Nhanbkvn 2024
Chào Mừng Các Bạn Tham Gia Và Chia Sẽ Tại Diễn Đàn Nhanbkvn
Nhanbkvn 2024
Chào Mừng Các Bạn Tham Gia Và Chia Sẽ Tại Diễn Đàn Nhanbkvn
Nhanbkvn 2024
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Nhanbkvn 2024

Chia Sẽ Không Giới Hạn
 
Trang ChínhTrang Chính  Sự kiệnSự kiện  Latest imagesLatest images  PublicationsPublications  Tìm kiếmTìm kiếm  Đăng kýĐăng ký  Đăng NhậpĐăng Nhập  

 

 Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam

Go down 
Chuyển đến trang : 1, 2, 3  Next
Tác giảThông điệp
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam Empty
Bài gửiTiêu đề: Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam   Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam Icon_minitimeFri Feb 01, 2019 5:49 pm

Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam Kho-ta10

1. SỰ TÍCH DƯA HẤU

Ngày xưa có một người trẻ tuổi tên là Mai An Tiêm. Chàng là người ở một nước đâu
tận vùng biển phía Nam, bị bán làm nô. Một hôm, chàng bị bọn lái buôn chở đến bán
cho Hùng Vương. Mai An Tiêm học nói tiếng Việt rất chóng. Chàng nhớ nhiều
chuyện, biết nhiều điều thường thức, lại lắm tài nghề. Càng ngày vua càng yêu dấu,
không lúc nào rời. Năm ba mươi lăm tuổi, chàng làm quan hầu cận, có một ngôi nhà
riêng ở gần cung vua. Vợ Mai là con gái nuôi của vua đã sinh được một trai lên năm
tuổi. Mai có đủ mọi người hầu hạ, trong nhà của ngon vật lạ không thiếu thứ gì. Tuy
oai quyền không lớn lắm nhưng chàng được mọi người sợ phục. Nhiều kẻ vẫn thường
lui tới cầu cạnh. Nhưng thấy Mai có địa vị cao, cũng không hiếm gì những kẻ sinh
lòng ghen ghét.
Một hôm, trong một bữa tiệc đãi các quan khách, giữa lúc mọi người không ngớt lời
xưng tụng mình, Mai An Tiêm nhún nhường bảo họ:
- Có gì đâu! Tất cả mọi thứ trong nhà này đều là vật tiền thân của tôi cả!
Mai nói rất tự nhiên. Bởi vì tôn giáo xứ sở chàng bảo rằng cái sướng cái khổ hiện tại là
kết quả của sự ăn ở tốt hay xấu của tiền kiếp. Nhưng trong số người dự tiệc có mấy
viên quan hầu gần vua, vốn ghét chàng từ lâu. Chụp lấy câu nói mà họ cho là ngạo
mạn đó, họ bèn vội vàng về tâu cho vua biết.
Vua Hùng nghe nói vô cùng giận dữ. Vua gầm lên:
- Chà! Thằng láo! Hôm nay nó nói thế, ngày mai nó còn tuôn ra những lời bất kính
đến đâu. Quân nô lệ phản trắc! Giam cổ nó lại cho ta!
Buổi chiều hôm ấy, Mai bị bắt bỏ vào ngục tối. Bấy giờ chàng mới hiểu chàng lỡ lời.
Mai tự bảo: - "Nếu từ nay trở đi ta bị đày đọa là vì kiếp trước ta đã cư xử không phải".
Trong khi đó thì ở triều, các quan họp bàn để xử án Mai. Nhiều người đề nghị xử tử.
Có người đề nghị cắt gót chân. Nhưng lời tâu của một ông quan già làm cho Hùng
Vương chú ý:
Hắn bị tội chết là đúng. Nhưng trước khi hắn chết ta nên bắt hắn phải nhận ra một
cách thấm thía rằng những của cải của hắn đây là do ơn trời biển của bệ hạ chứ chả
phải là vật tiền thân nào cả. Tôi nghe ngoài cửa Nga-sơn có một hòn đảo. Cho hắn ra
đấy với một hai tháng lương để hắn ngồi ngẫm nghĩ về "vật tiền thân" của hắn trước
khi tắt thở.
Vua Hùng gật đầu chấp thuận. Nhưng sau khi ra lệnh, vua còn dặn: - "Cho hắn lương
vừa đủ dùng trong một mùa, nghe không".
Hôm đi đày, tuy ai nấy hết lời can ngăn nhưng vợ Mai An Tiêm vẫn nhất quyết theo
chồng ra hải đảo. Nàng bồng cả con trai đi theo. Tất cả mọi người đều cho là việc rồ
dại. Còn nàng thì tin ở lời chồng: - "Trời sinh voi trời sinh cỏ. Lo gì!".
Nhưng khi bước chân lên bãi cát hoang vu mịt mù, người thiếu phụ đó cũng không
ngăn nổi cảm giác tủi thân, nức nở gục vào vai chồng:
- Chúng ta đành chết mất ở đây thôi.
Mai ôm con, bảo vợ:
- Trời luôn luôn có con mắt. Cứ phấn chấn lên. Đừng lo!
Hơn một tháng đầu, đời sống của vợ chồng đã tạm ổn. Nhà ở thì chui trong hốc đá đã
được đan phên che sương gió. Nước uống thì đá có suối. Muối không có thì đã có
nước biển. Nhưng còn việc kéo dài sự sống? Hai vợ chồng nhìn vào bồ gạo đã vơi: -
"Nếu chúng ta có được một nắm hạt giống thì quyết không lo ngại gì cả".
Tự nhiên, một hôm có một đàn chim lớn bay từ phương Tây lại, đậu đen ngòm cả một
bãi cát. Rồi chúng bay đến trước mặt hai vợ chồng kêu váng cả lên, thả xuống năm
sáu hạt. Ít lâu sau từ những hạt ấy mọc ra một loại cây dây bò lan xanh um cả bãi. Dây
bò đến đâu, những quả xanh non mơn mởn nhú ra đến đấy. Ít lâu sau nữa, vợ chồng
ra xem thì quả nào quả ấy đã lớn lên như thổi, da xanh mượt, tròn to bằng đầu người.
Mai trẩy một quả, bổ ra thấy ruột đỏ hồng, hạt đen nhánh. Vợ chồng con cái cùng
nếm thấy vị thanh thanh dịu ngọt. Càng ăn càng mát đến ruột gan. Mai reo lên:
- Ồ! đây là thứ dưa lạ, chưa từng thấy bao giờ. Hãy gọi nó là dưa Tây, vì thứ dưa này
được bầy chim đưa từ phương Tây lại, từ đất liền ra cho chúng ta. Trời nuôi sống
chúng ta rồi!
Từ hôm đó hai vợ chồng cố trồng thêm cho thật nhiều dưa. Họ trù tính ăn dưa thay
cơm để đỡ phải dùng số gạo đã gần kiệt.
Một hôm vợ chồng Mai bắt gặp một chiếc thuyền đánh cá đi lạc ra đảo. Sau khi giúp
họ sửa buồm lái để trở về đất liền, Mai còn đưa biếu một số dưa để họ đưa về cho mọi
người nếm thử. Mai bảo họ chở gạo ra đổi lấy dưa. Chỉ cách mấy ngày, con thuyền thứ
nhất đã đến cắm neo ở bến, chở ra cho hai vợ chồng khá nhiều gạo. Hai bên y ước:
một bên nhận lấy số gạo còn một bên xếp dưa xuống thuyền.
Từ đó trở đi, bữa ăn của họ đã khác trước. Ngồi bên nồi cơm trắng hơi lên nghi ngút,
vợ Mai ôm lấy con, lẩm bẩm: - "Trời nuôi sống chúng ta thực!" Cũng từ hôm đó, vợ
chồng trồng thêm nhiều dưa nữa. Kết quả là thuyền buôn có, thuyền chài có, lũ lượt ra
đỗ ở hải đảo đưa gạo, áo quần, gà lợn, dao búa, lại có cả các thứ hạt giống khác, để
đổi lấy dưa.
Những người trong thuyền nói với Mai:
- Thật quả từ xưa chưa hề có loại dưa nào quý đến thế. Ở vùng chúng tôi ai cũng ao
ước được nếm một miếng thứ "dưa hấu" này dù phải đổi bao nhiêu gạo cũng không
tiếc.
Ngày ấy người ta tranh nhau mua dưa lấy giống cho nên chỉ trong vài ba năm giống
dưa lan tràn khắp nơi. Tên tuổi vợ chồng Mai An Tiêm được truyền đi xa rộng. Dân
gọi tôn là "Bố cái dưa Tây".
Lại nói chuyện vua Hùng một hôm la rầy viên quan hầu đã vì dốt nát để thợ dựng
hỏng một ngôi nhà. Vua buột miệng than thở - "Phải chi có Mai An Tiêm thì đâu đến
nỗi". Ngày hôm đó vua nhắc mãi đến chàng. Đã hai lần vua cho hỏi Lạc hầu xem hiện
giờ Mai đang làm gì ở đâu. Lạc hầu đáp liều: - "Chắc hắn không còn nữa!".
Nhưng vua không tin. Vua sai ngay một tên nô khác cấp cho lương ăn và thuyền để
hắn vào châu Ái tìm Mai An Tiêm. Một tháng sau, hắn ta mang về cho vua một
thuyền đầy dưa Tây và nói:
- Đây là lễ vật của ông bà Mai dâng bệ hạ.
Hắn kể cho vua biết rõ những ngày tân khổ và tình trạng hiện nay của hai vợ chồng
Mai. Rồi hắn tâu tiếp:
Bây giờ ông bà Mai đã có nhà cửa ở ngoài ấy khá đẹp, có đến hơn mười người hầu
hạ, có bãi dưa, có ruộng lúa và rất nhiều lợn gà...
Vua Hùng càng nghe càng sửng sốt. Vua chắt lưỡi bảo mấy viên quan hầu cận ngày nọ
đã tố cáo Mai:
- Hắn bảo là vật tiền thân của hắn, thật đúng chứ không sai!
Vua bèn sai một đoàn lính hầu đi đón hai vợ chồng về, cho Mai trở lại chức cũ. Vua
lại ban cho hai người con gái hầu để an ủi chàng.
Bây giờ chỗ hải đảo, người ta còn gọi là bãi An Tiêm. Những người kế tiếp công việc
của hai vợ chồng Mai trên đảo vẫn còn dòng dõi đông đúc. Họ lập thành làng gọi là
làng Mai-an. ở ngôi nhà cũ của Mai thì họ lập đền thờ hai vợ chồng chàng. Nhân dân
gọi là "ông bà tổ dưa Tây (hay dưa hấu)"[1].

Chú thích:
[1] Theo Lĩnh-nam chích quái và Đại-nam nhất thống chí, "Tỉnh Thanh- hóa"


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam   Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam Icon_minitimeFri Feb 01, 2019 5:49 pm

2. SỰ TÍCH TRẦU, CAU VÀ VÔI

Ngày xưa một nhà nọ có Tân và Lang là hai anh em ruột, đặc biệt dáng người và mặt
mày giống nhau như đúc, đến nỗi chính người nhà cũng nhiều phen nhầm lẫn. Cha họ
là một người cao to nhất trong vùng đã từng được vua Hùng triệu về Phong-châu ban
thưởng và đặt tên là Cao. Từ đó gia đình lấy tiếng "Cao" làm tên họ.
Hai anh em lớn lên thì cha mẹ nối nhau qua đời. Cả anh lẫn em quyến luyến nhau
không chịu rời nửa bước. Người cha trước khi mất có gửi gắm Tân cho một đạo sĩ họ
Lưu. Nhưng khi Tân đến theo học thì Lang không chịu ở nhà một mình, chàng cũng
cố xin cùng được học với anh một thể. Nhà họ Lưu có một cô con gái cũng cùng lứa
tuổi với họ.
Để tìm hiểu người nào là anh người nào là em, một hôm cô gái họ Lưu bày ra một
mẹonhỏ. Giữa lúc họ đang đói, nàng chỉ dọn cho họ một bát cháo với một đôi đũa.
Đứng sau khe vách, nàng thấy người này nhường cháo cho người kia ăn.
Nàng lẩm bẩm: - À, ra anh chàng vui tính kia là anh!".
Từ đó giữa Tân và cô gái có nhiều cuộc gặp gỡ. Tình yêu giữa hai người mỗi ngày một
khăng khít. Thấy thế, đạo sĩ họ Lưu vui lòng gả con cho Tân. Sau khi cưới, hai vợ
chồng đến ở một ngôi nhà mới, có Lang ở chung.
Từ ngày lấy vợ, Tân tuy vẫn chiều chuộng em nhưng không âu yếm em như trước
nữa. Trước kia Lang thường được anh chăm sóc nhưng bây giờ thì chàng có nhiều
ngày cô đơn. Lang nhận thấy nhiều khi Tân muốn lánh mình. - Phải rồi, anh ấy mê vợ
quên ta". Trong lòng Lang đầy chán nản buồn bực.
Một hôm Lang và Tân cùng lên nương đến tối mịt mới về. Lang về trước. Chàng vừa
bỏ chân lên ngưỡng cửa thì vợ Tân từ trong buồng chạy ra ôm chầm lấy mình. Lang
kêu lên. Cái nhầm của chị dâu làm cho cả hai người cùng ngượng nghịu xấu hổ. Giữa
lúc đó thì Tân bước vào nhà.
Từ đây Lang lại biết thêm một tính tình mới của anh. Tân ghen em. Cái ghen làm tăng
thêm sự hững hờ của Tân đối với chàng[1]. Lang vừa giận vừa thẹn. Chàng muốn bỏ
nhà ra đi cho bõ ghét. Một hôm trời mới mờ sáng, Lang quyếtđịnh khởi hành. Chàng
cứ theo con đường mòn đi mãi, trong lòng đầy bực bội oán trách. Đi luôn mấy ngày
dường, Lang tới bờmột con sông lớn. Thấy nước chảy xiết, chàng lấy làm ngại ngùng.
Xung quanh khôngnghe qua một tiếng gà gáy chó sủa. Nhưng Lang quyết không chịu
trở lại. Lang ngồi cúi gục trên bờ, ôm mặt khóc. Chàngkhóc mãi, khóc mãi, đến nỗi
những con chim đi kiếm ăn khuya vẫn còn nghe tiếng nức nở. Sáng hôm sau, Lang
chỉ còn là một cái xác không hồn. Chàng đã hóa đá.
Tân thấy mất hút em thoạt đầu không để ý. Mãi sau vẫn không thấy em về, Tân bổ đi
tìm các nhà quen nhưng cũng không thấy tăm dạng. Biết là em bỏ đi vì giận mình,
chàng lấy làm hối hận. Hôm sau nữa, cũng không thấy về, Tân hoảng hốt để vợ lại
nhà, cất bước đi tìm. Sau mấy ngày, chàng đã đến bờ một con sông rộng. Không có
cách gì qua được Tân đi men dọc sông, cuối cùng thấy em đã hóa thành đá. Tân đứng
bên cạnh hòn đá khóc mãi cho đến lúc chỉ còn có tiếng nước cuồn cuộn chảy dưới bờ
mà thôi. Tân chết và hóa thành một cây thân mọc thẳng lên trời, bên cạnh hòn đá.
Vợ Tân chờ mãi không thấy chồng về, cũng bỏ nhà đi tìm. Nhưng cuối cùng con sông
nọ cũng ngăn cản bước chân của nàng. Người đàn bà ấy ngồi lại bên cạnh cây, khóc
cạn cả nước mắt. Và sau đó nàng chết hóa thành một cây dây quấn quanh lấy cây kia.
Đợi mãi không thấy ba người về, vợ chồng đạo sĩ nhờ mọi người chia nhau tìm kiếm.
Trước hòn đá và hai cây lạ, họ chỉ còn biết dựng miếu thờ cả ba người trẻ tuổi ở ven
sông. Nhân dân quanh vùng gọi là miếu "anh em hòa thuận, vợ chồng tiết nghĩa"[2].
Về sau, một năm nọ trời làm hạn hán rất dữ. Mọi cây cỏ đều khô héo cả. Duy hai cây
mọc bên cạnh hòn đá trước miếu là vẫn xanh mượt. Mọi người cho là linh dị. Vua
Hùng một hôm ngự giá qua xứ đó. Khi đi qua trước miếu, vua hơi ngạc nhiên vì cảnh
lạ cây lạ: -"Miếu này thờ vị thần nào? Mấy loại cây này ta chưa từng thấy bao giờ?".
Để trả lời câu hỏi của vua, Lạc tướng cho gọi mấy cụ già ở quanh vùng đến hỏi.
Hùng Vương càng nghe, không ngăn được sự cảm động. Vua vạch lá trèo lên nhìn
khắp mọi chỗ. Đoạn, vua sai một người trèo cây hái quả xuống nếm thử. Vị chát
không có gì lạ. Nhưng khi nhai với lá cây dây thì một vị là lạ đến ở đầu lưỡi: nó vừa
ngon ngọt, vừa thơm cay
Tự nhiên có một viên quan hầu kêu lên: - "Trời ơi! Máu!" Mọi người giãn ra kinh
ngạc. Thì ra những bãi nhai quả và lá của hai thứ cây đó một khi nhổ xuống đá bỗng
đỏ ối ra như máu. Vua sai lấy cả ba thứ nhai lẫn với nhau thì bỗng người thấy nóng
bừng như có hơi men, môi đỏ tươi sắc mặt hồng hào tươi đẹp. Vua bảo:
- Thật là linh dị! Đúng là họ rồi! Tình yêu thương của họ thật là nồng nàn thắm đỏ.
Từ đó vua Hùng ra lệnh cho mọi nơi phải gây giống cho nhiều hai loại cây ấy. Điều
đáng chú ý là luật của nhà vua bắt buộc trai gái khi kết hôn thế nào cũng phải tìm cho
được ba món: trầu, cau và vôi cho mọi người nhai nhai nhổ nhổ một tý để ghi nhớ
tình yêu không bao giờ phai lạt. Vì thế từ đó dân Việt mới có tục ăn trầu[3].

Chú Thích:
[1] Theo Trúc Khê. Tình sử Việt-nam.
[2] Theo Sử Nam chí dị.
[3] Theo Lĩnh-nam chích quái.
[4] Trong Nông công thương (1939).
[5] Theo Bản khai của tổng Thanh- xuyên.
[6] Theo Truyện cổ Ca-tu.
Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam   Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam Icon_minitimeFri Feb 01, 2019 5:50 pm

3. SỰ TÍCH TRÁI SẦU RIÊNG

Ngày ấy, vào thời Tây Sơn, có một chàng trẻ tuổi người vùng Đồng-nai. Chàng là
người tài kiêm văn võ, đã từng vung gươm hưởng ứng cái bất bình của mọi người.
Chàng từng cầm quân mấy lần làm cho tớ thầy chúa Nguyễn chạy dài.
Nhà Tây Sơn mất, chàng lui về quê nhà mượn nghề dạy trẻ để náu hình ẩn tích. Đột
nhiên có tin dữ truyền đến làm cho mọi người xao xuyến. Gia Long vừa thắng thế trên
đất nước Việt thì cũng bắt đầu giết hại những người đã từng làm quan cho nhà Tây
Sơn. Nhà vua cứ dựa vào chức tước lớn hay nhỏ của họ mà gia hình: tư mã, quận
công thì lăng trì, tùng xẻo; vệ úy, phân suất thì đánh gậy, phạt roi, v.v...
Dân trong xóm sẵn lòng quý mến, khuyên chàng trốn đi thật xa. Họ giúp tiền gạo và
mọi thứ cần dùng, trong đó có cả một chiếc thuyền nhỏ mui lồng để tiện đi lại.
Vì không muốn để rơi vào tay quân địch, chàng ra đi. Ngược dòng sông Cửu-long,
chàng tiến sâu vào nước Chân-lạp.
Một hôm chàng cắm sào lên bộ mua thức ăn. Chàng bước vào một cái quán bên
đường. Trong quán có một bà mẹ ngồi ủ rũ bên cạnh một cô gái nằm mê man bất tỉnh.
Đó là hai mẹ con đi dâng hương trên núi, về đến đây thì con bị ốm nặng. Vốn có biệt
tài về nghề thuốc, chàng hết sức chạy chữa, cuối cùng cũng giúp cô gái lấy lại sức
khỏe. Và sẵn có thuyền riêng, chàng chở họ về tận nhà.
Nàng là con gái chưa chồng, đã đến tuổi quay xa đạp cửi. Nàng có vẻ đẹp thùy mị. Tự
nhiên có anh chàng trai người Việt ở đâu tận xa xôi đến trú ngụ tại nhà làm cho nàng
quyến luyến.
Sau một tuần chay tạ ơn Trời Phật, mẹ nàng cho biết là Phật đã báo mộng cho hai
người lấy nhau. Chàng vui vẻ nhận lấy cuộc sống mới cho qua ngày. Từ đây chàng có
chỗ ở nhất định. Nhà nàng là nhà làm ruộng nuôi tằm. Những việc đó chàng đều làm
được cả.
Mười năm thoảng qua như một giấc mộng. Hai vợ chồng quấn quýt với nhau như đôi
chim câu. Trong vườn nhà vợ có một cây ăn quả gọi là cây "tu rên" mà ở xứ sở chồng
không có. Lần ấy gặp kỳ quả chín đầu mùa, vợ trèo lên cây trẩy xuống một quả, xẻ
đưa cho chồng ăn. Quả "tu rên" vốn có một mùi hôi đặc biệt. Thấy chồng nhăn mặt
vợ bảo:
- Anh cứ ăn sẽ biết nó đậm đà như lòng em đây.
Không ngờ một năm kia, vợ đi dâng hương về thì ngộ cảm. Chồng cố công chạy chữa
nhưng không sao cứu kịp. Cái chết chia rẽ cặp vợ chồng một cách đột ngột. Không
thể nói hết cảnh tượng đau khổ của người chồng. Nhưng hai người vẫn gặp nhau trong
mộng. Chồng hứa trọn đời sẽ không lấy một ai nữa. Còn hồn vợ thì hứa không lúc
nào xa chồng.
Nghe tin Gia Long đã thôi truy nã những người thù cũ, bà con chàng ở quê hương
nhắn tin lên bảo về. Những người trong xóm cũng khuyên chàng nên đi đâu cho
khuây khỏa. Chàng đành từ giã quê hương thứ hai của mình. Trước ngày lên đường,
vợ báo mộng cho chồng biết là mình sẽ theo chàng cho đến sơn cùng thủy tận. Năm
ấy
cây "tu rên" tự nhiên chỉ hiện ra có mỗi một quả. Và quả "tu rên" đó tự nhiên rơi
vào vạt áo giữa lúc chàng ra thăm cây kỷ niệm của vợ. Chàng mừng rỡ quyết đưa nó
cùng mình về xứ sở.
Chàng lại trở về nghề cũ. Nhưng nỗi riêng canh cánh không bao giờ nguôi. Chàng đã
ương hạt "tu rên" thành cây đem trồng trong vườn ngoài ngõ. Từ đây, ngoài công việc
dạy học còn có công việc chăm nom cây quý.
Những cây "tu rên" của chàng ngày một lớn khỏe. Lại mười năm nữa sắp trôi qua.
Chàng trai ngày xưa bây giờ tóc đã đốm bạc. Nhưng ông già ấy lòng bỗng trẻ lại khi
thấy những hàng cây mà mình bấy lâu chăm chút nay đã bắt đầu khai hoa kết quả.
Ông sung sướng mời họ hàng làng xóm tới dự đám giỗ của vợ và nhân thể thưởng
thức một thứ quả lạ đầu tiên có ở trong vùng.
Khi những quả "tu rên" bưng ra đặt lên bàn, mọi người thoáng ngửi thấy một mùi khó
chịu. Nhưng chủ nhân biết ý đã nói đón: - "... Nó xấu xí nó hôi, nhưng múi của nó ở
trong lại đẹp đẽ thơm tho như mối tình đậm đà của đôi vợ chồng son trẻ...". Ông vừa
nói vừa xẻ những quả "tu rên" chia từng múi cho mọi người cùng nếm. Múi "tu rên"
nuốt vào đến cổ quả có một vị ngon ngọt lạ thường. Đoạn, ông kể hết đoạn tình
duyên xưa mà từ lúc về đến nay ông đã cố ý giấu kín trong lòng. Ông kể mãi, kể mãi.
Và khi kể xong, ở khóe mắt con người chung tình ấy long lanh hai giọt lệ nhỏ đúng
vào múi "tu rên" đang cầm ở tay. Tự nhiên hai giọt nước mắt ấy sôi lên sùng sục trên
múi "tu rên" như vôi gặp nước và cuối cùng thấm vào múi như giọt nước thấm vào
lòng gạch.
Sau đám giỗ ba ngày, người đàn ông ấy bỗng không bệnh mà chết. Từ đấy dân làng
mỗi lần ăn thứ quả đó đều nhớ đến người gây giống, nhớ đến chuyện người đàn ông
chung tình. Họ gọi "tu rên" bằng hai tiếng "sầu riêng" để nhớ mối tình chung thủy của
chàng và nàng. Người ta còn nói những cây sầu riêng nào thuộc dòng dõi loại hạt có
hai giọt nước mắt của anh chàng nhỏ vào thì mới là giống sầu riêng ngon[1].

