Nhanbkvn 2024
Chào Mừng Các Bạn Tham Gia Và Chia Sẽ Tại Diễn Đàn Nhanbkvn
Nhanbkvn 2024
Chào Mừng Các Bạn Tham Gia Và Chia Sẽ Tại Diễn Đàn Nhanbkvn
Nhanbkvn 2024
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Nhanbkvn 2024

Chia Sẽ Không Giới Hạn
 
Trang ChínhTrang Chính  Sự kiệnSự kiện  Latest imagesLatest images  PublicationsPublications  Tìm kiếmTìm kiếm  Đăng kýĐăng ký  Đăng NhậpĐăng Nhập  

 

 Đoàn Vũ Khỏa Thân - Người Thứ Tám

Go down 
Tác giảThông điệp
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Đoàn Vũ Khỏa Thân - Người Thứ Tám Empty
Bài gửiTiêu đề: Đoàn Vũ Khỏa Thân - Người Thứ Tám   Đoàn Vũ Khỏa Thân - Người Thứ Tám Icon_minitimeTue May 23, 2017 4:12 am

Đoàn Vũ Khỏa Thân - Người Thứ Tám Cover15

Người Thứ 8
Đoàn Vũ Khỏa Thân
Chương 1
Những vụ mất tích


Như mọi lần, tác giả trân trọng nhắc lại là mặc dầu dựa vào thực tế địa lý và lịch sử những tình tiết và nhân vật mà cuốn truyện Đoàn Vũ Khỏa Thân chứa đựng chỉ là sản phẩm của tưởng tượng, và do đó mọi sự gần gán hoặc trùng hợp, nếu có, với mọi việc sảy ra ngoài đời chỉ là việc ngẫu nhiên, ngoài ý muốn và trách nhiệm của người viết.

NGƯỜI THỨ TÁM



Chương I

Những vụ mất tích

Vụ mất tích đầu tiên xảy ra một ngày cuối mùa xuân ở kinh đô ánh sáng Ba lê.

Mỗi năm, một thị trấn quốc tế dân cư đông đúc, đầy thú ăn chơi, có hàng trăm vụ mất tích như vậy. Nhưng vụ mất tích này hoàn toàn khác với những cơn động cỡn ái tình đã xảy ra. Vì nạn nhân không phải là anh chồng chán vợ, bỏ gia đình đi lập tổ ấm mới, cũng không phải là gã trai thất vọng vì bị vợ cắm sừng lên đầu hoặc bị mèo cho leo cây...

Nạn nhân là một nhà khoa học tên tuổi, trên ngũ tuần, sinh sống phẳng lặng và giản dị với vợ con tại ngoại ô Ba lê. Tên nạn nhân là bác sĩ Tôni, người Pháp trăm phần trăm. Vì là người Pháp trăm phần trăm nên Tôni thích rượu sâm-banh thật ngon, thích đàn bà thật đẹp...

Và cũng như nhiều nhà trí thức trung niên khác, có địa vị, tiền bạc và sức lực dồi dào, Tôni đã kết thân với một cô gái trẻ măng, thân hình căng cứng như cao su bơm hơi, có cái tên thi vị là Rose. Trong tiếng Pháp, Rose là hoa hồng. Da thịt của nàng tiết ra một mùi thơm kỳ lạ, giống như mùi thơm của hoa hồng trồng ở những khu vườn riêng dọc bờ biển miền nam nước Pháp.

Tối hôm ấy, trời mưa lất phất.

Không có gì làm lòng người đàn ông đến tuổi hồi xuân xúc động mãnh liệt bằng những buổi tối trời vừa lạnh, vừa mưa. Tôni đếm gót giày trên vỉa hè, xe cộ qua lại như mắc cửi với những âm thanh xé nhĩ tai song ông chẳng thấy, chẳng nghe được gì hết. ông đang nghĩ đến người đẹp hoa hồng đang chờ đợi trong căn phòng trọ xinh xắn được sưởi ấm, khung cửa sổ che kín bằng rèm nhung dầy.

Lẽ ra Tôni phải ở lại trung tâm thí nghiệm để cùng các đồng nghiệp tới dự tiệc tại Maxim's, nhà hàng thượng lưu bậc nhất Ba lê. Tối thứ sáu, thực khách đều mặc dạ phục, một thói quen đã có từ trước đến nay ở Maxim's. Bữa tiệc đựợc tổ chức để khoản đãi một phái đoàn bác học Sô Viết vừa từ Mạc tư khoa tới, là phụ tá giám đốc Tôni không thể vắng mặt.

Vậy mà Tôni vẫn tìm cách vắng mặt.

Vì hồi trưa nàng đã gọi điện thoại tới.

Tôni không báo tin cho vợ biết đêm ấy về muộn. Vợ ông đã 55 tuổi, nghĩa là quá cái tuổi ghen bóng ghen gió và yêu đương bồng bột. Bà chỉ vâng một tiếng nhỏ khi chồng từ trong phòng bước ra, tạm biệt vợ để tới trung tâm làm việc mỗi buổi sáng. Buổi trưa, ông ở lại sở. Dạo gần đây, ông thường ở lại ban đêm. Có lần vợ hỏi thì ông nhún vai:

- Có công việc riêng.

Bà vợ nín lặng. Bà đã biết ông nghiên cứu một số bí mật khoa học quốc phòng.

Đang bước đều, Tôni bỗng dừng lại. Không hiểu sao ông vừa nhớ đến vợ. Vợ chồng đã sống với nhau bơn 20 năm. Ông vừa nhớ đến vợ có lẽ vì mùi xúp bui-a-bét (soupe bouillabaisse) từ một tiệm ăn bay thoang thoảng ra đường, ông mê nhất món bui-a- bét do đầu bếp Mạc-xây( Marseille) nấu, với tôm, cá và ngao sò đặc biệt, ăn vào tưởng như sắp chết cũng sống lại.

Bui-a-bét là món xúp bất hủ của miền Nam nước Pháp. Hồi ở trường, Tôni yêu bạn gái cùng lớp một cách si mê và vũ bão nên được đặt biệt hiệu là "chàng bui-a-bét'. Vì nấu món xúp này người ta không dùng nước lạnh như đối với các món xúp thông thường, với đồ biển, mà là dùng nước sôi sùng sục, và đun lửa thật lớn. Giới nấu ăn thành thạo gọi cách đun lửa này "cách đun lửa vũ bão".

Trưởng thành, tốt nghiệp văn bằng tiến sĩ khoa học. Tôni lập gia đình. Công việc bộn bề và ràng buộc gia đình không cho phép ông tìm ái tình vũ bão vớì những người đàn bà lạ.

Cho đến một đêm kia.

Tôni gặp người đẹp hoa hồng. Nàng mới 25 tuổi, nghĩa là kém ông hơn 39 năm. Con gái lớn của ông còn nhiều tuổi hơn Rose, 25 tuổi, chưa chồng với tấm thân nẩy nở như vậy, nàng phải là cô gái giàu kinh nghiệm, ưa sống son giá để nếm mùi đời, chứ không phải vì thiếu ý trung nhân thích hợp.

Nhà bác học Tôni không còn vóc dáng nhỏ nhắn của tuổi thanh niên nữa nhưng cũng không đến nỗi già khằn. Trên người ông, đàn bà chỉ chê cái bụng hơi phệ (nhưng thử hỏi các bà, đàn ông 57 tuổi đâu có ai mà không có bụng như Tôni), mái tóc muối tiêu và cặp mắt kiếng hai tròng dày cộm vắt vẻo trên đôi mắt ti hí vì luôn luôn ngồi dưới ánh đèn cực mạnh. Nhưng ông chỉ đáng cho đàn bà góa tứ tuần trở lên làm bạn. Thật là lạ lùng vi ông được lọt vào mắt xanh của Rose, một mỹ nhân chân dài có đủ điều kiện chinh phục những nhà triệu phú 30 tuổi.

Ông già 57 tuổi Tôni lại không nhận thấy sự lạ lùng ấy. Sau nhiều năm cô đơn bên người vợ nghiêm nghị và khô khan, ông đói tình muốn điên lên dược. Nên gặp Rose và được nàng yêu, ông vội vàng lao đầu vào, không tìm hiểu lý do như thói thường của các nhà khoa học trong phòng thí nghiệm.

Nếu ông chịu khó suy nghĩ, ông sẽ thấy mối tình chênh lệch với cô gái hoa hậu chứa đựng nhiều nghi vấn rối beng. Nàng nói với ông là sống bằng nghề làm mẫu y phục. Nghề này có thể kiếm được rất nhiều tiền khi đã nổi tiếng. Nhưng nàng chưa nổi tiếng. Vậy nàng lấy tiền ở đâu để thuê những căn phòng sang trọng trong một binh-đinh tối tân ? Xe hơi của nàng, áo lông thú của nàng, tất cả những cái gì của nàng đều thuộc loại đắt tiền, người có lợi tức trên mức trung bình không tài nào sắm nỗi...

Tội nghiệp cho Tôni... ông già 57 tuổi hảo ngọt chẳng còn nhớ gì nữa.

Hồi trưa, nàng đã gọi điện thoại tới.

Tôni mừng như bắt được của. Đã lâu, hai người không gặp nhau. Đã hơn ba tuần - ba thế kỷ dài lê thê trong ngục tù chai lọ, hóa chất và máy móc điện tử - ông không được gặp nàng, ở cùng phòng với nàng, tận hưởng những phút cọ sát thần tiên về da thịt với nàng, để rồi thưởng thức những ly rượu ngon, những đĩa ăn ngon thượng hạng mà ông chưa bao giờ được thấy sau mấy chục năm với vợ.

Như thường lệ, nàng đậu xe chờ ông gần nhà hàng La Bourride trên con đường mang tên một họa sĩ hữu danh. Thực đơn đặc biệt của tiệm ăn chuyên về đồ biển này là bui-a-bét. Ông gặp nàng lần đầu trong tiệm La Bourride bên đĩa xúp bui-a-bét thơm ngập mùi dầu ô líu và mùi nghệ, nên đã lấy đó làm nơi hẹn hò.

Bên trong nhà hàng được trang trí tầm thường nhưng đẹp mắt, với những con tàu, bản đồ, lưới cá treo ngang dọc trên tường. Mọi lần ông đến La Bourride gặp nàng rồi ăn luôn với nàng ở đấy trước khi lên xe do nàng lái về phòng riêng tình tự.

Dưới ánh đèn nê-ông, Tôni nhìn thấy chiếc AMX lộng lẫy sơn màu hồng nhạt của Rose đậu sát lề. AMX là một trong các loại xe đắt tiền nhất trên thế giới. Nó do hãng Rambler, Hoa kỳ, chế tạo, động cơ của nó còn lớn hơn và mạnh hơn động cơ của xe hàng khổng lồ 12 bánh. Mỗi khi ngồi trên xe, bên cạnh Rose, dựa đầu vào nệm, nhìn nàng lái nhà bác học cảm thấy tâm thần lâng lâng như được rời cõi đất bụi bặm để lên thiên đường...

Nhà bác học mở cửa xe, tránh sang bên cho người đẹp bước xuống. Nhưng nàng xua tay :

- Không, về nhà hơn.

Tôni hơi ngạc nhiên :

- Chúng mình không ăn gì ư ?

- Nàng cười, đĩ thõa :

- Thiếu gì cái ăn. Em chưa đủ ngon lành cho anh ăn hay sao ? Nói đùa đấy, em đã mua sẵn rồi. Đêm nay lạnh, ăn ở nhà thú vị hơn ăn ở tiệm. Anh ở luôn đến sáng được không ?

- Được.

- Xin phép bà đầm chưa ?

- Anh đi đêm là thường. Dầu biết nữa, vợ anh cũng chẳng nói gì.

- Em hỏi thật anh nhé ! Anh yêu vợ không ?

Nhà bác học thở dài. Chiếc AMX bóng loáng rời khỏi lề đường, ngoan ngoãn phóng nhanh dưới sự điều khiển mềm mại và khéo léo của Rose. Lát sau Tôni mới đáp :

- Nếu còn yêu vợ anh đã không bỏ tất cả để theo em. Biết là nguy hiểm, anh vẫn không ngần ngại. Đôi khi, anh tự hỏi lòng và không hiểu tại sao em lại có thể yêu một người đàn ông cằn cỗi, xấu xí gần 60 tuổi như anh.

-Tuổi tác không phải là trở ngại đáng kể của hôn nhân. Anh biết nhạc sĩ đại tài Pablo Casals không ? 80 tuổi mà lấy vợ trên 20. Một ông thượng nghị sĩ lỗi lạc Hoa kỳ vừa cưới cô thư ký chưa bằng tuổi con gái. Chồng của nữ ca sĩ Edith Piaf không kém bà một đống tuổi hay sao ? Theo em, điều kiện làm đàn ông và đàn bà gần nhau, yêu nhau là sự thông cảm tinh thần. Em mê toán học từ nhỏ. Em coi các giáo sư toán đáng kính hơn cả thiên thần nữa. Anh là khối óc toán học độc nhất vô nhị, em không yêu, không mê sao được ?

- Hừ, em mê chữ số hay mê người ?

- Cả hai.

Mọi đêm đi chơi với Tôni nàng thường đậu xe ở những quãng vắng rồi ôm hôn tíu tít như sợ gã đàn ông già biến mất. Đêm nay, nàng lại cho xe hơi chạy lòng dòng, tốc độ khi nhanh khi chậm thất thường, không ăn nhịp với đèn hiệu giao thông, và chốc chốc nàng lại liếc nhìn vào kiếng chiếu hậu.

Nếu Tôni còn giữ được bình tĩnh sau cái hôn mơn trớn của nàng thì đã nhiều lần bắt gặp cái nhìn lấm lét của nàng. Dường như nàng sợ bị người lạ theo sau. Nàng không sợ bà vợ lớn tuổi của Tôni. Nàng không sợ bè bạn. Điều nàng sợ, nàng không thể nói cho ai biết...

Tôni đã ngồi cùng xe với nàng nhiều lần. Nếu Tôni còn giữ được bình tĩnh sau khi nàng luồn tay vào cổ áo vuốt nhẹ xương sống từ gáy xuống gần xương cổ thì đã nhận thấy kiếng chiếu hậu vừa được thay mới, một loại kiếng đặc biệt có thể chiếu rõ cảnh vật phía sau ban đêm.

Nhà bác học run lẩy bầy :

- Em ơi, sao chưa về phòng đi ?

Rose ghé đôi môi bỏng nhẫy lại gần má Tôni giọng nũng nịu :

- Anh nhớ em đến thế kia ư ?

- Sao lại không ? Gần một tháng chờ đợi mòn con mắt rồi còn gì... Anh gọi điện thoại cho em cả trăm lần mà không nghe trả lời, tưởng em gặp nạn anh buồn thối ruột. Té ra em đi vắng. Tệ ghê, em đi khỏi Ba lê mà không cho anh biết. Thôi, đúng rồi, em lên núi trượt tuyết với một chàng thanh niên, đẹp và khỏe...

- Khổ quá, anh lại bắt đầu ghen. Em xin thề là đi xa có việc. Việc quan trọng. Chứ không tằng tịu với ai hết. Em nói dối thì quỷ sứ bóp cổ em chết.

- Nói bậy.

Xe hơi đã tới một khu vắng vẻ. Chạy một quãng nữa là đến tổ ấm của hai người. Bỗng nàng giảm tốc độ, lái vào dưới một gốc cây lớn, đen sì, ánh đèn ở đầu đường không đủ sức xuyên qua màn tối dầy đặc. Khung cảnh kín đáo và thanh tịch này rất hợp với trai gái yêu nhau.

Tôni hỏi:

- Em đậu lại đây làm gì ?

Nàng ngồi sát lại, tỉ tê :

- Lạnh quá, em bị cóng tay, lái không vững nữa.

Tôni định phản đối "em nói lạ thật, xe hơi gắn máy sưởi ấm áp như thế này mà em bảo là lạnh, vả lại anh thấy em đeo găng da bọc lông thú, tay em có run bao giờ đâu..." song chỉ mở miệng rồi ngậm lại ngay. Gã đàn ông 57 tuổi sợ phản đối làm ngươi đẹp mất lòng.

Bèn đề nghị:

- Để anh lái cho.

Nàng rúc vào nách nhà bác học :

- Anh đòi lái giùm em ấy à ? Thôi em xin anh. Mắt anh kèm nhèm như thế kia mà lái xe đua trời tối thì em phải vào bệnh viện sớm. Với lại nệm xe cũng khá rộng. Chung quanh chẳng có ai...

Giọng nhà bác học khàn đặc :

- Em muốn chúng mình...

Nàng gạt ngang :

- Chứ còn gì nữa ? Chúng mình yêu nhau giữa bốn bức tường mãi, chán chết, em đề nghị đêm nay đổi món. Chúng mình sẽ yêu nhau theo kiểu híp-py.

Nói đoạn, nàng ôm cứng lấy nhà bác học. Da thịt nóng bỏng của cô gái thanh xuân làm nhà bác học đờ người. Những đêm hò hẹn trong căn phòng sang trọng, nàng pha cốc-tay kích thích để sẵn ngoài bàn rồi tung tăng vào buồng tắm. Khi trở ra, nàng mặc cái áo dài kim tuyến mỏng như giấy bóng khiến nhà bác học đa tình có thể nhìn thấy những nốt ruồi son của nàng ở ngực và bụng. Nàng ưỡn ẹo theo điệu vũ múa bụng Ai cập cho Tôni say mê rồi sà xuống. Trong khi ân ái, nàng chăm chút nhà bác học như thể mẹ chăm chút con nhỏ bú sữa.

Thú vị độc nhất vô nhị ấy không thể có trong le hơi chật chội. Song Tôni đã bải hoải tay chân khi nàng bắt đầu vuốt ve. Gã đàn ông đầu hai thứ tóc thở hổn hển trên băng xe hơi, mắt nhắm nghiền trong cơn hoan lạc vô biên.

Nàng cũng thở hồn hển, nhưng là giả vờ. Vì nàng vẫn sáng suốt. Nàng cung phụng ái tình cho Tôni một cách lạnh lùng như cái máy bán nước ngọt trên hè phố Ba lê. Ái tinh được tính toán, được sắp xếp từ trước. Nàng chỉ là một trong nhiều vai trò trong một vở trường kịch với những đạo diễn cừ khôi...

Tôni rên khừ khừ :

- Anh yêu em lắm, em ơi ! Rose, em yêu anh không ? Kìa, tại sao em không ôm anh chặt thêm nửa?

Nàng phải buông nhà bác học ra vì trong kiếng chiếu hậu vừa thấy bóng người thấp thoáng. Đó là một người đàn ông cao lớn, đội mũ cát-kết xùm xụp, khoác áo dạ rộng thùng thình. Hắn tiến lại gần cửa xe, hai tay thọc sâu trong túi áo.

Trong khi ấy, nhà bác học đã tới độ cao nhất của tình yêu xác thịt. Toàn nhân ông giãy lên, ông rú lên từng tông nho nhỏ. Giá đạn đại bác cỡ lớn nổ ngay trên đầu hoặc đám cháy lớn ngay bên cạnh, ông cũng chẳng nghe, chẳng thấy.

Rose từ từ luồn tay vào táp-lô xe hơi, lấy ra một ống xơ-ranh nhỏ xíu.

Bóng đen đã đến sát cửa xe. Hắn đặt bàn tay vào quả nắm, sửa soạn mở.

Phập một tiếng nhẹ, mũi kim tiêm đâm vào mông nhà bác học.

Tôni kêu lên :

- Ái cha !

Rồi buông mình xuống nệm. cửa xe mở ra. Bóng đen không để ý đến người đàn bà lõa lồ. Nàng mặc cái xiêm y, vẻ mặt bình thản như thay quần áo trong phòng kín.

Bóng đen cầm cổ tay nhà bác bọc lên để bắt mạch :

- Hắn có phản ứng gì không ?

Nàng đáp :

- Không.

- Nghĩa là hắn không biết gì hết ?

- Không. Hắn tưởng tôi lái xe đưa hắn về phòng như thường lệ. Đến khi tôi dừng xe, hắn cũng chẳng hỏi tại sao. Đối với hắn thì chỉ có ái tình, ái tình trên hết. Hạng đàn ông già lụ khụ như hắn được cặp kè một người đàn bà trẻ đẹp như tôi đã là đại phúc. Hắn chết cũng đáng đời, huống hồ hắn chỉ bị tiêm thuốc mê.

Thiếu phụ có tên là Rose nói dứt lời bèn nhảy xuống đất, êm ái như lá rụng. Bóng đen đằng hắng :

- Cô đi đâu ?

Nàng nhún vai:

- Đi uống ly vốt ka cho ấm bụng, và khiêu vũ đến sáng. Công tác của tôi xong rồi, bây giờ đến lượt anh.

Bóng đen le lưỡi:

- Nghe cô nói, tôi đã quen cô mà cũng rợn tóc gáy.

- Hừ, anh cho tôi là con đàn bà ghê tởm ư ?

- Tôi thấy cô rất đẹp.

- Nghĩa là anh bắt chước lão già Tôni sửa soạn mê tôi...

- Tôi không dám.

- Vì anh mó vào người tôi, anh sẽ chết... Thứ nhất, không người đàn ông nào còn nguyên sức lực hoặc tính mạng sau khi được tôi yêu. Thứ hai, sắc đẹp của tôi chỉ dành riêng cho các nhà bác học ngoại quốc, anh đụng tới, Trung ương sẽ cho anh rũ tù. Thôi, chào anh nhé !

Người đàn bà kỳ lạ rút thuốc lá trong túi ra hút, rồi từ từ đi bộ về phía trung tâm thành phố. Bóng đen nhìn theo thở dài não nuột, rồi đóng cửa xe đánh sầm trước khi trèo lên lái ra ngoại ô.

Từ đêm ấy, bác sĩ Tôni biệt tích.

Tôni đi đâu ? không ai biết.

Tôni còn sống hay chết ? Cũng không ai biết. Trong khi ấy một vụ biệt tích quan trọng khác xảy ra. xảy ra ở một thành phố khác.

Và nạn nhân cũng là một khoa học gia tên tuổi.

* * *

Địa điểm : trị trấn Đông Bá Linh

Thời gian : một đêm tối trời mùa hạ.

Đúng theo kế hoạch đã định, nhà khoa học Đông Đức Lêô (Léo) rời căn phòng của gia đình ông trong một chung cư đồ sộ được canh phòng nghiêm mật để đến dự một cuộc tấu nhạc do chính quyền Đông Bá Linh tổ chức. Lêô mê âm nhạc hơn mọi cái trong đời ; hồi nhỏ, ở trường đại học, ông là nhạc sĩ dương cầm, tài nghệ và bộ mã đẹp trai của ông đã khiến ông lọt vào mát xanh của nhiều người đẹp.

Nhưng rồi ông lập gia đinh, quanh năm cặm cụi trọng phòng thí nghiệm nên ít có thời giờ dành cho âm nhạc... và cho tình yêu. Bởi vậy, mỗi khi có cuộc trình diễn âm nhạc là khoa học gia Lêô không bỏ lỡ cơ hội.

Lúc ấy đã gần 9 giờ tối. 9 giờ tối ở một thành phố heo hút như Đông Bá Linh cũng như 3 giờ sáng ở Sài gòn, phố sá vắng tanh, vắng ngắt, hàng quán đóng cửa im ỉm.

Lêô hôn trán vợ, đùa vời hai đứa con trai đang ngồi đánh cờ trong góc phòng rồi bước vội ra ngoài, ông chưa đến 50 nhưng tóc đã bạc phơ, bắp thịt đã mềm xèo, nhiều cái răng đã bị rụng. Mã ngoài của ông không có gì là hấp dẫn; hồi là sinh viên đại học, ông chinh phục được cảm tình của bạn gái có lẽ là nhờ ông hiền lành như cục bột, và phần nào cũng nhờ ông học giỏi... học giỏi một cách kinh khủng. Giờ đây, ông vẫn còn được phụ nữ say mê vì... ông là nhà khoa học nỗi tiếng ở Đông Đức.

