùng xấu hổ. Hắn từ tạ trở về thuyền. Vừa thẹn vừa uất, hắn
nghĩ không còn mặt mũi nào nhìn lại vợ lần nữa. Đoạn hắn làm giấy kê khai tất cả của
cải đem biếu Mai thị nói là để chuộc lỗi xưa, rồi đâm cổ tự tử. Mai thị thấy vậy lấy làm
hối hận. Sau đó nàng đem bao nhiêu tài sản của Vạn Lịch, tâu vua xin đúc một thứ
tiền gọi là "tiền Vạn Lịch" rồi đem phân phát cho những người nghèo khổ.
Ngày nay thỉnh thoảng người ta vẫn còn nhặt được một vài đồng tiền đó. Người ta còn
có câu hát:
Đồng tiền Vạn Lịch thích bốn chữ vàng,
Anh tiếc công anh dan díu với nàng bấy lâu

Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam   Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam - Page 2 Icon_minitimeSat Feb 02, 2019 3:49 am

42. CỦA THIÊN TRẢ ĐỊA

Ngày xưa, có Thiên và Địa là hai anh chàng cày thuê cuộc mướn cùng ở một làng. Họ
giống nhau ở chỗ anh nào anh ấy đều nghèo rớt mùng tơi và đều mồ côi cha mẹ.
Nhưng Thiên rất sáng dạ, bảo gì hiểu nấy. Một hôm Địa bảo hắn:
- Nếu hai ta cùng như thế này cả thì không biết bao giờ mới cất đầu lên được. Sẵn anh
là người có khiếu thông minh, nếu được học hành chắc ngày sau sẽ thi đậu làm quan
to. Vậy từ nay anh đừng đi làm nữa, tôi sẽ cố sức làm thêm để lấy tiền nuôi anh ăn
học. Lúc nào anh làm nên, đôi ta sẽ chung hưởng phú quý.
Thiên nhận lời nhưng Địa còn dặn: Lúc nào hiển đạt anh đừng có quên tôi nhé !
Rồi đó Địa trần lực đêm ngày làm thuê để nuôi bạn. Thấy Thiên học mỗi ngày một
tiến, anh chàng lại càng hăng hái làm việc, không quản gì cả. Cứ như thế sau mười
năm đèn sách, Thiên đậu khoa thi hương rồi vào thi đình đậu luôn Trạng nguyên. Hắn
được nhà vua bổ làm quan to, có kẻ hầu người hạ đông đúc, có dinh thự nguy nga,
được mọi người trọng vọng.
Được tin, Địa rất sung sướng. Lập tức, anh chàng đem trâu cày về trả chủ. Rồi anh
bán phăng cái nhà ở lấy một số tiền mua đồ lễ tìm vào dinh bạn. Địa có ngờ đâu khi
đến nơi thì Thiên đã thay lòng đổi dạ không muốn nhận lại bạn cũ nữa. Hắn dặn quân
canh cấm cửa không cho Địa vào. Địa bị đuổi tủi thân, lủi thủi ra về.
Vừa đến bờ sông, anh chàng ngồi lại, nước mắt rơi lã chã nghĩ đến lòng người đen
bạc, số phận hẩm hiu, vả bấy giờ về làng cũng không biết ở vào đâu nữa vì nhà đã
bán mất rồi. Tự dưng Bụt hiện lên làm một người khách qua đường dừng lại hỏi anh: -
"Con làm sao mà khóc?". Địa kể lể đầu đuôi cho Bụt nghe. Bụt bèn hóa phép cho anh
một chiếc đò và dặn rằng: - "Con cứ ở đây chở khách qua lại trên sông này cũng đủ
ăn, không phải đi làm thuê nữa".
Địa nghe lời, ở lại đó làm nghề chống đò ngang. Nhưng anh chàng chỉ kiếm vừa đủ
nuôi miệng, không để dành được một đồng tiền nào. Cho nên đến ngày giỗ cha chẳng
biết lấy gì mà cúng. Chiều hôm ấy, sau khi chở cho mấy người khách sang bờ bên kia,
Địa vừa chèo về đến nửa sông đã lại nghe có tiếng gọi đò. Anh lại cho đò trở lại.
Khách là một người đàn bà còn trẻ tuổi và rất xinh đẹp. Trời lúc ấy đã nhá nhem, người đàn bà nói với Địa:
Trời đã tối mà đường còn xa, anh làm ơn cho tôi nghỉ nhờ một đêm.
Nhà Địa chỉ là một túp lều nhỏ bên sông, trong nhà chỉ có một cái chõng, nhưng anh
cũng nhường cho người đàn bà ấy nằm. Thấy Địa toan đi kiếm một nơi khác ngủ,
người đàn bà bỗng hỏi anh: - "Anh đã có vợ chưa?". Địa trả lời: - "Chưa" - "Tôi xin
làm vợ anh!". Địa rất ngạc nhiên và bỡ ngỡ, không biết trả lời ra thế nào cả. Nàng lại
nói: - "Tôi là người trên cung tiên. Trời thấy anh là người tử tế mà chịu khổ chịu sở đã
nhiều rồi nên cho tôi xuống giúp anh sung sướng". Nói rồi nàng hoá phép biến túp lều
bên bờ sông thành một dinh cơ rất đẹp: nhà ngói, tường dắc, hành lang, sân gạch,
trong nhà đồ dùng thức đựng đầy đủ, kẻ hầu người hạ từng đoàn.
Địa vừa kinh lạ vừa vui sướng. Nàng tiên lại hoá phép làm ra cỗ bàn linh đình để cho
anh chàng làm giỗ cúng cha. Sáng hôm sau, nàng tiên bảo Địa hãy mặc đồ gấm vóc,
ngồi kiệu đến mời Thiên sang nhà mình ăn giỗ. Lần này Địa được Thiên tiếp đãi có
phần tử tế. Nhưng khi nghe nói mời đến nhà ăn giỗ, hắn bĩu môi bảo Địa:
- Chú muốn ta đến chơi thì hãy trải chiếu hoa từ đây đến nhà, ta sẽ đến.
Địa về kể lại chuyện cho vợ nghe. Nàng tiên lại hoá phép thành chiếu hoa trải một
đoạn đường dài từ nhà mình đến dinh Thiên ở. Thiên không ngờ trong thời gian vừa
qua Địa cũng trở nên giàu có lớn, mới đến xem cho biết sự tình. Đến nơi, hắn rất lấy
làm lạ khi thấy nhà cửa và mọi thứ đồ đạc của Địa ít có nhà nào bì kịp. Khi ăn giỗ, vợ
Địa thân hành ra mời rượu. Thấy nàng đẹp quá, Thiên đâm ra ganh tỵ với hạnh phúc
của Địa. Rượu say, hắn nói:
- Chú đổi vợ chú cùng cơ nghiệp này cho tôi thì tôi nhường chức quan cùng dinh cơ
của tôi cho chú.
Không bao giờ Địa lại muốn như thế, nhưng nàng tiên bảo nhỏ xui Địa bằng lòng. Hai
bên cùng làm tờ giao ước. Thế rồi sau đó Địa lên võng về dinh, còn Thiên say rượu
nằm ngủ một giấc ly bì. Nhưng đến sáng hôm sau, khi bừng mắt tỉnh dậy, hắn ngơ
ngác thấy mình nằm ở một túp lều bên sông. Người vợ đẹp cùng cả dinh cơ của hắn
ngày hôm qua đã biến đâu mất cả. Từ đó hắn làm nghề chống đò thay cho Địa. Còn
Địa hoá ra thông minh khôn ngoan, làm quan sung sướng mãi

Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam   Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam - Page 2 Icon_minitimeSat Feb 02, 2019 3:49 am