Chú Thích:
[1] Theo Phạm Tường Hạnh trong Xuân 1957. Một truyện khác cũng do một vài
người Nam-bộ kể, bảo quả sầu riêng có từ đời Cao Biền. Nội dung của truyện đại khái
đề cao Cao Biền mà hạ thấp giá trị của người Việt, nên ở đây chúng tôi không thuật.


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam   Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam Icon_minitimeFri Feb 01, 2019 5:51 pm

4. SỰ TÍCH CÂY HUYẾT DỤ

Ngày xưa có một bác đồ tể chuyên mua lợn về giết thịt để mang bán ở chợ. Nhà bác ta
ở bên cạnh một ngôi chùa làng. Hàng ngày, vào lúc mờ sáng là lúc sư cụ bên chùa
theo lệ thường thức dậy tụng kinh. Và cũng theo lệ thường, sư cụ thức chú tiểu dậy gõ
một hồi chuông mai. Bấy giờ cũng là lúc bác đồ tể sửa soạn giết lợn, cho nên bác ta
quen lấy tiếng chuông làm chừng thức dậy làm việc hàng ngày. Cứ như thế, ngày nào
cũng như ngày ấy không bao giờ sai lạc
Một đêm nọ, sư cụ nằm mộng thấy một người đàn bà dắt năm đứa con nhỏ đến trước
mặt mình rồi vái lấy vái để, miệng nói: -"Xin cứu mạng! Xin cứu mạng!". Sư hỏi
người đàn bà: - "A-di-đà Phật! Cứu mạng là cứu thế nào? Bần tăng phải làm gì đây?".
Người mẹ có bộ điệu hãi hùng ấy trả lời: - "Ngày mai xin hòa thượng hãy đánh
chuông chậm lại. Như vậy mẹ con chúng thiếp rất đội ơn". Nhà sư tỉnh dậy không
hiểu thế nào cả. Nhưng tờ mờ sáng hôm đó, vâng theo lời báo mộng, sư cụ chỉ lâm
râm đọc kinh cầu nguyện mà không thức chú tiểu dậy thỉnh chuông.
Lại nói chuyện hôm ấy bác đồ tể ngủ một giấc li bì. Mãi đến lúc mặt trời lên chừng
một cây sào, tiếng chuông chùa mới bắt đầu vang rền làm cho bác giật mình choàng
dậy. Thấy trời đã quá trưa, bác không dám giết lợn như thường lệ, vì nếu làm thịt thì
khi đưa ra đến chợ, chợ đã vãn người rồi. Tức mình vì lỡ mất một buổi chợ, bác ta lật
đật sang chùa trách sư cụ. Sư cụ bèn đem câu chuyện nằm mộng đêm qua để phân
trần với ông hàng xóm không phải lỗi tại mình.
Nhưng lúc bước chân về chuồng lợn của nhà thì bác đồ tể ngạc nhiên thấy con lợn cái
mua ngày hôm qua toan giết thịt sáng đó, đã đẻ được năm con lợn con. Vừa mừng vừa
sợ, bác ta kể cho mọi người biết sự lạ lùng: - "Đúng là linh hồn người đàn bà ẩn trong
con lợn cái đã tìm cách cứu bày con của mình khỏi chết".
Tự nhiên bác đồ tể đâm ra suy nghĩ. Bác thấy bàn tay của mình đã từng vấy máu biết
bao nhiêu là sinh mạng. Trong một lúc hối hận đếncực điểm, bác ta cầm cả con dao
bầu chạy sang chùa bộc bạch nỗi lòng với sư cụ. Bác ta quả quyết cắm con dao của
mình trước sân chùa, thề trước Phật đài từ nay xin giải nghệ.
Không rõ bác đồ tể rồi sau đó thế nào, nhưng con dao của bác tự nhiên hóa thành một
loại cây có lá đỏ như máu và nhọn như lưỡi dao bầu, người ta vẫn gọi là cây huyết
dụ[1].

Chú Thích:
[1] Theo lời kể của người miền Bắc.
[2] Theo Gia phả Trung Cẩn công ở Tiên-điền (Hà-tĩnh).
Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam   Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam Icon_minitimeFri Feb 01, 2019 5:51 pm

5. SỰ TÍCH CHIM HÍT CÔ

Ngày xưa, có hai cô cháu ở chung với nhau một nhà. Người côgià, chồng chết từ lâu.
Đứa cháu còn bé chừng mười hai tuổi mồ côi cha mẹ. Nhà họ nghèo, chỉ có vài sào
ruộng, không đủ sống. Cho nên cô cháu ngày ngày phải đi mò cua bắt ốc hoặc mót
hái kiếm ăn. Mấy năm trời được mùa, hai cô cháu tuy không lấy gì làm đầy đủ nhưng
cũng sống vui. Ngày ngày cháu theo cô xách giỏ ra đồng, miệng hát có vẻ thích chí.
Nhưng không may vụ hạ năm ấy mất mùa. Rồi tiếp đến vụ mùa nắng hạn nên cũng
chẳng ăn thua gì. Trời không nắng lắm nhưng nhất định không mưa làm cho các ao hồ
đều khô rông rốc. Ruộng nứt nẻ hết. Hai cô cháu cũng như những người nghèo khác
đi mò cua bắt ốc ở các vùng cạn nước. Nhưng cua ốc bắt mãi cũng phải hết. Mà trong
nhà thì gạo đã kiệt từ lâu. Biết tìm cái gì mà nuôi nhau đây. Người ta có sức khỏe lên
rừng chặt củi về đổi lấy những cái ăn được mà sống qua ngày. Riêng hai cô cháu sức
yếu đành chịu nằm nhà nhịn đói. Cái chết đang dọa nạt họ.
May sao, buổi sáng hôm ấy có người hàng xóm sang báo tin cho cô cháu biết là có
mấy đám lúa ở làng bên cạnh đã bắt đầu gặt. Bà cô thấy mình yếu lắm rồi, đứng lên
không vững nữa. Chỉ có cháu là hơi tỉnh. Anh chàng gắng ngồi lên. Một người láng
giềng đem cho một bát canh rau. Cháu húp vào thấy khỏe cả người, vội đứng lên đi
theo họ.
Họ đến vừa kịp buổi gặt. Nhưng người gặt thì ít mà người mót thì đông vô kể. Tất cả
đều đói nhưng mót rất khỏe. Họ đánh liều sấn vào bứt lúa mặc kệ chủ ruộng cầm roi đánh không tiếc tay.
Mãi đến chiều, người cháu mới đem lúa về. Lèo tèo chỉ có một nắm bằng cái chổi xể.
Nhưng anh chàng không ngại. Hắn đập, sảy, rang rồi bỏ vào cối giã. Chỉ một lúc sau
hắn đã đổ vào nồi bắc lên bếp.
Khi nồi cháo bắt đầu sôi thì người cô bỗng trở mình và rên khừ khừ. Cháu lật đật
vào lật chiếu thăm cô. Cô rên rỉ kêu đau bụng, bảo cháu đi xin cho mình một tí gừng.
Cháu ngần ngại không muốn đi nhưng thấy cô có vẻ nguy kịch, vội đánh đường vào
xóm. Sau khi cháu đi, người cô gắng dậy ngồi vào bếp đun lửa cho nồi cháo. Lúc
cháo chín, cô bỏ muối vào nếm thử một hớp. Chất ngũ cốc vào bụng trôi đến đâu, thịt
da như sống lại đến đấy. Thấy cháu vẫn chưa về, cô múc ra một bát để dành phần cho
cháu rồi lại ngồi ăn. Loáng một cái, cô đã ăn hết phần củamình. Cô lại chõng nằm
nhưng trong bụng vẫn thấy thèm. Thấy cháu vẫn chưa về, cô nghĩ: - "Thằng bé có lẽ
được người ta cho ăn rồi nên mới lâu thế. Nếu hắn đói thì dù gừng được hay không
cũng phải về sớm". Nghĩ vậy, người cô lại lồm cồm dậy ăn xén vào cháo của cháu một
tý. Cô đi ra ngoài cửa nhìn. Vẫn không thấy tăm dạng của cháu. -"Chắc nó được ăn
rồi còn ngồi lại sưởi. Ta có thể ăn nốt đi cho nó". Nghĩ thế, cô yên tâm lại húp thêm
một hớp nữa vào phần của cháu.
Cho đến khi người cháu mang gừng về thì bát cháo chỉ còn một tý nước ở dưới đáy.
Cháu hỏi cô. Cô không trả lời. Nhưng cháu cũng đoán được hết. Cháu ôm mặt khóc
nức nở. Cháu giận cô, oán cô rồi rủa cô. Được một chốc, cháu bưng bát cháo lại
chõng cô nằm, dí sát vào miệng và nói bằng một giọng cay chua:
- Đó còn ít nữa, hít nốt đi! Hít đi cô, hít cô...
Sáng hôm sau, mãi đến trưa vẫn chưa thấy cháu dậy, cô lại gần đưa tay sờ vào người
cháu, thì ôi thôi người cháu đã lạnh toát từ bao giờ.
Từ đó trở đi vào khoảng trời khuya, người ta nghe có tiếng chim kêu não nùng trong
không gian: "Hít cô! Hít cô!". Tiếng chim kêu một điệu đều đều như nhắc nhở những
ngày sống gian khổ của hai cô cháu[1].

Chú Thích
[1] Theo báo Tràng-an.
Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam   Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam Icon_minitimeFri Feb 01, 2019 5:51 pm

6. SỰ TÍCH CHIM TU HÚ

Ngày xưa có hai nhà sư Năng Nhẫn và Bất Nhẫn. Hai người cùng cạo đầu xuất gia từ
ngày còn trẻ và cùng tu ở một ngôi chùa hẻo lánh.
Sau một thời gian dài tu luyện thì bỗng một hôm, Năng Nhẫn được đức Phật độ cho
thành chính quả.
Bất Nhẫn thấy mình tu hành không kém gì bạn mà không được hưởng may mắn như
bạn thì rất buồn bực. Chàng đến trước tòa sen hết sức kêu nài với đức Phật bày tỏ lòng
chân thành tu đạo cùng mọi sự khổ hạnh đã trải qua của mình. Đức Phật bảo chàng: -
"Nhà ngươi chuyên tâm cầu đạo, lại là người trong sạch, thật đáng khen ngợi. Nhưng
tính tình nhà ngươi vẫn như con trâu chưa thuần, chưa thể đắc đạo được. Vậy hãy cố
gắng tỏ rõ tấm lòng nhẫn nhục trong một cuộc khổ hạnh trường kỳ rồi sẽ theo bạn
cũng chưa muộn".
Bất Nhẫn nghe lời bèn lên núi chọn một gốc cây bắt chước người xưa ngồi xếp bằng tu
theo lối trường định. Chàng cương quyết ngồi im lặng như thế mãi trong ba năm, dù
có phải thế nào cũng không chịu dậy.
Và từ hôm đó, Bất Nhẫn như một vật vô tri vô giác. Những con sâu con kiến bò khắp
mình chàng. Những con thú cà vào thân chàng. Những con chim ỉa phẹt lên đầu
chàng. Chàng đều không hề bận tâm. Chàng chỉ một mực tâm tâm niệm niệm nghĩa lý
cao thâm của đạo Phật.
Cứ như thế, trải qua hai mùa hè và sắp sửa qua một mùa hè thứ balà kết liễu cuộc tu
luyện. Một hôm tự dưng có hai vợ chồng con chim chích ở đâu đến làm tổ ngay trong
vành tai của Bất Nhẫn. Chàng cứ để yên, mặc chúng muốn làm gì thì làm. Chúng đi về
tha rác lên đầu, lên mặt. Rồi chim mái đẻ trứng. Rồi cả một thời kỳ hai vợ chồng thay
phiên nhau ấp. Cho đến lúc trứng nở, những con chim non kêu léo nhéo suốt ngày.
Nhưng Bất Nhẫn không lấy thế làm khó chịu.
Một hôm, lúc ấy chỉ còn mười ngày nữa thì BấtNhẫn hết hạn ngồi dưới gốc cây. Hôm
đó, đến lượt con chim vợđi tìm thức ăn cho con.
Suốt một buổi chiều nó vẫn không kiếm được một chút gì. Mãi đến gần tối lúc lượn
qua một cái hồ, chim vợ mới thấy một con nhện đang giăng tơ trong một đóa hoa sen.
Nhện nhác thấy chim liền ẩn mình vào giữa những cánh hoa làm cho chim mất công
tìm mãi. Không ngờ hoa sen vừa tắt ánh mặt trời đã cụp ngay cánh lại, nhốt chim vào
trong. Chim cố công tìm lối chui ra nhưng những cánh hoa vây bọc dày quá đành chịu
nằm lại đó.
Ở nhà, chim chồng hết bay đi kiếm vợ lại trở về. Đàn con đói mồi nháo nhác suốt
đêm. Mãi đến sáng mai, chờ lúc hoa nở, chim vợ mới thoát được bay về tổ. Một cuộc
cãi lộn nổ ra bên tai Bất Nhẫn. Ghen vợ, chim chồng mắng nhiếc vợ hết lời. Nhưng
chim vợ vẫn hết sức bày tỏ nỗi lòng trinh bạch của mình. Cuộc đấu khẩu kéo dài suốt
cả buổi sáng và có cơ chưa chấm dứt. Bất Nhẫn rất khó chịu. Thêm vào đó, đàn con
khóc đói chíu chít điếc cả tai. Nhè lúc vợ chồng chim cãi vã đến chỗ găng nhất, Bất
Nhẫn bỏ tay lên tai giật cái tổ chim vứt mạnh xuống đất và nói: - "Đồ khốn! Chỉ có
mỗi một chuyện đó mà chúng mày làm điếc tai ông từ sáng đến giờ".
Thế là công sức tu luyện của Bất Nhẫn sắp hoàn thành thốt nhiên vứt bỏ trong chốc
lát.
Nhưng Bất Nhẫn vẫn không nản chí. Trước tòa sen, chàng hứa sẽ kiếm cách tỏ rõ sự
hối lỗi của mình. Chàng tìm đến một khúc sông nước chảy xiết, tình nguyện làm
người chèo đò đưa khách bộ hành quá giang mà không lấy tiền. Chàng quyết chở cho
đến người thứ một trăm mới chịu nghỉ tay.
Lần này Bất Nhẫn tỏ ra một người rất nhẫn nại. Tuy bến sông thường vắng khách,
chàng vẫn không chịu bỏ dở công việc. Luôn trong hai năm chàng chở được chín
mươi tám người mà không xảy ra việc gì.
Một hôm vào khoảng giữa thu, nước sông tự nhiên tràn về chảy xiết hơn mọi ngày.
Trời bỗng đổ một trận mưa lớn. Giữa lúc đó có một người đàn bà dắt một em bé đòi
qua sông. Hắn có vẻ là vợ một viên quan sở tại; chưa bước xuống thuyền đã dọa Bất
Nhẫn:
- Chú nhớ chèo cho vững nghe không. Che mui cho kín. Nếu để chúng ta mà ướt thì
liệu chừng kẻo roi quắn đít đó.
Nghe nói thế Bất Nhẫn đã hơi bực, nhưng chàng nín được và vẫn giữ vẻ mặt tươi cười
đáp:
- Bà và cậu đừng sợ gì cả. Tôi xin cố sức.
Rồi chàng vận dụng hết tài nghề để đưa hai mẹ con nhà nọ qua bên kia sông được vô
sự. Lúc sắp lên bờ, người đàn bà bỗng kêu lên:
- Ta quên khuấy đi mất. Có một gói hành lý bỏ quên ở quán bên kia. Vậy nhà ngươi
chịu khó chèo sang lấy hộ.
Bất Nhẫn nín lặng cắm cổ chèo qua sông giữa sóng gió. Mãi đến gần tối chật vật lắm
chàng mới đưa được gói hành lý sang cho người đàn bà. Nhưng khi soát lại gói, người
đàn bà nọ lại kêu lên:
- Thôi rồi! Còn một đôi giày của thằng bé bỏ ở gậm giường. Thế nào nhà ngươi cũng
phải gắng sang lấy cho ta một lần nữa.
Người đàn bà nói chưa dứt lời thì Bất Nhẵn đã chỉ tay vào mặt:
- Cút đi đồ chó ghẻ! Tao có phải sinh ra để hầu hạ mẹ con nhà mày mãi đâu.
Nhưng người đàn bà ấy vốn là đức Phật Quan âm hiện hình xuống thử lòng người đệ
tử khổ tu đó; bấy giờ lại hiện nguyên hình và cất tiếng bảo chàng:
- Nhà ngươi vẫn chưa thực tâm nhẫn nhục, như thế thì tu gì mà tu. Có tu hú!
Bất Nhẫn thẹn quá đành cúi đầu nhận lỗi.
Phật bà Quan âm sau đó bắt Bất Nhẫn hóa thành một giống chim mà người đời sau
quen gọi là chim tu hú. Họ bảo thứ chim đó vào khoảng cuối hè sang thu hay xuất
hiện, đúng vào lúc xảy ra câu chuyện giữa Bất Nhẫn với Phật bà.