Nhưng Lêô không thể đáp lại sự ngưỡng mộ của phái yếu vì bệnh ghen tuông độc nhất vô nhị của vợ. Bà vợ đã già trước tuổi, da mặt nhăn nheo, đôi thắt kèm nhèm, và nguy nhất là cái bụng đùn ra phía trước như có chửa 5 tháng, bộ ngực thót lại và chảy xuống một cách thảm hại như hai trái mướp.

Bà vợ giữ ông ở trong nhà như giữ của hương hỏa. ông đi đâu một bước bà cũng nằng nặc đi theo, ông đành nghe theo ý muốn của bà, nếu không sóng gió hãi hùng sẽ xảy ra. Nhưng trong thâm tâm Lêô đã chán ngấy, ông đã chán ngấy cuộc sống buồn tẻ ở phía Đông, dưới sự cai trị của chính quyền cộng sản.

Và ông đã chán ngấy bà vợ.

Ông chỉ mong chờ cơ hội thoát ly. Cơ hội này đã đến với ông cách đây hai tuần lễ. Hôm ấy, ông đi nghe tấu nhạc thính phòng. Bà vợ của ông theo ông như bóng với hình song lại rất ghét âm nhạc nên ông được đi một mình... với vệ sĩ riêng của sở An ninh.

Không hiểu vì vô tình hay hữu ý mà một thiếu phụ đẹp như trăng rằm lại ngồi cạnh ông.

Đèn tắt, trong rạp không ai nhìn thấy ai, toàn thể đều nín thở theo dõi ngón tay thoăn thoắt của nhạc sĩ trên dương cầm, và nghe tiếng tơ thánh thót ru hồn người vào cõi mộng. Tên vệ sĩ có thân hình bằng đồng hun đen sì đang hút thuốc lá vặt bên ngoài. Nhà bác học tha hồ tận hưởng thời khắc thần tiên...

Nàng rớt cái khăn tay xuống đất, và Lêô cuối xuống nhặt, ông thường có tính lịch sự đối với đàn bà, nhất là đàn bà đẹp. Từ hai chục năm nay, ông chưa hề gặp thiếu phụ nào đẹp bằng nàng. Chao ôi, trên diện mạo nàng, cũng như thân thể nàng, tất cá đều cân đối, tất cả đều vẹn toàn, tất cả đều bốc lửa...

Lêô buột miệng :

- Hân hạnh được ngồi bên bà !

Nàng ghé miệng vào tai nhà bác học, giọng êm êm như nhạc tình :

- Hân hạnh được quen tiến sĩ Lêô.

Nhà bác học giựt mình đánh thót:

- Bà cũng biết tôi ư ?

Miệng nàng ghé sát thêm nữa, tưởng như sắp hôn phớt vào má nhà bác học :

- Trời ơi, bất cứ ai ở phía Đông này cũng phải nghe danh nhà khoa học lỗi lạc Lêô.

- Vậy mà tôi chỉ mong được hóa kiếp để biến thành đôi giày của bà.

- Để làm gì ?

- Để được hầu hạ bà... Để được bà đạp lên trên.

- Không ngờ một nhà khoa học như ông lại có tâm hồn thi sĩ lẵng mạn... ông khỏi cần hóa kiếp, tôi muốn làm bạn với ông, ông chấp nhận không ?

Dĩ nhiên là Lêô ký cả hai tay. Được kết thân với giai nhân, để quên cuộc sống địa ngục với bà vợ hay ghen và xấu như Chung vô Diệm tái sinh, thì phải nhảy vào đống lửa, Lêô cũng không ngần ngại..

Nàng đưa cho Lêô một cái hộp nhỏ. Chỉ nhỏ hằng nửa gói thuốc lá, ngoài bọc nhung đen. Mở ra, ông hiểu liền. Bên trong có một cái nút nhỏ bằng đầu ngón tay út, và một điếu xì-gà ngắn. Cái nút nhỏ và điếu xì-gà này chính là cái loa để nghe và cái máy vi âm để nói của một dụng cụ truyền thanh vô cùng tinh vi do Liên sô chế tạo, dành riêng cho các chuyên viên của ngành do thám.

Nàng cũng rút trong túi ra một cái hộp tương tợ. Nàng bỏ cục nghe vào lỗ tai và "điếu xì-gà" giả vào miệng. Ai cũng tưởng nàng hút thuốc lá nhưng quên châm lửa. Nàng không há miệng, cũng không lẩm bẩm trên môi mà vẫn thành tiếng, truyền đến tận tai nhà bác học một cách rõ ràng, như nói bên cạnh.

- Ông cứ đeo như vậy, tôi sẽ có chuyện nói với ông. Vì điều kiện an ninh, tôi phải đi chỗ khác ngồi, ông bắt đầu nghe chưa ?

Nhà bác học lắp bắp :

- Thưa... bà... rồi.

- Điều thứ nhất tôi cần nói với ông là tiếng "bà" có vẻ quá nghiêm nghị. Hiện nay, tôi sống một mình, vậy ông nên gọi tôi là cô thích hợp hơn.

- Vâng, tôi sẽ dùng tiếng "cô".

- Ông biết tôi sắp nói chuyện gi không ?

- Không.

- Để tôi nói nhé ! Tôi đến đây gặp ông là theo lời yêu cầu của Rờnê (René).

Nhà bác học giật mình :

- Cô vừa nói gì ? Cô vừa nhắc đến tên Rờnê hả ?

- Phải, Rờnê. Tiến sĩ vật lý Rờnê. Bạn thân của ông ngày xưa trong trung tâm nghiên cứu.

- Cô cũng quen Rờnê ?

- Phải. Quen thân như ông.

- Tội nghiệp, y với tôi như con chấy cắn đôi... nhưng bây giờ y không còn nữa.

- Ông Lêô, giữa ông và tôi không nên khách sáo làm gì... Vì ông đã biết Rờnê đi đâu, và hiện còn sống hay chết. Tôi cũng vậy.

- Thú thật với cô, tôi chỉ được tin y trốn từ Đông Đức sang phía Tây rồi qua Hoa kỳ lập nghiệp, chứ chưa hề liên lạc thư từ.

- Ông nghĩ ra sao về việc Rờnê bỏ đi ?

- Cô đừng hỏi tôi thì hơn.

- Sớm muộn, ông sẽ phải đối đầu với thực tế phũ phàng... Lẽ ra sau ngày Rờnê trốn khỏi Đông Đức, người ta đã loại trừ ông. Dĩ nhiên, ông không phải ở tù, nhưng ở suốt đời giữa bốn bức tường kiên cố của trung tâm thí nghiệm khoa bọc trong rừng rậm thì cũng như lãnh án chung thân khổ sai. Sở dỉ ông còn được tiếp tục phục vụ tại Đông Bá Linh là nhờ vợ ông. Vợ ông chẳng có nét nào hấp dẫn, nhưng lại có liên hệ ruột thịt với một nhân vật cao cấp trong ủy ban Trung ương Đảng. Vì vậy, ông chưa bị đổi đi... vả lại, người ta cũng chưa thể gạt bỏ được ông. Sự đóng góp của ông hiện rất cần thiết để tiến hành kế hoạch thí nghiệm hiện hữu. Nhưng ông ơi, sau khi hoàn thành công cuộc thí nghiệm họ sẽ mở lại hồ sơ... và tôi sợ rằng ông sẽ bị vứt vào xọt rác như múi chanh đã được vắt hết nước, ông Lêô, điều tôi vừa nói là sai hay đúng ?

- Đúng.

- Vậy ông ngần ngại gì nữa ?

- Ngần ngại gì hả cô ? Tôi chưa hiểu cô muốn nói gì.

- Tôi không ngờ ông lại tối dạ đến thế. Rờnê đang sinh sống ung dung ở ngoại quốc. Y có tiền mua biệt thự, tậu xe hơi mới toanh, và tha hồ du hí... ông biết không ? Lương tháng của y trên hai ngàn đô-la Mỹ. Trong khi ông làm cả năm mới được hai ngàn... Đó là tôi chưa kể số tiền thưởng riêng ngay sau khi ký khế ước nữa., ông thử đoán xem số tiền thưởng là bao nhiêu ?

- Tôi không đoán được.

- Ông ráng lên.

- Nếu vậy thì hai ngàn, ba ngàn đô-la...

- Ồ, số tiền thưởng mà chính phủ Hoa kỳ trả cho Rờnê đã nhiều gấp 20 lần số tiền hai ngàn đô-la. Nghĩa là Rờnê đựợc thưởng hai chục ngàn đô-la trước khi bước chân vào trung tâm nghiên cứu bên Mỹ. Đối với ông thì khác, số tiền này có thể được tăng thêm nữa.

- Cô nói sao ? Tôi hơi lãng tai, nghe không rõ.

- Dầu ông nghe rõ, tôi cũng cần nhắc lại vì nó định đoạt tương lai ông... Tôi nói rằng nếu ông nghe lời Rờnê thì số tiền thưởng sau khi ký khế ước cỏ thể tăng thêm gấp nhiều lần.

- Trời ơi, cô định rủ tôi bỏ trốn ư ?

- Ông đừng tìm cách tự dối lòng nữa. Tôi không rủ ông bỏ trốn mà là rủ ông chọn tự do... ông muốn ở lại với bà vợ gìà nua, xấu xí, và ghen tuông không ? ông muốn ở lại với cuộc đời tù nhân giam lỏng, ăn không đủ ngon, tiêu khiển không đủ thích để chết dần, chết mòn không ? ông đã lưu luyến kiếp sống thiên đường này thì tôi thuyết phục ông làm gì, vô ích. Chào ông và chúc ông tiếp tục hưởng hạnh phúc.

- Khoan đã, cô ơi ! Đặt vào hoàn cảnh tôi, cô sẽ thấy tôi tiến thoái lưỡng nan. Không giấu gi cô, trước kia Rờnê rủ tôi vượt biên giới từ Đông sang Tây Bá Linh, nhưng khi ấy tôi lại rụt rè. Nên Rờnê đành đi một mình. Qua Mỹ, y nhắn người về nói là chính phủ Mỹ sẳn sàng trọng dụng tôi và sẳn sàng tổ chức cho tôi thoát ly, nếu tôi thỏa thuận... Đề nghị của Rờnê làm tôi băn khoăn cực độ, nhiều lần tôi sửa soạn lên đường rồi lại thay đổi ý định, sống bên vợ là cực hình đối với tôi, tôi muốn được giải thoát ngay lập tức, nhưng cô ơi, vượt biên giới không còn dễ đàng như ngày trước nữa. Ngày trước chỉ cần lên tàu điện từ phía Đông sang phía Tây. Ngày nay, người ta đã ngăn đôi thành phố bằng bức tương bê-tông kẽm gai...

- Ông đừng nói dài dòng nữa. Thành thật hỏi ông lần cuối, ông muốn chọn tự do như bạn ông không ?

- Muốn thì rất muốn, nhưng...

- Không có nhưng gì hết. Tôi sẽ giúp ông thực hiện được ý định.

- Bao giờ ?

- Tôi còn phải về báo cáo với thượng cấp. Tuy nhiên, theo tôi thì ông sẽ có thể lên đường trong vòng một đến hai tuần nửa, nhân dịp có một cuộc trình diễn âm nhạc thính phòng.

- Xin cô tha lỗi... cô ở đâu. cò có thể cho tôi biết địa chỉ được không ? Để tôi...

- Hừ, trên nguyên tắc an ninh nghề nghiệp, tôi không được phép cho ông biết chỗ ở. Song thái độ thông cảm của ông đã khiến tôi suy nghĩ lại. Vả lại ông cần được thưởng trước khi đặt bút ký vào khế ước. Ông sẽ được thưởng năm chục ngàn đô-la. Cùng với số tiền năm chục ngàn đô-la là... là một người đàn bà trẻ đẹp. Chúng tôi đã kiếm sẳn cho ông một cô gái hoàn toàn từ nhan sắc đến tính tình. Cô gái này chỉ mới 25 tuổi, rất có cảm tình với ông và tôi biết chắc ông sẽ bằng lòng.

- Nàng là ai, hả cô ? Theo tôi, tình yêu là sự thông cảm giữa hai người, tôi không tin là người con gái kiều diễm mà cô sắp giới thiệu ấy lại yêu tôi. Vì hẳn cô không quên tôi đã luống tuổi, lại chẳng có gì là khôi ngô.

- Tôi bảo đảm với ông một trăm phần trăm. Nếu ông không bận làm đêm, hoặc sợ bà đầm ở nhà, tôi xin giới thiệu nàng với ông ngay bây giờ.

- Ngay bây giờ ?

- Phải, ngay bây giờ, nếu ông muốn. Thôi, ông cũng đừng õng ẹo nữa... đàn ông sung sức như ông còn cần ân ái hơn xe hơi cần nhiên liệu, ông đã biết nàng từ lâu. Và từ lâu ông đã tỏ tình với nàng, song nàng không chấp thuận.

- Nàng là ai, hả cô ?

- Ông nóng ruột ghê ! Bây giờ ông đứng dậy, lẻn ra ngoài bằng cửa bên trái gần sân khấu, cửa thường dành cho nhạc sĩ. Nàng ở trong cái bin-đinh quét vôi vàng đối diện hí viện, ngay bên kia đại lộ.

- Ô, không khéo nàng ở cùng bin-đinh với cô thư ký riêng của tôi. Vì bên kia đường chỉ có một bin-đinh quét vôi vàng độc nhất.

- Cô thư ký của ông có phòng ở lầu mấy ?

- Lầu 3.

- Người con gái mặt hoa da phấn tôi giới thiệu với ông cũng có phòng ở lầu 3.

- Nhưng còn số phòng... Phòng nàng mang số mấy ?

- Số 15.

- Ôi chao, cô thư ký riêng của tôi cũng ở phòng mang số 15. Chắc cô lầm rồi. Không lý nào cô thư ký lại yêu tôi và sẳn sàng đón tiếp tôi như vậy.

- Tên cô thư ký riêng ấy là gì hả ông ?

- Kôrêlana.

- Đúng rồi, người con gái mà ông sắp gặp gỡ có cái tên khả ái là Kôrêlana.

- Vậy thì nàng là nữ thư ký của tôi từ nhiều tháng nay. Trời ơi, có thể nhứ thế được chăng ? Mới hôm qua tôi buông lời uớm thử thì nàng nghiêm mặt mắng tôi là "già chơi trống bỏi". Nếu được nàng đoái lòng thương tôi chết tôi cũng không dám từ.

- Ông nên mừng đi. Vì nàng sẽ thương ông. Nàng sẽ cho ông tận hưởng những thú vui chưa từng có. À, ông chớ quên điều này nhé ! Chỉ còn 60 phút nữa là buổi hòa nhạc kết thúc, ông chỉ được phép lưu lại trong phòng Kôrêlana đúng 30 phút rnà thôi, 30 phút là lâu nhất. Sao đó, ông hãy trở lại hí viện, ngồi vào ghế cũ, ông đừng ngại : nếu chẳng may bọn lính ở bin-đinh bắt gặp ông thì cũng không sao, họ sẽ không hạch sách ông về tội tí toe với cô thư ký riêng, vả lại, ở thành phố Đông Bá Linh này, có ông giám đốc nào của chính quyền là có thể tự hào không tí toe với nữ thư ký ?

Giọng nói êm ái ngưng bặt. Như người say tơ lơ mơ ban đêm bụng đói, Lêô rút cái nút lát-tích ra khỏi lỗ tai, nhìn quanh quất tứ phía. Mọi người đang hướng lên sân khấu, tâm hồn bị lôi cuốn trong sóng nhạc dương cầm huyền diệu.

Ghế bên cạnh trống không. Người đàn bà lạ còn lưu lại một mùi hương da thịt quyến rũ. Giá được ôm nàng sau một ngày làm việc vất vả thì tuyệt! Được ôm Kôrêlana vào lòng còn sướng hơn nhiều. Thật không ngờ... không ngờ Lêô lại có diễm phúc ngàn năm một thuở trèo lên cái giường thơm lừng như ướp nụ hoa hồng của giai nhân măng tơ Kôrêlana, dùng chung gối với nàng, đắp chung mền với nàng, biết rõ những bí mật kỳ lạ nhất trên thân thể cháy bỏng tình dục của nàng...

Trống ngực đập thình thịch, Lêô trèo lên lầu 3. Ba chân bốn cẳng chạy đến phòng số 15.

Dọc đường, ông chỉ sợ người đàn bà trong hí viện nói đùa. Phụ nữ cuồng loạn ngày nay đùa dai đàn ông trung niên sợ vợ như vậy là thường... Tuy nhiên, linh tinh sắc bén của ông cho ông biết là nàng nói thật...

Gần đến phòng 15, Lêô dừng lại để thở.

Bỗng ông lạnh toát cả người, miệng lẩm bẩm :

- Hay là mình bị mê ?

Ông véo nhẹ vào bắp thịt tay bèo nhèo và cảm thấy đau đau. Nghĩa là ông không bị mê. ông vẫn tỉnh. Những việc đang xảy ra đều là thực tại.

Kôlêlana đẹp phơi phới và lồng lộng như mùa xuân mở cửa phòng sổ 15, và nhoẻn miệng cưới với ông, cũng là thực tại bằng xương bằng thịt, có thể nhìn thấy, sờ thấy được. Nhà bác học tê tái trong khoảnh khắc, ông xà vào bộ ngực phi phàm của nàng, giọng lắp bắp :

- Kôrê... lana, thật không ngờ... không ngờ.

Kôrêlana ôm Lêô hôn dài vào môi, rồi dìu ông ngồi xuống ghế xa-lông. ông đòi tiếp tục nói chuyện trên giường, song nàng gạt đi bằng giọng ngọt ngào, thỏ thẻ :

- Thông thả... hôm nay chưa tiện. Anh phải trở về hí viện kẻo người ta nghi ngờ. Hẹn anh khi khác. Giữa anh và em thì thiếu gì cơ hội. Thiếu gì cơ hội làm ái tình, phải không anh Lêô yêu dấu ?

- Đồng ý là chúng mình thiếu gì cơ hội, nhưng bao giờ ? Bao giờ anh sẽ được... ?

Giọng nàng trở nên ráo hoảnh :

- Sau khi anh và em ra khỏi Đông Bá Linh.

- Chao ôi, em đặt điều kiện khắc nghiệt ghê.

- Ann không chấp thuận thì thôi.

- Sao lại không ? Nếu từ chối, anh đã không đến gặp em. Anh bằng lòng, bằng lòng nhận tất cả. Miễn hồ được có em bên cạnh. Nhưng, ít ra...

- Anh muốn thưởng thức trước phải không ?

- Phải., em đã đọc được tư tưởng của anh.

- Dễ lắm... Em sẳn sàng chiều theo ý muốn của khách hàng. Anh mở rộng mắt ra mà quan sát.

Kôrêlana lùi lại một bước.

Xoạc một tiếng, bộ xiêm y của nàng được may theo kiểu riêng, kiểu của vũ nử thoát y trên sân khấu, chỉ kéo nhẹ là cái phẹt mơ tuya chạy dài từ trên xuống dưới xé loang quần áo ra làm hai mảnh, rớt tung luôn xuống đất. Kôrêlana nghiêng người cho Lêô ngắm. Nàng khỏa thân hoàn toàn. Lêô bước lên, quờ tay, định ôm, song nàng xô ra :

- Không được, không được. Anh chỉ mới dạm mua chứ chưa phải là chủ nhân ông... Chỉ một vài tuần lễ nữa thôi...

Và hai tuần lễ dài bằng hai chục năm trôi qua. Ngày hẹn với Kôrêlana đã tới.

Lúc ấy đã gần 9 giờ tối.

Như thường lệ, Lêô rời nhà riêng trên đường tới hí viện bằng xe hơi của sở, và có vệ sĩ đi kèm. Song vệ sĩ lại ngồi ngoài trong khi nhà bác học chìa thiếp mời danh dự cho nhân viên phòng vé.

Bên trong, buổi tấu nhạc đã bắt đầu. Trong cảnh vắng lặng, dường như cử tọa đều nín thở để nghe tiếng nhạc dương cầm thánh thót. Lêô ngồi một lát rồi lẻn ra cửa hông.

Kôrêlana đợi sẵn bên kia đường, trong một chiếc xe hơi đen dài ngoằng. Lêô chui vào nhưng cũng hỏi:

- Sao không lên phòng ?

Nàng đưa một ngón tay lên miệng :

- Suỵt. Anh nói nhỏ chứ. Trên phòng em có người.

- Ai ?

- Công an.

- Trời ơi, công an đến phòng em làm gì ?

- Hỏi em về việc chúng mình thông gian với nhau.

- Trời ơi, anh đã được ngủ với em lần nào đâu mà họ bảo là thông gian.

- Không biết nữa. Hay là... để em quay xe lại, anh lên lầu hỏi họ.

- Đâu được ! Công an lôi thôi lắm. Chuyện bé họ thường xé ra to. Vả lại còn vợ anh, gia đình anh. Chỉ nội cái ghen của mụ vợ cũng đủ làm anh tan xương, nát thịt. Bây giờ em đi đâu ?

Nhìn lên băng trước, Lêô mới nhận thấy người tài xế lù lù. Chột dạ, nhà bác học quay lại nhìn Kôrêlana.

Nàng chắt lưỡi:

- Qua Tây Bá Linh.

Nhà bác học sợ xanh mặt:

- Qua bằng lối nào ? Tường bê-tông xây kín mít, chỉ chừa lại mấy lối đi nhỏ được canh phòng cực kỳ nghiêm mật. Một con chim bay qua cũng bị bắn rơi huống hồ là anh và em đi bằng xe hơi.

- Anh yên tâm, em đã có phương pháp đưa anh ra khỏi thành phố.

Xe hơi đậu lại.

Kôrêlana dìu Lêô xuống. Tài xế rồ ga phòng chừng. Nàng dẫn nhà bác học qua cái sân rộng mênh mông của một thánh đường bỏ trồng. Phía trước, cách một giãy phố là bức tường bê-tông và kẽm gai bất khả xâm phạm ngăn đôi thành phố Ba Linh.

Đi bên nàng, tuy mùi cơ thể nàng tỏa ra ngây ngất, nhà bác học vẫn nỗi da gà. Công an tóm được thì rũ tù. Hoặc bị lôi xuống hầm và nhốt trong xà-lim lạnh buốt, không được ăn uống, chờ đến khi mệt lả thì cho cả đàn chuột đói vào rỉa từng miếng thịt...

Nhà bác học theo cô gái vào một gian phòng tối om, xoè bàn tay trước mặt cũng không nhìn thấy ngón.

Lêô hoảng hốt:

- Kôrêlana, em đâu rồi ! Anh sợ lắm.

Cô gái nắm tay nhà bác học :

- Sợ hả ? Sao anh yếu bỏng vía thế ? Nào, để em nắm tay cho anh khỏi sợ. Anh đứng sát vào người em đi.

Ngoan ngoãn, nhà bác học nép vào ngực cô gái. Trong bóng tối, nàng mỉm nụ cười bí mật. Cái xơ ranh đựng thuốc mê đang được nàng giơ lên. Tối hôm ấy, bác sĩ Lêô biệt tích.

Lêô đi đâu ? Không ai biết.

Lêộ còn sống hay chết ? Cũng không ai biết. Trong khi ấy, một vụ biệt tích quan trọng khác xảy ra. xảy ra ở thành phố khác.

Và nạn nhân cũng là một khoa học gia tên tuổi.