43. NỢ TÌNH CHƯA TRẢ CHO AI, KHỐI TÌNH MANG XUỐNG TUYỀN ĐÀI CHƯA TAN

Ngày xưa ở huyện Thanh-trì có một anh chàng học trò nghèo họ Nguyễn. Anh ta mồ
côi cha, nhà cửa sa sút. Người mẹ làm nghề chống đò ngang cố nuôi cho con ăn học.
Nhưng nghề đó không đủ nuôi cả mẹ liền con. Nhiều lúc anh ta phải nghỉ học trở về
chống đò thay mẹ tuổi già sức yếu. Nhà anh ta là một túp lều dựng bên sông. Anh có
giọng hát rất hay lại rất đẹp trai làm cho những cô gái vùng đó phải say mê ngây ngất.
Ở bên kia sông có nhà phú ông họ Trần. Phú ông có một cô gái chưa chồng. Thỉnh
thoảng cô gái vẫn gặp anh chàng học trò chống đò qua lại cho khách bộ hành. Thấy
người hàn sĩ trẻ tuổi, nàng đâm ra quyến luyến. Nhất là những buổi chiều hè, nghe
tiếng hát của anh văng vẳng bên sông, nàng không thể cầm lòng được. Một hôm nàng
đánh bạo nhờ một con nhài thân tín mang một cái trâm và một chiếc quạt đến tặng
người mà mình thầm mơ trộm tưởng. Nàng còn dặn chàng cứ nhờ người đến dạm hỏi,
đã có mình tay trong, việc hôn nhân chắc thế nào rồi cũng sẽ thành.
Anh chàng nhận được tặng vật vừa mừng vừa lo. Anh ta thưa lại với mẹ để nhờ mẹ
tìm cách lo liệu. Bà mẹ bảo con:
- Con đừng có chơi trèo, mang lấy một tiếng cười vô ích.
Nhưng anh ta thì rất tin tưởng:
- Mẹ cứ cố liệu cho con đi. Cô ấy đã thương con thì dù có một trăm chỗ lệch cũng kê
được bằng mẹ ạ.
Bà mẹ chiều con, nhờ một người khéo ăn khéo nói mang trầu cau sang thưa chuyện.
Khi phú ông vừa nghe người mối ngỏ lời cầu thân, vẻ khinh thị đã hiện ra trên nét
mặt. Hắn không đợi hỏi ý con gái, trả ngay lễ vật lại. Người mối nói: - "Thưa cụ, anh
chàng họ Nguyễn bẩm tính thông minh và khôi ngô". Hắn đáp một cách mỉa mai: -
"Con gái tôi ngu đần, xấu xí, đâu dám sánh duyên với người tài mạo tót vời". Người
mối vẫn bền chí ngồi lại, nhắc đến tương lai tốt đẹp của đôi vợ chồng một khi chàng
trai hiển đạt. Nhưng phú ông vẫn gạt đi:
- Con gái của tôi không có số làm bà đâu, đừng nhiều lời vô ích.
Rồi hắn đuổi khéo người mối về với câu thách:
- Muốn lấy con gái ta hãy mang ba trăm lạng vàng đến làm sính lễ.
Nghe người mối kể lại anh chàng vừa buồn vừa thẹn. Qua ngày hôm sau, anh ta thưa
với mẹ:
Mẹ cứ tin ở con, con sẽ đi lập nghiệp để kiếm tiền về cưới vợ cho mẹ xem.
Nói rồi bỏ nhà đi biệt.
Lại nói chuyện cô gái phú ông thấy cha không thuận lấy làm buồn rầu, chưa biết tính
thế nào. Đang cơn phiền muộn lại nghe tin người yêu đi mất, nàng vô cùng chua xót.
Nàng đâm ra tưởng nhớ anh chàng chống đò không có cách gì nguôi được. Dần dần vì
thế sinh bệnh. Phú ông cố tìm thầy chạy thuốc nhưng người nàng ngày một gầy mòn.
Nụ hoa mới nẩy cành không ngờ đã sớm héo tàn và rơi rụng. Phú ông thương tiếc sai
người hỏa táng theo như lời trối của con. Khi gạt đống tro của người bạc mệnh, người
ta tìm được một khối bằng cái đấu, đỏ như son và trong suốt như thủy tinh. Phú ông
đưa về rồi sau đó thuê thợ tiện tiện thành chén trà dùng làm đồ thờ con gái. Mỗi lần
pha nước vào chén trà, người ta thấy có bóng anh con trai chống đò ngang ở trong đó.
Biết là con gái chết vì tương tư anh học trò khó đến hỏi ngày nọ, phú ông rất lấy làm
hối hận.
Anh chàng họ Nguyễn cất chân ra đi với hai bàn tay trắng. Trải qua khá nhiều ngày
gian truân, cuối cùng anh làm môn khách cho một ông quan trấn tướng của triều đình
đóng ở Cao-bằng. Anh là người có nhiều tài nên dần dần lấy được lòng tin cậy của
chủ. Anh đã giúp chủ nhiều việc quan trọng ở biên thuỳ rất đắc lực, và cũng do đó
kiếm được rất nhiều tiền. Sau ba năm anh đã để dành được 300 lạng vàng. Thấy trong
tay đã có đủ tiền để cưới người yêu, một hôm anh xin phép trấn tướng trở về quê
hương.
Trên đường về, anh chàng họ Nguyễn lòng mừng khấp khởi. Không ngờ khi về đến
nhà thì nghe tin người yêu đã không còn nữa. Anh sang nhà phú ông, nước mắt đầm
đìa cả tay áo gấm. Phú ông hết lời từ tạ rồi đưa chén trà cho anh xem. Nghe kể
chuyện, anh chàng lại càng thổn thức. Nhưng khi những giọt nước mắt rơi vào chén,
chén tự nhiên tan ra huyết ướt đẫm cả tay.
Từ đó xuất hiện câu ca dao:
Nợ tình chưa trả cho ai,
Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan

Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam   Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam - Page 2 Icon_minitimeSat Feb 02, 2019 3:50 am