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam   Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam Icon_minitimeFri Feb 01, 2019 5:52 pm

7. SỰ TÍCH CHIM QUỐC

Ngày ấy có đôi bạn chí thân là Quắc và Nhân. Họ đều là con nhà học trò nghèo, lại
đều mồ côi cha mẹ, Quắc được học nhiều hơn bạn: anh chàng làm thầy đồ dạy trẻ.
Tuy bổng lộc chẳng có là bao nhưng Quắc vẫn thường giúp đỡ Nhân. Đối lại, có lần
Quắc bị ốm nặng, giá không có bạn thuốc thang ngày đêm thì anh khó lòng sống nổi.
Sau đó cũng vì sinh kế, đôi bạn phải chia tay mỗi người mỗi ngả.
Trong khi Quắc sống cuộc đời dạy trẻ thì Nhân cũng đi lang thang đến các vùng xa lạ
làm thuê làm mướn. Trải qua một thời kỳ lang bạt, cuối cùng anh chàng vào làm công
cho một phú thương. Thấy chàng thật thà chăm chỉ, phú thương rất tin cậy. Chẳng bao
lâu Nhân được phú thương gả con gái cho.
Vợ Nhân có nhiều của riêng. Vì thế Nhân nghiễm nhiên trở nên một phú ông có cơ
nghiệp kha khá ở trong vùng
Nhân giàu nhưng không quên tình bầu bạn. Nhân vẫn nhớ tới lời thề "sống chết sướng
khổ có nhau" với Quắc. Nhân cất công đi tìm và sung sướng thấy Quắc vẫn còn sống.
Tuy Quắc đang dở năm dạy, nhưng Nhân cũng thương lượng được với cha mẹ học trò
cho con em chuyển sang một cụ đồ khác rồi đưa Quắc về nhà mình. Nhân dặn người
nhà phải coi Quắc không khác gì mình, cơm nước hầu hạ không được bê trễ.
Nhưng tính vợ Nhân không được như chồng. Xưa nay đối với những kẻ rách rưới, chị
ta thường tỏ vẻ coi thường. Và, chị ta không cùng sống những ngày hàn vi với Nhân
nên có thấy đâu tình nghĩa giữa Nhân và Quắc như thế nào. Nhưng thấy chồng trọng
đãi khách nên lúc đầu chị không dám nói gì. Nhân luôn luôn bảo vợ: - "Đây là người
thân nhất trong đời tôi. Nếu không có bạn thì tôi chưa chắc đã sống để gặp nàng". Vợ
Nhân chỉ lẩm bẩm: - "Khéo! Bạn với bè! Chỉ có ngồi ăn hại".
Dần dần vợ Nhân bực mình ra mặt. Chị ta khó chịu vì cái ông khách lạ tự dưng ở đâu
đến chả giúp ích gì cho nhà mình, chỉ chễm chệ trên giường cao, cơm rượu mỗi ngày
hai bữa. Vợ Nhân trước còn nói mát sau thì ngoa ngoắt ra mặt. Có hôm người đàn bà
ấy
đay nghiến cả chồng lẫn khách:
Chẳng phải bố già, không phải khách nợ, ở đâu lại rước về thờ phụng: ăn no lại
nằm. Thôi liệu mà tống quái đi!
Thấy thái độ vợ ngày càng quá quắt, chồng chỉ sợ mất lòng bạn. Một mặt Nhân thân
hành chăm chút bạn chu đáo hơn cả lúc trước, mặt khác Nhân tỷ tê khuyên dỗ vợ.
Nhưng vợ Nhân chứng nào vẫn giữ tật ấy. Về phần Quắc thì chàng hiểu tất cả. Đã hai
lần Quắc cáo bạn xin về nhưng Nhân cố giữ lại. Thấy bạn chí tình, Quắc lại nấn ná ít
lâu.
Nhưng hôm đó Quắc quả quyết ra đi vì chàng vừa nghe được những câu nói xúc
phạm nặng nề. Quắc nghĩ, nếu mình không đi sớm thì có ngày bị nhục với người đàn
bà này. Mà nếu ra đi như mấy lần trước thì sẽ bị bạn chèo kéo lôi thôi.
Một hôm, trời còn mờ sương, Quắc cất lẻn ra khỏi nhà. Để cho bạn khỏi mất công tìm
kiếm, khi đi qua một khu rừng, chàng cởi khăn áo treo lên một cành cây bên đường.
Đoạn Quắc lần mò đến xứ khác trở lại cuộc đời dạy trẻ.
Thấy mất hút bạn, Nhân bổ đi tìm. Khi nghe tin có người bắt được khăn áo ở mé rừng
phía Nam, chàng lật đật đến xem. Nhận rõ ấy là khăn áo của bạn, Nhân rất thương
cảm: - "Ta nuôi bạn thành ra hại bạn! Chắc bạn ra bị cướp giết chết". Nhưng sau đó
Nhân lại nghĩ khác: - "Bạn ta ra đi trong túi không có một đồng một chữ thì dầu có
gặp cướp cũng không việc gì. Đây một là hùm beo ăn thịt, hai là bị lạc trong rừng
sâu".
Nhân bắt đầu vào rừng tìm Quắc. Không thấy có vết máu, chàng lại càng hy vọng.
Băng hết chông gai, chui hết bụi rậm, Nhân luôn luôn cất tiếng gọi: "Anh Quắc ơi!
Quắc! Quắc!". Nhân đi mãi, gọi mãi, quanh quẩn trong khu rừng mênh mông. Cho
đến hơi thở cuối cùng con người chí tình ấy vẫn không quên gọi: - "Quắc!Quắc!". Rồi
đó Nhân chết hóa thành chim quốc, cũng gọi là đỗ quên.
Vợ Nhân đợi mãi không thấy chồng về, lấy làm hối hận. Một hôm chị ta bỏ nhà bỏ
cửa đi tìm chồng. Cuối cùng cũng đến khu rừng phía Nam. Nghe tiếng "Quắc! Quắc!",
chị ta mừng quá kêu to: - "Có phải anh đấy không anh Nhân!". Không có tiếng trả lời
ngoài những tiếng "Quắc! Quắc!". Vợ Nhân cứ thế theo tiếng gọi tiến dần vào rừng
sâu. Sau cùng không tìm được lối ra, chết bên cạnh một gốc cây


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam   Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam Icon_minitimeFri Feb 01, 2019 5:52 pm

8. SỰ TÍCH CHIM NĂM-TRÂU-SÁU-CỘT VÀ CHIM BẮT-CÔ-TRÓI-CỘT

Ngày xưa, có một bác lực điền tên là Ba ở trong một xóm dưới chân núi. Bác không có
ruộng phải làm rẽ năm sào của một phú ông ở làng bên cạnh. Phú ông là tay giàu có
nhất tổng: ruộng đất trâu bò ở rải rác các thôn xóm nhiều không đếm xiết. Thấy bác là
tá điền cũ, tính nết thật thà chăm chỉ, lúc nào cũng nộp thóc sòng phẳng, phú ông có
lòng tin giao cho bác nuôi trâu. Từ đấy công việc của bác Ba thêm bận rộn. Ngày ngày
bác phải chăn một bầy trâu của phú ông từ độ ấy sinh nở tổng cộng đã được năm con.
Tự nhiên một ngày nọ, phú ông lăn ra chết. Hắn chết giữa lúc tuổi còn khá trẻ. Phú
ông chưa có con trai, chỉ có mỗi một cô gái nên bao nhiêu ruộng đất trâu bò đều về
tay cô. Mà ruộng đất trâu bò của phú ông giao cho các tá điền nhiều thứ linh tinh phức
tạp, có thứ đã làm giấy tờ phân minh nhưng cũng có thứ vì cái chết đột ngột xảy đến
nên chưa có giấy tờ gì cả.
Cô con gái phú ông rất giống tính cha, lại là một người có mánh khóe vặt. Không bao
giờ chịu để mất không cái gì cho người ngoài dù là những vật nhỏ mọn, Sau khi làm
ma bố xong, cô gái mới bắt đầu đi kiểm soát một lượt gia sản của bố để lại.
Cô đến nhà bác Ba vào một buổi chiều. Lúc đó bác ta còn đi chăn trâu chưa về. Nhà
này có nuôi trâu, cô biết, nhưng tất cả số trâu nuôi trâu đẻ được mấy con và lớn bé
như thế nào thì hãy còn mập mờ. Trừ phú ông ra chả ai biết rõ. Mấy người đầy tớ chỉ
nhớ mang máng cả mẹ đẻ con đẻ đâu năm sáu con.
Tục ở đây nuôi trâu không có chuồng. Người ta đóng ở góc sân những cái cột, tối về
buộc mỗi con vào một cột. Thoạt vừa đến cô gái đếm ngay số cột được sáu cái: - "Sáu
cột vị chi là sáu trâu" cô tự bảo thế. Cô không biết rằng trước đây một hôm vì có một
cột gần gãy nên bác Ba phải đóng một cột khác, chưa kịp nhổ cái kia đi.
Lúc bác lực điền đánh trâu về, cô gái đếm đi đếm lại chỉ có năm con, bèn ngẫm nghĩ:
- "Quái thật! Sao chỉ có năm. Có lẽ vì không có giấy tờ, nên nghe tin cha chết lão này
đã bán trộm một con". Bèn nói to:
- Này bác Ba. Còn một con nữa đâu?
Bác lực điền ngạc nhiên:
- Còn trâu nào nữa, tôi nuôi của cụ cả thảy chỉ có năm con.
Cô gái lý sự:
- Năm trâu sao lại sáu cột. Có lẽ bác đánh lạc mất một con trong rừng chứ gì?
Bác Ba đem việc cột gãy ra phân trần, nhưng cô nào đâu có nghe:
- Thôi bác chịu khó đi tìm cho tôi đi. Năm trâu sao lại có sáu cột?
Thấy cô ta lẩm bẩm mãi mấy tiếng "năm trâu sáu cột", bác lực điền nổi xung:
- Chỉ có bắt cô trói vào cột này thì họa chăng mới thành sáu được!
Cô gái phú ông không phải là tay vừa, nhảy lên xỉa xói bác Ba. Bác Ba bực mình bỏ đi
vào rừng. Cô tiếp theo chân bác. Rồi đó hai câu "năm trâu sáu cột" và "bắt cô trói cột"
trở thành lời đối đáp của hai bên.
Cả bác Ba và cô gái về sau đều hóa thành chim. Hai con chim đó xuất hiện ở vùng
rừng núi Thái-nguyên, Bắc-cạn là vùng xảy ra câu chuyện. Hai con chim kiếm ăn từ
nhá nhem cho đến mờ sáng: một con đàng này núi, một con đàng kia núi, một con
kêu: "Năn trâu sáu cột", một con đáp: "Bắt cô trói cột" [1] . Người ta nhận tiếng kêu

Chú Thích:
[1] . Có người cắt nghĩa tiếng kêu của loài chim đó là “Bắc-quang Bắc-mục” hay “Hà-
giang nước độc” nhưng không kể thành chuyện.
[2] . Theo Nguyễn Bính. Truyện cổ tích Việt-nam.


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam   Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam Icon_minitimeFri Feb 01, 2019 5:53 pm

9. SỰ TÍCH CHIM ĐA ĐA

Ngày xưa có một em bé mồ côi cha từ hồi còn nhỏ. Người mẹ sau một thời gian tang
chế cũng đi lấy chồng. Vì bà con thân thích nội ngoại không còn ai nên nó phải theo
mẹ về ở với bố ghẻ. Bố ghẻ tính rất vũ phu, coi cả hai mẹ con như kẻ ăn đứa ở. Nhất
là thằng bé chưa biết làm gì cả, nên hắn lại càng ghét dữ. Nhiều lúc có việc trái ý, hắn
đánh thằng bé thâm tím cả mình mẩy.
Nhà hắn cũng không có gì. Hắn thường sinh nhai bằng cách lên rừng đốn củi. Người
đàn bà vừa về với hắn được một ngày đã phải gánh củi của chồng đi bán ở chợ.
Không may, năm đó trời làm mất mùa. Miếng ăn kiếm rất chật vật. Củi rẻ như bèo.
Trước kia một gánh củi nuôi sống gia đình được mấy ngày thì bây giờ không đủ nuôi
được một bữa. Thằng bé chưa làm được nghề ngỗng gì cả, trở nên một cái gai trước
mắt bố ghẻ.
- Thằng bé này chỉ ăn hại đái nát. Chỉ làm cho ta khó khăn thêm.
Hắn bảo vợ thế và khuyên vợ đem con đi bán cho kẻ khác nuôi. Nhưng người đàn bà
nhất quyết không chịu. Thà là cả hai mẹ con cùng chết chứ bà không đời nào chịu lìa
con.
Người bố ghẻ bèn có ý định muốn giết chết con riêng của vợ. Mạng người lúc này nhỏ
bằng cái tơ cái tóc. Huống chi đối với hắn, hắn chẳng coi ra gì. Nạn đói coi chừng
đang kéo dài và ngày càng dữ dội. Một gánh củi lớn bây giờ không đổi nổi một bát
gạo.
Hôm đó, chờ lúc vợ đi chợ sớm, hắn đưa thằng bé lên rừng. Hắn rủ:
- Mày có muốn trèo ổi và bắt bướm không? Trên ấy thì tha hồ.
Thằng bé nghe thế lấy làm thích, cố xin đi theo cho được.
Cảnh rừng có nhiều cái lạ làm cho thằng bé lon ton chạy theo bố ghẻ không biết mệt.
Người đàn ông đưa nó vào rừng sâu. Khi đến chỗ mấy cây ổi rừng, hắn bảo thằng bé:
- Ổi đấy. Và có bát cơm đây. Chốc nữa tao lại tìm.
Thế rồi hắn bỏ mặc thằng bé, lẳng lặng lui ra, đến một chỗ khác kiếm củi. Nhưng
buổi chiều, khi bước chân vào nhà hắn lấy làm ngạc nhiên thấy thằng bé đã về trước
hắn rồi. Số là thằng bé trong khi đang bơ vơ giữa rừng rậm thì may mắn gặp một bọn
đi đào khoai mài về ngang. Thế là họ đưa nó về. Nhờ có bát cơm, nó vẫn đủ sức đi
được đến nhà.
Nghe đứa bé kể, hắn bực mình vô hạn. Hắn vờ mắng:
- Chỉ vì mày, làm tao tìm mãi không được!
Một lần khác hắn lại dỗ được đứa bé đi theo lên rừng. Lần này hắn cố tâm đưa nó vào
thật sâu, đến những nơi chưa ai dám tìm vào hái củi bao giờ. Khi trốn khỏi thằng bé,
hắn nghĩ bụng: - "Không chết vì thú dữ thì cũng chết vì lạc, không chết vì lạc thì cũng
chết đói mà thôi".
Mãi đến chiều tối vẫn không thấy bố ghẻ trở lại, thằng bé khóc lóc, kêu gào nhưng chỉ
có tiếng vọng của núi rừng trả lời nó thôi. Nó cuống cuồng chạy tìm khắp mọi ngả
nhưng không hề thấy một bóng người. Khi đã mệt lử và đói bụng, nó tìm đến chỗ bát
cơm của bố ghẻ để lại thì không ngờ đấy là một bát cát trên có rắc một lớp cơm với
một quả cà để đánh lừa. Thằng bé nhặt những hạt cơm phủi cát bỏ vào miệng. Cuối
cùng đói quá, nó cầm lấy bát chạy khắp nơi và kêu lên: - "Bố ghẻ ơi! Bát cát quả cà!
Bát cát quả cà!". Nhưng tiếng kêu gào của nó chỉ làm cho một vài con chim rừng giật
mình mà thôi.
Rồi thằng bé chết, hóa thành chim đa đa, luôn luôn kêu những tiếng "Bát cát quả cà!
Bát cát quả cà!".
Đợi mãi không thấy con về, người đàn bà khóc thương vô hạn. Đoán biết thằng chồng
tàn bạo đã ám hại con mình, bà ta đứng lên xỉa xói vào mặt hắn. Cuối cùng bà ta bắt
hắn phải đi kiếm con mình về ngay, nếu không sẽ lên quan tố cáo. Túng thế hắn phải
vào rừng. Hắn tìm mãi. Đột nhiên trong khu rừng hẻo lánh nổi lên mấy tiếng "Bát cát
quả cà! Bát cát quả cà!". Hắn rụng rời. Đích thị là oan hồn thằng bé đã lên tiếng vạch
tội ác của hắn. Nghe luôn mấy tiếng liên tiếp, hắn không còn hồn vía nào nữa, vội bỏ chạy. Nhưng mấy tiếng "Bát cát quả cà" đuổi theo hắn. Hắn chạy mãi, băng hết khu
rừng nọ sang khu rừng kia. Tự nhiên hắn vấp phải đá ngã xuống bất tỉnh nhân sự.
Mấy ngày sau, những người tiều phu thấy thi thể hắn nằm vật ở mé rừng


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam   Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam Icon_minitimeFri Feb 01, 2019 5:53 pm

10. SỰ TÍCH CON NHÁI

Ngày xưa có một vị hòa thượng trẻ tuổi nổi tiếng chân tu. Mọi "thị dục" của bản thân,
hòa thượng đều kiên quyết cắt đứt, chỉ một lòng chuyên chú vào lẽ hư vô của đạo
Thiền. Nhà vua nghe tiếng, vô cùng kính trọng, vời về cung, ban tước quốc sư và sai
tu bổ một ngôi chùa ở phía Nam kinh thành để cho sư trụ trì. Nhưng hòa thượng từ tạ
vua, chỉ xin phép đi xem chùa chiền, cảnh đẹp trong thiên hạ.
Một hôm, hòa thượng một mình tìm đến một ngôi chùa xa ở vùng Bắc. Ở đó có một
vị sư bạn trụ trì mà hòa thượng lâu ngày chưa gặp.
Từ lâu Phật bà Quan âm đã nghe tiếng đồn về hòa thượng. Lần này nhân cuộc đi chơi
của hòa thượng, Phật bà định bụng thử xem con người đó như thế nào. Nếu quả đúng
là chân tu thì Phật bà sẽ đưa về Tây-trúc, độ cho thành Phật.
Lúc hòa thượng sắp qua một con sông rộng, Phật bà hóa thành một cô gái rất trẻ đẹp
chống đò cập bến chở khách quá giang. Hôm ấy cũng theo phép màu nhiệm của Phật
bà, khúc sông đó trở nên vắng vẻ, người và thuyền bè qua lại rất ít. Khi hòa thượng
chui vào trong khoang đò thì cô gái nhổ sào chèo ra giữa sông. Đoạn nàng bẻ lái cho
thuyền tiến đến một bãi cát vắng đậu lại. Hòa thượng lấy làm lạ, hỏi cô lái vì sao
không đi thẳng qua bờ bên kia. Cô lái chỉ đợi có câu hỏi ấy là buông chèo, cười một
nụ cười rất tình tứ rồi cũng chui vào khoang trả lời một cách cợt nhả là thấy sư đẹp
trai quá nên cắm sào lại đây cầu xin được ân ái. Hòa thượng vốn nghe con gái ở vùng
này có nhiều người đáo để nên nghiêm nét mặt lại:
- A-di-đà Phật! Mong người trần giới buôn tha cho kẻ tu hành này.
Nhưng cô lái đò đâu có buông tha, cô cố sán lại gần gợi tình. Hòa thượng không nói
gì, lẳng lặng mở gói lấy cuốn kinh Kim cương tam muội ra tụng. Tiếng đọc của sư mỗi
lúc một lớn, át cả tiếng của cô lái đò. Nhưng cô lái đò vẫn cười nói không thôi. Rồi
chô che tay lên quyển kinh. Hòa thượng ngoái cổ nhìn ra ngoài đò rồi nghiêm khắc
cảnh cáo:
- A-di-đà Phật! Trong người bần tăng có một tờ lệnh chỉ của hoàng đế. Trong đó
hoàng đế đã ra lệnh hễ người nào phạm vào người bần tăng sẽ bị án trảm quyết. Vậy
bần tăng mong người đừng phạm vào phép của thiên tử.
Lời dọa của nhà sư không làm cho cô gái nhụt một tý nào. Cô nói:
- Em đang muốn chết đây! Em chỉ mong chàng đoái thương một tý rồi chết cũng thỏa.
Nhưng hồi lâu, thấy lòng nhà sư không chuyển, cô lái đò lại thi hành một mưu khác,
cố quyến rũ cho bằng được. Cô bắt đầu cởi áo ra. Khi chiếc yếm cổ đuôi nhạn bỏ
xuống thì hòa thượng nhắm mắt lại, Hòa thượng quay về phía cái gói lấy chiếc áo của
mình khoác vào người nàng. Trong khoang đò chật chội, tay hòa thượng vẫn lần
tràng hạt, miệng vẫn lẩm nhẩm đọc kinh, Trong khi đó những tiếng của cô gái như
mật rót vào tai:
- Chàng thương em một tý... Chàng nhìn ra ngoài mà xem, nào có một ai đâu...
Nhưng vô hiệu.
Phật bà Quan âm rất cảm động. Nhưng người con Phật như thế này rất xứng đáng
chiếm một chỗ ngồi trên Nát-bàn. Nhưng đã thử thì phải thử cho trót. Lần tấn công
thứ chín, cô lái đò vẫn bị cự tuyệt. Hơi thở của cô con gái trẻ và đẹp phảng phất ở trên
má, nhưng nét mặt của hòa thượng vẫn không đổi.
Nhưng đến lần thứ mười, cô gái không ngờ thành lũy tưởng là kiên cố lại bị hạ một
cách quá bất ngờ. Bàn tay hòa thượng tự nhiên run rẩy bỏ lên mình nàng. Thôi thế là
chỉ trong một phút, vứt hết hơn hai mươi năm tu luyện.
Thế là chuyến đó Phật bà Quan âm không được hài lòng. Giận vì hòa thượng đã thiếu
kiên trì trước sức cám dỗ của "thị dục", mà đã thế thì thanh danh cũ đâu còn đáng
đếm xỉa nữa, nên Phật bà đã nắm lấy cổ hòa thượng vứt ngay xuống sông như người ta
vứt một cái rác. Thế mà Phật bà vẫn chưa cho là đáng tội, nên còn bắt hóa làm loài
nhái là một loài động vật hạ đẳng. Cũng vì thế mà người ta nói rằng ngày nay dòng dõi của loài nhái vẫn còn giữ cái thói quen của tổ tiên, ví dụ khi chúng bị chặt đầu,
chúng vẫn chắp hai chân trước lại với nhau như người đang vái


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam   Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam Icon_minitimeFri Feb 01, 2019 5:54 pm