* * *

Nhưng nếu Tôni là người Pháp, Lêô là người Đức thì nạn nhân thứ ba lại là người Việt.

Người Việt nhập quốc tịch Mỹ, tên Henry Phạm Thiên. Vụ biệt tích được tổ chức theo lề lối cổ điển từng được các cơ quan điệp báo trên thế giới áp dụng; tuy nhiên Phạm Thiên không bị thú xác thịt mê hoặc như Tôni, hoặc tha thiết với triển vọng chọn tự do như Lêô.

Kẻ điều khiển việc bắt cóc bác sĩ Phạm Thiên khó thể là một giám đốc điệp báo tầm thường. Vì lẽ hắn không bỏ quên chi tiết cỏn con nào mà không khai thác.

Thứ nhất là quá khứ của Phạm Thiên.

Và thứ hai là Túy Vân, hòn máu duy nhất của Phạm Thiên, đã trở thành một thiếu nữ trẻ đẹp.

Phạm Thiên đang sinh sống phẳng lặng tại một trung tâm thí nghiệm khoa học của Hoa kỳ thì đột nhiên một bàn tay bí mật thọc sâu vào quá khứ phủ phàng.

Trong gần một phần tư thế kỷ Phạm Thiên cố quên quá khứ. ông nhập cảnh vào Mỹ trong những ngày cuối cùng của thế chiến thứ hai, và nhờ có đặc tài toán học, ông được Hoa kỳ trọng dụng. Để thưởng công, người ta cho ông gìa nhập quốc tịch Mỹ. Một cuộc điều tra sâu rộng và tỉ mỉ được giao cho cơ quan tình báo Trung ương C.I.A. và công an liên bang F.B.I.

Kết quả của cuộc điều tra cho biết Phạm Thiện là thành phần tin cậy. Cho dẫu có một vài điểm nghi ngờ ông cũng vẫn được gia nhập quốc tịch Mỹ vì sự thúc hối của bộ Ngoại vụ. Trong một văn thư mật Ngoại trưởng Mỹ nói không nên ngăn cản việc bác sĩ Phạm Thiện trở thành công dân Mỹ vì nhiều quốc gia trên thế giới trong số có cả Anh, Pháp, Đức, Nhật, đã tỏ ý sẳn sàng tiếp rước ông, đồng thời tặng ông một món tiền thưởng khổng lồ hàng triệu đô-la.

Trong gần một phần tư thế kỷ, Phạm Thiên cố quên quá khứ. Hồi ấy, ông là sinh viên cử nhân Toán lỗi lạc nhất ở Sài gòn. Tuy chưa tốt nghiệp, ông đã được toàn ban giáo sư mến phục, vì trên nhiều khía cạnh trò giỏi hơn thầy. Nhiều bữa trong lớp giáo sư tiến sĩ Toán đã nói với sinh viên Phạm Thiên :

- Tôi nhận thấy anh không còn lý do ở lại lớp học này nữa. Vì anh đã học hết chương trình, cử nhân từ khi đậu Tú tài, học hết kiến thức và kinh nghiệm của tôi trong năm thứ hai của chương trình cử nhân. Giờ đây, tôi không còn đủ năng lực dạy anh nữa.

Toán học là lẽ sống của Phạm Thiên. Suốt ngày cặm cụi trên bàn giấy, trong phòng thí nghiệm chưa đủ, ban đêm ông còn nghĩ đến toán học trong mơ. Ông quá say mê chữ số nên có phần nào lơ là đối với vợ, cựu hoa khôi trường nữ trung học Gia long, nữ thần tương tư của hàng trăm, hàng ngàn thanh niên độc thân Sài gòn.

Yêu tài ông, nàng nhận lời làm vợ. Nàng không còn nghĩ đến ai, ngoài chồng. Tuy nhiên, nàng còn trẻ, lại đẹp như thơ, nàng không thể nằm một mình nhiều đêm lạnh trong gian phòng rộng trong khi ông chồng chỉ gắn bó với nàng Toán học.

Việc đã đến phải đến. Ba năm sau ngày cưới, nàng ngoại tình. Sự đời thật oái oăm, vì người yêu mới của nàng lại cũng là em chồng. Một đêm kia, vừa tìm ra đáp số một bài toán không gian điên đầu từng làm nhiều nhà bác học trên thế giới mất ăn, mất ngủ. Phạm Thiên hí hửng về phòng báo tin vui cho vợ.

Và gặp em ruột mình trong phòng riêng của vợ.

Cơn ghen nổi lên, ông vớ khẩu súng săn treo trên tường, bắn lia lịa. Trước sự dữ tợn của anh, người em cố phân trần nhưng đã muộn. Nạn nhân quằn quại trên vũng máu. Khi ấy, vợ ông đang có mang được 5 tháng, ông định bắn luôn nàng nhưng nhìn cặp mắt van lơn của nàng, ông vất súng xuống. Nàng nghẹn ngào níu tay ông nói "anh ơi, em vô tội, em vô tội", song Phạm Thiên hất vợ ngã nhào rồi tông cửa trốn biệt. 10 năm sau, nhân một sự tình cờ, Phạm Thiên khám phá ra sự thật. Trước khi chết vì vết thương trong bệnh viện, em ruột ông trối lại với y sĩ rằng y bị côn đồ hành hung ngoài đường nên tạt vào nhà chị dâu để lánh nạn, chứ không phải để ngoại tình. Nếu chị dâu có ngoại tình, thì là ngoại tình với người khác, chứ không phải với em chồng.

Vô cùng hối hận Phạm Thiên trở về Sài gòn viếng mộ em ruột, và tìm vợ, tìm con. Nhưng con chim sơn ca đã bay bồng. Chỉ còn lại bức thư tuyệt mệnh nhờ một người bạn thân trao lại. Bức thư như sau :

"Anh Phạm Thiên

Biết anh sớm muộn cũng về nên em viết thư này cho anh để nói rõ những điều anh hiểu lầm hoặc em cố tình giữ kín trong lòng. Thú thật với anh là sau ngay anh đi biệt, em đã lấy giấy bút ra nhiều lần định viết nhưng không lần nào viết nổi. Sau cùng em quyết định là sinh đẻ xong, mẹ tròn con vuông sẽ viết thư.

Trước hết, em xin nói trắng chú Phạm Thanh hoàn toàn vô tội. Thời gian trôi qua chắc anh đã có dịp thấy rõ sự vô tội của chú, ở đây em xin miễn nhắc lại.

Thưa anh, chú Thanh có yêu em, em không chống cãi điều đó. Hồi em còn đi học ở Gia long thì chú Thanh là một trong rất nhiều thanh niên có cảm tình tha thiết với em. Nhưng em đã về với anh, và từ ngày em có chồng em không còn nghĩ đến ai nữa, cũng như từ ngày em là chị dâu thì Thanh đối với em một mực cung kính. Trước vong linh người chết, không ai có đủ can đảm nói dối; em cũng không phải là hạng người ưa nói dối. Vì vậy, anh tin em đi, anh nên tin vào sự vô tội của chú Phạm Thanh đi.

Kẻ có tội là em.

Vâng, em đã có tội. Tội ngoại tình. Nhưng em chỉ yêu đương lãng mạn mà chưa hề tính chuyện trên bộc trong dâu. Em ngoại tình vì em không thể tiếp tục sống cô đơn, sống lạnh lẽo, có chồng cũng như không. Em ngoại tình vì em đã bị chồng em bỏ rơi ngay sau tuần trăng mật, hỡi ôi, một tuần trăng mật chỉ kéo dài có mẩy giớ đồng hồ ngắn ngủi. Anh vứt em trong tòa nhà rộng thênh thang để đi làm bạn với chữ số và chai lọ trong phòng thí nghiệm. Em đã than thở, van vỉ, cảnh cáo anh nhiều lần, anh không thèm nghe nên em mới ngoại tình...

Em định yêu cầu luật sư đưa ra tòa lỵ dị, nhưng may thay em có thai. Bào thai đứa con đầu lòng trong bụng em đã giúp em bướt qua được ý muốn bỏ chồng.

Chú Phạm Thanh thiệt mạng, anh bỏ đi tuyệt vô âm tín, em buồn nát ruột, muốn tìm cái chết. Nhưng em lại nghĩ đến con. Chú Thanh vô tội một phần thì nó vô tội cả trăm phần. Vì vậy em nhẫn nhục sống chờ nó chào đời.

Và nó đã chào đời. Anh đi vắng, em mạn phép đặt tên con là Túy Vân. Túy Vân vì nó là con gái. Em tự cho con bú sữa, chứ không nuôi vú. Đúng 18 tháng, khi con đã cứng cát, em nhận thấy trách nhiệm của em đã tạm xong, nên giao con cho dì phước và...

Em đi dâu, em làm gì... anh đã biết. Tại sao em lại xử sự như vậy chính em cũng không biết nữa. Anh là nhà thần toán anh thử đặt phương trình để giải quyết giùm em. Dầu sao chúng mình cũng đã sống bên nhau ba năm trời, nếu không được hạnh phúc đúng theo nghĩa người đời thì cũng đã lưu lại lòng nhau khá nhiều kỷ niệm.

Túy Vân nó giống anh như đúc. Em là người mẹ bất hạnh không được nuôi con, nếu bức thư này được may mắn đến tav anh, xin anh đoái thương lấy giọt máu của chúng mình.

Vĩnh biệt. Vợ anh : Túy Ngọc"

Dĩ văng ấy, bức thư ấy, nhà toán học đã chôn vào tâm tư, sống để dạ, chết đem đi. ông tuyệt không cho ai biết, mặc dầu vẫn âm thầm tìm kiếm tông tích của Túy Ngọc và Túy Vân. Ông được tin nàng đã chết. Nhưng chết ở đâu ? Tại sao mà chết ? Không ai biết.

Ông đến cô nhi viện để gặp dì phước, lãnh Túy Vân về nuôi thì dì phước đã từ trần trong một vụ oanh tạc chiến tranh. Ngôi nhà ọp ẹp được dùng làm cô nhi viện cũng đã đỗ xụp vì bom đạn, ban giám đốc và nhân viên phân tán khắp nơi, hồ sơ cô nhi lại bị thất lạc. Cuộc tìm kiếm của bác sĩ Phạm Thiên không mang lại kết quả khả quan. Thất vọng, ông trở lại Hoa kỳ, quyết sống trọn đời nơi đất khách quê người với kỷ niệm đau buồn.

Ông đinh ninh được yên. nhưng "Họ" không để ông yên. Trung ương Tình báo C.I.A. và công an liên bang F.B.I. chỉ biết lờ mờ về quá khứ của Phạm Thiên, song "họ" lại biết rất rõ. Như con mèo rình chết, khi biết chắc chắn có thể nắm vững được Phạm Thiên. Họ mới xuất đầu lộ diện...

Mùa thu năm ấy, bác sĩ Phạm Thiên cầm đầu một phái đoàn khoa học gia Hoa kỳ qua Viễn đông nghiên cứu theo lời yêu cầu của Liên hiệp quốc. Như mọi lần, ông không quên ghé lại Sài gòn để thăm viếng bà con và bằng hữu.

Nhưng khác mọi lần, ông biệt tích luôn từ đó. Ông biệt tích ở đâu ? Không ai biết. Chỉ biết rằng ông không quay về Hoa kỳ cùng với phái đoàn bác học nữa.

Tình báo C.I.A. tung một loạt điệp viên lợi hại vào địa khu Đông nam Á, với nhiệm vụ khám phá với bất cứ hy sinh xương máu và tốn kém tiền bạc nào nhữnng bí mật về vụ biệt tích. Công tác tìm kiếm của tình báo Mỹ vẫn không ra khỏi khởi điểm sau nhiều ngày hoạt động tích cực, với những phương tiện khoa học tân tiến.

C.I.A. phải bỏ tay chịu thua,

Khi ấy, một người đàn ông bé nhỏ, gầy gò, già khằn, tóc bạc phơ, đeo kiếng cận thị dày cộm, mặc bộ com-lê cà tàng cũ mèm, trông như tiểu chức về hưu, xuất hiện...

Người đàn ông có bộ mã tầm thường, khiêm nhượng này được giới lãnh đạo điệp báo từ Đông sang Tây gọi một cách kính nể là "ông Hoàng"...

Ông tổng giám đốc Hoàng xuất hiện để điều khiển công cuộc tìm kiếm các nhà bác học mất tích.
Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Đoàn Vũ Khỏa Thân - Người Thứ Tám Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Đoàn Vũ Khỏa Thân - Người Thứ Tám   Đoàn Vũ Khỏa Thân - Người Thứ Tám Icon_minitimeTue May 23, 2017 4:14 am

Người Thứ 8
Đoàn Vũ Khỏa Thân
Chương 2
Quần tiên đại hội

Thường lệ, ông Hoàng đóng đô ở Sài gòn. Ông thay đổi văn phòng và nhà ở luôn luôn, nhưng từ ngày tòa bin-đinh nhiều tầng, được trang bị đầy đủ tiện nghi tân tiến được hoàn thành tại đại lộ Nguyễn Huệ, không xa sông Sài gòn và tòa Đô chánh là bao, và được dùng làm trụ sở, thì ông tổng giám đốc không còn "di cư" như trước nữa. Ngày cũng như đêm, ông làm việc, ăn, ngủ trong khu nhà dành riêng cho cái được gọi là Công ty Điện tử.

Phải là có việc quan trọng lắm ông mới chịu rời trụ sở Nguyễn Huệ. Các yếu nhân chính phủ liên lạc với ông bằng đường dây điện thoại riêng, không sợ bị ghi âm, hoặc bị nghe trộm. Nếu muốn thảo luận hoặc tìm hiểu chi tiết thì họ phải tìm đến văn phòng, chứ ông không chịu đi.

Ông Hoàng ở lì giữa bốn bức tường không chịu "hạ sơn" không phải vì ông tự cao, tự đại sau khi đã gặt hái nhiều thành công vĩ đại trên địa hạt điệp báo. Sở dĩ ông không muốn ra ngoài vì trong thời gian gần đây hàng chục âm mưu ám sát ông đã bị lần lượt khám phá. Bằng súng lục, súng tiểu liên, bằng đạn đum-đum, đạn chống chiến xa, tên tẩm thuốc độc curare của bộ lạc ăn thịt người Nam Mỹ, bằng hơi ngạt chế tạo tại công binh xưởng Tiếp khắc, bằng tia sáng laser, bom đồng hồ, hỏa tiễn xách tay... thôi thì đủ loại khí giới, đủ hình thức bố trí.

Vì vận hên chưa dứt, và cũng vì hệ thống phòng vệ hữu hiệu, vô cùng hữu hiệu, nên lần nào ông cũng thoát hiểm. Sau lần suýt chết trong đường tơ kẽ tóc, ông Hoàng được Thủ tướng đích thân đến thăm, và ân cần dặn ông "bế môn tỏa cảng" một thời gian.

Một lý do khác khiến ông không chịu "hạ sơn" là vì ông bị công việc tràn ngập. Công việc mỗi ngày một nhiều, nhiều đến nỗi ông cặm cụi trên bàn giấy 20 giờ đồng hồ mỗi ngày cũng không xuể. Dường như ông cảm thấy chẳng còn sống bao lâu nữa nên còn ngày nào, giờ nào khỏe mạnh là ông vùi dầu vào hoạt động lãnh đạo điệp báo.

Vậy mà hôm ấy ông Hoàng ngưng làm việc từ chập tối, bấm chuông gọi nữ bí thư Nguyên Hương lấy bộ com-lê mới hấp cho ông thay, đồng thời dặn Triệu Dung tạm quyền điều khiển sở Mật vụ.

Thì ra ông đi họp.

Họp trên một hàng không mẫu hạm khổng lồ buông neo trên vùng biển thuộc hải phận quốc tế giữa Đà Nắng và Phi luật Tân.

Đúng 12 giờ đêm, phi cơ chở ông tổng giám đốc Mật vụ hạ cánh xuống boọng mẫu hạm đèn thắp sáng chưng, ông Hoàng được đưa ngay xuống phòng họp, một ca-bin lớn, các lối ra vào đều được thủy thủ võ trang canh gác cẩn mật, con muỗi cũng không chui lọt.

Cử tọa đã có mặt đông đủ quanh cái bàn bầu dục bằng gỗ trắng, trên mặt có hàng chục cái máy điện thoại đủ cỡ, đủ màu. Những điện thoại đặc biệt này có thể liên lạc với mọi dinh tổng thống hoặc thủ tướng trên thế giới mà không phải chờ đợi.

Thấy ông Hoàng, mọi người đều xô ghế đứng dậy. Sự đón tiếp trịnh trọng này chứng tỏ ông Hoàng được kinh nể. Dĩ nhiên, ai cũng kính nể ông Hoàng, nhưng sự kính nể của những ông già trong phòng họp mẫu hạm đêm ấy đã có một ý nghĩa vô tiền khoáng hậu. Vì họ không phải công dân thường.

Họ chính là linh hồn của nền điệp báo tự do trên hoàn vũ. Hầu hết đều trên ngũ tuần. Đoán tuổi các lãnh tụ điệp báo là việc rất khó, càng khó không kém (có lẽ còn hơn nữa là khác) việc đoán tuổi đàn bà đẹp : có người còn thanh niên mà tóc đã bạc phơ vì đêm ngày chúi mũi vào hồ sơ không có thời giờ tập dượt thể dục hoặc tận hưởng tứ khoá[; lại có những cụ già 6, 7 mươi nhưng mặt lại trẻ măng như người trung niên, nhờ giỏi cải trang hoặc vì nếp sống ẩn sĩ và tu hành đã làm da không răn, tóc không bạc, mắt không có đuôi, và vai không còng.

Ông Hoàng cúi chào toàn thể rồi kéo ghế, rón rén ngồi xuống, ông rón rén như thể cô gái mới ra trường lần đầu đi xin việc được vinh dự ông giám đốc tiếp kiến.

Đối diện ông Hoàng, ở cuối cái bàn bầu dục, là ông tổng giám đốc Trung ương Tình báo Mỹ, giới trong nghề thường gọi là ông Sì-mít. Hoặc gọi tắt là ông s.

Theo giấy tờ hộ tịch, ông s. mới 55 tuổi. Nhưng bề ngoài ông già hơn nhiều. Trái ngược vời ông Hoàng, ông s. phục sức khá chững chạc, hầu như sang trọng vả hợp thời trang VỚỊ bộ com-lê màu vàng nhạt, màu được xã hội híp-py và bit-tơn tôn là màu lý tưởng trong năm, ve áo to tướng choán gần nửa ngực, sơ-mi sọc cộ khuy gài cồ, và cà vạt vàng thẫm, mù-soa giắt nơi túi trên cũng vàng, nhưng là màu vàng pát-ten, màu vàng mới nhất.

ông mới được bồ nhiệm tổng giám đốc C.I.A. nên chỉ nghe danh chứ chưa được gặp mặt ông Hoàng. Bởi vậy, từ khi ông Hoàng vào ông s. nhìn hoài không biết mỏi mắt. Và dường như sợ kiếng cận thị bắt bụi nhìn không rõ ông s. đã hai ba lần rút mục kính ra khỏi mắt, lấy miếng da trừu lau đi lau lại rồi đeo lên nhìn tiếp.

Sau khi ông Hoàng ngồi xuống ghế, ông S. lẩm bẩm một mình :

- Lạ thật! Lạ thật!

Ông S. cho là lạ vì ông Hoàng không hợp với mẫu lãnh tụ điệp báo hữu danh. Dáng đi, lối ăn mặc của ông có vẻ già nua và... cù lần. Cù lần... mặc dầu Nguyên Hương đã cho ủi lại bộ com-lê và chọn cho ông một cái cà-vạt đen sọc kim tuyến óng ánh.

Ông M. cũng dán mắt vào thân hình khẳng khiu gió nhẹ thổi ngã của ông Hoàng, ông M. là tổng giám đốc điệp báo Anh quốc, Military Intehigence 6, viết tắt là MI-6, dân đi khuya về tắt từ đông sang tây gọi là ông M. cho tiện.

Ông M. đã nổi tiếng từ đại chiến thứ hai tuy ông luôn luôn ở trong hậu trường, ông là vị chỉ huy điệp báo nhiều tuổi nhất của phiên họp quần anh đại hội. Có người bảo ông đã gần 80. Nhưng nhiều người lại quả quyết rằng tuổi thật của ông mới trên 70.

Cho dẫu ông trên thất tuần, dung mạo ông vẫn trẻ hơn tuổi ông M. quen ông Hoàng đã lâu - từ thưở ông Hoàng còn lênh đên trên ngũ đại dương, hành nghề điệp báo cho các cường quốc tây phương nên ông Hoàng đã biết lý do khiến ông M. luôn luôn trẻ.

Vì MI-6 là cơ quan điệp báo đầu tiên trên hoàn vũ có một "ban giải phẫu cải lão hoàn đồng". Nhờ sự cải tiến sinh hoạt, và sự phát minh thuốc trụ sinh và sinh tố, đời sống con người trong hậu bán thế kỷ 20 đã dài hơn trước, ông già bà cả sống 80, 90 tuổi ngày nay không còn là chuyện lạ nữa. Gần đây, giới y sĩ đã áp dụng nghệ thuật giải phẫu cấp ráp bộ phận mới vào cơ thể người già, khiến cho tuổi thọ càng tăng. Một trong các y sĩ lỗi lạc quan tâm đến người gìà này là Broca, phục vụ trong một bệnh viện dưỡng lão tại Pháp (1).

Điệp báo MI-6 gửi một số y sĩ trẻ qua Pháp đễ nghiên cứu hoạt động của Broca. Trở về nước, số y sĩ này thiết lập "ban giải phẫu cải lão hoàn đồng", xử dụng lưỡi dao mỗ xẻ, kèm với các sinh tố, để giữ cho điệp viên khỏi già.

Ông M. đã qua tay ban giải phẫu nhiều lần nên mỗi năm ông một trẻ thêm. Vì tình bạn, và cũng vì quý mến một siêu tài điệp báo sắp bị mai một trước thời gian, ông M. nhiều lần gửi thư hoặc gọi dây nói khẩn khoản mời ông tổng giám đốc Mật vụ Nam Việt sang Luân đôn để dự cuộc giải phẩu cải lão hoàn đồng. Nhưng ông Hoàng không chịu đi.

Ngồi cạnh ông M. là một người vạm vỡ, răng luôn luôn cắn ống điếu. Mặt người này vuông chử điền, lông mày rậm chạy thẳng hình chử nhật, tỏ ra giàu nghị lực và cương trực, ông ta là tổng giám đốc tình báo Úc Đại Lợi, thường được gọi là ông P.

Nếu ông Hoàng chuyên hút xì-gà, và là thứ xì- gà thửa riêng tại ngoại quốc ông P. lại dùng ống vố bằng bọt biển meershaum. Cái ống vố lắc lư trên miệng ông nặng đến gần nửa kí-lô, luôn luôn phun khói phì phì như ống sáp- măng xe đua trên vòng chảo, ông già như vậy mà hàm răng còn đủ sức cắn vững ống điếu nặng 500 gờ-ram, thì không biết hồi thanh xuân ông còn khỏe đến đâu nữa.

Giới tình báo tây phương đồn đãi là năm lên 20 tuổi ông P. đã là một trong những lực sĩ có sức mạnh vô địch ở Úc châu. Bò Úc nỗi tiếng to lớn - có những con vĩ đại như xe thiết giáp - đạn bắn trúng chỗ hiểm cũng chưa chết, vậy mà ông P. chỉ cần vung nắm tay là ngã rụp. Tài thôi sơn độc nhất vô nhị này đã giúp ông thoát chết nhiều phen trong đại chiến thứ hai, Úc tham chiến bên cạnh Anh quốc.