44. NỢ NHƯ CHÚA CHỔM

Vào thời nhà Lê, có một ông quan lớn trong triều tên là Mạc Đăng Dung có chí muốn
cướp ngôi vua. Nhà vua biết được tin đó nhưng thế lực của Mạc rất lớn, ông ta cầm
binh quyền, bè đảng lại đông nên không thể làm gì được. Cuối cùng nhà vua cất lẻn
trốn đi nhưng chẳng được bao lâu đã bị Mạc Đăng Dung bắt đem về giam lại.
Hồi ấy ở trại giam có một cô hàng rượu vẫn thường gánh rượu đến bán cho lính canh
ngục. Một hôm, cô hàng đưa rượu vào bán, thấy có một phạm nhân mới mặt mũi khôi
ngô bị giam riêng ra một nơi. Khi biết người đó làm vua, cô hàng có ý muốn làm
quen. Mỗi lần bán rượu cho ngục tốt nàng đều rót rượu cho vua uống. Dần dà giữa hai
người một mối tình nhóm lên. Một hôm cô hàng cất một mẻ rượu rất ngon lại có pha
thuốc mê đem đến chuốc cho quân canh. Chờ cho họ nằm gục xuống, nàng bèn vào
tình tự với vua.
Từ đó cô hàng rượu có thai. Nhà vua biết mình không thoát khỏi bàn tay tàn bạo của
Mạc, bèn giao ấn ngọc lại cho nàng và nói:
Nàng hãy giữ vật này làm tin, nếu sau này đẻ con trai, sẽ có ngày nó phục thù cho
cha.
Không bao lâu, nhà vua quả bị họ Mạc sai người vào ngục giết chết. Tất cả hoàng hậu,
thái tử, công chúa, phi tần của vua đều chịu chung số phận. Xong việc đó, Mạc chiếm
lấy ngôi Lê làm vua nước Đại Việt.
Cô hàng rượu được tin không còn hồn vía nào nữa. Nàng trốn đi nơi khác làm thuê
làm mướn, sống một cuộc đời lẩn lút. Đủ ngày đủ tháng, nàng sinh được một người
con trai đặt tên là Chổm. Lớn lên, Chổm được vào chùa ở với sư cụ Thạch Toàn học
kinh kệ. Hắn rất sáng dạ nhưng phải cái nghịch ngợm thì không ai bằng.
Một hôm đi chơi về đói, Chổm thấy trước tượng Mụ Thiện có bày một mâm bồng đầy
chuối và quýt. Anh chàng rón rén đến bệ, bịt mắt Mụ Thiện lại và bẻ chuối ăn. Bất đồ
sư cụ ở đâu đi vào trông thấy liền nọc cổ Chổm ra đánh. Chổm tức lắm, chờ lúc sư đi
vắng lấy giấy viết mấy chữ "Mười tay mười mắt không giúp được gì cho ta. Thật là vô
ích. Phải đày đi phương xa". Viết xong dán vào ngực Mụ Thiện. Đêm hôm ấy sư cụ tự
nhiên mộng thấy Mụ Thiện bảo mình rằng: - "Nhà vua đói nên mới ăn, sao lại đánh
ngài để ngài đuổi ta đi? Phải mau mau tìm cách xin lỗi ngài, để ngài tha cho ta". Tỉnh
dậy, sư cụ rất phân vân, mới gọi chú tiểu Chổm vào kể chuyện cho biết và bảo bóc
giấy đi. Sư cụ hỏi anh chàng: - "Cha mày đâu?". Chổm đáp: - "Tôi lớn lên chưa từng
nghe nói có cha".
Sau đó Chổm trở về hỏi mẹ: - "Cha con đâu?". Mẹ sợ không dám nói sự thật cho con
biết, đáp: - "Cha con là họ Lê, bị hổ ăn thịt chết rồi". Nghe nói Chổm rất buồn. Từ
hôm đó anh chàng lập tâm giết hổ để báo thù cho cha.
Một hôm, Chổm vào rừng chơi, thấy một con hổ đang ngủ dưới gốc cây, liền rón rén
cầm một hòn đá lớn ném mạnh vào đầu hổ, hổ vỡ óc chết tươi. Đang nắm đuôi hổ lôi
về thì Chổm bỗng gặp một con hổ khác xông ra. Chổm sợ quá, quẳng xác hổ cắm đầu
chạy. Nào ngờ khi hổ sắp đuổi kịp thì tự nhiên có một ông già tay cầm côn sắt ở trong
rừng hiện ra đánh chết con hổ dữ. Chổm thoát chết, sụp lạy ông già. Ông già trao cho
chàng cái côn, bảo: - "Con hãy học một ít miếng võ để mà hộ thân". Chổm sung
sướng vâng lời. Dạy xong, ông già cho Chổm cái côn rồi đi mất.
Từ đó, Chổm dùng côn làm vũ khí tùy thân. Một hôm đi qua một cái miếu, nghe đồn
có nhiều yêu quái hại người, Chổm bèn cầm côn trèo tường nhảy vào tìm yêu quái.
Một lát, ở trong hang sâu bò ra một con rắn lớn mắt sáng như sao, miệng phun khí
độc toan vồ lấy Chổm. Chổm giơ thần côn vụt lấy vụt để vào đầu rắn. Rắn chết, từ đó
trong xóm được yên ổn.
Hai mẹ con Chổm về sau thấy yên lại trở về chốn cũ. Hàng ngày anh chàng đi kiếm
củi hoặc làm thuê làm mướn nuôi mẹ. Những lúc bụng đói, Chổm thường vào ăn cơm
hay mua thức ăn ở các quán cơm tại cửa ô. Hàng nào được Chổm vào ăn cơm là hôm
đó bán đắt như tôm tươi, còn các hàng khác chỉ ngồi xua ruồi. Người ta cho là Chổm
nhẹ vía nên hàng nào cũng muốn mời anh ta vào ăn, dù bán chịu cũng được. Chổm
được thể ngày nào cũng đánh chén loang toàng và tiêu pha bạt mạng. Toàn là ăn chịu,
mua chịu. Ai hỏi nợ, hắn đều bảo:
- Đến ngày tôi làm nên, sẽ xin trả chu tất.
Hồi bấy giờ có một vị quan tên là Nguyễn Kim trốn sang Lào mưu đồ việc diệt Mạc.
Vua nước Lào nhường cho ông miếng đất Sầm-châu làm căn cứ để lo việc khởi nghĩa.
Qua mấy năm chiêu binh mãi mã, Nguyễn Kim đã gây dựng được lực lượng. Nhưng
ông ta còn muốn tìm một người thuộc dòng chính thống để bá cáo với thiên hạ. Khốn
nỗi, con cháu vua Lê đã bị Mạc giết hại hầu hết. Một đêm nọ Nguyễn Kim thấy một vị
thần nhân hiện ra trong giấc mộng bảo ông: - "Thiên tử ra đời đã lâu, sao không đón
về, còn chờ gì nữa?". Ông hỏi: - "Ở đâu?". - "Cứ đi về phía Tây kinh thành, ở dãy
hàng cơm đúng ngày thìn giờ ngọ, hễ thấy rồng đen quấn cột là chính thị thiên tử".
Sau khi tỉnh dậy, Nguyễn Kim rất mừng, bèn mang theo một ít bộ hạ cải trang đi tìm