11. SỰ TÍCH CON MUỖI

Có hai vợ chồng nhà nọ yêu nhau rất mực. Ngày mới lấy nhau, họ đã từng ăn thề hẹn
không bỏ nhau. Nếu không may một trong hai người chết đi thì người kia sẽ chết theo
để xuống âm ty cho có bạn.
Sau đó không bao lâu, người vợ trẻ tự nhiên bị chết mang đi một cách đột ngột.
Không ai có thẻ tả được hết tình cảnh đau thương của người chồng. Anh chàng đã
mấy lần toan tự tử, nhưng bị người nhà ngăn trở và canh phòng ráo riết. Hôm sắp sửa
cất đám bỗng có một đạo sĩ đến bày cho chàng phép cải tử hoàn sinh mà theo lời ông
ta, đã từng có nhiều người dùng rất ứng nghiệm. Phép của ông ta chẳng có gì khó, chỉ
cần người sống gan dạ và kiên trì một chút là được. Nghĩa là người sống mỗi ngày ba
lần ôm ấp và truyền hơi ấm của mình vào cho tử thi. Làm luôn như thế không nghỉ
ngày nào thì chỉ trong khoảng ba tháng mười ngày là người chết sẽ sống lại.
Người chồng cảm ơn đạo sĩ và làm đúng như lời dặn, hi vọng đưa người yêu trở lại cõi
thế. Ngày ngày chàng ôm ấp vợ, truyền sức nóng, hơi thở của mình vào cái xác đã
lạnh toát.
Nhưng sau đó ba ngày, mùi thối của tử thi bay ra khắp xóm làm cho mọi người không
chịu được. Họ kéo nhau đến nhà bắt chàng phải chôn lập tức.
Bất đắc dĩ, người chông nhờ xóm giềng chặt nứa làm giúp một cái bè để mình đưa xác
vợ đi một nơi khác. Nhiều người vui lòng giúp anh chàng trong việc này. Chỉ trong
nửa ngày, hắn đã chở xác người yêu đi biệt.
Chiếc bè theo dòng nước trôi mãi. Người chồng vẫn ngày ngày ấp ủ vợ không thôi.
Cái tử thi đó trông vẫn như người nằm ngủ. Lòng anh chàng tràn trề hy vọng. Đến
một nơi kia, hắn cắm bè lại kề một bãi cỏ rộng, lên bộ nấu ăn.
Tình cờ trong khi đi nhặt củi chàng ta gặp một cụ già. Nhìn thấy ông cụ chống gậy đi
một mình giữa cảnh trời nước hoang vu, lại râu tóc trắng xóa, hình dung không có gì
là lam lũ, chàng trẻ tuổi lấy làm ngạc nhiên. Hắn đang suy nghĩ thì thoáng cái ông cụ
đã đứng trước mặt. Hiểu ngay đó là bậc Tiên Phật, hắn vội phục xuống chân cụ già rồi
kể lể sự tình, cuối cùng không quên cầu khẩn ông cụ sinh phúc giúp cho vợ mình
sống lại. Cụ già đó chính là đức Phật, thấy anh chàng nài nỉ hết sức, bèn thương tình,
đi theo xuống bè, bảo hắn chích máu ngón tay nhỏ ba giọt vào miệng vợ. Tự nhiên
người đàn bà mấp máy môi rồi từ từ ngồi dậy như vừa tỉnh một giấc mơ. Trước khi ra
về đức Phật có hỏi người vợ:
- Anh chàng này cho vay ba giọt máu để ngươi được hồi sinh. Vậy nhà người có yêu
anh ta chăng?
Trước câu thề thốt chắc nịch của người đàn bà, đức Phật bảo:
- Không can gì. Nếu không yêu nữa thì chỉ việc trả lại ba giọt máu cho anh ta là đủ!
Thấy bọn họ nóng lòng muốn trở về quê hương, đức Phật gọi một con cá sấu khổng
lồ từ vực sâu lên bảo chở họ đi.
Cá sấu vượt sông được nửa ngày đường thì bụng đã đói. Nó bảo hai vợ chồng lên bộ
nghỉ ngơi để cho nó đi tìm cái ăn. Hai vợ chồng dắt nhau vào quán cơm. Trong quán
hôm đó có một người khách thương sang trọng. Hắn ta thấy nhan sắc người vợ diễm lệ
ít ai sánh kịp thì bỗng nảy tà dâm, mưu toan chiếm đoạt. Hắn lân la lại gần, đưa các
mẫu hàng tơ lụa và đồ trang sức ra vờ chào khách, kỳ thực là để tán tỉnh người đàn bà
đẹp. Hắn nói trong thuyền hắn đậu ở gần đấy còn có nhiều món hàng nữa rất quý và
rẻ, muốn mời họ xuống xem.
Nhưng người chồng thì chẳng thiết một tý nào. Cơm nước xong, bỏ mặc người khách
thương, dắt vợ ra bến vắng, ở chỗ hẹn với cá sấu, ngồi đợi. Họ ngồi dưới bóng cây trò
chuyện một chốc rồi vì mệt quá, ngủ quên lúc nào không biết. Họ cũng chẳng ngờ sau
lưng họ, người khách thương kia vẫn theo hút không rời. Khi thấy hai người nằm ngủ,
hắn đi nhẹ đến thức riêng người vợ dậy, mời nàng xuống thuyền đậu kề đó để hắn
biếu một món trang sức; - "Thuyền của tôi chỉ cách đây mươi bước. Bà không phải đợi
lâu đâu!". Nghe nói thế, lòng người đàn bà bỗng thấy lay chuyển. Nàng đứng lên, đi
theo người khách thương xuống thuyền. Chỉ trong nháy mắt, theo ám hiệu của chủ,
bọn thủy thủ chiếc thuyền buôn nhổ neo và giong buồm cho thuyền chạy mất.
Lại nói chuyện cá sấu lúc ngoi lên chỗ hẹn thì thấy chỉ có một mình người chồng, bấy
giờ vẫn đang ngủ say. Cá sấu thức chàng dậy hỏi chuyện. Anh ta ngơ ngác không hiểu
thế nào. Một mất mười ngờ, hắn đổ tội cho cá sấu đã ăn thịt mất vợ. Để giải mối ngờ,
cá sấu mới bảo hắn kiếm cây luồn qua miệng mình, khua trong dạ dày xem thử cho
biết. Anh chàng làm theo, chỉ thấy trong bụng cá sấu toàn là xương cá và đá cuội, mới
biết mình ngờ sai. Tìm khắp mọi nơi chẳng thấy vợ, hắn trở về bến, ôm đầu kêu khóc
rất thảm thiết. Cá sấu thương tình bèn bảo hắn cưỡi lên lưng rồi phóng đi, đuổi theo
những chiếc thuyền vừa qua lại để dò tìm tung tích. Sau mấy lần dò hỏi, người ta cho
biết một chiếc thuyền buôn vừa đi qua, trong đó có một người đàn bà trẻ và đẹp. Họ
tả nét mặt và hình dạng thì đúng là vợ chàng. Cá sấu bèn cố công đuổi riết.
Khi nhìn thấy vợ ngồi trong thuyền khách thương, người chồng nói với vào:
- Nàng cứ nhảy ra đây... Tôi không thể sống xa nàng được... Tôi sẽ làm cho nàng sung
sướng...
Nhưng người vợ trả lời chồng:
- Chàng về đi! Em đành phụ chàng. Chàng tha thứ cho em vậy.
Rồi đưa cho chồng một gói vàng:
- Chàng hãy nhận lấy vật này và coi như em đã chết từ hôm nào rồi.
Vừa bực tức vừa thất vọng, chồng ném gói vàng xuống nước rồi nhờ cá sấu đưa mình
trở lại tìm đức Phật. Khi đức Phật gặp bọn họ, liền giục cá sấu hối hả rượt theo chiếc
thuyền khách thương để cho anh chàng thất tình đòi lại ba giọt máu của mình.
Lại nói chuyện người đàn bà sau khi chích máu ở tay để lấy ra ba giọt trả nợ cho
chồng thì ngã vật xuống chết ngay. Người khách thương hết sức chữa chạy nhưng vô
hiệu. Rồi sau đó hắn ném xác nàng xuống biển. Nhưng do phép màu của đức Phật,
người đàn bà ấy hóa thành con muỗi. Vì thiếu máu, nên lúc nào muỗi cũng lén lút đi
chích trộm của mỗi người một tý để sống


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam   Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam Icon_minitimeFri Feb 01, 2019 5:54 pm

12. SỰ TÍCH CON KHỈ

Ngày xưa có một người con gái đi ở với một nhà trưởng giả. Nàng phải làm việc quần
quật suốt ngày, lại bị chủ đối đãi rất tệ. Cái ăn cái mặc đã chả có gì mà thỉnh thoảng
còn bị đánh đập chửi mắng. Vì thế, cô gái tuổi mới đôi mươi mà người cứ quắt lại,
trông xấu xí bệ rạc hết chỗ nói.
Một hôm nhà trưởng giả có giỗ, cỗ bàn bày linh đình, họ hàng đến ăn uống đông đúc.
Trong khi đó thì cô gái phải đi gánh nước luôn vai không nghỉ.
Lần gánh nước thứ mười, cô gái mỏi mệt quá ngồi lại ở bờ giếng. Tự nhiên cô thấy tủi
thân, ôm mặt khóc. Lúc đó đức Phật bỗng hiện ra với trạng mạo một ông cụ già. Ông
cụ có vẻ đâu từ xa lại, dáng điệu mệt nhọc đến xin nước uống. Nàng vội quảy gánh
xuống giếng vục nước lên cho ông già giải khát. Ông cụ uống xong lại đòi ăn. Cô gái
nhớ tới phần cơm của mình chưa ăn, bèn bảo ông cụ ngồi chờ rồi quảy gánh nước về.
Lần sau ra giếng, cô lấy cơm trong thùng đưa cho ông già và nói:
- Họ dành phần cho con toàn cơm cháy cả, cụ ăn một bát này cho đỡ đói.
Ăn xong, ông cụ bảo nàng:
- Hồi nãy làm sao con khóc?
Cô gái ngập ngừng, cúi mặt xuống không trả lời.
- Ta là đức Phật, ông cụ nói tiếp, ta thấy con có lòng tốt. Nếu con muốn gì, ta sẽ làm
cho con vui lòng.
Cô gái ngạc nhiên mừng rỡ, kể nỗi lòng với đức Phật. Thấy điều ước muốn của người
con gái chỉ là làm sao cho bớt xấu xí, ông cụ bảo nàng lội xuống giếng, hễ thấy bông
hoa nào đẹp mút lấy thì sẽ được như nguyện. Khi xuống nước, cô gái chỉ mút mấy
bông hoa trắng. Tự nhiên lúc lên bờ, nàng trở nên trắng trẻo xinh xắn, đồng thời quần
áo cũng biến thành những thứ tốt đẹp.
Khi cô gái quảy gánh nước trở về, cả họ nhà trưởng giả vô cùng kinh ngạc. Nàng xinh
đẹp đến nỗi họ không thể nào nhận ra. Nghe cô gái kể chuyện, ai nấy cũng muốn cầu
may một tý. Họ lập tức đổ xô cả ra bờ giếng mong gặp lại đức Phật để được trẻ lại và
đẹp ra. Thấy ông cụ già vẫn còn ngồi ở chỗ cũ, họ sung sướng như người được của.
Họ đưa xôi thịt ra mời tới tấp:
- Này cụ xơi đi! Cụ xơi đi! Rồi cụ làm phúc giúp cho chúng tôi với!
Đức Phật cũng bảo họ lội xuống giếng và dặn họ y như dặn cô gái lần trước.
Dưới giếng lúc đó đầy hoa đỏ và hoa trắng. Ai nấy đều cho màu đỏ là đẹp nên khi lội
xuống giếng đều tìm hoa đỏ mút lấy mút để. Nhưng không ngờ lúc lên bờ, họ không
phải trẻ lại mà già thêm ra: mặt mũi nhăn nheo, người trông quắt lại, lông lá mọc đầy
người, đằng sau lưng là cả một cái đuôi. Những người đi gánh nước thấy vậy hoảng
hồn: - "Kìa trông con quỷ, nó cắn bà con ôi!". Nhưng lại có những tiếng khác: -
"Đánh cho chết chúng nó đi! Sợ gì!". Lập tức mọi người cầm đòn gánh xông lại. Cả
họ nhà trưởng giả kinh hoàng bỏ chạy một mạch lên rừng. Từ đó, cô gái cùng với số
người nghèo hầu hạ trưởng giả được hưởng những của cải do chúng để lại.
Lại nói chuyện trưởng giả và họ hàng đành phải nấp náu trong rừng sâu, ngày ngày
kiếm quả cây nuôi thân. Chúng đi lom khom, áo quần rách nát trông rất thiểu não.
Nhưng chúng vẫn tiếc của. Cho nên thỉnh thoảng ban đêm chúng lại mò về, hoặc gõ
cửa, hoặc ngồi trước nhà kêu léo nhéo suốt đêm, gần sáng mới trở về rừng.
Thấy vậy cô gái và mọi người sợ quá, đêm đêm đóng cửa rất chặt. Họ bàn nhau tìm
cách đuổi chúng. Họ bôi mắm tôm vào các cánh cửa, lại nung nóng rất nhiều lưỡi cày
đặt rải rác ở cổng các nhà.
Quả nhiên, một đêm nọ chúng lại mò về. Theo lệ thường, chúng đánh đu vào song
cửa kêu rít lên. Nhưng lần này chúng vừa mó đến đã bị mắm tôm vấy đầy tay rồi từ
tay vấy khắp cả người, hôi hám không thể nói hết. Chúng kinh sợ dắt nhau ra ngồi
trước cổng quen như thói cũ. Nhưng vừa đặt đít xuống các lưỡi cày thì chúng đã kêu
oai oái, rồi ba chân bốn cẳng bỏ chạy lên rừng. Từ đó chúng kệch không dám về nữa.
Trong những khi lên rừng hái củi, người ta thỉnh thoảng vẫn gặp chúng. Thấy bóng người từ đáng xa, chúng liền chuyền theo nhánh cây, lủi nhanh thoăn thoát. Người ta
gọi chúng là những con khỉ. Ngày nay vẫn có nhiều người cho khỉ là thuộc nòi trưởng
giả. Còn những con khỉ sở dĩ đỏ đít là vì chúng chịu di truyền dấu vết bỏng đít của tổ tiên


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam   Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam Icon_minitimeFri Feb 01, 2019 5:55 pm

13. SỰ TÍCH CÁ HE

Ngày xưa có một nhà sư trẻ tuổi rất ngoan đạo. Sau hơn ba mươi năm khổ công tu
luyện, sư thuộc lòng tất cả các kinh kệ nhà Phật, lại giỏi thuyết pháp. Vậy mà lâu rồi
vẫn chưa được thành chính quả. Sư, bụng bảo dạ: - "Phải đến đất phật một phen mới
có hy vọng thành Phật". Nghĩ vậy, sư ta quyết chí tìm đường sang Tây-trúc.
Đương đi từ nước nhà sang Tây-trúc thuở đó thật muôn phần vất vả. Việc giao thông
hầu hết là đường bộ, mà đi bộ trên con đường mịt mùng thăm thẳm thì mỗi bước là
một hiểm nguy. Nhưng nhà sư trẻ tuổi vẫn quả quyết nhắm hướng Tây khởi hành.
Cuộc hành trình đã được năm mươi ngày. Nhà sư đã nhiều lần lạc đường và mấy lần
mê man vì sốt, nhưng nhờ được giúp đỡ nên đều qua khỏi. Hễ dứt bệnh là chàng lại
tiếp tục cuộc hành trình.
Một hôm, đến một khu rừng thì trời đã chiều. Sư cố bước dồn hòng tìm một nơi nghỉ
vì trong người đã thấy ớn rét. May sao giữa rừng sâu, sư bỗng gặp một ngôi nhà. Nghe
tiếng gọi cửa, một bà cụ già bước xuống sàn. Sư tỏ ngay ý định của mình là xin ngủ
nhờ một đêm. Nhưng bà cụ vừa thấy khách đã xua tay rối rít:
- Đi mau lên! Mau lên! Con ta mà về thì không còn tính mạng đâu.
Sư đáp:
- Tôi bây giờ thật là kiệt sức, không thể nào bước được nữa. Nếu không cho nghỉ thì
cũng đành nằm liều trước cửa đây thôi.
Bà cụ bảo:
- Chao ôi! Con ta vốn là Ác Lai hay ăn thịt người. Cố đi nhanh lên, bây giờ nó sắp về
rồi đó.
Nhưng sư đã vứt tay nải, nằm vật xuống đất. Hai đầu gối va vào nhau chan chát. Bà cụ
không biết nói thế nào nữa, đành nắm tay y lôi đến một cái hầm đá lớn. Sau khi đẩy
vào, bà cụ bảo y phải giữ cho thật im lặng để tránh một cái chết thê thảm. Đoạn, bà cụ
chất củi phủ lá rất kín đáo.
Trời tối hắn thì Ác Lai về đến nhà, tay xách một con mang. Hắn dừng lại ở chân thang
và khịt mũi mãi. Hắn nói:
- Có mùi thịt mẹ ạ!
Mẹ hắn đáp:
- Thì chả thịt mày mang về đấy là gì?
- Không phải. Thịt người. Con biết lắm. Có thịt người.
Bà cụ chưa kịp can thì hắn đã quẳng con mang lên sàn rồi chạy đi tìm. Chả mấy chốc,
hắn đã lôi được nhà sư bất tỉnh nhân sự từ dưới hầm về phòng mình.
Khi sư tỉnh dậy thì đã thấy Ác lai đang cầm một mũi mác lăm lăm ở tay. Hắn quát:
- Mày đi đâu?
Sư nhìn kỹ thấy hắn cũng không khác gì người thường bèn tỉnh táo đáp:
- Tôi đi tìm Phật.
- Tìm để làm gì?
Sư bấy giờ mới nói rõ mục đích của mình. Rồi luôn miệng, sư giảng giải đạo từ bi cho
hắn. Sư nói mãi, nói mãi, kể lại bao nhiêu nỗi gian truân dọc đường, và niềm mong
muốn cuối cùng là làm sao được nhìn mặt đức Phật để Phật độ cho thành chính quả.
Sư nói khéo quá, đến nỗi mẹ con Ác Lai đều cảm động đến rơi nước mắt. Thấy họ
thành thật hối lỗi, sư cho họ biết là họ cũng sẽ trở nên "vô sinh vô diệt", sẽ sống một
đời sống bội phần sung sướng trên Nát-bàn, nếu họ nhất quyết bỏ ác làm thiện. Tự
nhiên mũi mác ở tay Ác Lai rơi xuống sàn. Những đường nhăn hung ác mới đó giờ đã
dịu lại.
Sáng hôm sau, khi sư sắp sửa lên đường thì mẹ con Ác Lai vui vẻ sắp sẵn lương thực
cho chàng. Họ lại tiễn đưa sư sang tận bên kia một ngọn núi đá. Khi sắp từ biệt, Ác
Lai hỏi:
- Tôi biết lấy gì mà dâng Phật đây?
Sư đáp:
- "Tâm tức thị Phật, Phật tức thị tâm". Chỉ dâng tấm lòng mình là đủ.
Sư không ngờ Ác Lai đã rút mũi mác, nhanh như cắt tự rạch bụng mình lôi ra cả một
mớ ruột gan đưa cho sư và nói:
- Nhờ hòa thượng đưa hộ dâng lên đức Phật.
Sư lấy làm bối rối quá. Chỉ vì Ác Lai hiểu nhầm lời nói của mình. Bây giờ còn biết
làm thế nào đây. Cuối cùng sư ta đành nhìn vào cặp mắt của Ác Lai, gật đầu nhận lời
rồi gói bộ lòng của con người đáng thương đó lại và quảy lên vai, cất bước ra đi.
Sư vừa đi được mấy ngày thì khu rừng rậm chấm dứt, biển lộ ra trước mặt mênh mông
bát ngát. Nước trời một vẻ trông rất vui mắt, nhưng trong bụng sư lại chẳng vui một tí
nào. Món lễ vật của đức Phật đè nặng trên vai. Nếu chỉ có thế thì không có gì đáng
ngại cho lắm. Khổ một nỗi là mùi thối từ bộ lòng kia xông ra khó tả. Sư lẩm bẩm: -
"Như thế này thì các nhà quán dọc đường còn ai dám chứa mình". Qua ngày hôm sau,
không thể chịu nổi nữa, sư bèn vứt bộ lòng Ác Lai xuống biển.
Nhà sư đi mãi rồi cũng đến Tây-trúc. Nhưng khi phủ phục trước Phật đài nói lên nỗi
thắc mắc của mình vì sao chưa được đắc đạo thì bỗng nhiên trên điện cao có tiếng
vọng xuống bảo chàng: - "Còn thiếu một vật nữa mới thành chính quả". Sư rất đỗi
kinh ngạc, cố ngước mắt nhìn lên một tí. Trên cao vời vợi, sư thấy hai người tựa hồ
như hai mẹ con Ác Lai. Sư bỗng hiểu hết: Đức Phật đã rõ sự thiếu thành thực, thiếu
tận tâm của mình rồi; còn mẹ con Ác Lai nay đã thành chính quả chỉ là nhờ trong một
lúc, ngộ đạo mau lẹ và chân thành. Sư nằm phục vị hồi lâu, lòng thẹn thò vô kể.
Nhà sư ta sau đó lại trở về chốn cũ để tìm lại bộ lòng. Tuy biển mênh mông sâu thắm,
nhưng sư cũng cố lặn hụp để mong thấy lại món quà dâng Phật mà Ác Lai gửi cho
mình. Sư nghĩ chỉ có làm thế mới dám nhìn lại mẹ con Ác Lai và hy vọng tới gần tòa
sen đức Phật. Sư bơi lên lặn xuống mãi. Sau đó sư hóa làm loài cá mà người ta vẫn gọi
là cá he,cũng gọi là cá nược hay có nơi gọi là cá ông sư. Vì cho đến ngày nay
dòng dõi loài cá đó con nào con ấy có cái đầu trọc như đầu ông sư và vẫn làm cái việc
của nhà sư, nghĩa là chúng đi hàng đàn, cứ lặn xuống nổi lên luôn không chịu nghỉ.
Những người đánh cá còn nói loài cá he rất ghét những ai trêu chọc mình. Ai trêu
chọc nghĩa là gợi lại chuyện cũ của tổ tiên chúng nó, chúng nó sẽ làm cho đắm thuyền
rách lưới. Trái lại, ai khen ngợi reo hò thì chúng nó sẽ lặn xuống nổi lên nhiều lần cho
mà xem


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam   Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam Icon_minitimeFri Feb 01, 2019 5:55 pm

14. SỰ TÍCH CON SAM

Ngày xưa có hai vợ chồng một người đánh cá nghèo. Một hôm người chồng ra khơi
với bạn nghề. Không may có một trận bão rất lớn nổi lên giữa lúc họ đang thả lưới.
Không một người nào thoát khỏi tai nạn.
Tin dữ về đến làng, tất cả mọi gia đình đánh cá đều đau khổ. Tiếng khóc lan đi các
nhà. Riêng người đàn bà lòng đau như cắt. Như điên như cuồng, bà bỏ nhà ra đi, hy
vọng tìm thấy chồng. Bà cứ theo bờ biển đi, đi mãi. Trải qua hai ngày đến một hòn
núi lớn. Bà trèo lên rồi vì mệt quá ngủ thiếp dưới một gốc cây.
Đang ngủ bỗng có một tiếng nổ dữ dội. Bà choàng dậy thấy một ông lão đầu tóc bạc
phơ đứng trước mặt mình, hỏi:
- Người là ai mà dám đến nằm trước nhà ta?
Người dàn bà mếu máo đáp:
- Tôi đi tìm chồng. Cụ làm ơn chỉ giúp kẻo tôi nóng lòng nóng ruột quá!
Cụ già nói:
- Ta là thần Cây. Thấy nhà người chung tình ta rất thương. Vậy ta báo cho biết là
chồng người còn sống, hiện ở ngoài hải đảo.
Nói rồi, ông cụ trao cho người dàn bà một viên ngọc và bảo:
- Ngươi hãy ngậm viên ngọc này vào miệng thì sẽ bay qua được biển đế gặp chồng.
Nhưng phải nhớ là nhắm mắt ngậm miệng kẻo rơi ngọc mà nguy đó.
Ông cụ nói xong biến mất. Bà ta lấy ngọc ngậm vào miệng và nhắm mắt lại. Thốt
nhiên trời bỗng nổi gió ù ù. Bà thấy người như nhẹ bỗng, hai bên tai nghe tiếng vo ve.
Được một lúc sau thấy chân chấm đất, bà mở mắt ra thì thấy mình đang đứng trên một
bãi cát lạ mà gió bấy giờ đã lặng. Trông thấy chồng ngồi co ro trên bãi, bà mừng quá.
Hai vợ chồng hàn huyên một hồi lâu rồi mới tính chuyện trở về làng cũ.
Người chồng ôm ngang lưng vợ để vợ đưa qua biển cả. Lòng người vợ sung sướng
không thể nói hết. Vì thế, bà ta đã quên mất lời của thần Cây dặn. Miệng mắc ngậm
ngọc nhưng bà vẫn cố hỏi chuyện chồng. Đột nhiên viên ngọc văng ra giữa không
trung. Bà chỉ kịp kêu lên một tiếng rồi cả hai vợ chồng đều sa xuống biển. Rồi đó họ
hóa thành những con sam.
Ngày nay, những con sam thường đi cặp đôi ở dưới nước, lúc nào con sam đực cũng
ôm lấy con sam cái như khi chồng ôm vợ để bay qua biển.
Có câu tục ngữ Thương như sam , là do truyện này mà ra.