Hồi ấy, ông là đại tá biệt kích. Đơn vị do ông chỉ huy được lệnh đổ bộ lên một bãi biển của đảo Saipan đang bị quân Nhật chiếm giữ, với nhiệm vụ phá hủy các tiện nghi liên lạc vô tuyến và giàn súng cao xạ. Binh sĩ hai bên đánh sát lá cà trong đêm tối nên không dám dùng súng, mà chỉ dùng dao găm, lưỡi lè, hoặc lựu đạn. Gần sáng, đơn vị ông thắng thế, song đồng đội lại bị thương gần hết. Bên địch còn lại một số thanh niên giỏi nhu đạo. Họ vây kín lấy ông, quyết hạ thủ. Trái đấm độc nhất vô nhị của ông đã giải quyết chiến trường trong chớp mắt. ông vừa kéo các bạn bị thương vào hang đá thì đại bác của địch nổ rền, cầy nát nơi đấu quyền hồi nãy. Nếu cuộc đọ sức kéo dài thì ông đã bỏ mạng trên hải đảo san hô.

Ông P. cũng là bạn của ông Hoàng. Không phải sau khi lên chức tổng giám đốc điệp báo hai người mới quen nhau. Họ quen nhau từ thuở ông P. còn là đại úy và ông Hoàng còn là nhà báo trá hình.

Ít ra là họ thân nhau vì ý hợp tâm đầu trên một điểm : điểm nghiền thuốc lá. ông Hoàng mê xì-gà (mà phải là xì-gà Ha-van chính cống, xì-gà Cuba của nhà độc tài râu xồm thân Cộng Castro kia, chứ không phái xì-gà Ha-van giả hiệu, quấn tại Phi luật Tân hoặc Hoa kỳ), ông P, lại mê thuốc tẩu Dunhill, thứ Dunhill thái to sợi thơm mùi cam thảo.

Cả hai đều hút suốt ngày đêm. Chỉ ngừng hút khi ngủ. Lên giường vẫn còn hút, thậm chí mùng mền bị cháy lỗ chỗ như bị ăn đạn ghém, cả hai đều trịnh trọng khi hút, tưởng như hút thuốc là nghi lễ tôn giáo thiêng liêng, chứ không phải hút bình thường.

Các vị tổng giám đốc điệp báo khác đều ghét hút thuốc. Họ quan niệm rằng hút nhựa nicôtin vào phổi và bao tử là tự sát từ từ. Nhưng hai ông P. và Hoàng lại quan niệm rằng nhựa nicôtin là chất cần thiết cho cơ thể. Dĩ nhiên các nhà khoa học phục vụ dưới quyền không đồng ý với lập luận ấy. Song hai ông vẫn tiếp tục hút... hút liên miên, và tiếp tục sống dai.

Quanh bàn bầu dục, ngoài các ông tổng giám đốc điệp báo Hoa kỳ, Anh quốc và Úc Đại Lợi ra còn có 3 vị khác trẻ hơn, cử chỉ cứng cát, mắt luôn luôn nhìn thẳng, có vẻ là cựu tướng lĩnh. Họ là chỉ huy trưởng điệp báo Thái lan, Đài loan và Phi luật tân.

Sau khi ông Hoàng an vị, phiên họp bắt đầu. Chủ tọa là ông M. tổng giám đốc điệp báo Anh quốc.

Bằng giọng sang sảng, ông M. loan bảo thủ tục khai mạc :

- Nhân danh hội viên cao niên nhất của Hội đồng cảnh giác Quốc tê, tôi xin khai mạc phiên họp bất thường hôm nay. Như quý vị đã biết. Hội đồng cảnh giác Quốc tế được thành lập cách đây 18 tháng, quy tụ các lãnh tụ điệp báo trong thế giới tự do. Phiên họp hôm nay chỉ duyệt xét tình hình Nam-Á và Thái bình dương nên một số đồng nghiệp vắng mặt.

Trước ngày Hội đồng ra đời, giữa các chính phủ đồng minh đã có nhiều hình thức ký kết song phương hoặc đa phương về các vấn đề điệp báo, đặc biệt về vấn đề trao đổi tin tức và hợp tác hoạt động. Mối liên hệ thân tình này đã mang lại nhiều kết quả khả quan ; tuy nhiên trong thời gian gần đây chúng ta cần hợp tác chặt chẽ hơn nữa vì đối phương đã lập một số cơ sở thống nhất. Tại Âu châu phản gián Smerch đại diện Liên sô thành lập ủy ban Điều hợp Tối cao, đặt tổ chức dọ thám các quốc gia minh ước Varsovie như Đông Đức, Ba lan, Tiệp khắc, Hung và Bảo Gia Lợi dưới quyền trực tiếp của ủy ban. Trên một vài phạm vi, tình báo Nam tư cũng hợp tác với ủy ban mặc dầu về phương diện chính trị Nam tự đứng ngoài sự chi phối của Liên sô. Tại Viễn đông, Bắc kinh thành lập Viện Thống nhất, gồm các sở gián điệp Bắc

Hàn, Bắc Việt, Đông Lào, Lỗ ma ni và Anhani.

Cảnh giác trước hiểm họa mới, các cơ quan tình báo bạn đã đốt cháy giai đoạn, xóa bỏ mặc cảm quá khứ, để ngồi lại với nhau. Theo quy ước, Hội đồng cảnh giác quốc tế chỉ cứu xét những vấn đề liên quan đến an ninh chung.

Từ ngày khai sinh đến nay, Hội đồng nhóm cả thảy 3 lần, cứ 6 tháng một lần. Lần trước, chúng ta đã gặp nhau cách đây 5 tuần lể, lẽ ra còn gần 5 tháng nữa thì mới tái nhóm.

Vì có một vấn đề quan trọng nên chúng ta phải họp phiên bất thường. Sau đây, tôi xin mạn phép nhường lời cho ông S., thuyết trình viên của buổi họp.

Ông S., tổng giám đốc C.I.A. rút kiếng cận thị ra lau lần nữa. Trong vòng nửa giờ qua không biết ông đã lau mục kính đến lần thứ mấy.

Giọng nói của ông S. có vẻ yếu ớt, hậu quả của cơn xuyển kinh niên vừa bắt ông nằm liệt giường gần một tháng. Ông mở tập hồ sơ trước mặt rồi nói:

- Vì thời giờ của quý vị rất eo hẹp nên tôi chỉ đề cập đến đại cương của nội vụ, dành chi tiết cho các chuyên viên sau này. Đề tài tôi thuyết trình hôm nay liên quan đến một loạt nhiều vụ mất tích lạ lùng.

Quý vị hẳn còn nhớ vụ bác sĩ Tôni mất tích một đêm mưa lất phất giữa thành phố Ba lê, ngay trước mũi các vệ sĩ. Gần ba tháng sau đến lượt bác sĩ Lêô mất tích trên đường từ Đông sang Tây Bá Linh. Và gần đây là vụ bác sĩ Phạm Thiên mất tích ở Đông nam Á. Đó là những vụ được loan trên mặt báo vì đương sự là khoa học gia hữu danh hoặc các chính phủ và thân nhân của đương sự làm rùm beng trong công cuộc tìm kiếm.

Nếu kể cả những vụ mất tích bí mật tích khác trong vòng 12 tháng qua thì có gần 50 khoa học gia từ Đông sang Tây đột nhiên ra đi không về nữa. 50 trong một năm, con số này được coi là khác thường, đáng lấy làm lo ngại, vì từ sau đại chiến thứ hai đến nay, chưa kể vụ di cư hoặc bắt ép một số khoa học gia Đức qua Hoa kỳ và Liên sô, thì hàng năm số người bỏ đi như vậy chỉ độ 5, 10 người là cùng, và toàn là chuyên viên hạng hhì.

Dĩ nhiên, con số 50 mà tôi vừa đưa ra không bao gồm số chuyên viên tự ý rời quê hương ra ngoại quốc phục vụ, trong khuôn khổ của phong trào "xuất cảng trí tuệ" (2) được đẩy mạnh từ sau năm 1960 tại Tây phương.

Thoạt đầu, khi Tôni mất tích, và Phòng Nhì Pháp nhờ tìm kiếm, tôi đinh ninh đó chỉ là một thủ đoạn của công ty Careers Inc. đặt trụ sở tại Luân đôn.

Như quý vị đã biết, sáng lập viên kiêm giám đốc công ty Careers Inc. là VVihiam Douglas, và cách đây một năm Douglas lập chi nhánh ở Pháp để tuyển mộ chuyên viên đưa sang Hoa kỳ. Trong vòng ba năm qua, gần 700 kỹ sư và chuyên viên Anh quốc đã xuất dương. Đó là mới tính riêng Anh quốc ; nếu gồm chung các nước Âu châu thì còn nhiều hơn nữa.

Phái viện của tôi có đến gặp Douglas tại Luân đôn. Thì xảy ra vụ Lêô tại Đông Bá Linh. Chính quyền Đông Bá Linh lên tiếng tố cáo C.I.A. bắt cóc Lêô. Nhà đương cục Sô viết chiếm đóng tại Đức cũng buộc tội Hoa kỳ bằng lời lẽ tương tự.

Thật là oan cho C.I.A.. Ngoại trưởng Rusk nổi trận lôi đình, mời tôi đến, la hét rầm rầm, đòi tôi phải trả ngay Lêô lại cho Đông Đức. Tôi nói là C.I.A. không biết ất giáp gì về vụ Lêô thì ngoại trưởng Rusk thở dài, không tin. Đến ngoại trưởng cũng ngờ vực thì người ngoài ngờ vực chỉ là chuyện tất nhiên, vả lại, ngoại trưởng đã đưa ra một số bằng chứng do Nga sô cung cấp tỏ ra C.I.A. có không nhiều thì ít dính líu vào nội vụ.

Một lần nữa, tôi mang danh dự ra bảo đảm với ông Rusk rằng C.I.A. hoàn toàn vô can. Thì ông Rusk trả lời là vô can hay không vô cạn chỉ là điều phụ, trong lúc Liên sô gặp khó khăn với Trung cộng thì thượng sách của Hoa kỳ là đừng làm họ mất lòng, và dầu không bắt cóc Lêô C.I.A. vẫn phải chịu trách nhiệm. Trong một phiên họp sau đó tại Bạch Cung, tôi được Tổng Thống đích thân cho bitết là trong một thời gian thật ngắn C.I.A. phải tìm cho ra Lêô.

Được yêu cầu, Douglas tỏ ra hiểu biết và sẳn sàng hợp tác. Y mở hết hồ sơ mật cho nhân viên của tôi xem xét. Y lại móc nối nhân viên của tôi với nhưng người chuyên sống bằng nghề tuyển mộ khoa học gia ở Pháp.

Sau 8 tuần lể hoạt động tích cực, nhân viên của tôi trở về Hoa thịnh đốn tay không.

Vụ Phạm Thiên xảy ra là một thiệt thòi lớn cho Hoa kỳ song lại giúp chúng tôi dể thở được đôi chút. Vì chúng tôi có cớ để gửi kháng điệp cho Liên sô, trút tội bắt cóc cho họ. Lần này họ giẩy nẩy như bị bỏng nước sôi, họ kêu trời la đất là không hay biết gì về Phạm Thiên.

Bằng được ít lâu, tôi lại đựợc gọi gấp tới Bạch Cung, cố vấn an ninh quốc ngoại của tổng thống cho tôi coi bức thư riêng của thủ tướng Sô viết Kosygine. Trong thư, ông ta nói trắng ra rằng Phạm Thiên chẳng hề biến mất như chúng tôi phàn nàn, mà sự thật là C.I.A. đã giấu Phạm Thiên tại một trung tâm thí nghiệm bí mật nào đó để lấy cớ ngậm máu phun người, vu cáo cho Liên sô, hầu lấp liếm tội bắt cóc khoa học gia Lêô.

Ông cố vấn an ninh của tổng thống cho biết là bang giao Mỹ-Nga đang tới thời kỳ thoải mái nhất kể từ sau chiến tranh Cao ly đến nay, vụ Lêô và Phạm Thiên bị biệt tích làm Kosygine tức giận thì C.I.A. phải chịu hết hậu quả.

Một loạt nhiều vụ mất tích lạ lùng khác xảy ra tiếp theo vụ Phạm Thiên. Liên sô mất 5 người, toàn là chuyên viên lỗi lạc. Hoa kỳ cũng mất 5 người. Rồi đến Anh quốc, Đức. Trung cộng cũng mất 4. Thậm chí Do thái và Ai cập là hai quốc gia nhỏ bé, có ít chuyên viên, cũng bị phỗng 3 nhà khoa học.

Sự lộng hành này đòi hỏi chúng ta phải có phản ứng thích đáng. Vì vậy, tôi đã liên lạc với quý vị để triệu tập phiên nhóm bất thường hôm nay.

Các nha sở C.I.A. và M.l. đã tập trung hồ sơ những vụ mất tích, đúc kết thành một phúc trình tỉ mỉ và rõ ràng. Phúc trình này đang được đặt trước mặt quý vị. Trước khi bước sang phần bàn cãi, tôi xin trân trọng mời quý vị đọc qua bản phúc trình. Xin tạm hết.

Căn phòng lớn chìm trong sự yên lặng. Những mái đầu bạc cùng cúi xuống. Ông Hoàng sửa lại cặp kiếng vừa trễ trên mũi, cặm cụi đọc từng giòng chữ đánh máy mực đen trên giấy dày trắng tinh.

Ông M. tổng giám đốc tình báo Anh quốc, rút bật lửa vàng châm xì-gà cho ông Hoàng rồi hỏi:

- Ông nghĩ sao ?

Ông Hoàng thở khói xi-gà xanh um :

- Thường lệ, trong những vụ lớn, chúng ta không dính dáng thì phải là bên họ. Nhưng trong các vụ mất tích này, tôi có thể quả quyết là Liên sô không nhúng tay vào.

Ông M. đáp :

- Vâng, tôi cũng nghĩ như ông. Sau đây là một đoạn trong bản phúc trình kết quả do các chuyên viên C.l. A. và MI-6 soạn thảo.

Cử tọa chăm chú nghe ông M. đọc. Nội dung bản phúc trình như sau :

"15 chuyên viên C.I.A. và 9 chuyên viên MI-6 họp tại Luân đôn trong thời gian 4 tuần lễ, nghiên cứu mọi hồ sơ, tài liệu, tin tức và chứng từ liên quan đến 50 vụ mất tích bí mật, đồng thanh nhận định : "tổng quát: đa số 50 khoa học gia mất tích đều là công dân Tây phương, phần đông là Hoa kỳ và Anh quốc, số còn lại gồm 20 vị, được chia làm hai, ba phần tư số này là công dân các quốc gia cộng sản ; kỳ dư là công dân các nước nhỏ như Do thái và Cộng hòa Á rập Thống nhất. Điều này tạm cho chúng tôi tin rằng các cường quốc Tây phương và cộng sản không dinh dáng vào phong trào mất tích.

"Phân tích : Các cơ quan tình báo tây phương đã chính thức xác nhận là không chủ trương bắt cóc 50 khoa học gia kể trên ; chỉ còn lại Liên sô, song chúng tôi cho rằng cả Liên sô cũng vô can, vì :

"a - 10 trong số khoa học gia mất tích là chuyên viên về kỹ thuật FOBS của Liên sô (3) và kỹ thuật MIRV của Hoa kỳ (4).

"b - trong số 40 khoa học gia còn lại thì phần lớn là chuyên viên về tình báo điện tử không gian.

Liên sô đã hoàn thành giai đoạn nghiên cứu lý thuyết, và đã bắt tay vào công cuộc thực hiện chương trình FOBS cũng như chương trình đại quy mô tình báo điện tử không gian nên không có lý do gì để cần tới 50 khoa học gia kể trên. Nếu cần tới thì phải là những quốc gia đang ở vào thời kỳ dò dẫm. Hoặc giả là một tố chức tư nhân nào đó muốn chiếm hữu những bộ óc kỳ tài về FOBS, MIRV và tính báo điện tử không gian, hầu tiến tới thao túng thế giới.

Bác sĩ Tôni, mất tích tại Ba lê, là một trong số rất ít chuyên viên lỗi lạc về MOL (5) ông đang phục vụ tại trung tâm 754 gần sa mạc Nê-va-đa.

Trong khuôn khổ của trương trình MOL hiện còn ở thời kỳ thí nghiệm, hai hoặc ba phi hành gia không gian sẽ bay lên quỹ đạo. và ở lại trên đó 30 ngày mà không cần mặc y phục đặc biệt. Họ được phóng lên bằng hỏa tiễn khổng lồ Titan IIM, trang bị máy chụp hình và máy nghe điện tử. Những thiết bị này ghi âm mọi tín hiệu và âm thanh vô tuyến điện trên mặt đất. Các phi hành gia ước định ngay tại chỗ giá trị của tin tức, rồi báo cáo xuống cho chính quyền địa cầu.

Bác sĩ Lêô mất tích tại Đông Bá Linh, và bác sĩ Phạm Thiên mất tích tại Viễn đông đêu là những kỳ tài về tình báo không gian.

Lêô được liệt vào danh sách 10 nhà khoa học nổi tiếng nhất trong thế giới cộng sản. Ông là linh hồn của trung tâm Sao Đỏ, ở vùng ngoại ô thị trấn Đông Bá Linh. Trung tâm Sao Đỏ do nhà đương cuộc Sô viết và Đông Đức bảo trợ chuyên nghiên cứu những kế hoạch dọ thám không gian tương tự như kế hoạch Vêla của Hoa kỳ.

Tưởng cần nhắc lại Vêla là một vệ tinh viễn thông bí mật. Đầu năm 1963, Hoa kỳ chỉ cần 2 vệ tinh Vêla bay quanh trái đất là đủ theo dõi được các vụ nổ nguyên tử thí nghiệm của Liên sô trên không phận. Vệ tinh Vêla thường được phóng lên từng cặp, năm 1963, năm 1964 và năm 1965 đã có 3 cặp gồm 6 vệ tinh được phóng lên, cặp Vêla tối tân nhất được phóng lên vào năm 1967.. Mỗi cặp vệ tinh Vêla chỉ hoạt động được 18 tháng.

Trung tâm Sao Đỏ dưới quyền điều khiển của bác sĩ Lêô còn nghiên cứu và hoàn bị một loại máy chụp hình mới, dành riêng cho phi thuyền không gian với mục đích gián điệp, đạt tên là máy P-32.

Máy chụp hình không gian của Hoa kỳ có thể chụp hình ở độ cao từ 100 đến 300 dặm, theo sự điều khiển bằng tín hiệu của trung tâm kiểm soát dưới đất. Phim nhựa được đựng trong những cái ống dài nhiều tấc tây, đường kính hơn nửa tấc, nặng từ 100 đến 150 kí-lô. Chụp xong, các ống phim được tự động rớt xuống. Khi chạm bầu khí quyển của địa cầu. Vỏ ngoài của ống phim bị không khí cọ sát làm cháy đỏ rực, và rơi ra ngoài, để lộ lớp vỏ trong, vỏ này phát ra một tín hiệu liên tục giúp cho các phi cơ C-30 bay trong đường kính 300 cây số có thể tìm ra địa điếm ống phim rơi xuống, ở độ cao 12 ngàn thước, một cái dù màu đỏ cam và trắng từ đuôi ống xòe rộng ra, giảm vận tốc của ống phim. Phi cơ C-30 bay tới, dùng câu liêm móc vào dù, kéo ống phim vào thân phi cơ. Trong trường hợp ống phim bi rơi lạc, một bộ phận nổ tự động sẽ làm ống phim cháy rụi.

Ống phim được chở về Caliíornie để rửa ra ảnh. Các chuyên viên không ảnh nghiên cứu kỹ lưỡng rồi báo cáo những tin tức nào được coi là đặc biệt về Hoa thịnh đốn.

Máy chụp hình P-32 của trung tâm Sao Đỏ cũng tối tân không kém máy chụp hình không gian Hoa kỳ được chế tạo và xử dụng tại căn cứ không quân Vandenberg, cách thị trấn Los Angelês 200 cây số về phía tây-bắc, trên miền duyên hải Thái bình dương.

Điều đáng chú ý là bác sĩ Phạm Thiên trước khi mất tích đã phục vụ tại căn cứ Vandenberg. Sự mất tích của Lêô và Phạm Thiên chứng tỏ rằng đối phương muốn nắm các bí mật ghê gớm của Hoa kỳ và Liên sô trên lãnh vực tình báo không gian.

Phạm Thiên là một trong các nhà bác học đã sáng chế ra "máy nghe quỹ đạo", gồm những ống tròn dài khoảng một mét, đường kính một tấc, nặng gần một tấn rưỡi. Máy nghe này bay qua Liên sô và Trung cộng mỗi ngày hai lần, ghi âm mọi tín hiệu vô tuyến bí mật ở dưới đất, đồng thời tiếp vận những mật điện của điệp viên Mỹ hoạt động phía sau bức màn sắt.

Phạm Thiên còn giữ một vai trò quan trọng trong công cuộc thực hiện kế hoạch phóng vệ tinh gián điệp MIDAS (6). Vệ tinh này dùng máy hồng ngoại tuyến để khám phá những hỏa tiễn Sô viết hoặc Trung cộng vừa được bắn lên không gian. Hiện nay Hoa kỳ có 12 vệ tinh Midas bay trên quỹ đạo Bắc cực, nghĩa là có đủ khả năng "nghe thấy, và nhìn thấy" mọi hỏa tiển Nga, Hoa ngay sau khi rời giàn phóng.

Căn cứ vào ước lượng của Hoa kỳ thì mỗi kỹ sư tốt nghiệp làm thiệt 400 ngàn đô-la cho công quỹ. Mỗi chuyên viên hữu danh như Tôni, Lêô, hoặc Phạm Thiên trị giá gấp 20 lần như vậy, nghĩa là trị giá 8 triệu đô-la. 50 chuyên viên hữu danh từ Đông sang Tây bị mất tích trong 12 tháng qua đã làm thiệt 400 triệu đô-la.

Mặt khác, sự ra đi của các chuyên viên nắm giữ bi mật lớn lao nhất về phòng thủ nguyên tử và đại tấn công hỏa tiển sẽ có thể đảo lộn thế quân binh Mỹ-Nga, và đe dọa hòa bình thế giới.

Trên chiều hướng nguy hiểm này, hai biến cố đã xảy ra trong vòng 3 tuần qua.

Vụ thứ nhất : ngày 22-7, hệ thống vệ tinh phòng thủ của Liên sô đột thiên bị náo loạn, một số bay sang quỹ đạo khác, số còn lại rớt xuống địa cầu và bị cháy rụi khi va chạm bầu khí quyển, sở dĩ có tai nạn hi hữu này là vì một tổ chức bí mật nào đó đã biết được tần số điều khiển, và xen vào những làn sóng phá rối. Chỉ có Lêô và các khoa học gia biệt tích am tường những tần số kể trên.

Liên sô đã cấp tốc thay đổi tần số liên lạc giữa vệ tinh bay trên quỹ đạo và trung tâm điều khiển đưới đất, nhưng công việc còn lở dở thì vụ náo loạn xảy ra. Riêng trong vụ này, Liên xô đã thiệt hơn 500 triệu đô-la.

Ngoại trưởng Sô viết Gromyko triệu đại sứ Hoa kỳ và Anh quốc tại Mạc tư khoa tới văn phòng để nhận kháng điệp, ngày 26-7. Mặc dầu chúng ta cực lực cải chính, họ vẫn tiếp tục đồ riệt cho ta.

Vụ thứ hai: ngày 14-9 một tai nạn kỷ thuật xảy ra tại căn cứ thí nghiệm hỏa tiễn FOBS 438, thuộc cộng hỏa xã hội Sô viết Kazahtan ở trung bộ châu Á.