con cháu nhà Lê theo như lời thần nhân đã mách. Hôm đó, Chổm đang ngồi ở hàng
cơm, thấy có người khách lạ đi qua bèn đứng ôm lấy cột nhìn ra. Nguyễn Kim rảo qua
một lượt chỉ thấy quấn cột là một chàng trai trẻ tuổi, da đen sì, nhưng thấy dáng điệu
hèn hạ nên cũng không để ý.
Đêm hôm đó Nguyễn Kim lại mộng thấy thần trách: - "Ta đã mách cho biết thiên tử
mà không nghe. Ngày mai ra bờ sông, hễ thấy ai đội mũ sắt, cưỡi thuyền rồng là
đúng". Ngày mai Nguyễn Kim chực ở bờ sông nhìn những thuyền bè qua lại, nhưng
chờ mãi chẳng thấy ai đội mũ sắt cả. Mãi đến gần tối có một chuyến đò ngang, trong
đó có Chổm và một người bán chảo gang. Gặp khi trời đổ cơn mưa, Chổm không có
nón, phải mượn chiếc chảo úp lên đầu cho đỡ ướt. Nhưng Nguyễn Kim không chú ý
vì thấy y không có vẻ gì là người quyền quý. Thần lại xuất hiện trong giấc mộng của
Nguyễn Kim trách ông ta không nghe lời mình rồi bảo: -
"Ngày mai cứ đến chỗ quán cơm cũ tìm người nào "đi chữ đại, trở lại chữ vương" thì đón về".
Qua ngày sau, Nguyễn Kim và bộ hạ lại kéo nhau đi tìm. Họ quả thấy anh con trai
hôm nọ bây giờ đang rượu say nằm trong quán cơm, đầu gối lên ngọn côn, hai tay bỏ
xuôi xuống, hai chân dạng ra hai bên như chữ "đại" 大. Bỏ đi một lúc, đến lúc trở lại
họ thấy Chổm cựa mình, lúc này ngọn côn trật lên khỏi đầu, hai tay bỏ ra trước ngực
còn hai chân thì xếp bằng tròn như chữ "vương" 王. Bấy giờ Nguyễn Kim mới tin chắc
anh chàng này là người thần có ý mách cho mình, bèn giả cách vào quán ăn uống, chờ
Chổm dậy sẽ đến làm quen.
Chổm chợt tỉnh, thấy một người khăn áo có vẻ quyền quý đến sát giường mình, thì
cầm côn chực bỏ chạy. Nhưng Nguyễn Kim đã giữ Chổm lại thưa rằng:
- Xin điện hạ đừng sợ.
Chổm ngạc nhiên đáp:
- Ô hay! Điện hạ nào. Tôi là thằng Chổm đây!
Nhưng thấy người quyền quý ấy có vẻ ân cần khi hỏi thăm cha mẹ và chỗ ở, Chổm an
tâm hơn trả lời:
- Tôi họ Lê, cha bị hổ ăn thịt, còn mẹ ở nhà.
Nghe nói là họ Lê, bọn Nguyễn Kim mười phần đã chắc đến bảy tám liền theo Chổm
về đến tận nơi. Trước những người khách lạ, mẹ Chổm nửa mừng nửa sợ. Mãi đến khi
biết được thiện ý của bọn họ, bà mới đưa ấn ngọc ra và kể rõ tình đầu.
Thế là từ đó Chổm cùng mẹ từ giã ngôi nhà nát ở ngoại thành lên đường đến Sầm châu
lo việc phục thù cho cha. Thanh thế quân Lê mỗi ngày một to. Vua Mạc nghe tin
sai tướng đem sáu mươi vạn quân vào đánh. Qua bao nhiêu trận kịch chiến, quân Lê
đại thắng. Rồi không bao lâu, quân của Chổm tiến đánh ra Bắc. Quân Mạc hễ thấy
quân Lê đến đâu là chạy trốn như vịt. Bấy giờ Chổm đường đường là một vị chúa uy
thế lẫy lừng
Đến ngày khải hoàn, trở về kinh thành, khi quân gia đang trên đường tiến vào cửa ô
thì bỗng có một số người chủ hàng cơm ngày xưa bán chịu cho Chổm, từ đâu kéo ra
để chào người quen và để đòi nợ cũ. Thấy thế, bọn lính tiền đạo toan bắt tội vô lễ.
Nhưng chúa Chổm ngăn lại rồi kể chuyện ăn chịu ngày còn hàn vi cho các tướng tá
nghe. Đoạn bảo quan hầu lấy tiền ra trả cho họ. Lúc đó có nhiều người thấy kẻ kia đòi
được nợ cũng xúm lại kể ơn nghĩa cũ: kẻ tính thành năm quan, người kể thành mười,
... biến thành một cuộc truy nợ đông như đám hội. Bọn quan hầu đếm tiền mãi không
xiết vì con số chủ nợ ngày một tăng. Bọn họ bèn nghĩ ra được một kế là đứng trên
kiệu vung tiền xuống cho ai nhặt được bao nhiêu thì lấy bấy nhiêu. Mọi người thấy thế
đổ xô ra cướp. Dần dần quan quân tiến đến phố cứ như bây giờ là vườn hoa cửa Nam.
Một viên đại tướng nghĩ chúa mình sắp lên ngôi tôn mà khách nợ cứ chạy theo réo
mãi như thế này thì còn thể thống gì nữa, mới viết vào một tờ giấy hai chữ "cấm chỉ"
dán ở giữa phố và sai một toán quân đóng lại đó, ra lệnh hễ thấy ai còn đòi nợ chúa
nữa thì chém ngay. Nhờ thế, người ta mới thôi réo và thôi đuổi theo xe Chổm.
Chúa Chổm vào đến hoàng cung thì trời sắp tối. Thấy văn võ bá quan ai cũng mong
muốn mình lên ngôi ngay để yên lòng thiên hạ, Chổm bèn ngửa mặt khấn trời rằng: -
"Hỡi thượng đế, nếu tôi xứng đáng nối nghiệp nhà Lê thì xin quay mặt trời trở lại
chính ngọ, bằng không thì tôi sẽ trở về chốn cũ làm ăn, giao quyền vị lại cho người
khác". Khấn được một lúc, quả nhiên trời sắp tối bỗng sáng hẳn, mặt trời lại treo giữa
đỉnh đầu. Chổm đường hoàng bước lên làm lễ đăng quang tự xưng hoàng đế. Lễ tất,
mặt trời tự nhiên kéo một mạch về phương Tây lặn mất. Trời bỗng lại tối sầm như mực;
lúc mọi nhà vừa thắp đèn lên thì gà vừa gáy canh
Ngày nay còn có câu tục ngữ Nợ như chúa Chổm và có câu phong dao:
Vua Ngô ba mươi sáu tấn vàng
Thác xuống âm phủ chẳng mang được gì.
Chúa Chổm mắc nợ tỳ tỳ,
Thác xuống âm phủ khác gì vua Ngô.
Ở chỗ vườn hoa cửa Nam bây giờ, cũng do sự tích trên mà người ta còn gọi là "Ngã tư
Cấm chỉ"
Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam   Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam - Page 2 Icon_minitimeSat Feb 02, 2019 3:51 am

45. HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT

Ngày xưa, có một người tên là Trương Ba, còn trẻ tuổi nhưng đánh cờ tướng rất cao.
Nước cờ của anh chàng không mấy ai trong thiên hạ địch nổi. Bao nhiêu giải cờ trong
những hội hè mùa xuân đều về tay anh. Tiếng đồn vang khắp nước, sang đến tận
Trung-quốc. Buổi ấy ở Trung-quốc có ông Kỵ Như cũng nổi tiếng cao cờ. Khi nghe
tiếng Trương Ba, Kỵ Như liền xách khăn gói sang Nam tìm đến tận nhà tỉ thí. Hai
người đọ tài nhau mấy ván liền không phân thua được. Nhưng đến ván thứ ba, Trương
Ba dồn Kỵ Như vào thế bí. Thấy đối phương vò đầu suy nghĩ, Trương Ba kiêu hãnh
bảo:
- Nước cờ này dù có Đế Thích xuống đây cũng đừng có hòng gỡ nổi.
Bấy giờ Đế Thích là thần cờ đang ngồi trên thiên đình, bỗng nghe câu nói hỗn xược
của Trương Ba xúc phạm đến mình, liền cưỡi mây xuống trần định cho y biết tay.
Trương Ba và Kỵ Như đang đánh, chợt có một ông cụ già đến ngồi cạnh bàn cờ. Ông
cụ thủng thỉnh mách cho Kỵ Như mấy nước. Phút chốc bên Kỵ Như chuyển bại thành
thắng. Trương Ba cau có, trong bụng tức giận ông già ở đâu đến làm cho mình lâm
vào thế bí. Nhưng nhìn thấy ông cụ râu tóc trắng xóa, mặt mũi không có vẻ là người
trần, chàng chợt hiểu, liền sụp xuống lạy mà rằng: - "Ngài hẳn là thần Đế Thích đây
rồi, tôi người trần mắt thịt không biết, xin thứ lỗi". Đế Thích cười bảo: - "Ta nghe nhà
ngươi tự phụ là cao cờ nên xuống xem cho biết". Trương Ba liền giữ Đế Thích lại mua
rượu, giết gà khoản đãi rất chu tất. Đế Thích tuy mới gặp cũng rất yêu mến Trương Ba.
Thấy anh chàng khẩn khoản muốn học nước cờ của mình, Đế Thích bảo: - "Ta thấy
nhà ngươi có bụng chân thành. Vậy ta cho một nén hương này,
mỗi lần cần đến ta thì thắp lên một cây, ta sẽ xuống". Nói đoạn, cưỡi mây bay về trời.
Từ đó, Trương Ba thỉnh thoảng lại dọn cỗ mời thần Đế Thích xuống chơi. Hai bên rất
tương đắc. Nhưng một hôm Trương Ba bị cái chết mang đi một cách đột ngột. Sau khi
chôn cất chồng, người vợ dọn dẹp nhà cửa. Thấy có nén nhang dắt ở mái nhà, chị ta
vô tình lấy xuống đốt lên cắm trước bàn thờ chồng. Ở thiên đình, thần Đế Thích nhận
được tin bằng mùi hương bèn xuống ngay. Thấy vắng mặt Trương Ba, Đế Thích ngạc
nhiên:
- Trương Ba đâu?
Vợ Trương Ba sụt sùi:
- Nhà tôi chết đã gần một tháng nay rồi!
- Chết nỗi, sao lúc mới tắt nghỉ không gọi ta xuống liền, để đến bây giờ còn làm thế
nào được nữa.
Suy nghĩ một chốc, Đế Thích lại hỏi thêm:
- Trong xóm hiện nay có ai mới chết không?
Vợ Trương Ba đáp:
- Có một người hàng thịt mới chết tối hôm qua. Thần Đế Thích bảo chị ta dẫn mình
đến nhà người hàng thịt rồi bảo nhỏ với chị: - "Ta sẽ kiếm cách làm cho chồng nhà
ngươi sống lại". Nói xong thần hóa phép rồi trở về trời.
Nói chuyện trong nhà người hàng thịt lúc đó, mọi người đang xúm quanh linh sàng
khóc lóc kể lể thì tự nhiên thấy người chết ngồi nhỏm dậy. Hắn ta vất tất cả mọi đồ
khâm liệm rồi chẳng nói chẳng rằng đi thẳng một mạch về nhà Trương Ba. Vợ Trương
Ba thấy người hàng thịt biết là thần Đế Thích đã làm cho chồng mình sống lại, mừng
rỡ đón vào. Giữa lúc đó thì vợ con người hàng thịt cũng chạy theo níu lấy chồng.
Nhưng không những họ bị vợ Trương Ba giằng lại, mà ngay chính chồng họ cũng nhất
định không chịu về. Đôi bên cãi cọ nhau cuối cùng biến thành một cuộc đấu khẩu rất
kịch liệt. Xóm làng không biết phân xử ra sao, đành đem việc đó lên quan.
Quan cho đòi các nhà hàng xóm tới hỏi cung thì ai cũng bảo người sống lại đó là anh
hàng thịt. Nhưng chỉ có vợ Trương Ba thì nhất định nhận là chồng mình. Quan hỏi: -
"Chồng chị ngày thường làm nghề gì?". Đáp: - "Chồng tôi chỉ thạo đánh cờ mà thôi".
Quan lại hỏi vợ người hàng thịt: - "Chồng chị ngày thường làm nghề gì?". Đáp: -
"Chồng tôi chỉ thạo nghề mổ lợn".
Nghe đoạn, quan sai đem một con lợn vào công đường cho anh hàng thịt mổ, nhưng
anh ta lúng túng không biết làm thế nào cả. Quan lại sai mấy người giỏi cờ vào tỷ thí
với người hàng thịt thì không ngờ con người đó đi những nước cờ rất cao không ai
địch nổi. Quan bèn phán cho về nhà Trương Ba.
Vì thế mới có câu Hồn Trương Ba, da hàng thịt
Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam   Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam - Page 2 Icon_minitimeSat Feb 02, 2019 3:52 am

46. SINH CON RỒI MỚI SINH CHA SINH CHÁU GIỮ NHÀ RỒI MỚI SINH ÔNG

Ngày xưa có Giáp và Ất là hai người kết bạn với nhau. Nhà Giáp có của ăn của để,
còn Ất thì túng bấn lắm, thường phải nhờ vả Giáp. Một hôm, để có vốn, Ất nằn nì vay
của Giáp mười nén bạc rồi bán nhà cửa đưa vợ đi chỗ khác làm ăn. Đến một cái chợ
vùng Nam, hắn và vợ hắn xoay ra buôn bán và cho vay lấy lãi. Hắn rất hà tiện và chịu
khó trong mọi việc. Gặp mấy dịp may, hắn phất to, tiền của đổ về như nước. Không
đầy mươi năm, vợ chồng hắn trở nên khá giả, có cơ nghiệp lớn ở vùng đó. Tuy làm
nên, nhưng hắn cố tình quên mất người bạn cũ và số tiền nợ của bạn.
Nói chuyện Giáp, từ ngày bạn bỏ ra đi, mãi không nhận được một tin tức gì, Giáp ngờ
là bạn bị số nghèo đeo đẳng mãi chưa thôi, nên sống vất vưởng ở một nơi nào đó.
Hơn nữa, lại vì nợ của mình một số tiền nhiều chưa có cách gì trả được, nên vợ chồng
bạn không dám ghé về chơi hay nhắn tin tức gì. Nghĩ thế, Giáp rất thương bạn. Một
hôm, ông ta mang theo mấy nén bạc đánh đường đi tìm Ất, hy vọng gặp bạn để giúp
bạn thoát cơn chật vật. Giáp hỏi thăm mãi mới tìm đến nhà Ất. Ông ta ngạc nhiên và
mừng rỡ khi thấy vợ chồng bạn không phải nghèo đói sa sút như mình tưởng, mà trái
lại có nhà ngói cây mít, có ruộng đất ao chuôm, v.v... Ông nghĩ bạn mình bây giờ
không cần đến mình giúp đỡ nữa. Cho nên trước khi vào nhà, ông ta đào đất chôn số
tiền mang theo ở cổng nhà bạn.
Ất gặp bạn, ngoài mặt vui vẻ chào mừng nhưng trong bụng chỉ nghĩ đến món nợ mình
còn thiếu của bạn. Hắn vừa ngượng mặt vừa tiếc của. Tự nhiên phải bỏ ra một số tiền
lớn để trả một món nợ từ đời nảo đời nào, hắn thấy xót ruột. Nghĩ thế, hắn bỗng có
bụng muốn nuốt trôi số bạc thơm thảo bạn ứng cho làm vốn ngày xưa. Thế là đến nửa
đêm, hắn đánh thức vợ dậy, bàn với vợ. Được vợ đồng tình, hắn làm ngay. Nhân lúc
Giáp ngủ say ở nhà ngoài, cả hai vợ chồng lén tới cầm dao đâm chết. Đoạn hắn và vợ
hắn mang xác Giáp bí mật đào lỗ chôn dưới một gốc khế sau vườn.
Cây khế nhà Ất từ đó tự nhiên xanh tốt rườm rà hơn trước. Nhưng lạ thay năm ấy chỉ
có một quả rất lớn. Hai vợ chồng có hơi ngạc nhiên nhưng cũng chẳng mấy quan tâm.
Khi quả khế chín, vợ Ất hái ăn. Và trong năm đó, vợ Ất có thai, đến kỳ sinh ra một
đứa con trai. Vì hiếm con nên Ất rất mừng khi thấy thằng bé khôi ngô và chóng lớn.
Nhưng đứa con của hắn có một tật câm, lên 7 tuổi mà không biết nói, làm cho 2 vợ
chồng hết sức lo buồn. Ất cố tìm thầy chạy thuốc, lễ chùa lễ đền nhưng đều vô hiệu.
Một hôm vợ Ất xới cơm cho con, nhân than với con rằng:
- Con ôi! Mẹ mong con khôn lớn để học hành đỗ đạt cho cha mẹ mở mày mở mặt.
Sao con chẳng nói chẳng rằng làm cho mẹ khổ.
Tự nhiên thằng bé bật ra một câu: - "Mẹ cứ mời một ông quan về đây, ông ta sẽ làm
cho con nói được".
Thế rồi nó lại nín bặt, hỏi mấy cũng không nói nữa. Túng thế, hai vợ chồng Ất nghe
lời con, sắm lễ vật đi mời quan huyện về xem thử thế nào.
Nể lời mời mọc khẩn khoản của hai vợ chồng, quan huyện cho sắp võng, dắt một
đoàn lính tráng theo hầu về thẳng nhà Ất. Thằng bé thấy mặt quan quả nhiên nói
được. Nó tự xưng là Giáp, kể hết tình đầu cho mọi người nghe: nào cho Ất vay tiền,
nào mang tiền đi kiếm bạn để toan giúp bạn, nào giấu tiền ở đâu, bị giết như thế nào,
v.v... Nghe thủng câu chuyện, quan huyện sai lính đào gốc khế và đào ở mé cổng nhà
Ất, quả thấy đúng như lời thằng bé.
Lập tức quan sai giam cổ vợ chồng nhà Ất lại chờ ngày ra pháp trường. Còn bao nhiêu
tài sản của tội nhân đều giao cả cho thằng bé. Và, thằng bé, vốn là Giáp tái sinh, sau
đó lại trở về nhà Giáp.
Khi Giáp ra đi, đứa cháu nội của mình mới đẻ, bây giờ thì nó đã lên 8, hơn mình một
tuổi. Vì thế mới có câu:
Sinh con rồi mới sinh cha,
Sinh cháu giữ nhà rồi mới sinh ông

Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam   Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam - Page 2 Icon_minitimeSat Feb 02, 2019 3:52 am

47. CON VỢ KHÔN LẤY THẰNG CHỒNG DẠI NHƯ BÔNG HOA LÀI CẮM BÃI CỨT TRÂU

Xưa, có một người đàn bà làm nghề dệt vải. Nàng bản tính thông minh tháo vát,
nhưng lấy phải người chồng đần độn không làm được nghề gì nên thân. Một hôm, vợ
đưa cho chồng mấy tấm vải bảo mang ra chợ bán. Vợ dặn: - "Nếu không được bốn
quan mỗi tấm thì đừng có bán, nghe!"
Chồng mang vải ra chợ đi khắp nơi, rao khản cả cổ mà chả có ai mua cả. Mãi về sau
có một ông cụ già mua cho hai tấm. Nhưng ông ta lại không mang tiền theo. Ông cụ
bảo hắn:
- Chốc nữa anh đến nhà tôi lấy tiền nhé! Nhà tôi cũng ở trong xã này thôi.
Hắn hỏi:
- Nhà ông ở đâu?
- Tôi ở chỗ: "chợ đông không ai bán, chỗ kèn thổi tò le, chỗ cây tre một mắt". Đến đó
tôi sẽ trả tiền ngay.
Đến chiều hắn đi tìm người mua hang chịu của hắn. Gặp ai hắn cũng hỏi thăm "chỗ
chợ đông không ai bán, chỗ kèn thổi tò le, chỗ cây tre một mắt" là ở đâu, nhưng
chẳng một ai biết thế nào mà trả lời. Người ta chỉ nói với hắn:
- Thôi rồi, anh mắc phải tay bịp bợm nào đấy thôi!
Hắn đi loanh quanh mãi đến tối mịt không tìm được nhà, đành phải trở về ôm mặt hu
hu khóc.
Vợ hắn hỏi tại sao thì hắn kể cho vợ nghe tất cả câu chuyện. Người vợ bảo:
- Cũng dễ tìm thôi! "Chỗ chợ đông không ai bán" là cái nhà trường, "chỗ kèn thổi tò
le" là bụi lau vì khi gió thổi nghe như tiếng kèn sáo, "chỗ cây tre một mắt" là bụi hành
hay tỏi gì đó. Vậy anh phải kiếm người đó ở một cái trường học, gần đó có bụi lau,
trước cửa có vườn trồng hành tỏi.
Qua ngày sau, anh chồng lại cất bước đi tìm. Quả đúng như lời người vợ nói, hắn gặp
ông lão hôm qua. Đó là một thầy đồ dạy học trò. Thấy hắn đến, ông đồ liền hỏi xem
nhờ ai mách cho mà biết được chỗ ở của mình. Hắn đáp: - "Tôi tìm ông suốt cả một
buổi chiều hôm qua. May nhờ có vợ tôi mách cho đấy". Ông thầy nghĩ: -"Người đàn
bà này hẳn là một cô gái thông minh tài trí, ít người sánh kịp". Hôm đó nhân nhà có
giỗ, ông đồ mời hắn ngồi lại ăn cỗ. Hắn ta cắm đầu chén một bữa no nê lại được ông
đồ gửi phần về biếu vợ. Nhưng khi trả tiền, ông đồ còn gửi hắn một gói khác bảo đưa
cho vợ. Trong đó chỉ có một cục phân trâu ở giữa có cắm một cánh hoa nhài. Hắn ta
chẳng hiểu gì cả cứ việc cầm lấy về nhà.
Người vợ trông thấy, hiểu ý ông thầy muốn mỉa mai mình:
Con vợ khôn lấy thằng chồng dại
Như bông hoa lài cắm bãi cứt trâu
Càng ngẫm nghĩ về "gói quà", nàng càng buồn bực, trách chồng dốt nát để mang về
cho mình một lời trêu chọc chua cay, rồi nghĩ tới duyên phận hẩm hiu, nước mắt nàng
lã chã. Nàng vứt cái thoi, bụng bảo dạ: - "Thân thế ta thật chả ra gì. Trên đời có bao
nhiêu người khôn ngoan tài giỏi, còn ta thì lấy nhầm phải một thằng chồng u mê đần
độn!". Trong một cơn phiền muộn, nàng chạy ra bờ sông, toan nhảy xuống dòng nước
trẫm mình cho rồi một đời.
Lại nói chuyện ông thầy dạy học, sau khi tiễn chân anh chàng bán vải ra khỏi cửa,
nghĩ đi nghĩ lại thấy sự trêu chọc ác nghiệt của mình thật là không phải. Ông đâm ra
lo câu chuyện đưa tới một kết quả không hay: - "Không biết chừng người đàn bà ấy
phẫn chí liều thân hoại thể thì ta sẽ có tội rất lớn với danh giáo". Nghĩ thế, ông đồ bèn
đi mượn một cái giỏ đựng cá thủng trôn, rồi mang ra bờ sông cùng với chiếc cần câu
làm bộ câu cá. Ông cứ men theo dọc bờ sông gần làng, đi lại trông chừng. Khi thấy
một người đàn bà ngồi trên bờ vắng đang ôm mặt khóc thút thít, ông biết ý vội tiến
đến gần, có ý chìa giỏ cho nàng thấy và nói:
- Chị này ngồi tránh đi chỗ khác cho tôi câu cá nào.
Người đàn bà đó đúng là vợ anh chàng bán vải. Nàng ngước mắt trông lên thấy có một
người đàn ông đầu đã hai thứ tóc mà lại mang chiếc giỏ rách đi câu. Nàng tự nghĩ: -
"Người nào đây ngu quá là ngu. Chồng mình tuy khờ dại nhưng cũng chưa đến nỗi
này". Rồi nàng kết luận: - "Vậy ra chồng mình vẫn còn có những chỗ hơn người".
Nghĩ vậy, nàng bỏ ý định tự tử mà trở về nhà

Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam   Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam - Page 2 Icon_minitimeSat Feb 02, 2019 3:53 am