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam   Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam Icon_minitimeFri Feb 01, 2019 5:56 pm

15. SỰ TÍCH CON DÃ TRÀNG

Có hai vợ chồng một ông già tên là Dã Tràng. Trong vườn họ có một hang rắn.
Thường ngày làm cỏ gần đấy, ông già vẫn thấy có một cặp vợ chồng rắn hổ mang ra
vào trong hang.
Một hôm, con rắn chồng bò ra khỏi hang một mình. Ông nhìn thấy rắn vợ nằm cuộn
ở trong. Vì mới lột nên mình mẩy nó yếu ớt không cựa quậy được. Một lúc lâu, rắn
chồng bò trở về, miệng tha một con nhái đút cho vợ ăn.
Ít lâu sau, Dã Tràng lại thấy rắn vợ bò ra khỏi hang một mình. Lần này rắn chồng đến
kỳ lột nằm im thim thíp, lốt da cũ còn bỏ lại bên hang. Hồi lâu, rắn vợ trở về, theo sau
có một con rắn đực khác khá lớn. Dã Tràng thấy hai con bò đến cửa hang thì dừng lại
rồi quấn lấy nhau như bện dây thừng. Một lát sau, con rắn đực một mình bò vào hang.
Dã Tràng biết con rắn đực này toan làm gì rồi. Ông cảm thấy ngứa mắt, muốn trừ bò
con rắn đó đi để cứu con rắn chồng đang lúc suy nhược. Lúc đó bên mình không có
cái gì cả, ông bèn rút một mũi tên nhằm con rắn mới, bắn ngay một phát. Không ngờ
mũi tên lại trúng vào đầu con rắn vợ chết tươi, còn con kia hoảng hồn chạy mất. Dã
Tràng nghĩ cũng thương con rắn cái nhưng trong thương có lẫn cả giận, nên ông chán
nản bỏ đi về nhà. Từ đó, ông không thèm để ý đến hang rắn nữa.
Chừng dăm ngày sau, một hôm, Dã Tràng nằm võng thuật chuyện vợ chồng con rắn
cho vợ mình đã thấy và đã làm. Ông kể vừa dứt lời thì bỗng nghe trên máng nhà có
tiếng phì phì. Cả hai người hốt hoảng nhìn lên thì thấy có một con rắn hổ mang rất
lớn, đuôi quấn lấy xà nhà, đầu vườn tới gần chỗ ông nằm, miệng nhả một viên ngọc.
Ông vừa cầm lấy thì bỗng nghe được tiếng rắn nói:
- Ông là ân nhân mà tôi cứ ngỡ là kẻ thù. Mấy hôm nay tôi đợi ông trên máng này chỉ
chực mổ chết để báo thù cho vợ tôi. Nhưng vừa rồi nghe ông kể chuyện rõ ràng, tôi
mới biết là lầm. Xin biếu ông viên ngọc nghe này. Đeo nó vào mình thì có thể nghe
hiểu được mọi tiếng muông chim ở thế gian.
Từ kinh ngạc đến sung sướng, Dã Tràng nhận viên ngọc quý và từ đó không bao giờ
rời.
Một hôm, Dã Tràng đang hái rau, bỗng có một bầy quạ đến đậu ở mấy ngọn cau nói
chuyện lao xao. Chúng nó bảo Dã Tràng như thế này: - "Ở núi Nam có một con dê bị
hổ vồ. Hãy lên đó lấy về mà ăn nhưng nhớ để lòng lại cho chúng tôi với". Dã Tràng
làm theo lời quạ, quả thấy xác một con dê trên núi Nam. Ông xẻo lấy một ít thịt xâu lại
xách về. Đến nhà, ông vội mách cho xóm giềng biết mà đi lấy, không quên dặn họ để
bộ ruột dê lại cho bầy quạ. Nhưng ông không ngờ người trong xóm nghe tin ấy đua
nhau đi đông quá, thành ra họ lấy hết cả, chẳng chừa một tý gì.
Lũ quạ không thấy ruột dê, cho là Dã Tràng đánh lừa, bèn đổ xô đến vườn ông réo lên
om sòm. Thấy vậy, ông biết là người trong xóm đã làm hại mình không giữ chữ tín với
bầy quạ. Ông phân trần mấy lần nhưng bầy quạ không nghe, cứ đứng đó chửi mãi.
Tức mình, ông bèn lấy cung tên ra bắn vào chúng. Chủ ý là để đuổi chúng đi chứ
không định giết. Chẳng ngờ bầy quạ thấy vậy cho là ông lấy oán trả ân liền cắp lấy
mũi tên có đề tên Dã Tràng ở đuôi, tìm dịp báo thù. Lúc bay qua sông thấy một cái
xác chết trôi, đàn quạ bèn đem mũi tên cắm vào yết hầu xác chết. Khi quan sở tại đến
làm biên bản, thấy mũi tên, liền đoán Dã Tràng là thủ phạm, sai lính bắt ông hạ ngục.
Dã Tràng bị bắt bất ngờ hết sức kêu oan, nhưng mũi tên là một chứng cứ sờ sờ làm
cho ông đuối lý, đành chịu chui đầu vào gông. Tuy nhiên, ông vẫn một mực xin quan
xét nỗi oan uổng. Thấy vậy, quan sai lính giải ông về kinh để vua phân xử.
Từ đề lao tỉnh, ông lại bị điệu đi. Dọc đường trời tối bọn lính dừng lại quán ăn uống
và nghỉ ngơi. Dã Tràng cổ bị gông, chân bị xiềng nằm trên đống rơm buồn rầu không
ngủ được. Lúc trời gần rạng, ông nghe có một đàn chim sẻ bay ngang đầu nói chuyện
về nhau: - "Nhanh lên! Chuyến này sẽ không lo đói nữa mà cũng chả sợ ai đánh đuổi
cả". Một con khác hỏi: - "Của ai mang đến bỏ vương vãi thế nhỉ?". Con nọ trả lời: -
Của vua nước bên kia. Họ toan kéo sang đánh úp nước bên này. Ngày hôm qua quân
đội giáo mác kéo đi liên miên không ngớt. Nhưng xe thóc vừa sắp đến biên cương thì
bị sụp hầm đổ hết. Họ đang trở về lấy thứ khác, cho nên chúng mình tha hồ chén".
Nghe đoạn, chờ lúc bọn lính đến dẫn ông lên đường, Dã Tràng bảo họ:
Xin các ông bẩm lại với quan rằng việc của tôi là việc oan uổng và nhỏ mọn không
nên bận tâm, mà giờ đây có một việc quốc gia trọng đại và cấp bách nữa, cần tính liệu
gấp.
Bọn lính tra gạn ông mãi nhưng ông không nói gì thêm, chỉ nài rằng hễ có mặt quan
mình mới tỏ bày rõ ràng.
Khi gặp mấy vị quan đầu tỉnh, Dã Tràng liền cho họ biết rằng vua Hiền Đế ở phương
Bắc đã sai tướng cầm quân sang đánh úp nước mình. Hiện họ đang đóng quân đầy ở
biên giới, chỉ vì bị sụp hầm, xe lương đổ hết, chưa tấn công được. Bây giờ họ đang
vận thêm lương, chờ đầy đủ sẽ vượt cửa ải sang Nam.
Bọn quan tỉnh lấy làm lo lắng nhưng cũng gạn hỏi ông có dám chắc như vậy không.
Dã Tràng chỉ vào đầu mình đoan rằng nếu nói sai, ông sẽ xin chịu chết. Nhưng nếu lời
của ông đúng thì xin bề trên phóng thích cho ông. Ngay lúc đó, những tên quân do
thám được tung đi tới tấp mọi ngả để lấy tin. Chỉ nội ngày hôm sau, Dã Tràng đã được
thả vì lời mách của ông quả đúng và vừa vặn để chuẩn bị đối phó với địch.
Được tha, Dã Tràng đi bộ lần về quê nhà. Bóng chiều vừa ngả, ông mới đến vùng
Hồng-hoa. Ông tìm vào nhà người bạn rất thân là Trần Anh nghỉ chân.
Gặp lại bạn cũ, vợ chồng Trần Anh vui mừng khôn xiết. Nghe tin ông bị tra tấn giam
cùm và suýt mất đầu, hai vợ chồng rất thương cảm.
Thấy bữa ăn tối thiết bạn không có gì, Trần Anh xuống bếp bảo vợ:
- Bạn ta đến lại gặp lúc trong nhà chả có gì ăn. Sẵn có cặp ngỗng, con nó đã khôn, ta
làm thịt một con, ngày mai đãi bạn lên đường.
Người vợ bằng lòng nhưng dặn chồng sáng dậy sớm bắt ngỗng và cắt tiết vặt lông giúp mình một tay.
Trong khi hai vợ chồng bàn tính thì cặp ngỗng ở ngoài chuồng nghe được câu chuyện.
Ngỗng trống bảo ngỗng mái: - "Mình ôi! Mình hãy ở lại nuôi con, tôi sẽ đứng sẵn cho
chủ nó bắt". Ngỗng mái không nghe, xin chết thay chồng. Nhưng ngỗng trống nhất
quyết hy sinh, nên chạy ra sân từ giã đàn con: - Con ơi! Các con ở lại với mẹ nghe.
Cha sẽ không bao giờ gặp lại các con nữa". Song ngỗng mái vẫn lạch bạch chạy theo,
đòi chết thay chồng cho bằng được.
Lúc bấy giờ Dã Tràng nằm trên bộ ván đặt kề cửa sổ nên nghe được tiếng ngỗng than
thở. Ông bỗng thấy thương con vật vô tội chỉ vì mình mà phải lìa đàn con bé bỏng.
Ông toan nói trước với bạn, nhưng thấy bất tiện. Ông đành nghe ngóng ở chỗ chuồng
ngỗng chờ lúc bạn ra bắt thì sẽ cản lại.
Suốt đêm hôm đó tuy mệt mà ông không dám ngủ. Quả nhiên, vào khoảng canh tư,
Trần Anh thức dậy bước ra chuồng. Ngỗng trống xua ngỗng mái chạy rồi vươn cổ để
cho bắt. Khi Trần Anh sắp cắt cổ ngỗng thì Dã Tràng đã lật đật chạy xuống bếp nắm
lấy dao. Ông nói:
Xin bạn thả nó ra. Tính tôi không hay sát sinh. Tình thân của đôi ta lọ phải cỗ bàn
mới thân. Nếu bạn giết nó thì tôi lập tức đi khỏi chỗ này.
Thấy bạn có vẻ quả quyết, Trần Anh đành thả ngỗng ra, rồi giục vợ chạy đi mua tép
về đãi bạn.
Cơm nước xong, Dã Tràng từ giã bạn lên đường về nhà. Đến ao, ông đã thấy vợ chồng
ngỗng cùng với bầy con đứng chực ở đấy. Ngỗng đực tặng Dã Tráng một viên ngọc và
nói:
Đa tạ ân nhân cứu mạng. Không biết lấy gì báo đền, chúng tôi xin tặng người viên
ngọc này, mang nó vào người có thể đi được dưới nước dễ dàng không khác gì trên
bộ. Nếu đem ngọc này xuống nước mà khoắng thì sẽ rung động đến tận đáy biển.
Ngỗng lại nói tiếp:
- Còn như con tép là vật đã thế mạng chúng tôi thì từ nay, dòng dõi chúng tôi sẽ xin
chừa tép ra không ăn, để tỏ lòng nhớ ơn!
Dã Tràng không ngờ có sự báo đáp quá hậu như thế, sung sướng nhận lấy ngọc rồi về.
Khi đến bờ sông, Dã Tràng muốn thử xem công hiệu của viên ngọc mới, liền cứ để
nguyên áo quần xuống nước. Thì lạ thay nước rẽ ra thành một lối cho ông đi thẳng
xuống đáy sông. Ông dạo cảnh hồi lâu rồi cầm viên ngọc khoắng vào nước nhiều lần
thử xem thế nào.
Hôm đó, Long vương và các triều thần đang hội họp ở thủy phủ bỗng thấy nhà cửa
lâu đài và mọi kiến trúc khác bỗng nhiên rung động cơ hồ muốn đổ. Ai nấy đều nháo
nhác không hiểu duyên cớ. Vua lập tức truyền cho bộ hạ đi dò la sự tình.
Bộ hạ Long vương đi theo con đường sóng ngầm lọt vào cửa sông thì thấy Dã Tràng
đang cầm ngọc khoắng vào nước. Mỗi một lần khoắng như thế, họ cảm thấy xiêu
người nhức óc. Tuy biết đích là thủ phạm, họ cũng không dám làm gì, chỉ tiến đến
dùng lời nói khéo mời ông xuống chơi thủy phủ.
Gặp Long vương, Dã Tràng cho biết đó là mình chỉ mới làm thử để xem phép có hiệu
nghiệm chăng. Long vương và triều thần nghe nói, ai nấy đều xanh mắt. Nếu hắn làm
thật thì thế giới thủy phủ sẽ còn gì nữa! Vì thế, Long vương đãi Dã Tràng rất hậu. Ông
muốn gì có nấy. Cho đến lúc ông ra về, Long vương còn đem vàng bạc tống tiễn rất nhiều để mong ông nể mặt.
Dã Tràng lên khỏi nước có bộ hạ của Long vương tiễn chân về tới tận nhà mới trở lại.
Bà con xóm giềng thấy ông đã không việc gì mà lại trở nên giàu có thì ai cũng lấy làm
mừng cho ông. Từ đó Dã Tràng rất quý hai viên ngọc. Ông may một cái túi đựng
chúng và luôn luôn đeo ở cổ.
Một hôm Dã Tràng đi bộ nửa ngày đường đến nhà một người bà con ăn giỗ. Lúc đến
nơi, Dã Tràng sờ lên cổ giật mình mới nhớ ra vì vội quá nên ông đã bỏ quên mất túi
ngọc ở nhà. Ông không thể nào còn an tâm ngồi ăn được. Mọi người đều lấy làm ngạc
nhiên thấy ông vừa chân ướt chân ráo đến nơi đã vội cáo từ về ngay.
Nhưng khi về đến nhà, ông tìm mãi vẫn không thấy túi ngọc đâu cả. ông rụng rời cả
người. Đi tìm vợ, vợ cũng không thấy nốt. Nóng ruột, ông lục lọi khắp nơi. Cuối cùng
ông bắt được một mảnh giấy do vợ viết để lại gài ở chỗ treo án. Trong đó, vợ ông nói
rằng có người của Long vương lên bảo cho biết hễ ai bắt được túi ngọc đưa xuống
dâng Long vương thì sẽ được phong làm hoàng hậu. Bởi vậy bà ta đã trộm phép ông
đưa túi ngọc xuống thủy phủ rồi, không nên tìm làm gì cho mệt.
Đọc xong thư vợ, Dã Tràng ngất đi. Ông không ngờ vợ ông lại có thể như thế được.
Ông cũng không ngờ âm mưu của Long vương thâm độc đến nước ấy. Nghĩ đến hai
thứ bảo vật, ông tức điên ruột. Sau cùng, ông dự tính cho cát lấp biển thành một con
đường đi xuống thủy phủ để lấy lại túi ngọc vì ông còn nhớ rõ đường lối đến cung
điện của Long vương. Mặc dầu mọi người can ngăn, ông cũng không nghe, bèn dọn
nhà ra bờ biển để làm công việc đó. Ngày ngày ông xe cát chở đến bờ quyết lấp cho
bằng được.
Cho tận đến chết, Dã Tràng vẫn không chịu bỏ dở công việc. Chết rồi ông hóa thành
con còng còng hay cũng gọi là con dã tràng, ngày ngày xe cát để lấp biển.
Tục ngữ có câu:
Dã tràng xe cát biển Đông,
Nhọc lòng mà chẳng nên công cán gì.
hay là:
Công dã tràng hàng ngày xe cát,
Sóng biểu dồn tan tác còn chi.
hay là:
Con còng còng dại lắm không khôn,
Luống công xe cát sóng dồn lại tan.
Người ta nói ngày nay loài ngỗng sở dĩ không bao giờ ăn tép là vì chúng nó như ăn
loài tép đã thế mạng cho tổ tiên mình ngày xưa. Họ còn nói loài ngỗng có một cái mào
trắng trên đầu là dấu hiệu để tang cho Dã Tràng để nhớ ơn cứu mạng


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam   Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam Icon_minitimeFri Feb 01, 2019 5:56 pm

16. GỐC TÍCH BỘ LÔNG QUẠ VÀ BỘ LÔNG CÔNG

Xưa kia Quạ và Công là đôi bạn chí thân. Cũng vì màu lông của chúng giống nhau:
con nào con nấy đều xám xịt như vừa rúc ở bùn lên. Lúc ấy chúng làm gì đã có bộ
cánh như bây giờ. Cả hai con đều tự biết mình xấu nên không dám chơi với ai cả.
Riêng Công dưới mắt Quạ thì lại càng xấu tệ: cái đầu bé tý chẳng cân xứng với con
người. Thêm vào đó, một cái cổ dài và ngẳng nghiu, thật khó coi hết sức. Một hôm
Quạ bảo Công:
- Đằng kia có người thợ vẽ có thuốc đủ các màu, chúng ta hãy ăn trộm về mà tô chuốt
cho nhau, sửa lại bộ cánh cho đẹp.
Công gật gù nhận lời. Hôm ấy, người thợ đang vẽdở cho người ta một bô tứ bình,
thuốc vẽ còn bỏ lăn lóc bốn bên người. Thừa dịp người thợ ngủ ngày, hai con vật lần
lượt mò vào lấy trộm bút lông và thuốc vẽ đưa ra một gò con ở giữa hồ gần đấy. Lần
thứ ba chúng nó toan vào lấy một mẻ nữa nhưng người thợ vẽ đã ngủ dậy. Chúng
đành trở ra kiểm lại thì thấy chỉ được có một thỏi mục tàu, một gói thuốc xanh và một
gói kim nhũ. Quạ bảo:
- Thôi được, ta cứ bắt đầu vẽ cho nhau đi!
Nói đoạn, Quạ bắt Công nằm xuống cho mình tô điểm. Quạ vốn khéo tay, thoạt tiên
nó dùng màu xanh tô vào đầu vào cổ và mình Công. Tô đến đâu, rắc kim nhũ đến
đấy. Đến cái đuôi, Quạ bắt Công phải cố xoè ra như cánh quạt cho mình vẽ được kỹ
lưỡng. ở mỗi lông đuôi Quạ vẽ những vòng tròn và tô bằng mực tàu và kim nhũ rất
đẹp.
Tô xong đắc ý, Quạ bắt Công phơi cái đuôi cho thật khô.
Công vốn vụng về nên khi bắt tay vào tô điểm cho Quạ thì nó lúng túng. Hơn nữa lúc
đó màu xanh và kim nhũ đã cạn.
Giữa lúc Công chưa biết trang sức cho Quạ như thế nào thì bỗng có Quạ khoang ở
đâu bay đến. Quạ khoang vốn có họ với nhà Quạ. Hồi ấy màu lông của nó trắng toát
như vôi. Chưa đỗ xuống, nó đã giục tíu tít:
- Anh Quạ! Anh làm gì đó? Mau đi về phương Đông!
Để làm gì?
- Có tin cho biết rằng phía đó mới có một trận đánh nhau to, thây chết như rạ. Thật là
một dịp may hiếm có.
Quạ nghe nói đến thịt người thì sự thèm muốn làm cho nó không tự chủ được nữa.
Quạ bảo Quạ khoang:
- Thế à? Nhưng để nó tô điểm cho tao cái đã. Chịu khó chờ tý nhé!
- Không được. Phải đến trước ban đêm... Ngày mai mới đến thì người ta chôn hết còn
gì nữa.
Quạ nóng nảy, giục Công:
- Thế thì phải làm gấp lên mới được!
Quạ khoang thấy Công đẹp nên cũng muốn có một bộ cánh tươm tất. Nó xen vào:
- Anh Quạ! Anh làm ơn cho tôi một tý với. Tôi cũng cần ăn mặc tử tế một chút.
Quạ vui lòng chia sẻ phần thuốc vẽ của mình cho người em họ. Công nhân lúc Quạ
vội nên chả cần ngắm nghía gì lôi thôi, trút một nửa số mực tàu lên đầu Quạ. Mực
chảy đến đâu, người Quạ đen đến đó. Công còn hữu ý bôi cả vào mỏ vào chân làm
cho toàn bộ người Quạ đen nhánh như cột nhà cháy.
Đến lượt tô cho Quạ khoang, Công cũng đổ số mực còn lại lên người nó. Khi nước
mực rót xuống đâu, Quạ khoang hơi ngại vội rụt cổ lại, thành thử cổ của nó có một cái ngấn không bị mực thấm đến.