Một hỏa tiển FOBS được phóng lên, theo chương trình dự liệu nó sẽ rớt xuống một mục phiêu cách căn cứ 43 một ngàn cây số. Nơi rớt xuống là một bãi sa mạc rộng mênh mông, không có dân cư, súc vật hoặc cây cối. Nhà chức trách Sô viết đã cấm dân chúng và phi cơ lai vãng đến gần. Trong quá khứ, họ đã thí nghiệm như vậy nhiều lần vả lần nào cũng thu lượm được kết quả khả quan, hỏa- tiên rơi trúng mục phiêu chứ không trật ra ngoài. Nhưng buổi sáng 14-9, hỏa tiễn FOBS đã rơi cách mục phiêu đã định hai ngàn cây số về phía Tây ; kết quả là nhiều xưởng máy bị phá hủy, số thương vong lên rất cao. Chính quyền cũng như báo chí Liên sô không loan tin, nên không rõ số thương vong thật sự là bao nhiên, nhưng theo tin tức điệp báo thì hôm ấy có 46 người chết và hơn 600 người bị thương, thiệt hại vật chất lên tới 800 triệu đô-la.

Cũng may là hỏa tiễn FOBS thí nghiệm không mang đầu đạn nguyên tử, vì trong trường hợp bất hạnh ấy, số thương vong sẽ có thể lên tới hàng triệu, cộng hòa xã hội Sô viết Kazahtan sẽ bị xóa tên trêo bản đồ thế giới.

Sau tai nạn kinh khủng này, đại sứ Liên sô tại Hoa thịnh đốn đã xin gặp Ngoại trưởng Dean Husk để trao một thông điệp miệng của chính phủ Mạc tư khoa. Theo thông điệp này thì Liên sô không thể chờ đợi thêm nữa, và họ đòi hỏi một cuộc điều tra tay đôi phải được tiến hành gấp rút với sự tham dự của các điệp viên Sô viết và Hoa kỳ.

Chính phủ Mỹ nói chung, tình báo C.I.A. nói riêng, không thể bác bỏ đề nghị chính đáng này, tuy rằng kinh nghiệm dĩ văng đã cho biết rằng hợp tác điệp báo với Liên sô cũng như đánh đu với tinh. Vì vậy, Hoa thịnh đốn đã nhận lời.

Hiện nay C.I.A. đang thương thuyết với GRU Sô viết, về cách thức hợp tác. Phái đoàn thương thuyết C.I.A. sẽ tìm cách trì hoãn, trong khi đó chúng ta cần tiến hành cấp tốc những cuộc điều tra riêng. Thời gian hoạt động này là hai tuần lễ. Sau thời gian này, nếu chúng ta chưa đoạt được kết quả cụ thể, bắt buộc chúng ta phải hợp tác với cơ quan GRU Sô viết.

Tuy nhiên, trong trường hợp thành công, chúng ta cũng cứ hợp tác với GRU. Họ định lợi dụng hợp tác để khám phá bí mật của chúng ta thì ngược lại chúng ta giả vờ hợp tác để khám phá bí mật của họ.

Cước chú : Kèm theo đây là một số chi tiết về cuộc điều tra sơ khởi của Hội đồng cảnh giác Quốc tế về các khoa học gìa bị mất tích.

Kinh trình Ký tên

Trưởng đoàn phân tích MI-6 và Trưởng đoàn phân tích C.I.A.

Đọc đến đoạn cuối của bản phúc trình, ông M. tổng giám đốc tình báo Anh quốc, cố tình hạ bớt giọng. Dường như bầu không khí trong ca-bin hàng không mẫu hạm quá im lặng, quá trang nghiêm nên tiếng nói của ông vang ngân, xoắn sâu vào nhĩ tai, làm cử tọa buốt tận óc.

Ông M. gập hồ sơ trước mặt lại, chận hai cùi tay lên trên, rồi nhìn ông Hoàng, tổng giám đốc Mật vụ Nam Việt. Không hiểu sao toàn thể các nhân vật hữu danh điệp báo ngồi quanh bàn họp đều theo gương ông M. chăm chú nhìn ông già ốm o, quê mùa được gọi là ông Hoàng đang tỏ vẻ bâng khuâng sau màn khói thuốc xì-gà xanh xanh.

Ông S., tổng giám đốc C.I.A., nói bằng giọng nhỏ nhẹ nhưng rắn rỏi:

-Trước khi ông đến, anh em chúng tôi đã bàn bạc với nhau. Và tất cả đều đồng ý nhờ ông gỡ rối. Vì phi ông ra, không ai làm nổi. Nhân viên dưới quyền ông đều là sĩ quan điệp báo nổi tiếng nhất trên thế giới. Mặt khác, trong số các khoa học gia bị biệt tích đã có một người Việt nam, bác sĩ Phạm Thiên.

Ông Hoàng gạt tàn xì-gà, giọng từ tốn :

- Vâng, các bạn đã có lòng thương nghĩ đến thì tôi cũng không dám từ khước.

Rồi cười mỉm :

- Trước khi lên đường, tôi đã linh tínb bị các bạn trưng dụng nên đã tập trung các hồ sơ, tài liệu về vụ bác sĩ Phạm Thiên. Tôi nhận thấy vụ này rất phức tạp, song tôi sẽ có gắng hoàn thành nhiệm vụ trong kỳ hạn ấn định.

Tuy nhiên, như các bạn đã biết, tôi có thể tìm ra nhân viên phụ tá đắc lực để tiến hành công tác do Hội đồng cảnh giác giao phó không mấy khó khăn, nhưng đối với một quốc gia đang mở mang lại bị chiến tranh dằng dai thì tìm ra phương tiện vật chất mới là khó khăn bậc nhất.

Ông S. ngắt lời:

- Xin phép ông Hoàng cho tôi được đóng góp ý kiến. Từ nhiều năm nay, chúng ta thường hợp tác mật thiết với nhau trên căn bản "kẻ có của, người có công" cho nên tôi nghĩ rằng phương tiện vật chất không phải là điều đáng lo. Nếu ông không phản đối, tôi xin cam kết là C.I.A. sẽ dành ngân khoản hai triệu đô-la đễ...

- Ông S. quả là người bạn quý, hiểu rõ nội tình chúng tôi hơn ai hết. Như các bạn đã biết C.I.A. hoặc M.l. đều có chương mục hẳn hòi trong ngân sách quốc gia ở Hoa kỳ và Anh quốc, trong khi ấy cái được gọi là sở Mật vụ do tôi có vinh hạnh điều khiển tại Nam Việt vẫn tiếp tục sống trong bóng tối, không được cấp một xu công quỹ, chính phủ hoàn toàn không biết tới. Chính phủ không đài thọ cho sở Mật vụ thì chớ, năm nay lại còn vay khéo nữa...

Từ 6 tháng nay. sở tôi túng tiền kinh khủng, giật gấu vá vai không tài nào đủ nên phải mang công, mắc nợ. Các bạn đều là chỗ thâm tình, từng giúp đỡ tôi vì vậy tôi cũng chẳng giấu làm gì. Tính đến nay, sở tôi đã thiếu của ngân hàng Mỹ quốc ( Banh of America ) gần 8 triệu đô-la. Nẽu trình trạng bi thảm này tiếp diễn thì chỉ một năm nữa, tôi sẽ phải đóng cửa tiệm, hoặc biến sở Mật vụ do chinh quyền Sài gòn gián tiếp chi phối thành công ty trinh thám tư quốc tế.

Vì vậy...

Ông S., tổng giám đốc tình báo C.I.A. lại ngắt lời:

- Hiện ông cần bao nhiêu ? 8 triệu đô-la được không ?

Ông Hoàng chậm rãi đáp :

- Quý quốc giúp chúng tôi quá nhiều, tôi không dám ngửa tay nhận thêm nữa. Tôi chỉ yêu cầu ông bạn can thiệp với ban giám đốc Mỹ quốc Ngân hàng cho sở tôi chịu lại một thời gian mà không phải trả tiền lời. Trong trường hợp ông bạn dư dật thì xin cho mượn 8 triệu để thanh toán, mai đây làm ăn khấm khú tôi sẽ hoàn trả...

Ông S. xua tay :

- Không sao... không sao lát nữa tôi sẽ ra lệnh cho phụ tá quản trị của tôi tiếp xúc ngay với ngân hàng. Tại đó, C.I.A. còn ít ra 500 ngàn triệu. Tôi xin trích ra 8 triệu.

Ngừng một phút, ông S. nói tiếp, giọng nhỏ hẳn xuống :

- Một lần nữa tôi xin xác nhận là công cuộc khám phá manh mối các vụ mất tích rất là quan hệ đối với chúng tôi. Nếu thu hoạch được kết quả thực rõ ràng thời gian hai tuần lễ thì 8 trệu chứ gấp đôi 8 triệu đô-la nữa, tôi vẫn có thể cung ứng được. Liệu 2 tuần được không ông Hoàng ?

Ông Hoàng ung dung nhả khói xì-gà :

- 2 tuần là thời hạn tối thiểu hay tối đa ?

Ông S. đáp :

- Khó nói là tối thiểu hay tối đa. Theo, tôi, khó có thể thành công trong kỳ hẹn quá ngắn ngủi 2 tuần. Cộng sự viên của tôi đã hoạt động ráo riết cả tháng trường ròng rã, và đốt của ngân sách hơn 4 triệu đô-la mà tay trắng vẫn hoàn tay trắng, không nhích khỏi khởi điểm được bước nào... Nhưng tôi hy vọng là ông có thể thành công trong kỳ hẹn ấy.

Ông Hoàng nghiêng đầu sang bên để quan sát vẽ mặt ngạc nhiên của các bạn đồng nghiệp :

- Nếu tôi thành công sớm hơn kỳ hẹn...? Chẳng hạn thành công trong vòng một tuần, vâng một tuần là lâu nhất, kể từ hôm nay.

Ông S. đứng phắt dậy, quơ bàn tay ra phía trước như muốn túm lấy ông Hoàng gầy gò, mảnh khảnh, sợ ông tan ra thành khói xì-gà Ha-van cuộn tròn trên không trước khi chui tọt vào khe máy điều hòa khí hậu :

- Ông nói thật hay nói chơi ?

Giọng ông Hoàng trở nên nghiêm nghị:

- Xin hỏi ông bạn, tôi đã nói chơi mấy lần rồi ?

Ông S. lắc đầu :

- Ông tha lỗi cho. Tôi thắc mắc như vậy vì sau bao năm lăn lộn trong nghề tôi chưa vấp phải vụ nào hóc búa bằng vụ các nhà bác học mất tích. Thắc mắc nên sinh ra hoài nghi.

Ông Hoàng cười:

- Tôi xin nói rõ lại lần nữa. Nếu sở tôi tìm ra tung tích các nhà bác học trong vòng một tuần, các ông có bằng lòng thưởng công cho cộng sự viên của tôi không ?

Ông M., tổng giám đốc tình báo Anh quốc, lên tiếng trước cặp mắt già nua tóe lửa quắc thước :

- Chắc ông đã thừa biết ngân sách của sở tôi so sánh với ngân sách C.I.A. của ông S. chỉ là một vực, một trời. Chúng tôi nghèo, chứ không phải "kẹo". Tôi xin xung phong lập quyển sổ vàng để thưởng công các cộng sự viên của ông nếu họ phăng ra ngọn ngành trong thời gian 7 ngày. Và riêng M.l. Anh quốc sẽ biếu 200 ngàn bảng.

Ông Hoàng cười thầm. 200 ngàn bảng Anh vị chi 400 ngàn đô-la Mỹ. Nghĩa là món tiền khá lớn. Phải là tối quan trọng tối thiết yếu, tối cấp bách, ông M mới chịu xì ra món liền lớn như vậy. Trong quá khứ, ông chỉ buông nhả 5,7 chục ngàn là hết "phông".

Tình báo Anh quốc khét tiếng trên thế giới về truyền thống "kẹo". Dĩ nhiên, họ không phải là nhà trọc phú như C.I.A. Mỹ, nhưng họ đâu đến nỗi nghèo kiệt như tình báo Viễn đông. Chẳng qua họ có máu "vắt cổ chảy ra nước".

Ông M. lại là tay tổ của chủ nghĩa "kẹo". Vì ông sinh trưởng ở miền Bắc nước Anh, ở Tô Cách Lan, nơi sản xuất ra những nhà vô địch hà tiện trên thế giới. Đối với ông thì 200 ngàn bảng Anh đã là món tiền khổng lồ. Đối với ông thì thưởng công 200 ngàn bảng cho một vụ đã là một hành động cách mạng ; nói dại đổ xuống sông xuống biển, giả sử đảng Bảo thủ, đảng đã bổ nhiệm ông M., đảng trung thành tuyệt đối với ngai vàng, có thay đổi lập trường, ủng hộ việc lật đổ chế độ quân chủ thì cũng chưa cách mạng bằng...

Tay tổ của chủ nghĩa "kẹo" quốc tế đã mở đầu quyển sổ vàng. Kế hoạch của ông Hoàng đã thành công, ông vua rán sành ra mỡ còn thưởng được 400 ngàn đô-la thì ông nhà giàu nứt đá, đổ vách tình báo Trung ương Hoa kỳ sẽ phải rút bót-phơi ra lần nữa, và biếu một số tiền gấp ba, gấp bốn.

Sở Mật vụ nước Nam Việt nhỏ bé - bé hạt tiêu, luôn luôn cần tiền. Hiện nay, lại cần tiền hơn bao giờ hết. ông tổng giám đốc già nua cất công rời Sài gòn là để dự phiên họp bất thường do các đại đồng nghiệp triệu tập ngoài khơi Thái bình dương, nhưng một công, đôi việc, mục đích chính của ông là dùng phiên họp, dùng những tin tức tài liệu mà nhân viên dưới quyền ông thu thập được, để kiếm thêm một mớ đô-la cho cái tủ két rỗng không của Công ty Điện tử...

Ông Hoàng coi tổng giám đốc C.I.A. và M.l. là bạn thân. Song nếu nhiều khi vợ yêu của mình, con người đầu gối tay ấp, chung giường chung chăn, mà mình còn không cho biết hết ẩn tình, thì ông Hoàng thiếu thành thật với đồng nghiệp C.I.A. và M.l. cũng không là chuyện lạ. Nói cho đúng, ông Hoàng rất có thiện cảm với họ. Nếu không có họ, ông sẽ khó đứng vững về mặt tài chánh. Trong cuộc vật lộn cam go với KGB, GRU, Smerch của Liên sô, Quốc tế tình báo Sở của Trung Hoa cộng sản, Trung ương Cục của Bắc Việt, ông Hoàng không thể thắng lợi nếu phải đấu tranh đơn thương độc mã.

Nhưng thiện cảm của ông Hoàng cũng có chỉ có hạn. ông quan niệm rằng điệp báo cộng sản là kẻ thù, điệp báo Anh-Mỹ là người bạn. Song ông bạn Tây phương cũng chẳng lấy gì làm tốt. Họ sẵn sàng trả tiền, và trả nhiều tiền, chưa hẳn vì họ muốn thật tâm giúp đỡ, mà chính vì ông làm thuê cho họ, và làm thuê với giá phải chăng, nếu không muốn nói là rẻ.

Bởi vậy, mỗi khi có dịp "đào mỏ" ông Hoàng đều không quên lợi dụng đến nơi, đến chốn.

Ngay sau khi nhận được khẩn điện của Hội đồng cảnh giác Quốc tế ấn định ngày giờ và địa điểm nhóm họp, ông Hoàng gọi ngay Nguyên Hương và "anh cả" Triệu Dung vào bên bàn giấy.

Ông hỏi Triệu Dung :

- Tình hình tiền nong của sở hiện nay ra sao ?

Triệu Dung là phụ tá thân cận nhất, chuyên về tổng quản trị hành chính, ông Hoàng đã chuẩn bị từ lâu cho Triệu Dung lần lượt nắm vững, các nha phòng của sở để thay ông điều khiển trong trường hợp ông rút lui vì bệnh hoạn hoặc vì... trở về với đất.

Triệu Dung là pho tự vị sống nên đáp ngay, không cần suy nghĩ:

- Thưa còn khá. Kể từ 5 năm nay, đây là lúc khá nhất. Tiền mặt còn trong tủ sắt của sở,và đặt trong 12 ngân hàng ở Sài gòn hiện nay là 300 triệu bạc. Trương mục ở Thụy sĩ, Hoa kỳ, Anh, Pháp gồm 43 triệu đô-la. Ngoài ra còn 16 triệu đô-la bỏ trong trương mục ngân hàng các quốc gia Á-Phi, Nam tư, Diến điện, Cam bốt, Năm dương, Ai cập và Cuba nữa.

- Còn vàng nén và hạt soàn ?

- Thưa vẫn như cũ. Từ 18 tháng nay, sở chưa xài đến vàng và kim cương. Tuy nhiên, có lẽ vài ba tuần nữa ta phải đem bán. Hiện tôi đang nhờ cuộc-chê dạm bán tại Hòa Lan và Thụy Sĩ.

- Còn thiếu tiền để thực hiện chương trình phát triển Ngũ niên phải không ?

- Thưa phải.

- Thiếu độ bao nhiêu ?

- Bao nhiêu cũng vừa. Nhưng ít ra phải có chừng 10 triệu trong vòng vài ba tuần nữa. Vàng và hạt soàn đang xuống giá trên thị trường quốc tế nên lôi sợ bị lỗ to.

- Mấy chục phần trăm ?

- Thưa, từ ba chục đến bốn chục. Nếu có thể, ta nên vay tạm ở đâu một chục triệu. Cuối năm nay, giá vàng và hạt soàn nhích lên ta sẽ bán để trả.

- Anh định vay của ai ?

- Thưa, cái đó tùy ông. Lệ thường, ta vay của C.I.A. hoặc M.l. Hoặc làm việc trừ nợ.

- Bây giờ họ cũng túng kinh khủng. Lưỡng viện Quốc hội Mỹ thi đua cắt xén ngân sách, nhất là ngân sách trá hình của các cơ quan tình báo nên ông bạn C.I.A. bị thiệt hại nặng nề. Phong trào phản chiến ở Anh quốc cũng ảnh hưởng đến ngân sách dành cho M.l. Tôi đã gián tiếp dò hỏi, và họ đều lần lượt lắc đầu. Họ đang túng song cái túng của họ còn giàu gấp ngàn, gấp vạn lần cái giàu của mình. Tôi nghĩ chỉ có lập mưu thì mấy ông tỉ phú ấy mới chịu nhả liền ra mà thôi.

Triệu Dung ngần ngừ :

- Thưa... sở đang cần tiền gấp lắm.

Ông Hoàng hỏi lại:

- Gấp lắm... là trong bao nhiêu ngày ?

- Ba tuần, hoặc bốn tuần. Vâng bốn tuần là tối đa.

- Được, Tôi hy vọng sẽ xoay ra tiền trước kỳ hạn ba, bốn tuần của anh. Dịp may đã tới. Nguyên Hương đã cho anh biết chi tiết chưa?

Mặt Triệu Dung hơi ngượng nghịu :

Ông Hoàng nói:

- Tôi sắp lên đường đi dự phiên họp bất thường của Hội đồng cảnh giác Quốc tế. Phiên họp sẽ thảo luận về phong trào mất tích đang diễn ra. Một tổ chức bí mật đã lần lựợt bắt cóc hàng chục nhà khoa học tên tuổi từ Đông sang Tây. Hoa kỳ và Anh quốc bị thiệt hại khá nặng nề. Chắc chắn họ phải nhờ đến ta. Khi ấy, tôi sẽ ra giá. Họ bị kẹt tứ phía tất không dám hà tiện nữa.

Giọng "anh cả" Triệu Dung có vẽ lo lắng :

- Liệu họ có bằng lòng trả tiền cho mình không, thưa ông ?

Ông Hoàng cười:

- Không bằng lòng cũng phải bằng lòng, anh yên tâm.

Rồi quay sang Nguyên Hương :

- Cô lấy hồ sơ "Luân vũ" ra đây cho Triệu Dung nghiên cứu.

Nhìn bộ mặt ngạc nhiên của viên phụ tá tài ba, ông Hoàng nói tiếp :

- Ngay sau khi nhà khoa học đầu tiên bị mất tích, tôi đã cho người theo dõi, thu thập tin tức, tài liệu. Các vụ mất tích xảy ra đến đâu tôi đều cho bổ túc đến đấy. Cho đến vụ xảy ra gần đây nhất, vụ Phạm Thiên, thì tôi gặp hồng vận nên khám phá được một số đầu mối quan trọng.

Đối diện bàn buya-rô của ông Hoàng người ta không thể không nhìn thấy một cái tủ sắt lớn, kê sát tường. Tủ này cao gấp rưỡi đầu người trung bình, dài 5 thước, gần choán hết bề ngang căn phòng, sâu một thước rưỡi.

Tủ này được dùng để chứa đựng toàn bộ tài liệu. Nó không phải là tủ sắt thông thường, có nhiều ngăn kéo, đánh số từ A đến z, hoặc từ số 1 trở đi, hoặc đánh số theo thứ tự thời gian, theo mức quan trọng của từng điệp vụ, như các két sắt tài liệu được dùng trong mọi cơ quan điệp báo trên hoàn vũ.

Nó là kỳ công phát minh và sáng chế của bộ phận kỹ thuật trực thuộc sở Mật vụ Nam Việt, vời sự hợp tác của một số công ty điện tử Tây phương, đặc biệt là công ty IBM của Hoa kỳ.

Tên nó là Kim tinh, ông Hoàng đã tiêu tốn gần 35 triệu đô-la mới sản xuất được Kim tinh. Hiện trên thế giới chỉ có một tủ Kim tinh, cái đầu tiên đang được đặt trong văn phòng ông Hoàng. Tủ Kim tinh là một bộ óc điện tử vô cùng tinh vi và phức tạp mọi tin tức, tài liệu tình báo được chuyển thành ngôn ngữ riêng - bằng những, cái phiếu đục lỗ giống như phiếu ký toán điện cơ IBM - rồi đưa cho bộ óc Kim tinh học thuộc. Nó tự động xếp tin tức tài liệu thành hồ sơ hẳn hòi, khi cần đến chỉ phải bấm một số nút điện, hồ sơ liên quan sẽ từ một kẽ hở trong máy tuột ra.

Hồ sơ là một cái hộp nhỏ như gói thuốc lá 10 điếu, bên trong đựng toàn phim ảnh vi ti. Bỏ cái hộp vào một kẽ hở khác trong máy, phim sẽ được chiếu lên một khung ảnh trước mặt. Khung ảnh này nhỏ xíu, chỉ nhỏ bằng diện tích bao quẹt gỗ, mắt người thường không tài nào nhìn thấy chữ.

Muốn đọc được chữ trên khung ảnh nhỏ xíu, phải đeo một loại kính riêng. Kính này gắn liền với cãi mũ nghe, giống như mũ nghe của vô tuyến điện viên. Người ta chụp mũ nghe vào đầu, hai lỗ kính tròn sẽ là kính lúp làm tăng kích thước chử in và hình vẽ trong phim lên mấy chục lần. Phim chiếu đến đâu, có âm thanh kèm theo đến đấy, nhưng cũng như chữ in, tiếng nói của phim cũng rất khó nghe. Vì tiếng nói này được lọc qua một máy đảo âm (7), tương tự dụng cụ điện tử được gắn vào ống điện thoại của các yếu nhân chính quyền hầu đề phòng bị ghi âm hoặc bị người ngoài nghe trộm.

Nguyên Hương bấm một trong nhiều nút trên tủ Kim tinn. Xẹt một tiếng nhỏ, một ngọn đèn xanh bật lên, rồi hộp phim nhựa từ trong máy rớt ra ngoài, vào một cái chậu hình vuông. Nàng đưa mũ nghe cho Triệu Dung đeo, rồi mở máy chiếu phim và phát tiếng, ông Hoàng ngả đầu trên ghế dựa, thản nhiên hút xì-gà. Ngoài tiếng xè xè của máy chiếu phim, trong phòng không còn tiếng động nào nữa hết.