48. CỨU VẬT VẬT TRẢ ÂN CỨU NHÂN NHÂN TRẢ OÁN

Ngày xưa, có một anh chàng không có tài nghệ gì cả, chỉ được cái hiền lành hay
thương người. Từ lúc vợ chết, anh ta trở nên túng bấn tợn. Có dạo phải ngửa tay ăn
xin. Thấy nghề này hèn hạ lại không nuôi nổi tấm thân, anh chàng mới xoay sang đi
làm thuê. Nhưng chỉ làm được một ngày anh đã thấy mệt nhọc và bị chủ la mắng nhục
nhã, nên lại dự định làm nghề đi câu là nghề anh cho là thong thả, tự do hơn. Chiều
hôm đó, người ta trả công cho ba mươi đồng kẽm. Anh chàng bèn lấy số tiền đó làm
vốn, mua lưỡi mua dây quyết chí làm ăn bằng nghề nghiệp mới.
Sáng hôm sau, anh ra ngồi ở bờ sông câu cá. Nhưng mãi đến trưa chả kiếm được một
tý gì. Mồi cứ mất toi. Mãi đến chiều mới thấy phao chìm xuống, anh giật lên thì được
một con rắn nước. Lấy làm bực mình, anh chàng gỡ con rắn ra rồi quẳng xuống sông.
Lần thứ hai giật lên thì lại chính con rắn nước hồi nãy mắc vào lưỡi.
Anh than thở với rắn: - "Rắn ôi! Tao nghèo lắm, chỉ được ba mươi đồng kẽm thôi.
Mày đừng hại tao hết cả mồi, rồi đây biết lấy gì kiếm ăn". Anh chàng lại quẳng rắn
xuống nước. Lần thứ ba cũng lại con rắn đó mắc lưỡi câu. Lần này hắn giận lắm,
không thả con rắn xuống nước nữa mà nắm lấy cổ rắn định mang đi giết. Qua cửa đền
bà thần Khai Khẩu, tự nhiên con rắn nước kêu lên:
- Đừng giết tôi, tôi là con vua Thủy phủ. Vì muốn đánh bạn với anh nên mới tự cắn
câu nhiều lần như thế. Hãy cho tôi đi theo, tôi sẽ giúp anh vượt qua cảnh nghèo.
Anh nghe lời, cho rắn theo mình. Từ đó anh câu được nhiều cá: thứ ăn, thứ bán, cuộc
sống rất dễ chịu. Anh chàng với rắn ngày một tương đắc.
Một hôm rắn cho anh biết chỉ ba ngày nữa sẽ có một trận lụt lớn xưa nay chưa từng
có. Anh nghe lời rắn đóng một chiếc bè nứa để phòng tai nạn. Anh lại còn loan báo
cho mọi người xung quanh biết. Nhưng chả một ai thèm nghe. Ba ngày sau, quả nhiên
gió bão nổi lên đùng đùng, mưa to như trút, nước dâng lên như biển cả.
Người, vật, đồ đạc và mùa màng,... đều trôi băng băng mất tích.
Mãi đến ngày cơn bão tạnh, anh mới dám chống bè tìm về chốn cũ.
Thấy một cái tổ kiến đang lênh đênh trên dòng nước, con rắn bảo anh chàng:
- Anh hãy cứu chúng nó 1 chút.
Anh trả lời:
- Vớt làm gì bầy kiến nhỏ mọn ấy để chúng bò khắp bè.
Nhưng rắn khẩn khoản:
Không, anh hãy nghe lời tôi đi. Rồi chúng nó sẽ trả ơn anh.
Nghe lời rắn, anh chàng vớt cái tổ kiến lên bè của mình.
Đi được một đoạn, lại gặp một con chuột đang lội bì bõm sắp chết đuối. Rắn lại giục
anh vớt lên. - "Ồ, - Hắn đáp - Con chuột thì cho nó chết chứ cứu nó mà làm gì" -
"Không, anh hãy nghe tôi đi. Rồi nó sẽ trả ơn anh". Nghe lời rắn, anh chàng vớt con
chuột lên bè của mình.
Đến một chỗ khác, họ lại gặp một con trăn đang nằm cuộn tròn trên một ngọn cây
giữa dòng nước đợi chết. Rắn cũng giục anh giúp trăn thoát nạn. - "Ồ - hắn đáp - Con
trăn kinh lắm, cứu nó mà làm gì?" - "Không, anh hãy nghe tôi đi. Rồi nó sẽ trả ơn
anh". Nghe lời rắn, anh chàng lại giúp cho con trăn lên bè.
Sau cùng họ gặp một người đàn ông đang bám vào một cây gỗ nổi bập bềnh giữa
dòng nước. Anh không đợi rắn bảo, định vớt lên bè, nhưng con rắn cản lại:
- Anh đừng vớt nó lên làm gì, nó sẽ làm hại anh đấy.
Anh đáp:
- Người ta thường nói cứu một người dương gian bằng một ngàn âm ty. Sao lại chỉ cứu
vật mà không cứu người kia chứ.
Nói đoạn, mặc kệ lời rắn can ngăn, anh nhất định thực hiện ý nghĩ của mình, vớt
người sắp chết đuối đó lên bè, cho sưởi lửa ấm và cho ăn uống tử tế.
Sau mấy ngày nước rút đi hết, anh thả tất cả những con vật lên bờ. Còn người nọ vì
gia đình phiêu bạt, nhà cửa trôi mất cả nên anh cho ở lại với mình cùng câu cá nuôi
nhau và coi như em ruột.
Đến lúc con rắn nước trở về Thủy phủ thì nó mời anh cùng đi theo xuống giang sơn
của cha mình. Dọc đường, rắn bảo bạn: - "Nếu cha tôi có cho gì thì anh nhớ đừng
nhận, mà chỉ xin lấy cây đàn thất huyền. Đàn ấy nếu có giặc, gảy một bài là có thể làm
cho giặc phải tan". Vua Thủy thấy có bạn của con tới chơi lấy làm mừng rỡ, đãi anh
chàng rất hậu. Khi vua Thủy sai quân hầu mang vàng bạc châu báu đến biếu, anh nhớ
lời rắn cố khước từ, chỉ xin có mỗi một chiếc đàn thất huyền. Vua Thủy nể chàng,
thuận cho ngay. Anh trở về cõi đất, quý chiếc đàn vô hạn.
Một hôm anh có việc phải đi xa. Trước khi đi, anh giấu chiếc đàn thần dưới cót thóc,
dặn người bạn chớ có bén mảng đến chỗ cót thóc đó. Nhưng người kia nghe dặn, đồ
rằng dưới ấy tất có vật quý bèn cố công kiếm tìm, quả bắt được cây đàn. Hắn đã biết
sự mầu nhiệm của cây đàn ấy bèn lấy trộm rồi trốn đến kinh đô để lập công danh.
Hồi ấy quân đội nhà vua phải đối địch với một nước láng giềng luôn luôn kéo quân
sang quấy nhiễu bờ cõi. Hắn vào xin vua đi tiễu trừ giặc dữ. Nhờ có chiếc đàn thần,
hắn đã làm cho quân đội của đối phương thua liểng xiểng. Lúc thắng trận trở về, hắn
được nhà vua hết lời khen ngợi, phong làm đại tướng, ban lộc rất hậu. Được giàu
sang, hắn không còn nghĩ gì đến ân nhân của mình nữa. Nhà vua toan gả con gái cho
đại tướng nhưng vừa hứa hôn thì bỗng dưng công chúa bị câm. Vì thế hôn lễ đành
phải hoãn lại chờ lúc công chúa lành bệnh mới cử hành.
Lại nói chuyện anh chàng câu cá, khi trở về thấy mất bạn lại mất cả cây đàn thất
huyền thì vội bỏ nhà đi tìm. Vào đến kinh đô, một hôm anh gặp người kia bây giờ
đang ngồi trên kiệu sơn son thiếp vàng, có quân gia theo hầu đông nghịt. Anh đón
kiệu lại, cất tiếng hỏi thăm bạn cũ. Nhưng người kia vừa gặp ân nhân của mình đã vội
thét lính bắt trói lại. Thế rồi, để khỏi lộ chuyện, hắn vu cho anh làm giặc, sai nhốt một
chỗ kín đáo, không cho ăn, để chờ ngày đưa ra pháp trường.
Trong ngục tối, giữa khi anh chàng đang than thân trách phận thì bầy kiến ngày xưa
đã tìm được cách lọt vào hỏi thăm: - "Tại sao ông bị giam ở đây?". Anh chàng ngơ
ngác không hiểu tiếng ai hỏi mình, bèn hỏi lại: - "Ai đó? Tại sao tôi chỉ nghe tiếng mà
không thấy người?" - "Chúng tôi là bầy kiến mà ông cứu khỏi nạn lụt ngày xưa, hiện
đang ở dưới chân ông đây." Anh chàng cúi xuống tìm kiến rồi kể chuyện cho kiến
nghe nông nỗi của mình. Kiến nói: - "Chúng tôi không thể làm được gì nhưng để
chúng tôi đi kiếm con chuột ngày ấy, may chuột có kế gì chăng".
Lũ kiến bèn chia nhau mỗi con một phương đi kiếm chuột và báo tin không may của
ân nhân cho chuột biết. Chuột bảo: - "Bây giờ chắc ông ấy đói lắm, để tôi mang vào
ngục một ít thức ăn đã. Rồi tôi sẽ đi kiếm con trăn xem thử nó có mưu mẹo gì chăng".
Chuột liền đưa khoai và bánh lấy trộm được của một nhà hàng vào ngục cho anh
chàng ăn. Anh tỏ lời cảm ơn. Rồi cả gia đình nhà chuột lại kéo nhau đi tìm trăn. Lúc
sắp đến nhà trăn, cả bầy chuột sợ trăn ăn thịt bèn trèo lên cây cao gọi xuống: - "Bác
trăn ơi! Bác trăn ơi!" Khi trăn ra, một con chuột già đánh bạo đánh bạo xuống kể
chuyện cho trăn biết. Trăn nhả ra một viên ngọc bảo chuột đưa về cho ân nhân mà
rằng: - "Viên ngọc này mài ra thành bột có thể chữa lành câm. Ân nhân của chúng ta
có thể đem chữa bệnh cho công chúa và nhờ đó mà thoát nạn".
Khi được ngọc, anh chàng gọi người cai ngục đến nói mình có phép cứu công chúa
khỏi câm. Người ta dẫn anh đến trước vua. Quả nhiên sau khi công chúa uống nước
ngọc mài bỗng nói được, và câu đầu tiên của nàng là đòi lấy người cứu mình làm
chồng. Vua rất khen ngợi, hỏi anh ta làm sao có thứ thuốc thần diệu đến thế.
Anh chàng kể lại đầu đuôi câu chuyện, từ lúc câu được rắn, cứu được các con vật và
người, cho đến lúc bị người phản bội, còn các con vật lại tìm cách trả ơn, trong đó có
con trăn cho mình viên ngọc quý. Vua nghe xong tắc lưỡi: - "Thật là bụng dạ con
người sâu hiểm hơn cả những con vật nguy hiểm". Lập tức vua sai lính bắt giam tên
đại tướng bất nghĩa kia để chờ ngày phán xử. Còn anh chàng đi câu được vua cho làm
quan và gả công chúa. Anh ta sống một cuộc đời sung sướng hơn trước [1] .
Ngày nay, câu Cứu vật vật trả ơn, cứu nhân nhân trả oán dùng để mỉa mai những
người lấy oán trả ân, thua kém cả loài vật.

Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam   Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam - Page 2 Icon_minitimeSat Feb 02, 2019 3:53 am

49. ĐỨA CON TRỜI ĐÁNH HAY LÀ TRUYỆN TIẾC GÀ CHÔN MẸ

Xưa có một người đàn ông tính rất vũ phu. Đối với vợ con, hơi động một tý là hắn
đánh đập không tiếc tay. Hắn ham chơi gà chọi, ham đến nỗi trên đời ngoài gà ra, hắn
cho không còn thú gì tiêu khiển hơn thế được. Lần đó hắn mua được một con gà thật
tốt. Con gà ấy có nước đá rất hay, đã từng đoạt được nhiều giải. Hắn quý gà vô cùng,
chăm sóc từng ly từng tý một.
Một hôm hắn đi chơi xa, dặn vợ ở nhà trông nom con gà cho mình. Hắn dọa:
- Mạng của nó tức là của mày đó!
Ngày hôm đó gà mấy lần chạy ra ăn đỗ phơi ở sân. Người vợ ngồi chặt củi gần đấy
đuổi mãi không được. Một lần, sẵn con dao chặt củi, chị cầm ném đuổi gà. Không
ngờ dao trúng vào cổ, con gà giãy lên đành đạch, một lát thì chết.
Thấy con gà cưng của chồng chẳng may vì mình mà chết, người vợ xanh cả mặt. Nghĩ
đến những trận đòn của chồng, nàng gạt nước mắt khóc. Nàng bảo mẹ chồng:
- Con không may đánh chết gà. Chồng con về chắc sẽ không để yên cho nào. Nhưng
con đã có mang được bốn tháng nay, biết làm sao bây giờ?
Bà cụ đáp:
- Con đừng lo, để mẹ nhận là mẹ ném cho. Chả nhẽ nó lại ăn thịt mẹ nó hay sao?
Người chồng trở về, vừa bước chân vào nhà đã hỏi vợ:
- Con gà đâu?
Người vợ run rẩy chưa kịp đáp thì người mẹ đã bảo:
- Tao nhỡ tay trót ném chết nó. Rồi ta sẽ đền tiền cho mày mua con khác.
Hắn ta nổi giận đùng đùng, hất hàm hỏi vợ:
- Mày thổi cơm mau mau cho bà ấy ăn no đi!
Cả nhà tưởng hắn dọa dẫm bà cụ. Nhưng cơm nước xong hắn cầm thuổng đi trước,
bảo vợ lấy dây trói tay mẹ lại, dắt đi sau. Ra đến cánh đồng, hắn hì hục đào một cái
huyệt, quyết định chôn người đã làm chết con gà quý của mình. Nhưng ở trên thiên
đình, Ngọc Hoàng đã thấy hết được tội ác của thằng con bất hiếu, liền sai Thần Sét
xuống trị tội ngay. Vì thế, huyệt vừa đào xong bỗng đâu trời nổi một cơn gió lớn, giữa
đồng có một tiếng nổ rất to. Thần Sét đã nhảy xuống từ khi nào, đánh hắn ngã xuống
một bên huyệt và thích mấy chữ vào mặt.
Thiên hạ nghe tin đồn đổ xô đến xem rất đông. Khi quan về khám, sai lấy dấm bôi
vào mặt, thấy nổi lên tám chữ "Quý gà chôn mẹ, tội ác không tha". Ngày nay ở vùng
Bắc-ninh có còn cái bia ghi câu chuyện trên . Câu rủa Con trời đánh cũng là do truyện ấy mà có.

Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Sponsored content





Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam   Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam - Page 2 Icon_minitime

Về Đầu Trang Go down
 
Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam
Về Đầu Trang 
Trang 2 trong tổng số 3 trangChuyển đến trang : Previous  1, 2, 3  Next

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
Nhanbkvn 2024 :: THƯ VIỆN SÁCH TRUYỆN :: Truyện Cổ Tích-
Chuyển đến