Nhìn thấy Công tô điểm cho Quạ khoang, Quạ mới biết là mình dại, không dưng lại
để cho một kẻ vụng về trang điểm. Nhưng việc đã lỡ còn biết làm gì được nữa. Tức
mình quá hai anh em nhà Quạ chỉ còn biết mắng cho Công một trận rồi bỏ đi. Từ đó
Quạ không chơi với Công nữa.
Cũng vì thế mà ngày nay dòng dõi loài Công có bộ cánh rất sặc sỡ. Đi đâu chúng nó
cũng ưỡn ẹo và luôn miệng khoe khoang: "Cuông[1] tốt! Cuông tốt! . Trái lại, dòng
dõi loài Quạ thì bộ cánh đen thui như mực, trong đó có Quạ khoang đặc biệt có một
cái ngấn trắng ở xung quanh cổ. Vì phải bộ cánh xấu quá nên Quạ rất thẹn thò, đi đâu
cũng than thở: "Quạ xấu hổ! Quạ xấu hổ!


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam   Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam Icon_minitimeFri Feb 01, 2019 5:57 pm

17. GỐC TÍCH TIẾNG KÊU CỦA VẠC, CỘC, DỦ DỈ, ĐA ĐA VÀ CHUỘT

Xưa Cò, Vạc, Cộc, Dủ dỉ và Đa đa ăn ở với nhau như anh em một nhà. Chúng nó
sống một cuộc đời sung sướng và hòa thuận. Con nào con ấy đều có nhà cửa, ruộng
đồng riêng, nhưng mỗi khi kiếm được món gì ngon như mớ cá, rổ tép, v.v... trong
đồng của mình thì chúng thường chia nhau ăn rất vui vẻ, tử tế.
Không ngờ một ngày kia chúng nó rủ nhau đánh bạc. Trước còn đánh một đồng, hai
đồng nhưng sau ăn thua lớn. Trong cuộc bạc hôm ấy, Cò vơ tất cả. Cuối cùng cả mấy
con kia phải vay nợ của Cò để gỡ gạc, nhưng chúng chỉ "gỡ vào", mà thôi. Hơn nữa.
Cò âm mưu với Chuột viết vào văn tự nhiều hơn số tiền bọn họ đã vay. Vì không biết
chữ, không ngờ bị Chuột làm gian nên hầu hết tài sản của Vạc, Cộc, Dủ dỉ và Đa đa
đều thuộc về tay Cò cả.
Thua cay hơn hết là Đa đa. Cờ bạc đến lúc "khát nước nó bèn đánh những tiếng rất
táo bạo. Vì thế, đến lúc phủi áo đứng dậy, Đa đa đã gán hết từ ruộng đồng cho đến
nhà ở của mình cho Cò. Ngay buổi sáng hôm sau, Đa đa trần như nhộng, phải bán xới
đi kiếm ăn ở miền núi cao.
Dủ dỉ không thua quá nhiều như Đa đa. Nhưng Chuột đã chơi cho nó một vố khá
đau. Trong văn tự, Chuột đã viết là Dủ dỉ sẽ gán tất cả phần đồng điền của nó nếu quá
hạn không trả được nợ. Vì thế đến hạn, Dủ dỉ mất hết cả ruộng đồng, chỉ còn lại cái
nhà ở.Từ đó nó phải ngày ngày đi làm thuê làm mướn kiếm ăn rất cực khổ.
Còn Vạc chỉ thua có ba mươi quan. Nhưng khi nhờ Chuột làm giấy hộ: Chuột đã viết
còn số ba thành con số chín. Cho nên cuối cùng Vạc cũng mất gần hết phần ruộng
đồng của mình cho Cò. Nhưng Vạc vốn không sợ Cò. Không dám kiếm ăn công khai
thì Vạc ta lại kiếm ăn lẩn lút trên đồng đất của Cò. Đêm đến, chờ khi Cò về nhà nghỉ
ngơi, Vạc mới mò ra đồng ăn trộm con tôm cái tép. Nhờ thế cũng đủ sống qua ngày
Riêng Cộc cũng thua cháy túi như Đa đa. Cuối cùng vốn liếng còn lại chỉ có mười
quan định để dành đong gạo, nhưng máu mê cờ bạc xui nó đánh luôn một tiếng vào
cửa lẻ. Khi mở bát ra thì bốn đồng tiền trắng xóa làm cho Cộc sững sờ), rồi ngất đi.
Cho đến khi những con khác gào vào tai: - "Thua rồi, ớ Cộc! thì nó mới tỉnh dậy, và
vì xấu hổ quá nên đâm đầu chạy miết, không ngoái cổ lại.
Còn Cò nhờ cuộc bạc hôm ấy lại nhờ khóe gian của Chuột nên làm chủ đồng ruộng
mênh mông. Hàng ngày nó bay hết đồng này sang trồng khác ăn uống thỏa thích.
Từ đó, dòng dõi của Cò thong dong đi lại kiếm ăn ban ngày. Người ta bảo "ruộng cò
bay thẳng cánh" là thế. Trên đầu nó có mấy cái lông "seo" người ta vẫn gọi là cò văn
tự", để chỉ những khế tự giấy tờ của nó mang theo luôn luôn bên người. Dòng dõi Vạc
thì chờ lúc tắt mặt trời mới rúc ra khỏi bụi tre và kêu luôn mồm: - "Thua một vác!
Thua một vác!"[1]. Trời chưa sáng, chúng nó đã lò mò về tồ, chỉ sợ dòng dõi nhà Cò
bắt gặp. Dòng dõi của Dủ dỉ thường kêu những tiếng ai oán: - "Đông Tây tứ chi bán
hết! Mần như ri cực cực? Mần như ri cực cực!"[2]. Dòng dõi Đa đa thì không dám trở
về quê hương đồng ruộng nữa. Tuy thế, chúng nó vẫn kêu lên những lời tỏ ý tiếc nhớ
đời sống sung sướng ở đồng ruộng của cha ông chúng ngày trước: - "Tiếc rổ tép đa
đa? Tiếc rổ tép đa đa!"[3]. Dòng dõi Cộc thì thỉnh thoảng lại gào lên mấy tiếng: -
"Thua rồi, ớ Cộc!" rồi đâm đầu xuống nước, lặn một mạch thật xa mới trồi đầu lên tìm
chỗ vắng mà đậu. Còn chuột, người ta bảo trong việc làm gian lận nói trên, nó chả
được lợi lộc gì cả. Dòng dõi của nó ngày nay sống trốn tránh lẩn lút chỉ sợ con cháu
Vạc và Dủ dỉ báo thù. Miệng vẫn kêu mấy tiếng: - Chín chục! Chín chục
Tục ngữ có câu:
Con vạc bán ruộng cho cò,
Cho nên vạc phải ăn mò cả đêm.
hay là:
Vạc sao vạc chẳng biết lo,
Bán ruộng cho cò, vạc phải ăn đêm.


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam   Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam Icon_minitimeFri Feb 01, 2019 5:57 pm

18. GỐC TÍCH CÁI NỐT DƯỚI CỔ CON TRÂU

Ngày đó trâu cùng nói một thứ tiếng với người. Nhờ thế người dùng lời nói để sai
khiến con vật theo ý muốn của mình rất tiện. Cũng như thế, những gã mục đồng đối
với trâu không dám đánh đập tàn tệ hoặc cho ăn thiếu thốn vì sợ trâu mách chủ.
Vào hồi đó có một người làm ruộng nuôi một con trâu cày, đồng thời cũng thuê một
cậu bé để chăn con trâu ấy.
Người và vật lúc đầu rất tương đắc. Nhưng sau rồi hai bên bất bình với nhau. Cậu bé
này tính ham chơi, nhiều khi quên mất phận sự của mình làm cho trâu nhiều lúc chả
được miếng gì vào bụng. Có bữa vì say mê một cuộc đánh khăng hay đánh đáo,
nhưng lại sợ trâu ăn lúa, cậu ta đã cột trâu lại một nơi không cho ăn. Những lúc đó, để
che mắt chủ, hắn dã dùng một mẹo là lấy mo cau áp một lớp vào bụng con vật, rồi trát
đất bùn ra ngoài. Cứ như thế, hắn dắt trâu về chuồng. Chủ nhà nhìn thấy bụng trâu
căng lớn tướng thì tỏ ý hài lòng mà không căn vặn gì nữa. Nhờ mẹo ấy, cậu ta đã lừa
được chủ nhiều lần nhưng cũng nhiều lần làm cho trâu rất tức tối.
Một hôm, cậu bé mải chơi quá. Hội khăng vui đáo để làm cho hắn quên mất cả.
Nhưng trâu thì nhịn từ trưa cho đến chiều. Trâu gọi mãi, nhưng hắn ta nào có để ý
đến. Buổi chiều hôm ấy trâu định mách chủ nhưng hắn khôn ngoan dùng lời lấp liếm
không cho trâu có dịp mở miệng.
Buổi sáng hôm sau, người chủ dắt trâu ta cày ruộng. Trâu cố làm ra bộ bước không
muốn nổi. Chủ gắt:
- Nào có đi mau lên không. Đồ lười?
Trâu trả lời:
- Không phải lười mà tại đói.
Chủ hỏi tiếp:
- Thế nào? Ngày nào mà thằng bé chả cho mày ăn một bụng no căng.
Bấy giờ trâu mới vạch mặt:
- Cưỡi trâu ra đánh khăng đánh đáo,cưỡi trâu về nói láo trâu no. No gì mà no:
trong mo ngoài đất sét. Ỉa cái phẹt, hết no.
Sự giả dối của cậu bé chăn trâu vì thế bại lộ. Ngay buổi trưa hôm đó người chủ vừa lột
những cái mo đầy bùn dưới bụng trâu vừa đánh cho hắn một trận mê tơi. Hắn đau ê cả
người. Nhưng trâu thì rất hả hê và từ hôm đó ngày nào cũng được ăn no lại được tắm
rửa sạch sẽ.
Qua mấy ngày sau, những chỗ bị đánh hãy còn sưng húp, cậu bé ngồi trên bờ ruộng
giọt ngắn giọt dài. Trong khi đó trâu ung dung ăn cỏ. Bỗng dưng có một ông lão hiện
ra sau lưng, hỏi cậu bé vì cớ gì mà khóc. Hắn chỉ vào trâu mà nói: - "Tại nó cả. Vì nó
mách chủ...". Đoạn hắn kể cho ông nghe hết đầu đuôi.
Ông lão nghe xong dỗ dành cậu bé và nói: - "Ta rất thương con gặp phải chuyện
không may. Bây giờ con muốn gì ta sẽ làm cho con vui lòng". Hắn đáp: - "Vì nó biết
nói làm cho con phải đòn. Bây giờ chỉ muốn làm thế nào cho nó không thể nói được
nữa". Ông lão bảo: - Khó gì việc đó. Ta sẽ có phép làm cho con vừa ý". Ông lão bèn
rút trong người ra một cây hương đốt lên thư phù vào trâu, rồi bất thình lình ông lấy
cây hương đó dí vào dưới cổ con vật. Trâu cố giãy giụa nhưng không kịp. Trâu kêu
lên oai oái khản cả cổ. Tiếng nói của trâu dần dần mất hẳn. Cuối cùng,lúc nào muốn
nói, trâu chỉ còn phát ra có mỗi một riêng "nghé ọ... " mà thôi. Chỗ bị thương sau
thành một cái sẹo như cái nốt ruồi, từ đó trâu không nói được nữa. Cả dòng dõi nhà
trâu sinh ra cũng đều không biết nói và cũng đều mang cái nốt ở dưới cổ cho mãi đến
ngày nay


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam   Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam Icon_minitimeFri Feb 01, 2019 5:58 pm

19. SỰ TÍCH CÁI CHÂN SAU CON CHÓ

Ngày xưa có một người đàn bà tên là Thanh Đề rất sùng đạo Phật. Bà ta sùng Phật đến
nỗi cho rằng những cơm bánh do lúa gạo người ta trồng ra ở đồng ruộng thì không
thể nào tinh khiết được, nên không một thứ nào đáng đem lễ Phật. Vì thế, hằng năm
bà ta trồng lúa nếp trong những cái gáo dừa đựng đất sạch. Luôn luôn bà treo cái gáo
đó lên một chỗ cao vì sợ có người bước qua. Khi lúa chín, bà thận trọng rứt từng hạt
một, giã nó bằng một cán dao mới tinh, rồi mới đưa nắm gạo đó đựng vào bát thờ mà
dâng lên chùa.
Một hôm, ở một ngôi chùa lớn trong vùng có mở hội đón tiếp khách thập phương. Vị
hòa thượng chùa ấy cắt đặt một số sư tiếp nhận những lễ vật của thiện nam tín nữ đem
đến cúng Phật. Bà nghe tin không quản đường xa, vội đưa nắm gạo nếp tinh khiết của
mình tìm đến cúng ở chùa đó. Không ngờ mấy vị sư kia chỉ chú ý đến lễ vật hậu hỹ
của những người khác, mà chả ai tưởng đến bà và nắm gạo của bà. Chờ suốt một ngày
không thấy ai nhận, người đàn bà nọ tức mình, ném nắm gạo xuống đất rồi bỏ ra về.
Ít lâu sau, bà ta sửa một lễ cúng Phật tại nhà mình rồi mời hòa thượng và các sư chùa
đó đến tụng kinh. Theo lệ thường, trước khi ra về chủ nhân phải làm bánh tặng họ ăn
đường. Để làm nhục bọn sư bất lương, bà ta giết một con chó lấy thịt băm nhỏ với các
thứ rau thơm làm nhân bánh. Sau bữa cơm chay, bà ta đem bánh do tặng mỗi người
một chiếc. Đoán được mưu mẹo của người đàn bà, vị hòa thượng dặn các nhà sư cầm
bánh về chứ đừng ăn. Họ đều vâng lời, duy chỉ có một nhà sư là quên mất. Dọc đường
thấy bánh thom ngon, sư ta bèn bóc ăn kỳ hết. Những người khác khi đưa bánh về
biết là nhân thịt chó đều quẳng cả vào gốc cây bồ đề ở trước chùa.
Tất cả những việc đó đều thấu tai đức Phật. Trước hết, đức Phật trị tội bọn sư bất
lương và tham lam. Bọn họ bị bắt xuống địa ngục. Con chó chết oan được sống lại.
Nhưng vì nó đã bị nhà sư kia ăn mất một chân nên lúc trở về cõi thế chỉ còn có ba
chân. Đức Phật thấy thế chắp cho nó một chân giả khác để nó tiện đi lại . Những
thứ rau thơm làm nhân bánh bị vứt dưới gốc bồ đề cũng như phép Phật mọc lại xanh
tốt. Đó là ba cây rau om, hành và sả. Vì những loại cây ấy bị nhà chùa coi là đã uế tạp
cho nên sau này những người xuất gia đều kiêng không dùng. Vê phần người đàn bà
cũng bị tội nặng: Phật bắt bà ta bỏ vào tầng ngục thứ mười. Có người bảo đó là bà mẹ
ông Mục Liên, sau này ông ta từng xuống dưới đó thăm mẹ


Được sửa bởi Admin ngày Fri Feb 01, 2019 5:58 pm; sửa lần 1.
Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam   Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam Icon_minitimeFri Feb 01, 2019 5:58 pm

20. SỰ TÍCH CÁI CHỔI

Ngày xưa ở trên cung điện nhà trời có một người đàn bà nấu ăn rất khéo tay. Bà chế
những món bánh trái tuyệt phẩm, làm những thức ăn ngon đến nỗi chỉ nếm qua một
miếng là không thể nào quên được. Cho nên Ngọc Hoàng thượng đế cho bà chuyên
trông nom công việc nấu ăn cho mình ở thiên trù. Nhưng bà lại hay ăn vụng và tham
lam. Lệ nhà trời những người hầu hạ đều có thức ăn riêng, nhất thiết không được đụng
chạm đến ngự thiện, dù là Ngọc Hoàng ăn thừa cũng vậy. Nhưng luật lệ đó không
ngăn được những người đang sẵn thèm khát. Người đàn bà vẫn tìm đủ mọi cách để
làm cho kho thức ăn của nhà Trời hao hụt.
Tuy đã quá tuổi xuân, bà ta lại yêu một lão vốn chăn ngựa cho thiên đình. Đời sống
của những người chăn ngựa thì ở cõi trời cũng như cõi đất đều cực khổ không kém gì
nhau. Ông ta thích rượu và từ khi gặp người đàn bà này lại thèm ăn ngon. Bà ta say
mê ông tưởng trên đời không còn gì hơn được. Mỗi lúc thấy người đàn ông đó thèm
thức ăn, đồ uống của nhà Trời, bà ta không ngại ngần gì cả. Đã nhiều phen bà lấy cắp
rượu thịt trong thiên trù giấu đưa ra cho ông. Và cũng nhiều phen bà dắt ông lẻn vào
kho rượu, mặc sức cho ông bí tỷ.
Một hôm, Ngọc Hoàng thượng đế mở tiệc đãi quần thần. Bà và các bạn nấu bếp khác
làm việc tíu tít. Chỉ vào chập tối, các món ăn đã phải làm đầy đủ. Rồi khi ánh nguyệt
của đêm rằm sáng lòa là mọi người bắt đầu vào tiệc.
Nhưng giữa lúc cỗ đang bay lên mâm thì từ đằng xa, bà đã nghe tiếng lão chăn ngựa
hát. Bà biết ông tìm mình. Bà lật đật ra đón và đưa giấu ông ta vào phía góc chạn. Bà
đưa cho ông mấy chén rượu, thứ rượu ngon nhất của thiên tào rồi trở ra làm nốt mẻ
bánh hạnh nhân.
Người đàn ông đó mới đi tắm ngựa ở bến sông về. Bưng lấy bát cơm hẩm, ông sực
nhớ đến rượu thịt bây giờ chắc đang ê hề ở thiên trù, nên vội lẻn đến đây. Trong bóng
tối, ông nuốt ực mấy chén rượu lấy làm khoái. Chén rượu quả ngon tuyệt, hơi men
bốc lên làm ông choáng váng. Ông bỗng thèm một thức gì để đưa cay. Trong bóng tối
trên giá mâm đặt ở gần đó, có biết bao là mỹ vị mùi thơm phưng phức. Đang đói sẵn,
ông giở lồng bàn sờ soạng bốc lấy bốc để...
Khi những người lính hầu vô tình bưng mâm ngự thiện ra thì bát nào bát ấy đều như
đã có người nào nếm trước. Ngọc Hoàng thượng đế vừa trông thấy không ngăn được
cơn thịnh nộ. Tiếng quát tháo của Ngọc Hoàng dữ dội làm cho mọi người sợ hãi. Bữa
tiệc vì thế mất vui. Người đàn bà nấu bếp cúi đầu nhận tội. Và sau đó thì cả hai người
cùng bị đày xuống trần làm chổi để phải làm việc luôn tay không nghỉ và tìm thức ăn
trong những rác rưởi dơ bẩn của trần gian. Đó là tội nặng nhất ở thiên đình.
Lâu về sau, thấy phạm nhân bày tỏ nông nỗi là phải làm khổ sai ngày này qua tháng
khác không lúc nào ngơi tay, Ngọc Hoàng thương tình ra lệnh cho họ được nghỉ ba
ngày trong một năm. Ba ngày đó là ba ngày Tết nguyên đán. Bởi vậy đời sau trong dịp
Tết nguyên đán, người ta có tục lệ kiêng không quét nhà.
Người Việt-nam chúng ta có câu đố về cái chổi "Trong nhà có một bà hay la liếm"
mô tả thần tình động tác quét nhà nhưng trong đó chắc có ngụ ý nhắc lại sự tích của
cái chổi
Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam   Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam Icon_minitimeSat Feb 02, 2019 3:36 am