15 phút sau, cuộn phim được quay đến đoạn cuối. Triệu Dung tháo mũ nghe ra, ngẩng đầu nhìn ông tổng giám đốc. Ông dập điếu xì-gả vào đĩa đựng tàn rồi hỏi:

- Anh còn nhớ bức thư tuyệt mạng của Túy Ngọc, cô vợ ngoại tình của Phạm Thiên không ?

Triệu Dung đáp :

- Thưa, nhớ.

- Trong thư, đoạn nào được anh cho là đáng kễ nhất ?

- Thưa, đoạn đúng "18 tháng, khi con đã cứng cát, em nhận thấy trách nhiệm của em đã tận lòng, nên giao con cho dì phước và... Em đi đâu em làm gì... anh đã biết. Tại sao em lại xử sự như vậy, chính em cũng không biết nữa. Anh là thần toán, anh thử đặt phương trình để giải quyết giùm em... Em là người mẹ bất hạnh không nuôi được con...

- Đúng, đúng. Chìa khóa của nội vụ nằm trong mấy giòng chữ này. Nghe xong, hẳn anh đã đoán là người vợ chưa chết. Nhưng Phạm Thiên lại nghĩ khác. Y lại nghĩ rằng vợ y đã chết. Cho đến ngày có nhiệm vụ qua Viễn đông ghé xuống Sài gòn...

- Thưa ông, tôi cho rằng nguyên nhân khiến Phạm Thiên biệt tích là vì y được tin Túy Ngọc và Túy Vân còn sống.

- Đúng, đúng. Chính vì vậy nên tôi mới tin tưởng là sở sắp có tiền, sắp có thật nhiều tiền do mấy ông nhà giàu bưng đến tận tay và tặng biếu một cách cung kính. Thôi, tôi sửa soạn đi, anh ở nhà tiếp tục theo dõi những biến chuyển của Luân vũ.

Mọi việc đã diễn ra trên hàng không mẫu hạm đúng với dự tính của ông Hoàng. Như ông đã tiên liệu với Triệu Dung tại Sài gòn, sau một giờ họp mấy ông nhà giàu đã bưng thật nhiều tiền đến tận tay và tặng biếu một cách cung kính.

Không lẽ chịu lép vế trước ông tổng giám đốc rán sành ra mỡ của điệp báo Anh Cát Lợi, ông S. của C.I.A., cơ quan điệp báo giàu nứt đá đổ vách, giàu đến nồi không biết tiêu sao cho hết tiền, bèn đằng hắng một cái, cốt cho cử tọa lưu ý rồi dõng dạc :

- Vâng, tiếp theo M., tôi xin ghi thêm 4 triệu đô la vào quyển sổ vàng.

Từ nãy đến giờ ông P tổng giám đốc tình báo Úc Đại Lợi và ba chỉ huy trưởng điệp báo Thải, Phi và Đài loan chỉ ngồi yên. Trừ ông P. là có tiền, còn đều nghèo mạt rệp...

Đại diện Đài loan chờ hai ông tổng giám đốc điệp báo Anh-Mỹ dứt lời mới đứng dậy. ông mặc cổ áo cao bằng hàng tẹt-gan đen, may theo mốt Mao trạch Đông, quần ống chân voi, giày ban mỏng lét. Chẳng cần coi căn cước ông, người ta cũng biết ông là công dân Tàu trăm phần trăm.

Sau khi đứng dậy ngay ngắn, ông nhìn một vòng quanh bàn, vẻ mặt nghiêm trọng như sắp thông báo với cử tọa một tin tức liên quan đến hòa bình và an ninh thế giới. Mọi người đều ngước nhìn ông. Tuy lớn tuổi ông vẫn phương phi, da trắng xanh, râu mép được gọt tỉa công phu. Lệ thường, tổng giảm đốc điệp báo phải gày nhom cho dầu hàng ngày được tẩm bổ cao lương mỹ vị và sâm nhung đại bổ. Vóc dáng đẫy đà và phong lưu của ông chứng tỏ nghệ thuật ẩm thực Trung hoa đã lên tới trình độ thượng thừa.

Cữ chỉ khoan thai - khoan thai như nhà vua ở nước Tàu cổ xưa đặt bút lông thỏ vào mảnh giấy hoa tiên - ông mở cái cặp da láng bóng mà ông vừa đặt lên bàn, lấy ra một cái hộp hình chử nhật, bề ngoài trông như hộp đựng cà-vạt.

Cái hộp bằng đồng bun mỏng dính, hai đầu chạm rồng uốn khúc, chính giữa đắp nỗi hình nhật nguyệt, ông Hoàng sành chơi đồ cổ nên biết ngay cái bộp đồng hun cũ kỹ này là di vật quý giá của thời Tam quốc. Quân sư Gia cát Lượng đã có một cái tương tự, luôn luôn mang bên mình để đựng kinh thư, và sách thiên văn địa lý. Gần đây trong một cuộc đấu giá đồ cổ ở Luân đôn, có nhà sưu tầm dám ký ngay tấm séc một triệu đô-la để mua cái hộp đồng hun mà vẫn bị người khác trả thêm tiền và phỗng mất.

Ông Hoàng nghe nói hiện nay trên thế giới chỉ còn lại từ 3 đến 5 cái hộp đồng hun từ thời Tam quốc. Thảo nào mà ông đại diện Đài loan có thái độ vô cùng trịnh trọng...

Chắc hẳn ông sắp tặng sở Mật vụ Nam Việt cái hộp đồng hun tối đặc biệt... để đánh dấu đêm hội ngộ lịch sử...

Ông bưng cái hộp lên cao, rồi hạ thấp xuống từ từ cốt cho cử tọa có thời giờ chiêm ngưỡng những nét chạm trổ kỳ lạ. Ông M. buột miệng :

- Trời ơi, cái hộp của Khổng Minh !

Đại diện Đài loan đáp :

- Vâng, đây là cái hộp của quân sư Khổng Minh, nhân vật có một không hai của Trung quốc và toàn thế giới. Nhân danh điệp báo Đài Loan, tôi xin tặng ông bạn Hoàng cái hộp này để nói lên lòng ưu ái và kính nể của chúng tôi đối với một kỳ tài không thua kém Khổng Minh đời tranh hùng Tam quốc.

Cảm động, ông Hoàng cũng đứng dậy. Nhưng đại diện Đài loan đã xua tay :

- Xin toàn thể quý vị nín thở một phút trong khi tôi mở nắp hộp. Quý vị cần nín thở vì mê hồn hương sẽ bốc ra, có thễ làm cho ngây ngất.

Cử tọa ngồi thẳng như pho tượng.

Bùng bùng... Đại diện Đài loan tra chìa khóa vàng vào ồ khỏa. Nắp hộp bật lên, hai tiếng bùng bùng điếc tai được phát ra, và - như ông đã báo trước - một luồng khói đen sì từ trong cái bộp bằng đồng hun hình chữ nhật bay vọt lên trần nhà trước khi tỏa tròn, xòe rộng như cái tán của vụ nổ bom nguyên tử.

Chú thích:

1. Y sĩ người Pháp này tên là Philippe Monod-Broca, hành nghề tại bệnh viện dưỡng lão Bicêtre cũng đã viết một cuốn sách về kỹ thuật "giải phẫu người già".

2. Công ty Careers Inc. hiện đang hoạt động ráo riết tại các quốc gia Tây phương. Hàng năm Hoa kỳ cần thêm 75 000 kỹ sư vậy mà các trường đại học của họ chỉ có thể đào tạo được 45.000 nên họ phải tung tiền ra tuyển dụng 30.000 kỹ sư ngoại quốc. Tính theo tỉ lệ dân số thì Anh quốc đứng đầu các quốc gia tây phương bị Hoa kỳ bòn rút chuyên viên, thứ đến Tây Đức, và Thụy sĩ. Pháp đứng vào hàng cuối.

3. FOBS (Fractional Orbital Bombardment System) là kỹ thuật phóng một số vệ tinh lên quỹ đạo trái đất, mỗi vệ tinn chở một trái bom nguyên tử 100 mêgaton trở lên ; những bom này nổ cách mặt đất từ 50 đến 150 dặm sẽ có thể làm một phần lớn địa cầu tan tành.

4. MIRV (Multiple Independently-Targeted Re-entry Vehicle) của Hoa kỳ nhằm phóng lên quỹ đạo những phi thuyền chở hàng chục trái bom nguyên tử cơ nhỏ, mỗi trái nhằm vao một mục phiêu địch trên trái đất. Do đó, chi cần một vài hỏa tiển MIRV là đủ tiêu diệt một vùng đất rộng lớn như Liên sô.

5. MOL (Manned Orbiting Laboratory - Phòng thí nghiệm bay trên qnỹ đạo do nguời điều khiển) đựợc Hoa kỳ dự phóng vào năm 1968 nhưng vì dành ngân khoản cho chiến tranh Việt nam nên đình hoản đến cuối 1970. Những chuyến bay trong thời gian qua đã giúp Hoa kỳ đạt nền móng cho một hệ thống MOL có thể kiểm soát toàn diện địa cầu.

6. MIDAS (Missile Deíẹnss Alarm System). Loại vệ tinh do thám này nắm trong chương trình ngăn chặn mọi vụ tấn công nguyên tử bất thần, một chương trình đại quy mô đã tiêu tốn gần một tỉ đô-la (năm 1966 chỉ riêng một loại vệ tinh gián điệp cũng đã mất hơn 100 triệu đô-la).

7. Loại máy này, tiếng Anh gọi là scrambler. Một cái scrambler lập vào điện thoại, cỡ nhỏ, không gồm các bộ phận đảo âm phức tạp, được bán trên thị trường Mỹ vào khoảng ba, bốn trăm đô-la. Loại dành cho yếu nhân chính quyền lên tới cả ngàn đô-la.
Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Đoàn Vũ Khỏa Thân - Người Thứ Tám Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Đoàn Vũ Khỏa Thân - Người Thứ Tám   Đoàn Vũ Khỏa Thân - Người Thứ Tám Icon_minitimeTue May 23, 2017 4:15 am

Người Thứ 8
Đoàn Vũ Khỏa Thân
Chương 3
Bồi bích


Muốn hỏi về tâm tình, nên chọn qua ngày thứ sáu trong tuần, thứ Sáu 13 càng tốt. Bói thấy lá bích thì xấu, lá bồi bích báo hiệu sự phản trắc của một người trai trẻ, khôi ngô nhưng gian manh.

Nghe tiếng nói, cả 3 cô gái đều ngừng tay. Văn Bình mới bị lột áo sơ-mi. Bên trong chàng quên mặc áo thun lá nên bắp thịt cánh tay, ngực và bụng của chàng có cơ hội triển lãm trước con mắt háu đói của cử tọa phái nữ. Nếu tiếng mật ngọt kia đến chậm một phút nữa, Văn Bình đã trở thành ông A-dông.

Văn Bình ngước nhìn nàng. Đèn trong phòng vừa được mở sáng nên chàng thấy rõ cả những nếp nhăn ở khóe mắt nàng. Té ra ở góc nhà có một cầu thang uốn dẫn lên tầng trên mà hồi nãy chàng không nhìn thay vì trời tối lờ mờ. Nàng từ trên lầu đi xuống. Đến nửa chừng, nàng dừng lại. Có lẽ nàng không chế ngự được sự xúc động mãnh liệt dâng cuồng cuộn trong lòng sau nhiều ngày, nhiều tháng, nhiều năm xa cách. Và cũng có lẽ vì nàng vừa trông thấy Văn Bình bị ba cô gái làm thịt.

Văn Bình cười với nàng :

- Phù Dung, Phù Dung, trời ơi, em vẫn như ngày xưa...

Phù Dung nhảy xuống đất, chạy về phía chàng, xà luôn vào lòng chàng và khóc nức nở. Ba cô gái phục sức quái dị đã bấm nhau lỉnh đâu mất, trong phòng chỉ còn Văn Bình và Phù Dung đang gục vào vai chàng, nước mắt lã chã. Khóc một hồi, nàng mới buông chàng ra và nói:

- Em tưởng không bao giờ được gặp lại anh nữa... Anh khác xưa nhiều lắm.

Văn Bình gọi Phù Dung bằng "em" một cách hồn nhiên, quên bẵng nàng lớn hơn chàng một giáp và ngược lại nàng cũng xưng em ngọt sớt với chàng, như thểvề tuổi đời nàng chỉ là em. Dường như tình yêu có sẵn sức mạnh vô song khả dĩ phá tan mọi chướng ngại vật, chướng ngại vật giai cấp, cũng như chướng ngại vật tuổi tác.

Dĩ nhiên Văn Bình mắc bệnh nịnh đầm - cũng nịnh đầm như chính phủ Mỹ không bắt buộc phụ nữ Mỹ phải ghi rõ số tuổi trên giấy thông hành - nên chàng luôn luôn quên số tuổi thật của đàn bà, nhưng giá chàng không nịnh đầm, chàng cũng phải nhìn nhận là Phù Dung chưa già. Chưa già, nếu so với số tuổi trên 40 của nàng.

Nếu tuổi 40 làm người ta liên tưởng đến trái cây chín thì đàn ông 40 là trái cây vừa chín, mùi thơm ngào ngạt, ăn vào bồ dưỡng ngon lành, ngược lại, đàn bà 40 là trái cây đã chín nẫu, mùi chua sửa soạn nhường chỗ cho mùi hôi, nghĩa là trái cây sắp bị liệng vào thùng rác (tác giả thành thật các nữ đọc giả trên tứ tuần, vì sự mô tả của tác giả không áp dụng cho trường hợp quý vị mà tác giả biết là còn trẻ, rất trẻ...). Tuy nhiên người thiếu phụ đang áp má vào da thịt chàng vẫn còn nguyên hương vị tuổi xuân. Vai nàng vẫn thuôn tròn chứ không xẹp xuống thành vai long đình. Mông nàng không bạnh ra một cách thô tháp, và vòng ngực không xệ xuống để cân xứng với vòng eo một ngày một lớn. Và nhất là ngấn cổ và cằm mặt không biến thành kho chứa mỡ thừa.

Phù Dung hôn lấy hôn để vào má, vào trán chàng :

- Chúng mình xa nhau mười mấy năm rồi nhỉ ?

Chàng chưa ki.p đáp thì nàng đã sụt sịt:

- Em già rồi, mới đó em...

Văn Bình vội chặn lời nàng :

- Còn lâu em mới già. Ngày nào bọn con trai như anh da mồi tóc bạc đầu gối kêu lạo rạo thì em mới chịu già...

Văn Bình không cho nàng nói hết câu vì sợ trong giờ phút hồi tưởng qua dĩ vãng đầy thơ và mộng nàng sẽ than vãn số tuổi 45, 46 của nàng. Nàng là đàn bà có khác, được đàn ông khôi ngô khen trẻ đã nở phồng cánh mũi rồi ôm cứng lấy chàng. Chàng phải luồn tay vào trong, xô nhẹ ra, để khỏi ngộp thở. Nàng tiếp tục hôn chàng rồi hỏi:

- Anh vẫn chưa lập gia đình chứ ?

Chàng lắc đầu :

- Chưa.

Chàng nhìn nàng một cách ý nhị trước khi tiếp :

- Chừng nào em lấy chồng, anh sẽ lấy vợ.

Nàng cười ròn rã :

-Đồ xạo... em lấy chồng, anh cũng sẽ không lấy vợ. Em mới làm việc cho ông Hoàng được 6, 7 năm, nhưng em biết hết. Biết hết mặc dầu từ ngày lãnh lương của sở đến giờ em chưa hề về Sàigòn lần nào. Các chị trong ban Biệt Vụ qua Âu Châu công tác thường ghé Thụy Sĩ chơi và em đều hỏi thăm anh. Anh chưa lập gia đình, chẳng qua anh không chịu nỗi cuộc sống gò bó và sự chỉ huy của bà xã, với lại, anh hứa hưu hứa vượn hơi nhiều, anh sợ lấy vợ, vì hàng chục cô vợ... hờ và nhân tình chính hiệu khác sẽ róc thịt anh ra nấu... canh chua.

Văn Bình rướn người vớ cái áo sơ-mi và cái vét-tông. Khi ấy, Phù Dung mới nhớ ra chàng đang ở trần. Ba cô gái trời đánh đã cởi bỏ phần trên của chàng, sửa soạn bắt chàng thoát y trăm phần trăm - xin nhắc lại, trăm phần trăm, chứ không phải 75 phần trăm như một số hộp đêm Sàigòn - thì Phù Dung xuất hiện.

Nàng gài nút sơ-mi, thắt lại cà-vạt cho chàng, giọng rí rỏm :

- Khổ quá.... Em nóng ruột, xuống dưới nhà đợi anh, chứ nếu em rềnh rang nằm trong phòng như mọi bữa thì anh... ốm đòn.

- Ốm đòn ?

- Phải, các cô ấy sẽ rần anh một trận.

- Em nói như thể anh là hòn bột muốn nặn hình thù nào cũng được. Anh không thuộc hạng đàn ông thượng cẳng tay hạ cẳng chân với đàn bà, song anh không thể đứng yên cho họ đánh.

- Anh trổ tài nhu đạo ?

- Nhu đạo chỉ là một trong nhiều môn võ anh biết.

- A, anh sẽ áp dụng những ngón đòn hiểm độc hơn nhu đạo nhiều...

- Phù Dung, anh không thích ỡm ờ... Tại sao họ lại đánh anh ?

- Giản dị lắm. vì họ đinh ninh anh là ông khách sộp từ Ba Lê đến. Có thể liệt ông ta vào loại sộp nhất Âu Châu.

- Khách sộp ? Té ra em mở...

- Đừng vội xuyên tạc. Đây không phải là xóm yêu hoa. Mà là một trung tâm hồi phục sinh lý học.

- Chà... những chữ dao to búa lớn như "trung tâm hồi phục sinh lý học" anh nuốt không nỗi. Tại sao em không nói trắng ra đây là nơi tiếp đón những anh đàn ông mắc bệnh bất lực, phải nghe lời quát mắng hoặc ăn roi vọt bò lê bò càng thì mới làm tình được.

Phù Dung cười:

- Giải thích trắng trợn như vậy thì có vào nhà đá sớm. Nhà nước Thụy Sĩ không hiền như ở Tây Đức đâu. Em phải làm ăn lén lút, chỉ thân chủ quen mới biết, và em phải lấy hẹn trước. Tuy nhiên, anh đừng vội giận em, khinh em, em không đứng ra mở cái tổ quỷ này. Chủ nhân thật sự là ông Hoàng...

- Hừ... em không nên đổ tội cho người ở xa. ông Hoàng đã già lụ khụ, lại ghét cay ghét đắng bọn đàn ông sa-đích.

- Ghét của nào, Trời trao của ấy là chuyện thường. Nói cho đúng, ông Hoàng không bỏ tiền, lập bảng hiệu, tất cả đều do mấy chú điệp viên ở sau bức màn sắt mà ra. Chẳng hiểu sao chú nào được phái qua đây cũng mắc cái bệnh dở dở ương ương ấy. Một chú thấy bở bèn mở tiệm. Hắn kiếm tiền như nước. Vô phúc cho hắn gặp em. Hắn trở thành bồ của em. Em trình về Sàigòn. ông Hoàng ra lệnh cho em tặng hắn một viên thuốc. Hắn ngủ luôn một mạch, không dậy nữa, và em ngẫu nhiên nhảy lên làm chủ nhân mặc dầu em không phải xuất ra một phật-lăng nào. Chỉ phải cái phiền phức là em không ưa mà phải ưa... Nào, anh bằng lòng chưa ?

- Rồi. Em không biết anh từ Ba Lê tới đây hôm nay ư ?

- Biết. Nhưng người ta nói là anh đi máy bay. Em đòi ra phi trường đón song người ta không cho phép, em đành ở nhà chờ anh. Máy bay đến luôn mấy chuyến mà không thấy anh nên em tưởng anh hoãn đến mai. Em nằm trên lầu bỗng cảm thấy ruột nóng như lửa đốt, Vội chạy xuống... Thoạt đầu, em sợ dưới nhà có chuyện lộn xộn vì bọn khách ma quái này thường lộn xộn bất tử. Té ra... gặp anh... anh ngày xưa của em.

- Lão khách sộp từ Ba Lê đến đây để cởi bỏ quần áo và ăn đòn ư ?

- Vâng. Hắn chưa "điều trị" ở nhà em lần nào, sở dĩ hắn đến là do một người bạn giới thiệu. Dường như ngày xưa hắn là ông bự của mật thám quốc xã, hắn bắt bớ, tra tấn, bắn giết quá nhiều nạn nhân vô tội nên sau ngày bại trận, hắn phải trốn chui trốn nhủi để khỏi bị lôi ra tòa. Hậu quả của cuộc sống trốn tránh này là hắn mang chứng bất lực sinh lý. Mỗi khi muốn phục hồi hắn phải cởi bỏ quần áo và ăn đòn, có lẽ ông Trời bắt hắn phải chịu hình phạt ấy để đền bù lại phần nào tội ác lột truồng và đánh đập hai chục năm về trước. Úi chao, hắn không phải là trường hợp duy nhất, em đã có khá nhiều thân chủ như hắn, anh ở lại đây chơi đến tối sẽ thấy, có những ông tổng giám đốc công ty kỹ nghệ, chủ nhà băng, viên chức cao cấp chính quyền đáp máy bay riêng đến Giơ-neo để xin em hành hạ...

- Họ nỗi cơn hứng thì em làm sao ?

- Anh lại nghi oan em rồi đấy. Em chỉ "điều trị" cho họ, chứ em không cung cấp xác thịt, nhưng nếu họ đòi hỏi, em có thể lo liệu đầy đủ. Những căn nhà ở sát nách chuyên về việc này. Tuy nhiên, ít khi họ tìm hoa ở đây, họ trả từ một đến hai ngàn phật-lăng Thụy Sĩ để được ăn đòn (1) nên thường thường họ có sẵn những bông hoa đắt giá.

- Trời ơi, em đánh người ta đau điếng mà đòi cả trăm đô-la Mỹ một lần ư ?

- Ai bảo anh là đánh đau điếng ? các cô làm cho em đều là chuyên viên tốt nghiệp đàng hoàng, họ đánh đau thì thật đau song cũng thật sướng, trên thân thể người ta có một số đường dây thần kinh gây ra cảm khoái, họ chỉ chạm vào những chỗ này. Vả lại, hai, ba trăm đô-la không phải là nhiều, ở Hăm-bua, xỉu xỉu cũng mất 50 đô-la, lối hành hạ lại thiếu khoa học, và nhất là địa điểm thiếu kín đáo, thiếu sang trọng, ở đây, cái gì cũng tân tiến hơn, khung cảnh Thụy Sĩ lại hoàn toàn thích hợp, ngoài ra chính quyền lại hết sức nghiệt ngã đối với vấn đề sex nên lập được một phòng điều trị bệnh bất lực không phải là dễ. Phải rải tiền khắp nơi, nếu không...

Văn Bình và Phù Dung đã lên đến lầu trên. Nếu nhà dưới chỉ có bốn bức tường trần truồng và lạnh lùng thì lầu trên là một thiên đường đầy đặn và ấm cúng. Nàng dẫn chàng qua một hành lang rộng trải thảm len ni-lông êm ái, tường lót gạch lát-tích trắng hãm thanh và bước vào phòng nàng.

Mặt nàng đang hân hoan bỗng sa sầm. Văn Bình nhận thấy nguyên nhân khiến nàng buồn đột ngột là những con bài nhiều màu rực rỡ xếp thành hàng dài trên bàn kê gần cửa sổ. Căn phòng được điều hòa khí hậu, cửa đóng kín nên tiếng động bên ngoài không lọt được vào. Dầu mở toang các cửa, căn phòng cũng vẫn im lặng vì cái ngõ độc nhất vô nhị này ở sau lưng những đường phố đông đúc và sầm uất, có khi cả giờ đồng hồ trôi qua mà không thấy bóng xe hơi.

Phù Dung buồn, và Văn Bình cũng cảm thấy một nỗi buồn khó tả dâng tràn ngập lòng chàng. Hình ảnh những con bài tây mỹ miều vừa đánh thức trong trí chàng những hình ảnh của quá khứ xa xôi mà gần gũi.

Phù Dung là một trong những thiếu phụ lưu lại trong tâm thần và thể xác Văn Bình vết hằn sâu xa nhất. Trên một phạm vi nào đó, nàng đã dạy vỡ lòng cho chàng về tình yêu nhục thể. Mười mấy năm trước, nàng truyền bài học nhập môn trên cái giường rộng, kê gần cửa sổ nhìn ra vườn im lặng và gần cái bàn trên đặt cái khay sơn son thếp vàng đựng yến chưng đường phèn và cỗ bài tây xếp thành hàng dài rực rỡ. Mở đầu, nàng mời chàng ngồi xuống giường, nhìn nàng bói bài. Nàng có thói quen bói bài tốt thì mới làm tình, nếu bói bài xấu thì chỉ trò chuyện suông. Định mạng thú vị đã giúp chàng và nàng có con bài thật hên, và nàng mở nắp lồng bàn trên khay sơn son thếp vàng để lộ hai cái bát kiểu màu hồng xinh xắn, rồi bưng một bát yến lên tận miệng chàng.

Đời nàng là kết tinh của những sự dị đoan lạ lùng. Dường như mọi đều hay trong đời nàng đều xảy ra trong ngày 13 hoặc liên hệ đến số 13, nên trong khi thiên hạ tránh xa con số 13 nàng lại thích thú được gần. Nàng nói với chàng rằng làm tình trong ngày 13 là điềm hên, nếu được ngày thứ sáu 13 thì còn hên hơn nữa.

Nàng bói bài rất giỏi, và trước khi làm việc gì, kể cả việc ân ái nàng đều mang bài ra hỏi thời vận. Có lẽ trước khi chàng đến nàng vừa kinh bài và rải ra bàn. Và có lẽ nước bài không có gì tốt nên nàng không vui.

Phù Dung kéo ghế :

- Anh ngồi xuống đây. Em vẫn đa mang yến chưng đường phèn. Anh thấy không ? Bát kiểu màu hồng, khay sơn son thếp vàng, lồng bàn thép, bài tây... tất cả đều là vật cũ, em cất kỹ trong tủ sắt, hôm nay được tin anh đến em mới mang ra khoản đãi.

Phù Dung cầm bát yến, đưa cho Văn Bình. Chàng hơi bối rối vì chưa tìm thấy muỗng. Phù Dung cười:

- Em biết rồi, anh đang cần cái muỗng. Dùng muỗng thìa là lối sống của người Âu Tây, nhưng để ăn canh, ăn súp thì đúng điệu, còn nếu để thưởng thức món yến chưng đường phèn thuần túy Á Đông thì sai bét. Anh cứ đưa lên miệng húp đi, nó kém văn minh, kém lịch sự thật đấy, song hương vị nó thấm thìa hơn nhiều. Dầu là muỗng sứ, muỗng nhom hoặc muỗng ni-lông, nó cũng gây ra cái mùi là lạ, làm giảm hương vị đặc biệt của yến trộn với đường phèn. Anh dùng đi, hừ... anh chóng quên quá, ngày đó anh cũng bối rối, và em cũng phải giải thích như hôm nay anh mới hiểu.

Một lần nữa, Văn Bình lại thấy Phù Dung sa sầm. Bằng khóe mắt, nàng liếc những con bài trên bàn, trong khi nàng trả cái bát hồng vào chỗ cũ trên cái khay đã tróc sơn. Văn Bình hơi rùng mình. Nàng vẫn ưa bói bài 13 lá như ngày xưa. Bất cứ cái gì, nàng cũng tiếp nối với con số 13. Đêm ấy, nàng giảng bài cặn kẽ như thể chàng là cậu học trò ngây thơ và nàng là ông giáo trung niên (và sự thật thì Văn Bình cũng chẳng hơn cậu học trò ngây thơ là mấy):

- Anh cứ tin em đi, thiên hạ ngớ ngẩn kinh khủng, con số 13 có gì đáng ngại đâu ! Đừng tưởng người Âu Mỹ giỏi hơn người mình, họ còn ngu hơn người mình nhiều, bằng chứng là người Hoa Kỳ tự hào là văn minh mà những cao ốc của họ lại sợ, không dám mang số 13, từng thứ 13 thì lại mang tên thứ 14, riêng tại Nữu Ước đã có hơn 50 khách sạn như vậy (2). Hải quân Anh chẳng hiểu nỗi danh trên thế giới về khoảng nào, chứ về khoản sợ con số 13 thì họ đáng dẫn đầu, trời đất ơi, trong trận thế chiến thứ nhất, một ông đại đô đốc kiệm bộ trưởng hải quân đã cho tàu chiến ra khơi đánh quân Đức vào ngày 11 mặc dầu ngày 13 mới đúng là ngày xuất trận (3)...

Phù Dung còn nói nhiềụ, nhiều nữa. Nàng không tiếc lời đả kích "cái bệnh sợ số 13" (4) từng làm người Mỹ thiệt gần 300 tỷ đô-la. (5) Phần nào cũng vì Phù Dung mà chàng có duyên với ngày thứ 13, ngày mà người phương Tây mất ăn mất ngủ, thay mèo đen hoặc thang dựng thì chạy trốn như bị ma đuổi, hễ vỡ ly họặc vỡ gương soi mặt là sợ toát mồ hôi lạnh, và tiêu phí không biết bao nhiêu tiền của để mua bùa ngãi, và mua... muối vãi sau lưng hầu xua đuổi tà ma.

Văn Bình đang bâng khuâng với những kỷ niệm quá khứ thì Phù Dung đã mở đèn cho sáng thêm rồi lấy ngón tay chỉ những con bài cơ rô chuồn bích nằm dài trên bàn, giọng nàng như bị nghèn nghẹn vì thịt dư ở cổ họng :

- Chắc em nguy mất, anh à.

Văn Bình nhìn theo ngón tay nàng :

- Làm nghề này thì khi nào cũng nguy cả. Nhưng từ phút này trở đi, em có thể được yên tâm. Đành rằng ông Hoàng phái anh sang Thụy Sĩ, nhưng nếu không có em ở đây thì vị tất anh chịu vứt bỏ cuộc sống dưỡng sức bên đó. Anh xin bảo đảm với em... Em có thể trở về Sàigòn nghỉ ngơi một thời gian, như em từng yêu cầu.

Phù Dung cầm một con ách chuồn lên ngắm nghía rồi thả xuống, giọng nàng vô cùng buồn thảm :

- Em tin ở tài anh, nhưng "chữ tài liền với chữ tai một vần, anh ạ". Dầu sao, còn có định mạng gì nữa. Mà định mạng lại không tốt đẹp gì với em. Anh ơi, em chết mất.

- Nói nhảm.

- Từ nhỏ đến giờ, trước khi làm việc gì em cũng đều bói bài. Mười mấy năm trước, em bói được con "đầm cơ" với con "bồi cơ" ở bên tay phải nên em tất tưởi ra phố, vì nước bài cho biết em sẽ hội ngộ với một thanh niên rất trẻ, rất đẹp trai, rất khả ái, và dầu xa nhau cả chục năm, cũng sẽ rất trung thành. Và em đã gặp anh và dâng hiến cho anh... Sáng nay, được tin anh đến, em cũng mang bài ra kinh, nhưng anh ơi...

Văn Bình đăm đăm nhìn con bài mang chữ J ở góc :

- Em bói thấy con bồi bích ?

Nàng gật đầu, mặt tái mét:

- Vâng.

- Nghĩa là thần bài 32 lá tiên đoán em bị một người đàn ông còn trẻ tính chuyện lường gạt. Và sở khanh này là anh.

Phù Dung vội bịt miệng chàng :

- Bậy nà. Con "bồi bích" này không phải là anh. Anh thấy rõ chưa ? Nó lại lộn ngược, bồi bích lộn ngược đã nguy, nó lại bị con bẩy bích án ngữ bên tay phải mới nguy hơn nữa. Nước bài này cho biết em sắp bị tai nạn có thể thiệt hại tính mạng, và tai nạn này do một tên bất lương được em yêu thương, em sửa soạn lấy làm chồng gây ra.

- Mai Lăng ?

- Thưa anh vâng, Mai Lăng, em lỡ yêu Mai Lăng... trời ơi, anh cũng nghe nói đến chuyện giữa em và Mai Lăng ư ?

Văn Bình không đáp. Vì điện thoại trên bàn vừa reo. Phù Dung tần ngần. Văn Bình hỏi nàng :

- Em có hẹn với ai không ?

Nàng đáp gọn :

- Không.

Chuông điện thoại vẫn reo. Nàng đặt bàn tay lên ống nghe song vẫn chưa nhấc lên :

- Lạ thật, anh ạ. số điện thoại này chỉ có một số người thân biết. Nếu là bạn thường hoặc khách hàng thì phải gọi qua điện thoại dưới nhà rồi họ chuyển lên đây cho em. Em sợ không khéo Mai Lăng... ?

- Mai Lăng gọi cho em.

- Có thể. Nhưng giữa hắn và em, đến đây là hết.

- Em vừa nói sẽ làm vợ hắn, giờ đây em nói là hết duyên, hết nghĩa. Anh chẳng hiểu ất giáp gì cả. Tại sao người ta lại bảo là anh đến đây để giúp em một tay, lo vụ hoàng tử Phakanvong ?

- Vâng, vụ hoàng tử Phakanvong liên hệ mật thiết đến em, đến Mai Lăng và...

Nàng ngừng lại. Điện thoại vẫn reo hoài, reo hủy. Phù Dung như bị điện giựt, hoảng hốt cầm lấy ống nghe. Khi ấy, Văn Bình cũng có cảm giác như bị điện giật. Phù Dung vừa nâng điện thoại lên, chưa kịp áp vào vành tai thì hơn 70 kí xương thịt của điệp viên Văn Bình đã nhào lại, nàng ngã rụp xuống đất và chàng đè chặn lên trên, ống nói tuột khỏi tay nàng, treo tòn teng trên mặt đất.

Bùng, boàng... bùng, boàng.... nhiều tiếng bùng boàng liên tiếp nổ trong phòng, ống điện thoại vỡ nát, bắn từng mảnh tứ tán. Đèn điện phụt tắt. Căn phòng chìm trong bóng tối lờ mờ.

Chú thích:

1. Đồng tiền Thụy Sĩ gồm hai đơn vị, Franc (phật-lăng) và centime (xăng-tim, xu), một đồng đôla Mỹ ăn chừng hơn 4 phật-lăng Thụy Sĩ.

2. Đó là vào năm 1955, hiện nay, con số khách sạn không có tầng 13 này đã lên tới số 85, chỉ riêng ở Nữu Ước.

3. Đô đốc này là Fisher, và vụ này xảy ra vào năm 1914, trước khi phái hai chiến hạm Invincible và Inflexible vào Nam bộ Đại Tây Dương, đô đốc Fisher đã tránh ngày thứ sáu 13 tháng 11.

4. Bệnh dị đoan số 13 này, người Mỹ gọi là Triskedekaphobia, họ còn lập ra Hội 13, Chủ Tịch sáng lập là Nock Matsoukas (tên gồm 13 chữ), ra đời vào ngày 13-6, con thứ 13 của một gia đình gồm 13 người con, và ngày 13-12 tốt nghiệp đại học, ngày 13-9-46 lập ra hội trên.

5. Con số 300 tỉ đã được xác nhận.
Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Đoàn Vũ Khỏa Thân - Người Thứ Tám Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Đoàn Vũ Khỏa Thân - Người Thứ Tám   Đoàn Vũ Khỏa Thân - Người Thứ Tám Icon_minitimeTue May 23, 2017 4:17 am

Người Thứ 8
Đoàn Vũ Khỏa Thân
Chương 4
Gã điệp viên MI-6


Đêm ấy, Sàigòn mưa như trầm như trút.

Lệ thường Sàigòn chỉ mưa từng cơn. Có khi lất phất vài ba giọt đe dọa khách bộ hành rồi trời lại tạnh ráo như cũ. Có khi hàng vạn tấn nước mưa thi đua đổ xuống nhưng cơn tàn phá ác liệt chỉ kéo dài độ nửa giờ.

Tuy nhiên đêm ấy, thông lệ đã bị phá bỏ : trận mưa dữ dội từ khi mặt trời lặn tiếp tục cho đến khuya. Các khu xóm lao động biến thành sông lạch trong chớp mắt. Từng đoàn xe hơi tối tân, động cơ bị ngập nước, nằm vạ la liệt trên những con đường sang trọng ở trung tâm thành phố. Đâu đâu cũng thấy nước. Đâu đâu cũng thấy quang cảnh buồn tênh.

Từ lầu 6 một bin-đinh đồ sộ nhìn xuống đường, Nguyên Hương cũng cảm thấy buồn tênh. Lầu này là một trong nhiêu nhà của sở Mật Vụ. Rời sân bay, ông Hoàng không về trụ sở công ty Điện Tử ở đại lộ Nguyễn Huệ mà là về một tòa chung cư mới xây cất ở đường Ngô Đức Kế, trong đó ông Hoàng thuê trọn một tầng lầu.

Cuốn phim ký ức hồi sáng tại phi trường Tân Sơn Nhứt đột nhiên quay lại trong trí Nguyên Hương.

Từ phòng vệ sinh ở đuôi phi cơ Mystère hai động cơ bước ra, ông Hoàng hoàn toàn đổi khác.

Trong quá khứ, ông đã đổi khác nhiều lần, đặc biệt là những lần bí mật xuất ngoại với mục đích bịt mắt kẻ thù. Song trong những lần cải trang đã qua, ông chỉ dùng hóa chất biến đổi màu tóc, cách chải tóc, gọng kiếng, sống mũi, bộ răng và y phục.

Chứ chưa khi nào ông đổi khác hoàn toàn.

Khuôn mặt bằng cao su của ông Hoàng trông hệt như mặt thật. Nguyên Hương có luồn nhỡn tuyến tinh tế và chuyên nghiệp mà cũng không nhận ra khuôn mặt giả. Khuôn mặt này được chế tạo bằng nhựa dẻo porotherme, thứ cao su nhân tạo được một công ty Tây Đức dùng để sản xuất vỏ bao vô-lăng xe hơi (1). Kỹ nghệ làm khuôn mặt giả bằng cao su chặn lên mặt thật đã tiến bộ vượt bực trong những năm gần đâỵ. Các cơ quan điệp báo quan trọng như C.I.A. Hoa Kỳ, và KGB-GRU Liên Sô đều thiết lập phòng thí nghiệm sản xuất khuôn mặt giả cho nhân viên thay hình đổi dạng.

Mớ tóc bạc phơ và thưa thớt của ông Hoàng đã biến đâu mất. Thay vào đó là mái tóc đen tuyền, mềm mại của thanh niên, được chải phồng theo đường rẽ nghiêng, thoang thoảng mùi thơm của bi-ăn-tin đắt tiền.

Chỉ riêng mái tóc này đã đủ kéo số tuổi của ông già tổng giám đốc lại một phần ba thế kỷ. Nguyên Hương đã được nghe nói về cách thức làm mái tóc trong phòng thí nghiệm khuôn mặt giả : từ đầu đến cuối đều bằng tay, một nữ công nhân khéo tay và thành thạo dùng kim xâu từng sợi tóc một vào da đầu.

Đặc điểm trên mặt ông Hoàng là cặp mắt kiếng dày cộm. Rút kiếng ra, ông chẳng còn nhìn thấy gì hết. Xòe bàn tay trước mắt, ông cũng chỉ có thể nhận ra những đường nét lờ mờ. Vậy mà khuôn mặt cao su diêm dúa lại không đeo kiếng. Để thay kiếng trắng, ông Hoàng đeo kiếng sát tròng nhỏ xíu, nằm gọn trong mắt. Mắt là bộ phận dễ lộ đồ giả nhất nên ông Hoàng đã thận trọng phủ kín bằng một đôi kiếng mát kiểu ốp-a to chềnh ềnh, tuy nhiên để Nguyên Hương ngạc nhiên, ông đã lấy kiếng mát ra cầm tay.

Sống mũi ông được thu nhỏ lại và nâng cao hơn. Hàm răng cũng được tô sửa lại toàn diện. Nguyên Hương không còn nhận thấy những mảng ni-cô-tin vàng ệch và đen sì như trước nữa. Điều này làm nàng bối rối nhiều nhất. Vì nàng biết rằng khuôn mặt cao su chỉ biến đổi được tóc, tai, mắt, mũi, má, miệng, môi, cằm, chứ không biến đổi được hàm răng. Muốn biến đổi nhờ đến nghệ thuật của nha sĩ, nghĩa là mất khá nhiều thời giờ sau khi đeo mặt nạ.

Đằng này, ông Hoàng chỉ mất vỏn vẹn mấy phút đồng hồ để thay đổi màu sắc của hàm răng ám chất thuốc lá. Nếu nàng hỏi ông tổng giám đốc thì nàng sẽ biết là ông có trong túi một ống thuốc riêng, trông như hộp đựng xà bông cạo râu do hãng Gilette chế tạo - ấn vào cái nút ở đầu thì bọt xà bông trắng xóa từ trong hộp phun ra. Nhưng nhỏ chỉ bằng một phần trăm. Cũng như loại xà bông Gilette trắng xóa được xì ra, ông Hoàng hứng vào lòng bàn tay rồi đem thoa vào răng, thoa đến đâu răng trắng ra đến đấy. Màu trắng này dính chặt vào men răng, phải xúc miệng bằng một nước hóa học khác thì nó mới tan biến.

Sự biến đổi về khuôn mặt được phối hợp mật thiết với sự biến đổi thân hình, ông tổng giám đốc vốn là người vai vuông, từ ngữ bình dân châm biếm thường gọi là "vai long đình". Đàn ông vai vuông thường kém hấp dẫn đối với đàn bà, vai vuông mà người lại gầy như ông Hoàng thì góc vuông càng vuông thêm, thân hình càng kém hấp dẫn thêm. Nhưng, kỳ lạ thay, sau bộ vét-tông bằng hàng terilin ca-rô đôi vai long đình đã trở nên xuôi tròn một cách khả ái.

Hiệu may nào cắt bộ com-lê này cho ông Hoàng phải là viên ngọc quý trong giới chuyên môn thời trang. Vì không những vai ông Hoàng vuông mà còn lệch một bên nữa. Quan sát lối cắt và đường chỉ, Nguyên Hương biết rằng xuất xứ của bộ com-lê phải là Luân-Đôn, thủ đô quốc tế của nghệ thuật may cắt.

Trước kia, nàng phụ trách việc sắm sửa y phục cho ông tổng giám đốc. Nói cho đúng, ông chẳng cần gì để sắm sửa thường xuyên. Xuân, hạ, thu, đông, năm này qua năm khác, ông luôn luôn mặc một bộ đồ duy nhất, mặc đến khi rách khuỷu tay thì mạng lại, chứ không thay bộ mới. Sau này, vì công việc văn phòng quá bộn bề, và cũng vì ông Hoàng bắt buộc phải cải trang hằng ngày để tránh bị đối phương ám sát nên Nguyên Hương giao trách nhiệm lo liệu quần áo cho ban Chuyên Môn.

Ông Hoàng mỉm cười khi thấy Nguyên Hương ngó mình trân trối. Rồi ông dịu dàng lên tiếng :

-    Thế nào, có nhận ra tôi không ?

Nguyên Hương lúng túng :

-    Thưa, ông cải trang khéo quá. Nếu tôi không ngồi chung với ông hồi nãy trong phi cơ thì bây giờ không tài nào đoán nổi.

-    Nghệ thuật cải trang điệp báo đã tiến bộ nhanh như thế đấy ! Bên Tây Đức vừa gởi cho tôi 10 khuôn mặt khác nhau, chỉ cần 3 phút đồng hồ là ráp vào được, về Sàigòn, tôi sẽ yêu cầu ban Chuyên Môn còm-măng cho cô 10 khuôn mặt cao su. Có lẽ từ nay trở đi, mọi nhân viên cao cấp văn phòng đều phải mang mặt nạ giả mỗi khi ra ngoài. Bởi vì tình hình càng ngày càng tế nhị và khó khăn.

Trong khi ông Hoàng trò chuyện với Nguyên Hương, phi cơ đã hạ cánh an toàn xuống phi đạo bê-tông.

Tuy đã luống tuổi lại mang nhiều bệnh trong người, ông Hoàng không hề cảm thấy mệt mỏi. Bên dưới, nhân viên sở Mật Vụ mặc đồng phục nhân viên hàng không Việt Nam đã đẩy xe thang lại sát cửa phi cơ. ông Hoàng xách cái va-li nhỏ từ từ bước xuống. Ánh nắng mặt trời ban mai chiếu thẳng vào làm ông chói mắt.

Nguyên Hương đi sau ông một quãng ngắn, ông rẽ vào ghi-sê kiểm soát công an và quan thuế.

Phi cơ chở ông Hoàng được ngụy trang là phi cơ của công ty hàng không Việt Nam từ Nha Trang tới. Hành khách đi lại trong nội địa không phải xuất trình thông hành và khám xét hành lý nên ông Hoàng được tự do tiến ra cửa lớn.

Trên hàng ghế dài kê sát tường, các ký giả đang ngồi ngổn ngang, máy ảnh, máy quay phim, máy ghi âm để la liệt. Họ dán mắt vào đám hành khách vừa xuống chuyến bay "Nha Trang", ông Hoàng không đi thẳng ra sân phi cảng mà lại dừng bước, ông cho tay vào túi để tìm quẹt máy.

Không hiểu ông bỏ quên quẹt máy trên phi cơ, hay là ông cố tình làm như vậy. Đi sau, Nguyên Hương có cảm nghỉ là ông Hoàng cố tình dừng lại để xin lửa. Nàng sợ toát mồ hôi. Nếu các ký giả khám phá ra người khách trung niên tóc chải bóng, đeo kiếng mát ốp-a, thắt cà-vạt hợp thời trang, và dận giày da cá sấu mũi vuông là ông tổng giám đốc Mật Vụ, họ sẽ bủa vây kín mít để "làm thịt".

Ông Hoàng hơi nghiêng về phía trước trong khi một ký giả trẻ tuổi châm que diêm cháy đỏ vào điếu thuốc xì-gà trên miệng ông Hoàng Quả ông Hoàng là Ba Giai, Tú Xuất tái sinh ! Trước mắt đạo quân báo chí, mắt sáng như điện có thể nhìn xuyên qua lớp vải nỉ dày cộm, mũi thính kinh khủng, chỉ thoáng ngửi qua là biết được tên hiệu điếu thuốc mà ông Hoàng ngang nhiên hút xì-gà đặc biệt. Loại xì-gà được làm riêng cho ông. Loại xì-gà chỉ riêng ông có trên toàn cõi Việt Nam. Loại xì-gà có mùi vị và hơi khói độc nhất vô nhị. Hút xì-gà ấy là một cách gián tiếp bảo đám ký giả :

-    Tôi là ông Hoàng, tổng giám đốc Mật Vụ mà các bạn đang tìm kiếm đây. Thân chào các bạn !