21. SỰ TÍCH ÔNG ĐẦU RAU

Ngày xưa, có hai vợ chồng son nhà nghèo. Họ đều sinh nhai bằng nghề làm thuê làm
mướn. Tuy nghèo nhưng họ rất yêu nhau. Thường buổi tối sau khi đi làm về, hai vợ
chồng ngồi bên bếp lửa hay dưới ánh trăng kể cho nhau những chuyện xa gần mới
nghe được, hay hát những câu tình duyên, có khi vui vẻ quên cả cơm nước.
Một năm trời làm mất mùa, hạt gạo kiếm rất khó khăn. Tình trạng đói kém diễn ra
khắp mọi miền. Hai vợ chồng theo lệ cũ đi tìm việc ở các nhà giàu nhưng chả mấy ai
thuê nữa. Người vay công lĩnh nợ thì đông mà gạo rất khan hiếm nên khó chen vào
lọt. Hơn nữa, cổng mấy lão trọc phú lại thường đóng chặt vì chúng không muốn cho
ai quấy nhiễu.
Túng thế hai vợ chồng phải đi mò cua bắt ốc, hoặc đào củ, hái rau về ăn. Tuy có đỡ
phần nào nhưng tình thế vẫn không mảy may sáng sủa. Cái chết luôn luôn đe dọa họ
vì trận đói còn kéo dài. Một buổi chiều, sau khi húp vội mấy bát canh rau má, chồng
bảo vợ:
Tôi phải đi một nơi khác kiếm ăn, không thể ở nhà được.
Nghe chồng nói, người đàn bà đòi đi theo để sống chết cho có bạn. Nhưng người
chồng bảo:
- Tôi chưa biết sẽ đi đến đâu và sẽ phải làm những gì. Nàng ở nhà dễ sống hơn tôi,
không nên theo làm gì cho vất vả. Chưa biết chừng tôi sẽ nằm lại dọc đường để cho
loài chim đến than khóc. Nhưng cũng chưa biết chừng tôi lại mang những quan tiền
tốt bó mo về đây nuôi nàng cũng nên! Chao ôi! Số mệnh! Nàng hãy chờ tôi trong ba
năm, nghe! Hết ba năm không thấy tôi trở về ấy là tôi đã bỏ xác quê người. Nàng cứ
việc đi lấy chồng khác.
Người vợ khóc lóc thảm thiết như đứng trước cảnh tang tóc thực sự. Nhưng không biết
làm thế nào cả, nàng đành phải để chồng ra đi.
Sau khi tiễn chồng, người đàn bà kiếm được việc làm ở một nhà kia. Nhà họ không
giàu gì nhưng thương cảnh ngộ nàng, có ý giúp đỡ cho qua những ngày thảm đạm. Ở
đây, người đàn bà kiếm mỗi ngày hai bữa, trong đó có một bữa cháo bữa khoai. Nhờ
lanh lẹ và xinh xắn nên nàng lấy được cảm tình của chủ. Nhưng hình dáng người
chồng thân yêu khôngbao giờ phai nhạt trong tâm trí nàng.
Thời gian trôi nhanh như nước chảy. Người ta đã bớt nhắc đến trận đói khốc liệt vừa
qua. Nàng thì ngày ngày hồi hộp chờ đợi chồng. Những cây bưởi trước sân đã ba lần
trổ hoa mà chồng nàng vẫn không thấy tăm dạng.
Giữa lúc ấy người chủ đã từng bao bọc nàng trong lúc đó, vừa chết vợ. Sẵn có cảm
tình với nàng, người ấy ngỏ ý muốn được nối duyên cùng nàng. Nhưng người ấy đâu
có hiểu được lòng của người thiếu phụ. Câu trả lời của nàng là:
Chồng tôi hẹn tôi trong ba năm sẽ về. Đến bây giờ tôi mới tin là chồng tôi đã chết.
Vậy cho tôi để tang chồng trong ba năm cho trọn đạo.
Ba năm nữa lại trôi qua một cách chóng vánh. Không một nét chữ, một lời đồn về
người xấu số. Hàng ngày, những buổi chiều tà, nàng vẫn đăm đăm nhìn bóng người đi
lại trên con đường cái quan. Và rồi nàng khóc cạn cả nước mắt. Người đàn ông kia
giục nàng quyết định:
- Một là chồng nàng đã chết, hai là còn sống nhưng đã lập một gia đình khác ở một
nơi xa xôi hẻo lánh. Đằng nào nàng cũng khó mong tái hợp. Âu là cùng tôi lập một
gia đình mới. Sức của tôi và của cải tôi đã bảo đảm cho nàng sung sướng trọn đời.
Nàng sửa lại vành khăn trắng đã ngả màu, cảm ơn hậu tình của anh ta và xin rốn chờ
cho một năm nữa. Một năm nữa lại trôi qua không mang lại một tin tức gì mới mẻ.
Lần này nàng mới tin là chồng mình chết thật. Sau một bữa rượu cúng chồng và đãi
họ hàng làng xóm, nàng đến ở cùng người chồng mới.
Đột nhiên sau đó ba tháng, người chồng cũ xách khăn gói trở về quê hương. Chàng
không có vẻ gì khấm khá hơn trước. Chàng chỉ ôm một hy vọng là được gặp lại người
vợ yêu. Nhưng vườn cũ nay đã thuộc về chủ mới. Chàng lẩm bẩm: - "Thế là hết. Bởi
số cả! .
Việc người đàn ông đột ngột trở về làm cho mọi người ngơ ngác. Nhất là đôi vợ chồng
mới cưới không còn biết ăn nói làm sao bây giờ. Người đàn bà xấu hổ không dám dàn
mặt. Nhưng người chồng cũ đã tìm đến họ và an ủi họ.
- Tôi đi vắng lâu quá. Cái đó hoàn toàn là lỗi ở tôi. Nàng xử sự như thế rất đúng. Tôi
chỉ cần về gặp nàng một chút. Thế là đủ. Bây giờ tôi sẽ đi khỏi núi này mãi mãi.
Mặc dầu người vợ nài nỷ hết sức, mặc dầu người chồng mới đoan xin trả lại vợ, nhưng
chàng nhất quyết dứt áo ra đi. Chàng không nỡ phá hạnh phúc của họ. Mà chàng cũng
không có gan đi đâu xa vì không thể quên được vợ cũ. Băn khoăn dằn vặt hành hạ
tâm trí chàng. Đầu óc rối như mớ bòng bong. Chàng nghĩ đến cái chết và trong một
lúc cuồng loạn, chàng tự treo cổ lên cây đa đầu làng.
Cái chết kinh khủng đó như một tiếng sét nổ vào đầu người đàn bà. Nàng cảm thấy
chính mình là thủ phạm gây ra cái chết của người chồng cũ. Tại sao ta chờ chồng
được bảy năm trời mà không rán chờ thêm ít lâu nữa? Tại sao thấy chồng trở về, ta
không dám giáp mặt? Nàng không tự chủ được nữa. Tất cả những câu hỏi như lên án
một cách âm thầm nhưng kịch liệt trong đầu óc nàng.
Thế rồi buổi sáng hôm sau, trong khi người ta sắp sửa cất đám người đàn ông bạc
mệnh thì người ta lại hoảng hốt kéo nhau đi vớt tử thi người đàn bà dưới cái ao bên
cạnh nhà.
Người chồng mới sau khi làm ma cho vợ, trở nên như người mất trí. Hai cái chết đánh
mạnh vào đầu óc mọi người, riêng đối với chàng chưa bao giờ có một sự xúc động dữ
dội đến như thế. Chàng luôn miệng kêu to: - "Tại sao ta cố ý cướp vợ của người
khác!". Rồi một hôm, sau khi đem hết gia sản chia cho họ hàng và cúng vào chùa,
chàng uống thuốc độc tự tử.
Lúc xuống đến thế giới bên kia, cả ba người đều được đưa tới trước tòa án của Diêm
vương để định công luận tội. Tất cả mọi người một khi đã đến đây đều phải khai rõ sự
thật ôm ấp trong lòng.
Theo lời khai của người chồng cũ thì chàng không thể nào xa lìa vợ cũ. Chàng sở dĩ
chết ở làng là chỉ mong luôn luôn được gần gũi nàng. Người chồng mới cũng khai
rằng chàng có cảm tình rất xa đối với người vợ mới mặc dầu mới chính thức lấy nhau
chỉ có ba tháng. Khi Diêm vương hỏi tình của chàng đối với người vợ cũ như thế nào
thì chàng giơ ngón tay so sánh rằng một bên mười, một bên chưa được một. Đến lượt
người đàn bà thì nàng thú thật rằng cái tình của nàng đối với chồng cũ choán một chỗ
rộng rãi trong lòng mình, đồng thời đối với người chồng mới, nàng cũng không thể nào quên được tình cảm nồng nhiệt của chàng.
Diêm vương ngồi nghe rất cảm động. Những người như thế này cũng thật hiếm có.
Cần phải làm cho bộ ba ấy sống gần nhau mãi mãi. Sau một hồi lâu suy nghĩ, Diêm
vương cho ba người hóa thành ba ông đầu rau để cho họ khỏi lìa nhau và để cho
ngọn lửa luôn luôn đốt nóng tình yêu của họ. Đồng thời, vua còn phong cho họ chức
Táo quân trong nom từng bếp một, nghĩ là từng gia đình một trên trần thế


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam   Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam Icon_minitimeSat Feb 02, 2019 3:36 am

22. SỰ TÍCH ÔNG BÌNH VÔI

Ngày xưa, có một người con gái con một nhà giàu có. Cô rất đẹp nhưng cũng rất kiêu.
Cô đã từng làm cho các bạn gái xa lánh mình. Cô làm cho các chàng trai ghét cô vô
hạn. Cũng vì thế đến tuổi lấy chồng, cô gái vẫn chưa có đám nào vừa ý. Chàng trai
nào cũng bị cô sổ toẹt, vì cao chê ngỏng, thấp chê lùn, lớn chê béo trục béo tròn, gầy
chê xương sống xương sườn bày ra .
Nhưng rồi cô cũng lấy được chồng. Chồng cô yêu vợ nhưng lại bực mình vì thói ghen
của vợ. Cô ghen chồng làm cho xóm giềng luôn cau mặt vì những lời qua tiếng lại của
họ. Cuối cùng hai người không vừa ý nhau và ly dị. Buồn bực vì duyên phận, cô bỏ
đi tu.
Cô xuất gia ở một ngôi chùa cổ trên núi suốt hai mươi năm. Những con chim, con thú
rừng hầu như quen thuộc bóng dáng của người sư nữ. Hai mươi năm qua, cô vẫn chưa
đắc đạo. Cô thắc mắc, vì tự cho mình thông kinh kệ hơn người và chịu đủ mọi sự khổ
hạnh của nhà chiền. Một ngày kia cô quyết định sang Tây-trúc một phen để tìm cho ra
lẽ. Đường sang Tây-trúc thiên nguy vạn hiểm nhưng cô quyết định đi cho bằng được.
Một hôm, sau khi vượt qua một trái núi, sư nữ tìm vào một ngôi nhà hẻo lánh dọc
đường để nghỉ chân. Hai mẹ con chủ nhân tuy người rừng núi quê mùa nhưng vốn là
kẻ ăn chay niệm Phật, nên thấy khách là nhà tu hành thì tiếp đãi rất hậu. Khi được
nghe kể công trình tu luyện của sư nữ họ càng cung kính, coi như bậc thầy. Và khi
biết rõ ý định của sư nữ thì họ cũng xin phép bỏ nhà bỏ cửa đi theo thầy để mong
được đắc dạo. Nghe họ câu khẩn, sư nữ cười: - Hai mẹ con nhà này cũng muốn thành
Phật ư? Được, cứ đi theo ta! . Nhưng bụng nàng bảo dạ: - "Chuông khánh còn chẳng
ăn ai, nữa là mảnh chĩnh vứt ngoài bờ tre".
Từ hôm đó nhà sư có thêm hai người bạn đồng hành. Chân bớt mỏi, đường bớt dài,
họ đi chả mấy chốc đã tới đất Thánh. Từ trước đến sau, hai mẹ con nhà nọ vẫn cung
kính, coi sư nữ như thầy. Còn sư nữ đối với họ không được như trước: - Không biết
chừng họ được thành Phật trước ta. Họ sẽ hơn ta... Bọn này mà đắc đạo, thật là một
điều nhục cho Thiền môn .
Nói chuyện đức Phật khi vừa nghe tin có người tìm đường đến Tây-trúc cầu đạo, vội
hóa thân đi theo dõi. Từ đầu đến cuối, đức Phật vẫn không bỏ sót một lời nói, một cử
chỉ nào của sư nữ. Khi họ sắp qua một con sông rộng, đức Phật hóa phép hiện ra ở
bên kia bờ một tòa cổ tự, trước cửa có một cây bồ đề rất lớn, để chờ họ.
Muốn cho hai mẹ con khỏi lẽo đẽo theo mình đến đất Thánh, nên khi qua sông sư nữ
giả cách ngạc nhiên, chỉ ngôi chùa và ngôi đền mà bảo rằng:
- Kìa, chúng ta đã tới Tây-trúc. Chóng thật! Chính là cây bồ đề của đức Thế Tôn tu
luyện ngày xưa. Thôi! Hai mẹ con cứ việc trèo lên một cành cao niệm kinh rồi buông
tay rơi xuống là tức khắc thành Phật!.
Tin tưởng ở lời nói của bậc thầy, hai mẹ con mừng rỡ làm theo không chút ngần ngại.
Nhưng khi họ buông tay cho người rơi xuống thì đức Phật đã đón họ đưa lên trời. Có
bốn vị La hán mang tòa sen đến rước đi. Tay hai mẹ con vẫy vẫy như có ý gọi người
bạn đồng hành.
"Đúng là họ thành Phật rồi! . Sư nữ vừa kinh ngạc vừa mừng, vội trèo lên cây để
làm như họ và để mong được như họ. Nhưng đức Phật đã có ý trừng phạt người đàn
bà kiêu ngạo và độc ác ấy một cách đích đáng, nên đã để cho cái xác rơi phịch xuống
đất, tan xương vỡ sọ. Và sau đó đức Phật lại bắt con người khốn nạn ấy hóa thành
bình vôi. Tại sao lại cho hóa thành bình vôi? Có người bảo chính là đức Phật muốn
bắt những kẻ trong lòng bất nhân, nhưng lại đeo bộ dạng từ bi, phải để cho người đời
luôn luôn móc ruột[1].
Một truyện khác nhiều tính chất phật thoại cũng nói về sự tích ông bình vôi:
Có một anh ăn trộm từng sống bao nhiêu năm với nghề. Hắn ta không vợ con gia sản,
chỉ độc có một túp lều bên cạnh đường cái. Một hôm, có cặp vợ chồng người ăn mày
qua đó xin trú chân. Hắn cho họ ở lại và sau đó hắn thấy chồng bảo vợ: - "Hôm nay
không xin được tí gì cả. Gần đây có một nương khoai, chờ đến tối tôi sẽ đào trộm về
ăn". Vợ can chồng: - "Thôi đi ông! Chỉ vì kiếp trước chúng ta ăn ở thất đức nên mới
như thế này. Có lẽ nào phạm thêm vào cho nặng tội kiếp sau. Tôi thà chết không ăn
trộm!".
Người ăn trộm nghe chuyện bỗng dưng hối hận. Cuối cùng hắn giao tất cả nhà cửa
cho hai vợ chồng người ăn mày rồi bỏ di. Hắn tìm đến một ngôi chùa trên núi cao xin
hòa thượng cho cạo đầu tu hành. Người ta giao cho hắn công việc nấu ăn: một bữa
phải nấu từ tinh sương và một bữa từ chiều. Phận sự của hắn là giữ lửa không được để
tắt, vì một lần tắt lửa thì lại phải xuống núi xin về, cách xa hàng bao nhiêu dặm.
Từ lúc nhận việc nhà chùa, hắn tỏ ra chu đáo lạ thường, chưa có bữa nào để lửa tắt.
Một sư bác trên chùa ghét chú tiểu mới, bèn chờ một hôm tiểu ta ngủ say, tưới tắt lửa
nhấm ở bếp.
Gần sáng, chú tiểu dậy thấy không còn lửa, nghĩ đến phận sự, vội vã ba chân bốn
cẳng vượt mấy khu rừng tìm xuống làng xin lửa. Giữa đường hắn gặp một con cọp già
đòi ăn thịt. - "Tôi vui lòng để ngài xơi thịt - hắn nói - nhưng hãy cho tôi chạy xuống
làng xin lửa cho nhà chùa, rồi tôi sẽ tới nộp mạng".
Cọp bằng lòng để cho đi. Khi đưa được lửa về, hắn kể sự tình và xin phép hòa thượng
cho đi nộp mình cho cọp. Đến nơi, cọp bảo: - "Tao già rồi, răng đã rụng hết mà xương
của mày cứng khó nhai. Vậy mày hãy trèo lên cây kia buông mình rơi xuống cho gẫy
xương, tao mới ăn được". Hắn vâng lời cọp, nhưng khi buông tay thì đức Phật đã đón
sẵn rước lên trời, độ cho thành Phật, tức là Phật Nhiên Đăng.
Vị sư bác kia thấy chú tiểu chỉ bằng vài hành động đơn giản mà được thành chính
quả thì cũng muốn được như thế. Hắn bèn xin phép hòa thượng cho mình ra đương
việc nấu ăn và giữ lửa. Thế rồi một hôm hắn cũng giả tảng để cho lửa tắt, rồi cũng
chạy xuống núi xin lửa. Và hắn cũng gặp cọp, cũng khất cọp xin đưa lửa về cho nhà
chùa dùng rồi sau đó sẽ xin nộp mình. Nhưng đức Phật vốn hiểu rõ những việc làm
của hắn xuất phát từ tấm lòng không thực, nên khi hắn trèo lên cây và buông tay, thì
Phật lập tức bắt hắn hoá thành bình vôi[2].
Một dị bản của truyện trên cũng là một phật thoại, là Sự tích cáiống nhổ.
Ở đây cũng có hai nhân vật chính là chú tiểu và sư bác. Chú tiểu mới đi tu nhưng rất
chăm chỉ, biết lo lắng làm tròn chức trách. Thấy lửa ở đống nhấm tắt (kỳ thực là do sư
bác ghen tỵ phun nước cho tắt), tiểu không nề hiểm nguy chạy xuống núi vào lúc mờ
sáng để có lửa về kịp nấu ăn cho nhà chùa. Phật hiện ra với trạng mạo một ông già
khuyên can chú tiểu đừng đi, nhưng thấy chú cương quyết đi, bèn bảo chú trèo lên cây
buông tay xuống, sẽ có kẻ đưa đi an toàn. Quả nhiên chú tiểu buông tay rơi đúng trên
lưng một con muông; nó đưa chú xuống làng, rồi sau khi xin được lửa lại đưa về vô
sự.
Sư bác vốn không phải là chân tu, nhưng thấy chú tiểu gặp Phật, cũng muốn được
như vậy, bèn cũng xin ra làm công việc nấu ăn và giữ lửa, sau đó hắn đã để tắt lửa và
cũng được gặp Phật. Nhưng khi buông tay thì Phật đã bắt hắn hoá thành cái ống nhổ,
miệng luôn luôn há ra cho người ta khạc nhổ vào, để tỏ lòng khinh bỉ

Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam   Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam Icon_minitimeSat Feb 02, 2019 3:37 am

23. SỰ TÍCH CÂY NÊU NGÀY TẾT

Ngày ấy, không biết từ bao giờ và cũng không biết bằng cách gì, Quỷ chiếm đoạt tất
cả đất nước. Người chỉ ăn nhờ ở đậu và làm rẽ ruộng đất của Quỷ. Quỷ đối với Người
ngày càng quá tay. Chúng nó dần dần tăng số phải nộp lên gấp đôi và mỗi năm mỗi
nhích lên một ít. Cuối cùng, chúng nó bắt Người phải nộp theo một thể lệ đặc biệt do
chúng nó nghĩ ra là ăn ngọn cho gốc". Người không chịu. Chúng nó lấy áp lực, bắt
Người phải theo. Vì thế, năm ấy sau vụ gặt, Người chỉ còn trơ ra những rạ là rạ. Cảnh
tượng xương bọc da thê thảm diễn ra khắp mọi nơi. Bên cạnh bọn Quỷ reo cười đắc ý,
Người cơ hồ muốn chết rũ.
Phật từ phương Tây lại, có ý định giúp Người chống lại sự bóc lột tàn nhẫn của Quỷ.
Sau mùa đó, Phật bảo Người đừng trồng lúa mà cào đất thành luống trồng khoai lang.
Người cứ y lời làm đúng như Phật dặn. Quỷ không ngờ Người đã bắt đầu có mưu kế
mới chống lại mình nên cứ nêu đúng thể lệ như mùa trước: Ăn ngọn cho gốc"
Mùa thu hoạch ấy, Quỷ rất hậm hực nhìn thấy những gánh khoai lúc lỉu chạy về nhà
Người đổ thành từng đống lù lù, còn nhà mình chỉ toàn những dây và lá khoai là
những thứ không nhá nổi. Nhưng ác nỗi, thể lệ đã quy định, chúng nó đành cứng
họng không thể chối cãi vào đâu được.
Sang mùa khác, Quỷ thay thể lệ mới là ăn gốc cho ngọn . Phật bảo Người chuyển sang
trồng lúa. Kết quả Quỷ lại hỏng ăn. Những hạt lúa vàng theo Người về nhà, còn rạ
phó mặc cho Quỷ. Quỷ tức lộn ruột nên mùa sau chúng nó tuyên hố ăn cả gốc lẫn
ngọn". Lần này Quỷ nghĩ: - "Cho chúng mày muốn trồng gì thì trồng đằng nào cũng
không lột khỏi tay chúng tao". Nhưng Phật đã bàn và Người thay đổi giống mới. Phật
trao cho Người hạt giống cây ngô để gieo khắp nơi mọi chỗ.
Năm ấy lại một lần nữa Người sung sướng trông thấy công lao của mình không uổng.
Trong nhà Người thóc ăn chưa hết, từng gánh ngô đã gánh về chứa từng cót đầy ắp.
Về phần Quỷ lại bị một vố cay chua, tức uất hàng mấy ngày liền. Cuối cùng Quỷ nhất
định bắt Người phải trả lại tất cả ruộng đất không cho làm rẽ nữa. Trong bụng chúng
nó nghĩ: - "Thà không được gì cả còn hơn là để cho chúng nó ăn một mình".
Phật bảo Người điều đình với Quỷ cho tậu một miếng đất vừa bằng bóng một chiếc áo
cà sa. Nghĩa là Người sẽ trồng một cây tre trên có mắc chiếc áo cà sa, hễ bóng che bao
nhiêu diện tích ở mặt đất là đất sở hữu của Người ở dã. Ban đầu Quỷ không thuận,
nhưng sau chúng nó suy tính thấy đất tậu thì ít mà giá rất hời bèn nhận lời: - "Ồ! Bằng
một chiếc áo cà sa có là bao nhiêu . Chúng nó nghĩ thế. Hai bên làm tờ giao ước: ngoài
bóng che là đất của Quỷ, trong bóng che là của Người.
Khi Người trồng xong cây tre, Phật đứng trên ngọn, tung áo cà sa bay tỏa ra thành một
miếng vải tròn. Rồi Phật hóa phép làm cho cây tre cao vút mãi lên, đến tận trời. Tự
nhiên trời đất trở nên âm u: bóng của áo cà sa dần dần che kín khắp cả mặt đất. Bọn
Quỷ không ngờ có sự phi thường như thế; mỗi lần bóng áo lấn dần vào đất chúng,
chúng phải dắt nhau lùi mãi, lùi mãi. Cuối cùng Quỷ không có đất ở nữa phải chạy ra
biển Đông. Vì thế người ta mới gọi là Quỷ Đông.
Tiếc vì đất đai hoa màu đều thuộc về tay Người, Quỷ rất hậm hực, cố chiêu tập binh
mã vào cướp lại. Lần này Người phải chiến đấu với Quỷ rất gaygo vì quân đội của
Quỷ có đủ một bầy ác thú như voi, ngựa, chó ngao, bạch xà, hắc hổ, v.v... rất hung
dữ. Phật cầm gậy tầm xích đánh giúp Người, làm cho quân của Quỷ không tiến lên
được.
Sau mấy trận bất lợi, Quỷ bèn cho quân đi dò xem Phật sợ gì. Phật cho chúng biết là
sợ hoa quả, oản chuối và cơm nắm, trứng luộc. Đối lại Phật cũng dò hỏi và biết quân
của Quỷ chỉ sợ độc có mấy thứ: máu chó, lá dứa, tỏi và vôi bột.
Lần giáp chiến sau đó, quân của Quỷ đem không biết cơ man nào là hoa quả đến ném
Phật. Phật bảo Người nhặt làm lương ăn rồi đem máu chó vẩy khắp mọi nó. Quân của
Quỷ thấy máu chó sợ hoảng hồn bỏ chạy.
Lần thứ hai, quân của Quỷ lại đem oản chuối vào ném quân Phật. Phật bảo Người
nhặt làm lương ăn rồi giã tỏi phun vào quân dịch. Quân của Quỷ không chịu được
mùi tỏi nên cũng cắm đầu chạy biệt tích.
Lần thứ ba, quân của Quỷ lại đem cơm nắm, trứng luộc vào ném quân Phật. Người tha
hồ ăn và theo lời Phật dùng vôi bột vung vào Quỷ. Người lại lấy lá dứa quất vào
chúng. Quỷ chạy không kịp, lại bị Phật bắt đày ra biển Đông[1]. Ngày Quỷ già, Quỷ
trẻ, Quỷ đực, Quỷ cái cuốn gói ra đi, bộ dạng của chúng vô cùng thiểu não. Chúng
rập đầu sát đất cố xin Phật thương tình cho phép một năm được vài ba ngày vào đất
liền thăm phần mộ của tổ tiên cha ông ngày trước. Phật thấy chúng khóc váng cả lên
mới thương hại, hứa cho.
Vì thế, hàng năm cứ đến ngày Tết nguyên đán là ngày Quỷ vào thăm đất liền, thì
người ta theo tục cũ, trồng nêu để cho Quỷ không dám bén mảng vào chỗ người đang
ở. Trên nêu có khánh đất, mỗi khi gió rung thì có tiếng động phát ra để luôn luôn
nhắc bọn Quỷ nghe mà tránh.
Cũng trên đó có buộc một bó lá dứa hoặc cành đa mỏ hái để cho Quỷ sợ. Ngoài ra,
người ta còn vẽ hình cung tên hướng mũi nhọn về phía Đông và rắc vôi bột xuống đất
vào những ngày Tết để cấm cửa Quỷ
Có câu tục ngữ:
Cành đa lá dứa treo kiêu (cao),
Vôi bột rắc ngõ chớ trêu mọi nhà.
Quỷ vào thì quỷ lại ra,
Cành đa lá dứa thì ta cứa mồm
Ngày xưa người ta còn tin rằng những lúc cần đuổi quỷ như khi có dịch tễ chẳng hạn,
thì treo một nắm lá dứa ở trước ngõ hay vẩy máu chó khắp mọi nơi cho Quỷ khỏi
quấy. Đàn bà thường buộc tỏi vào giải yếm là cũng có một mục đích gần như vậy.

Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam   Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam Icon_minitimeSat Feb 02, 2019 3:37 am

24. GỐC TÍCH BÁNH CHƯNG VÀ BÁNH DẦY

Ngày đó vua Hùng trị vì đất nước. Vua tuổi đã già, ngồi trên ngai vàng đằng đẵng đã
bao nhiêu năm. Thấy sức khỏe của mình ngày một suy, vua có ý định chọn một người
nối ngôi. Các bà vợ của vua sinh được cả thảy hai mươi người con trai. Họ đều khôn
lớn cả. Vua nghĩ: - "Kể về tài cũng có nhiều đứa trội. Nhưng chính vì thế mà cần phải
lựa chọn cẩn thận. Nhất là phải làm thế nào cho chúng nó không tranh giành nhau".
Đây là điều vua thường bận tâm nhất. Cuối cùng, nhờ có viên quan hầu bàn kế, vua
mới quyết định mở một cuộc thi để căn cứ vào đó mà kén chọn.
Vua Hùng bèn cho hội họp tất cả các hoàng tử lại. Khi họ đã về đông đủ, vua bảo:
- Cha biết mình đã gần đất xa trời. Cha muốn truyền ngôi cho một trong các con. Bây
giờ mỗi con cố kiếm hoặc làm một món ăn lạ để cúng tổ tiên. Ai có món ăn ngon vừa
ý ta thì ta sẽ chọn người ấy.
Nghe vua cha phán bảo thế, bọn hoàng tử thi nhau cho người đi khắp mọi nơi để tìm
thức ăn quý. Họ lần mò thôi thì trên ngàn dưới biển không sót nơi nào. Bất kỳ thứ gì
nghe nói là ngon và lạ họ đều cố tìm bằng được.
Trong số hai mươi hai hoàng tử có Liêu là hoàng tử thứ mười tám. Vì thuở nhỏ mồ côi
mẹ nên Liêu từng sống những ngày cô đơn. Trong khi các hoàng tử khác chạy vạy đi
tìm vật lạ, thì Liêu nằm khểnh ở nhà. Chả có ai giúp đỡ chàng trong việc này. Chỉ còn
ba ngày nữa là đến kỳ hạn thi mà Liêu vẫn chưa có gì. Đêm ấy Liêu nằm gác tay lên
trán nhớ lại tất cả những bữa ăn ngon xưa này chàng đã được tới dự. Liêu suy nghĩ mãi
và ngủ quên lúc nào không biết. Liêu mơ mơ màng màng thấy mình cùng với hai
mươi mốt anh em khác đang làm bánh thi. Mỗi người có một gian nhà nhỏ mà vua
cha đã sai làm sẵn ở đám hội. Liêu chưa biết nên bắt đầu bằng việc gì thì bỗng có một
vị thần nữ từ trên trời bay xuống giúp chàng làm bánh. Nữ thần bảo: "To lớn trong
thiên hạ không gì bằng trời đất, còn quý báu nhất trần gian không gì quý bằng gạo. Ta
đừng làm nhiều, chỉ hai thứ bánh có ý nghĩa là đủ. Hãy nhặt hộ cho tôi chỗ nếp này,
rồi đi kiếm cho tôi ít đậu". Tự nhiên Liêu thấy thần lần lượt lấy ra những tàu lá rộng
và xanh. Thần vừa gói vừa giảng giải: - "Bánh này tượng trưng đất. Đất có cây, có
đồng ruộng núi rừng thì màu cũng phải xanh xanh hình phải vuông vắn. Trong bánh
phải bỏ thịt, bỏ đỗ để lấy ý nghĩa đất chở cầm thú cỏ cây... Rồi đem thứ nếp thơm đồ
lên cho dẻo, giã ra làm thứ bánh tượng trưng trời: màu phải trắng, hình phải tròn và khum khum như vòm trời...
Tỉnh dậy, Liêu bắt đầu làm bánh y như trong giấc mộng.
Ngày các hoàng tử đưa món ăn về dự thi là một ngày náo nhiệt ở Phong Châu. Người
đông nghìn nghịt. Dân chúng mọi miền đều náo nức về dự một cái Tết tưng bừng ít
có: mở đầu bằng cuộc thi các món ăn và kết thúc bằng lễ đăng quang của vua mới.
Đúng vào lúc mặt trời mọc thì vua Hùng đi kiệu đến làm lễ gia tiên. Chiêng trống cờ
quạt tưng bừng rộn tai nhức mắt mọi người. Tất cả đều ngong ngóng trông chờ lúc các
vị giám khảo bình giá các món ăn.
Và giờ phút mong đợi đã đến. Tất cả những món "nem công, chả phượng, tay gấu, gan
tê v.v..." của các hoàng tử đều không bằng hai thứ bánh quê mùa của Liêu. Khi mọi
người thoạt nhìn thấy cỗ của chàng số đông đều lắc đầu bĩu môi, vẻ chê bai hiện ra
nét mặt. Nhưng sau khi nếm xong, họ bỗng đổi hẳn thái độ, không ai không gật gù tán
thưởng. Ông Lạc tướng xoa tay: - "Đây là một thứ hương vị khác thường làm từ những
cái tầm thường". Riêng vua Hùng rất lấy làm ngạc nhiên về miếng bánh lạ vừa ăn. Nhà
vua lật lên lật xuống ngắm nghía kỹ càng những tấm bánh khác chưa bóc. Vua cho đòi
Liêu điện, hỏi cách thức làm bánh thế nào. Hoàng tử cứ thưa tâu lên, không quên nhắc
lại giấc mộng lạ của mình.
Quá trưa hôm ấy, vua Hùng trịnh trọng ban bố kết quả với các con: Hoàng tử thứ mười
tám được giải nhất và sẽ được truyền ngôi. Vua cầm hai thứ bánh giơ lên cho mọi
người xem và nói rõ cái căn cớ khiến cho mình chọn nó đứng đầu các thứ cỗ. Vua nói:
- Nó chẳng những ngon và quý mà còn mang nhiều ý nghĩa đặc biệt: nó bày tỏ lòng
hiếu thảo của người con, tôn trọng cha mẹ như trời đất, nó chứa đầy một tấm tình quê
hương ruộng đồng. Nó rất dễ làm vì làm bằng những hạt ngọc quý nhất trong những
hạt ngọc của Trời Đất, nhưng mà những hạt ngọc ấy mọi người đều từ làm ra được.
Phải là người có tài mới nghĩ được một loại bánh như vậy...
Từ đó thành tục lệ hàng năm cứ đến ngày Tết, mọi người đều làm hai thứ bánh đó và
gọi là bánh chưng bánh dầy để thờ cúng gia tiên. Hoàng tử Liêu sau được làm vua,
mang hiệu là Tiết Liêu Vương, tức là Hùng Vương thứ mười bảy. Lần đó có nhiều
hoàng tử hỏng thi sinh ra ganh ghét, ác cảm với Lang Liêu. Cho nên sau khi vua cha
mất, người nào người ấy giữ chặt lấy đất của mình. Họ làm hàng rào gỗ xung quanh
vùng mình ở để làm kế cố thủ, có ý tranh nhau với Tiết Liêu Vương

Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam   Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam Icon_minitimeSat Feb 02, 2019 3:38 am

25. GỐC TÍCH RUỘNG THÁC ĐAO HAY LÀ TRUYỆN LÊ PHỤNG HIỂU

Đời Lý, ở vùng Thanh-hóa có Lê Phụng Hiểu. Nhà Hiểu ở gần một hòn núi nhỏ nhô
lên ở giữa cánh đồng gọi là núi Bơng (Băng-sơn) nên người ta cũng gọi Hiểu là ông
Bơng. Hiểu là người to lớn khỏe mạnh. Mẹ chàng lúc trước khi lên núi trông thấy dấu
chân to lạ thường. Bà ướm chân mình vào thử, không ngờ tự nhiên cảm động mà có
thai, về sau sinh ra Hiểu.
Thuở nhỏ, Hiểu không học chữ, chỉ thích tập ném đao, đánh gậy, cử tạ, múa quyền.
Chàng thường dùng một hòn đá tròn ở trên núi làm quả tạ để luyện tập. Hòn đá đó
nặng tám người khiêng mới nổi. Năm Hiểu hai mươi tuổi, những tay đô vật trong vùng
hết dám tỷ thí với chàng. Hiểu có thể chỉ một nắm đấm vật ngã một con bò mộng.
Thuở ấy, ở vùng Đông-sơn có ông Tuấn tục gọi là ông Vồm, sức khỏe vô địch lại rất
giỏi vật. Nghe tiếng Hiểu là tay đô vật mới nổi lên, Vồm tìm đến Băng-sơn đòi thử
sức. Vồm đến gặp lúc Hiểu đang đi kiểm củi vắng. Mẹ Hiểu bảo:
- Ông cần hỏi gì cháu thì rán chờ một lát. Nó sắp gánh củi về rồi đấy!
Mới nhìn thấy Hiểu từ đằng xa do mẹ chàng chỉ cho thì Vồm đã giật mình kinh sợ. Bởi
vì bóng Hiểu hiện ra giữa con đường núi là một gã to lớn quảy hai bó củi to như đụn
rạ một, chạy vùn vụt như bay. Thấy thế Vồm không đợi nữa, thác kế cáo từ đi thẳng.
Hiểu vừa bước vào trong ngõ nghe mẹ nói có khách chờ mình lúc nãy, rồi vội quẳng
ngay gánh củi bắn tung ra đầy sân rồi đuổi theo Vồm. Chả mấy chốc chàng đã theo
kịp. Hai bên bắt đầu làm quen với nhau bằng một cuộc tỷ thí dữ dội trên hòn Băngsơn.
Đất bay rào rào, cây cối xiêu vẹo vì những cái quật kinh người. Trong keo vật lần
thứ mười tám, không chịu được cái móc của Hiểu, Vồm bị chẹt giữa hai tảng đá lớn.
Gần miền lúc đó có hai thôn Đàm-xá và Cổ-bi tranh nhau một bãi đất. Dân Đàm-xá
đông gấp hai Cổ-bi lại thêm lúc này có Tá Lực vốn là hào hùng mới ở kẻ Chợ về tự
khoe là giỏi võ, nên họ quyết lấy thịt đè người để chiếm lâu dài bãi đất kia.
Không nói thì ai cũng biết bên Cổ-bi nắm chắc thất bại. Thất bại nhưng họ vẫn không
chịu để mất đất. Hai bên đánh nhau tròn tháng. Bọn trai tráng Đàm-xá dưới sự điều
khiển của Tá Lực ngày ngày cầm gậy tày tay thước tiến sang đất Cổ-bi che chở cho
một bọn khác trồng tre đắp bờ ngăn hẳn bài bồi làm đất của mình, Hễ bên Cổ-bi thò
ra người nào thì người đấy chúng xúm lại đuổi đánh. Không kể số sứt đầu mẻ tai,
những người bị thương nặng nằm la liệt cả một đình làng. Tá Lực vẫn thỉnh thoảng
đứng trên gò cao nói vọng vào những câu khiêu khích.
Bấy giờ Lê Phụng Hiểu có việc đi ngang qua đó. Nghe rõ câu chuyện, chàng bừng
bừng nổi giận. Hiểu vung tay áo nói với mấy vị phu lão Cổ-bi:
- Nó cong, ta thẳng, không thể ỷ chúng hiếp cô như vậy được.
Rồi chỉ vào ngực mình:
- Chỉ một mình tôi có thể đánh tan được bọn nhãi.
Các cụ mừng lắm sau dọn mâm cỗ mời ăn. Một mình Hiểu tỳ tỳ chén hết một dãy hai
mươi cỗ cơm.
Ăn xong Hiểu vỗ bụng đứng dậy, tay không xông thẳng vào trận trên mình chỉ còn
mỗi chiếc khố.
Trước hết, Hiểu rẽ vào lùm tây nhổ những cây gỗ vừa tầm để thành từng đống. Rồi
cầm lấy cả những cành cả rễ, Hiểu vụt túi bụi vào đám đông địch thủ đang sấn tới
trước mặt mình. Cây này gãy chàng thay cây khác. Cứ thế Hiểu đã quật ngã không biết
bao nhiêu người. Nghề võ của Tá Lực và ngọn côn của y không trụ nổi những đòn
bằng trời giáng của Hiểu. Chưa xong một hiệp. Tá Lực đã ngã quay lơ xuống đất, các
tay võ khác và dân đình Đàm-xá còn sót đều chạy thục mạng Hiểu quay lại giẫm chân
lên ngực Tá Lực, bắt hắn phải nhận điều kiện trả lại ruộng đát cho dân Cổ-bi rồi mới
chịu cho khiêng về.
Từ đấy tiếng tăm của Hiểu được truyền đi khắp nơi. Ngày đó, vua Lý kén người khỏe
mạnh sung vào quân túc vệ. Chỉ một cuộc tỷ thí đầu tiên, Hiểu đã được vua triệu vào
bệ kiến và cho chỉ huy một đội quân toàn những tay lực sĩ. Chẳng bao lâu Hiểu được
vua cất lên làm tướng người ta gọi là Võ vệ tướng quân.
Chưa được mấy năm thì vua thăng hà. Triều thần theo di chiếu định tôn hoàng thái tử
lên ngôi báu trước khi làm lễ phát tang. Nhưng lễ đăng quang của ông vua mới chưa
được cử hành thì ngoài thành cấm đã thấy ồn ào tiếng người ngựa. Quân canh cho biết
ba hoàng tử: Võ Đức Vương, Đông Chính Vương và Dực Thánh vương đem quân ba
phủ vây thành đòi chia sẻ ngôi báu với hoàng thái tử.
Bấy giờ trong thành kinh động. Vệ binh được phái đi các nơi phòng thủ. Hoàng thái tử
vướng tình máu mủ chưa giải quyết. Lê Phụng Hiểu nghe chuyện, không nhịn được
nữa, bèn đi tìm hoàng thái tử đòi một hai sống mái với quân phản nghịch. Chàng vỗ
gươm tâu:
- Trước tình thế này xin cho cây gươm này của hạ thần ra nói chuyện với chúng.
Rồi đó, Hiểu phi ngựa tiến đến cửa Quảng phúc, tuốt gươmg xông vào chỉ mặt Võ
Đức Vương quát:
Chúng bay cả gan muốn cướp ngôi ư? Đồ bất hiếu bất mục. Tao cho chúng bay nếm
lưỡi gươm này.
Võ Đức Vương kinh sợ không dám giao phong, quay ngựa toan chạy, nhưng nhát
gươm thứ nhất của Hiểu đã làm cho ngựa ngã khuỵu xuống và nhát thứ hai xả đôi
người Võ Đức Vương. Thế rồi lưỡi gươm của Hiểu múa tít giữa đám quân ba phủ bấy
giờ đã chạy toán loạn. Vệ quân của Hiểu được thể mặc sức chém giết. Hai hoàng tử kia
chạy trốn biệt tích.
Trận đó, ông vua mới cảm ơn Hiểu vô hạn. Hiểu được vua ban tước hầu với chức Đô
thống đại tướng quân, coi như quản hết quân sĩ trong nước.
Lần đánh giặc thắng trận trở về triều, nhà vua định phong thưởng thêm nữa, nhưng
Hiểu tâu vua:
- Hạ thần không muốn lĩnh tước. Nhà hạ thần ở dưới chân núi Bơng. Hạ thần chỉ
muốn bệ hạ ban cho một số ruộng đất bằng cách đứng trên núi ném dao xuống, hể
đao cắm đến đâu hạ thần xin lĩnh số đất ấy để lập nghiệp.
Vua đáp:
Tưởng là khanh muốn thế nào, chứ đã muốn ruộng đất thì phải ném dao làm gì cho
mệt!
Nhưng Lê Phụng Hiểu thì chỉ muốn ném dao. Vua không đợi nói nhiều, bằng lòng
ngay. Ngày hôm sau lễ ném dao, mọi người đổ tới xem như đám hội.
Trên hòn Băng sơn chưa khi nào có chiêng trống cờ quạt và quan dân đi lại rộn rịp như vậy.
Dứt tiếng trống, Hiểu cởi trần đóng khố, cầm dao xoay mấy vòng lấy đà, rồi phóng đi.
Chiếc dao bay bổng lên như một con chim được thả. Mọi người ngạc nhiên và say sưa
nhìn nó bay mãi như một chiếc dấu chấm ở lưng chừng trời, xa đến mười dặm rồi mới
chịu hạ xuống. Mũi dao chọc xuống địa phận của làng Đa-mỹ. Các quan hầu hết đi đo
đạc đóng mốc, trở về cho biết từ chân núi cho tới chỗ ném dao xuống quy vuông lại
được hơn mười ngàn mẫu. Vua nhà Lý y ước ban cho Hiểu làm hương hỏa truyền cho
con cháu và tha không đóng thuế.
Từ đó, những ruộng thưởng cho công thần, người ta quen gọi là ruộng thác đao
Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Sponsored content





Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam   Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam Icon_minitime

Về Đầu Trang Go down
 
Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 3 trangChuyển đến trang : 1, 2, 3  Next

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
Nhanbkvn 2024 :: THƯ VIỆN SÁCH TRUYỆN :: Truyện Cổ Tích-
Chuyển đến