Ông Hoàng rít một hơi dài, nhả khói lên không trung, cúi đầu chào rồi mới rời khỏi phòng đợi.

Hú vía !

Ông Hoàng đã thắng cuộc. Không ai đã có thể nhận ra ông Hoàng với khuôn mặt cao su giả và bộ com-lê độn vai tròn.

Già đi xe già, trẻ đi xe trẻ, nếu từ trước đến nay ông già tổng giám đốc chuyên dùng chiếc xe hòm đen Citroën cà rịch cà tang (dĩ nhiên động cơ của nó không cà rịch cà tang chút nào) trông như xe đòn đám ma, thì sáng nay ông tổng giám đốc cải lão hoàn đồng lại ngự trên một báu vật cơ khí do một công ty Hoa Kỳ chế tạo.

Theo lệnh ông, Thu Thu đã lái chiếc Camaro đến chờ ngoài phi cảng.

Camaro là loại xe 2 cửa của hãng Chevrolet, nổi tiếng có mã ngoài sang trọng, động cơ lại ngốn đường như vũ bão. Sở Mật Vụ có đủ kiểu xe trên thế giới, những thứ đắt tiền nhất là Rolls Royce của Anh Cát Lợi, Mercédès 600 Pullman 6 cửa của Đức quốc cũng có, nên lẽ ra khi thấy chiếc Camaro Nguyên Hương không thể tỏ vẻ ngạc nhiên.

Vậy mà nàng lại xúc động mãnh liệt.

Trống ngực nàng đập thình thịch như nàng vừa chạy đua 100 thước thế vận, mặt nàng đang hồng hào bỗng tái mét.

Nàng xúc động mãnh liệt vì chiếc xe hơi sơn trắng mới toanh đậu dài dưới nằng trùng tên với người đàn ông nàng yêu tha thiết.

z.28.

Tên chiếc Camaro này là z.28.

Không hiểu vì tình cờ hay hữu ý, công ty Chevrolet đã lấy số hiệu của Văn Bình để đặt tên cho một kiểu xe đua Camaro vào mùa thu năm 1967. Sau đó, ban giám đốc đã gửi chiếc z.28 thứ nhất vừa ra khỏi xưởng ráp qua Sàigòn để tặng Văn Bình (2).

Được tin hãng Chevrolet biếu xe, Văn Bình hứa sẽ lái Nguyên Hương lên cao nguyên đổi gió, nhân tiện để rà máy. Nàng hối hả vào thương xá Nguyễn Huệ mua một va-li đầy ứ đồ lạnh. Chuyến đi Đà Lạt được dự định bắt đầu sau khi Văn Bình từ Vọng Các về. Chàng đã về đúng hẹn, nhưng là trở về để vào bệnh viện. Chiếc z.28 vẫn nằm yên từ bấy đến nay trong gă-ra của sở (3).

Dọc đường từ thành phố về trung tâm thành phố, Nguyên Hương không nói nửa lời. Thu Thu cất tiếng hỏi, nàng chỉ trả lời nhát gừng, về đến bin-đinh Ngô Đức Kế, nàng đáp "vâng" một tiếng gọn lỏn, và khô khan khi ông Hoàng dặn :

-    Cô nên ngủ cho lại sức. Đêm nay chắc chắn cô phải thức vì ta phải bắt tay vào việc ngay mới kịp.

Đêm ấy, Sàigòn mưa như trầm như trút.

Từ lầu 6 một bin-đinh đồ sộ nhìn xuống đường Ngô Đức Kế, Nguyên Hương cảm thấy buồn tênh. Nàng nhớ thương Văn Bình tưởng như có thể chết được. Nếu chàng đứng một bên, nàng sẽ ôm ghì lấy, cấu xé da thịt cho tóe máu. Nhưng giờ này chàng đang nằm trong dưỡng đường vắng lặng, một mình với chiếc giường sắt lạnh lùng, nửa mê nửa tỉnh dưới áp lực của mọt-phin. Chàng đã bình phục song mỗi đêm y sĩ vẫn chích ma túy để an thần. Tuần trước đến thăm chàng, Nguyên Hương suýt òa lên khóc. Chàng gầy hơn 15 kí-lô, đôi mắt trũng sâu, cặp mắt ngày nào sáng như đèn điện đã trở nên lờ đờ.

Nguyên Hương ngồi phịch xuống ghế. Nàng cố tập trung tư tưởng để nghĩ đến công việc quan trọng sắp tiến hành. Tập hồ sơ "Luân vũ" liên quan đến các vụ mất tích động trời mở rộng trước mắt. Đúng 25 trang đánh máy chữ nhỏ chi chít được dành riêng cho Phạm Thiên.

Nàng đọc lại lý lịch của nhà bác học mất tích.

Lý lịch của tiến sĩ Phạm Thiên.

"Phạm Thiên sanh ngày 16-7-1915 tại thị xã Long Xuyên. Từ nhỏ đến khi đậu cử nhân Toán, y học ở Sàigòn. Từ lớp II đến Tú Tài, ở trường Chasseloup Laubat, nay là trung tâm giáo dục Lê Quí Đôn, tọa lạc ở đại lộ Hồng Thập Tự.

Phạm Thiên luôn luôn chiếm giải nhất về toán. Năm 1935, y đậu thủ khoa cử nhân Toán. Có lẽ y là cử nhân Toán trẻ tuổi nhất (20 tuổi). Năm 1936, y được học bổng, xuất ngoại sang Pháp, và năm 1939 tốt nghiệp Tiến Sĩ Toán tại đại học đường Sọt-bon. Năm 1942, y đậu Thạc Sĩ Toán, cũng tại Ba Lê.

Cùng năm ấy, Phạm Thiên lấy vợ. Vợ y là một nữ sinh viên Viện Cao Đẳng Âm Nhạc Pháp, tên là Túy Ngọc. Hôn lễ được cử hành tại Ba Lê theo nghi thức công giáo, cả hai vợ chồng đều là tín đồ công giáo. Phạm Thiên chưa kịp hưởng tuần trăng mật với tân nhân thì phải hối hả về nước vì phụ thân đau nặng.

"Hai vợ chồng về đến Sàigòn thì phụ thân của Phạm Thiên đã qua đời. Song thân Phạm Thiên là nghiệp chủ ở Long Xuyên. Tuy Phạm Thiên là con trai duy nhất, y còn 3 người chị gái. Phạm Thanh - người mà y hạ sát vì ghen tuông lầm lạc - là em cùng cha khác mẹ, đúng hơn là con của bà vợ thứ.

Phần vì Âu Châu đang sống trong cảnh chiến tranh, phần vì nghe theo lời trối trăn của phụ thân, Phạm Thiên đã ở lại quê nhà. Y dạy toán tại trường đại học, đồng thời lập phòng thí nghiệm toán học.

Năm 1945, Phạm Thiên bắn chết em trai Phạn Thanh rồi trốn qua Cao Miên, từ Miên, y nhập cảnh vào Mỹ và được chính phủ Hoa Kỳ trọng dụng. Từ 1946 đến 1955, Phạm Thiên giữ nhiều chức vụ quan trọng trong cơ quan N.A.S.A. (Quốc An xã), đặc trách về toán học không gian, và gần đây là siêu tình báo không gian.

Năm 1955, sau ngày Việt Nam chia đôi, Phạm Thiên hồi hương. Y không sợ bị bắt vì tội giết em vì gia đình y giấu nhẹm chuyện này, khiến dư luận đinh ninh Phạm Thanh chết vì bệnh. Vả lại, khi ấy Phạm Thiên đã nhập quốc tịch Mỹ, mang tên Henry.

Y xuống Thủ Đức để tìm con vì được tin sau ngày y bỏ đi Túy Ngọc sinh hạ được một đứa con gái, đặt tên là Túy Vân.

Hồi hai người lấy nhau, họ đi du lịch vòng quanh thế giới để hưởng tuần trăng mật, nhưng khi đang ở Nam-Mỹ thì phải về nước để thọ tang.

Trong thời gian thăm viếng Nam-Mỹ, hai vợ chồng son đến núi Kilimanjaro. Chiều hôm ấy, đỉnh núi trắng xóa màu tuyết, mây bay vờn bên trên lảo đảo trông như những hình nhân say rượu. Phạm Thiên vô cùng xúc động Phạm Thiên nói với vợ là nếu say này để con gái thì đặt tên nó là Túy Vân để nhớ những đám mây sau rượu trên núi Kilimanjaro.

Phạm Thiên đã khám phá ra nỗi oan khiên của vợ và em trai, và được biết tên con gái đầu lòng là Túy Vân nên đã dành nhiều thế giới tìm kiếm.

Nhưng y đã cố gắng vô ích. Túy Ngọc đã đi đâu mất. Y đành lên đường trở về Hoa Kỳ và bỏ tiền thuê một số thám tử tư tiếp tục công việc tìm kiếm.

Chi tiết về vụ Phạm Thiên mất tích:  

"Tháng 9-1967, Phạm Thiên rời Hoa Kỳ, trên đường qua Vọng Các, tham dự một hội nghị quốc tế về thám hiểm không gian được triệu tập dưới sự bảo trở của Liên Hiệp Quốc.

Phi cơ Pan American Aimays bay qua Thái Bình Dương, và như thường lệ ghé lại Sàigòn trước khi tiếp tục bay tới Vọng Các. Theo chương trình, hành khách chỉ lưu lại phi trường Tân Sơn Nhứt hai tiếng đồng hồ, nhưng vì một động cơ bị trục trặc nên chuyến bay được hoãn từ trưa đến chập choạng tối.

Hôm ấy trùng vào rằm tháng tám âm lịch, phố  xá Sàigòn rộn rịp như mắc cửi nên phái đoàn bác học Hoa Kỳ được mời dạo xe một vòng trong thành phổ. Đúng ra, một số nhà bác học, trong đó có Phạm Thiên, ngỏ ý muốn xuống phố thăm bằng phương tiện riêng nên vì điều kiện bảo vệ an ninh tòa đại sứ Hoa Kỳ phải cung cấp cho một cái xe buýt lớn, có một đơn vị an ninh hộ tổng.

Vào phút chót, phi cơ vẫn còn bị trục trặc, chuyến bay đã phải hoãn đến nửa đêm. Do đón phái đoàn bác học dùng cơm tối tại nhà hành nổi Mỹ Cảnh ở bến tàu.

Xong xuôi, phái đoàn trở lên Tân Sơn Nhứt và máy bay P.A.A. đã cất cánh an toàn đúng 12 giờ đêm.

Khi đến sân bay Don Muong (Vọng Các), phái đoàn bác học vẫn đầy đủ, không thiếu một ai. Nhưng khi ra ngoài cửa phi cảng thì Phạm Thiên mất tích.

Sự mất tích này rất lạ lùng. Phái đoàn bác học đều đi chung, luôn luôn có nhân viên an ninh theo bên. Tại ghi-sê công an, quan thuế, Phạm Thiên còn cúi xuống cột dây giày. Nghĩa là y đã mất tích trên một hành lang dài hai trăm thước. Từ đó đến nay, không ai tìm ra dấu vết về Phạm Thiên nữa.

"Trên đây là những chi tiết rút ra trong các bản phúc trình điều tra của trung ương tình báo Mỹ C.I.A. và tình báo quốc phòng Mỹ D.I.A. Phái đoàn điều tra Mỹ đến tận phi trường Don Muong và đồng thanh kết luận là Phạm Thiên không thể nào mất tích được dọc theo hành lang phi cảng. Tuy nhiên, phái đoàn không đưa ra suy dẫn nào khác.

"Tuân lệnh văn phòng bí thư, chúng tôi đã cử nhân viên sang Vọng Các chụp hình lối đi từ chỗ máy bay đậu đến ngoài phi cảng. Chúng tôi lại đích thân đến nhà hàng Mỹ Cảnh dọ hỏi trong đám bồi bếp và chiêu đãi viên.

"Cho đến nay, chúng tôi vẫn chưa thu hoạch được kết quả khả quan.

Nguyên Hương thở dài nhè nhẹ, và đóng hồ sơ "Luân Vũ" lại. Bên trong còn một xấp giấy dầy cộm nữa song nàng nhận thấy đọc vô ích. Bất giác nàng nhìn sang phòng bên. ông Hoàng cũng vừa xô ghế đứng dậy. Với những tin tức nửa nạc nửa mỡ này ông Hoàng làm cách nào để có thể hoàn tất công cuộc điều tra trong vòng một tuần, như ông đã long trọng cam kết tại phiên nhóm bất thường của Hội Đồng cảnh Giác Quốc Tế ?

Nàng đã nghe ông Hoàng nhắc đến vai trò của Uyên-sơn, cựu tham vụ sứ quán Anh, nhân viên MI-6, nhưng Uyên- sơn làm gì trong vụ Phạm Thiên thì nàng chưa biết.

Ông Hoàng rút mục kỉnh ra lau, giọng hiền từ :

-    Theo cô thì Phạm Thiên mất tích ở đâu ?

Nguyên Hương đáp ngượng ngập như học sinh không thuộc bài bị thầy giáo gọi trúng tên :

-    Thưa... chắc không phải ở Vọng Các.

-    Dĩ nhiên. Cô đã đến Don Muong nhiều lần, hẳn không lạ gì lối đi từ ghi-sê quan thuế ra ngoài phi cảng. Trừ phi biến thành con muỗi Phạm Thiên mới thoát khỏi tầm mắt bảo vệ an ninh. Tuy nhiên, nếu có bàn tay của một cơ quan điệp báo quan trọng xía vào thì Phạm Thiên vẫn thoát khỏi dễ dàng....

-    Thưa, bằng lối nào ? Tôi nghĩ mãi không ra.

-    Hừ.... đám nhà báo ăn chực nằm chờ tại phòng đợi sân bay Tân Sơn Nhứt cũng nghĩ mãi không ra như cô.

Nguyên Hương giật mình như bị điện giật, ừ, giản dị như thế mà nàng không hiểu ! Vụ mất tích không tối đen như đêm củ mật mà là sáng quắc như trên sàn quay xi-nê, dưới hàng chục ngọn đèn cực mạnh. Không nhà báo nào là không biết mặt ông Hoàng qua nhiều tấm hình được chụp lén trong quá khứ. Họ đã in rửa hàng trăm tấm, phóng đại thật lớn, đặt ngay trước mặt để thuộc lòng từng nếp nhăn, từng vị trí của sợi tóc. Vậy mà ông tổng giám đốc vẫn khơi khơi bước qua mặt họ, và hơn thế nữa, ông còn đứng lại rút cái quẹt quen thuộc ra, bật lửa bằng cử chỉ quen thuộc và rít một hơi dài xì-gà quen thuộc, thứ xì-gà Ha-van độc nhất vô nhị ở Sàigòn vì bề dài quá khổ của nó, cũng như hương thơm đậm đà của nó....

Sở dĩ ông Hoàng thành công trong màn ảo thuật này là do nghệ thuật cải trang... là do cái mặt nạ bằng cao su mềm.

Nàng vội cất tiếng :

-    Thưa, chắc Phạm Thiên đeo mặt nạ...

Ông Hoàng cười tủm tỉm :

-    Tại sao hắn lại đeo mặt nạ?

Nguyên Hương nín lặng. Câu hỏi của ông già tổng giám đốc kỳ dị vượt khỏi tầm suy luận của nàng, ông Hoàng gạt tàn xì-gà rồi nói tiếp :

-    Chỉ có hai giả thuyết. Hắn tự ý đeo mặt nạ để thoát khỏi màn lưới bảo vệ an ninh nghĩa là hắn tự ý hợp tác với một cơ quan tình báo địch. Hoặc Phạm Thiên ở phi trường Vọng Các hôm ấy là Phạm Thiên giả, một nhân viên địch đeo mặt nạ ngồi trên phi cơ từ Tân Sơn Nhứt đến Don Muong, rồi trong khi phái đoàn bác học tíu tít với thủ tục ở phi trường thì hắn lẻn vào phòng vệ sinh, gỡ bỏ mặt nạ, thản nhiên trở ra ngoài.

Ngay sau khi nắm hồ sơ Phạm Thiên, tôi đã nghiên cứu hai giả thuyết nêu trên. Muốn biết Phạm Thiên tự ý hay không, tôi phải tìm giải đáp ở Sàigòn. Và tôi đã nhờ bà Thu Thu tiếp xúc với những người hầu bàn tại nhà hàng Mỹ Cảnh, đêm rằm tháng tám, đêm Phạm Thiên và phái đoàn bác học ăn cơm tại đó.

Nói đoạn, ông Hoàng lấy trong túi áo ra một hộp băng cát-sét, loại thường bán trên thị trường, lớn bằng gói thuốc lá, rồi bỏ vào máy hát cát-sét sách tay Sanyo.

Giọng nói quen thuộc của Thu Thu vẳng ra :

"Đêm ấy, phái đoàn bác học dùng cơm trong phòng máy lạnh. Nhân viên an ninh Việt-Mỹ canh gác bên ngoài, không cho ai vào, ngoại trừ 4 cô hầu bàn người Tàu.

"Ăn cơm xong, đến món tráng miệng, Phạm Thiên gọi tăm xỉa răng. Mộr nữ chiêu đãi viên thuật lại cho tôi nghe chính chị ta mang ống tăm lại, đặt trên bàn, trước mặt Phạm Thiên sau khi nghe y nhắc đi nhắc lại hai tiếng ngà xím. Trong tiếng Quảng Đông, ngà xím là tăm.

"Trong khi uống cà-phê, nhà bác học ngồi đối diện Phạm Thiên đánh rơi muỗng xuống đất, Phạm Thiên vẫy bồi bàn tới và nói bằng tiếng Việt:

- Lấy cho cái thìa.

"Tôi hỏi bồi bàn là Phạm Thiên nói giọng Bắc hay giọng Nam thì y không nhớ...."

Ông Hoàng vặn tắt cát-sét, rồi chắp tay sau lưng, đi đi lại lại quanh phòng. Ngoại trừ tiếng máy điều hòa khí hậu chạy rè rè, trong phòng không còn âm thanh nào hết. Bỗng ông quay phắt lại, hỏi nữ bí thư Nguyên Hương :

-    Cô nghĩ sao về bữa cơm tại Mỹ cảnh ?

Nguyên Hương đáp, giọng tin tưởng :

-    Thưa, tôi có cảm tưởng rằng Phạm Thiện ngồi ăn tại nhà hàng Mỹ cảnh không phải là Phạm Thiên thật. Hắn sinh trưởng tại Long Xuyên, không lẽ lại nói tiếng Bắc. Người Nam gọi thìa là muỗng.

Ông Hoàng gật gù :

-    Đúng. Điều thứ hai, hắn quen với nếp sống Tây phương, ăn cơm xong không dùng tăm xĩa răng. Bà Thu Thu hỏi người chiêu đãi về giọng nói của Phạm Thiên thì được biết là y chỉ lơ lơ tiếng Quảng Đông. Trên thực tế, hắn thạo tiếng Quảng Đông như người Tàu.

-    Thưa ông, đến Sàigòn là Phạm Thiên giả ?

-    Không. Kẻ đến Sàigòn là Phạm Thiện bằng xương bằng thịt. Sự đánh tráo chỉ xảy ra trong bữa ăn. Phạm Thiên vào phòng tắm, hoặc bị lừa vào phòng tắm, bên trong có người đợi sẵn. Người lạ đeo mặt nạ, thay Phạm Thiên trở ra bàn ăn, còn Phạm Thiên thật thì trèo qua cửa sổ và nhảy xuống nước.

-    Vậy hắn đi đâu, thưa ông ?

-    Hội Đồng cảnh Giác Quốc Tế đã thuê ta cả chục triệu đô-la để tìm ra câu trả lời. Hiện nay tôi chưa biết hắn đi đâu. Nhà hàng Mỹ cảnh mới trang hoàng lại sơn bên ngoài chưa khô, bà Thu Thu nhận thấy dưới cửa sổ có dấu tay vịn để trèo xuống. Lấy đèn quang tuyến X và hồng ngoại tuyến chiếu vào thì chụp được vân ngón tay. Đem đối chiếu với hồ sơ thì đúng là vân ngón tay của Phạm Thiên. Có lẽ người nào đó đã lái xuồng đến dưới cửa sổ chờ hắn. Hắn khó thể đi đâu ngoại trừ đi đến chỗ hẹn với con gái.

-    Túy Vân ?

-    Phải. Túy Vân vẫn sinh sống ở Sàigòn. Nàng là vũ công nổi tiếng chuyên múa thoát y trong các hộp đêm thượng lưu. Đặc biệt là ở Maxim's và Eden Roc.

-    Vậy thì....

-    Cô đề nghị đến gặp Túy Vân phải không ? Nếu công việc giản dị như vậy thì đêm nay cô và tôi không cần thức.

-    Nghĩa là Túy Vân cũng biệt tích ?

-    Phải. Sau khi Phạm Thiên biến dạng thì nàng bỏ đi đâu, không ai biết. Muốn tìm kiếm nàng, thì ta phải mượn tay Uyên-sơn. Vì hắn là một trong những người đàn ông được Túy Vân tỏ cảm tình mật thiết. Nói cách khác, hắn là nhân tình của nàng. Trước khi nàng mất tích một ngày, người ta gặp nàng cặp kè với Uyên-sơn.

-    Thảo nào ông muốn Uyên-sơn trở lại Sàigòn !

-    Tôi hy vọng là địch trở tay không kịp. Vì nếu biết Uyên-sơn trở lại, địch sẽ không để yên. Hắn thường trọ tại đại lữ quán Continental. Cô điện thoại viên ban đêm ở Continental là nhân viên của sở. Giờ này có lẽ Uyên-sơn sắp đến Tân Sơn Nhứt. Cô gọi dây nói cho Continental xem Uyên-sơn có đánh điện báo tin chưa?

Nguyên Hương chưa kịp đáp thì chuông điện thoại đã reo lanh lãnh. Mặt ông Hoàng bỗng sáng lên. Ông áp ống nghe vào tai. Đầu kia là một giọng đàn bà :

-    Thưa hắn sắp tới bằng đường Hồng Kông.

Ông tổng giám đốc chỉ cần biết có thế. Nếu là chuyến bay từ cảng Thơm tới thì còn 45 phút nữa. ông Hoàng ra lệnh cho nữ bí thư Nguyên Hương :

-Đi.

Chuyến bay của hãng hàng không Air-France đáp xuống Tân Sơn Nhứt.

Mỗi lần dùng phi cơ, Uyên-sơn đều chọn Air-France. Chẳng phải vì y có cảm tình với nước Pháp Máy bay Air-France êm ái, sang trọng, an toàn thật đấy, nhưng từ nhiều năm nay, máy bay thương mãi của bất cứ công ty nào trên thế giới cũng êm ái, sang trọng và an toàn như nhau.

Y khoái Air-France vì thức ăn ngon. Y là người Anh, từ nhỏ chỉ biết nấu hai món : luộc hoặc chiên. Cá thịt không luộc thì chiên, không chiên thì luộc, người Anh chỉ biết đổ nước lạnh vào đun sôi sùng sục hoặc đổ mỡ vào chiên vàng rộm, thế thôi. Tuy chỉ cách nước Pháp một eo biển ngắn ngủi, Anh cát lợi khác nước Pháp về phương diện ẩm thực, và đứng bét về nghệ thuật phụng dưỡng thần khẩu.

Thế gian có ba sự khó chừa thì Uyên-sơn mê cả ba. Tửu, y không uống huýt-ky, dầu là huýt-ky hạng nhất của miền Bắc Anh quốc, mà là uống cỏ nhát và sâm-banh. "Dê béo" thì phải là món ăn nấu theo lối Pháp hoặc lối Tàu, còn "gái vừa đang tơ" thì phải là gái Á-đông hiền lành phục tòng, và đặc biệt là phải nhỏ nhắn và rắn chắc.

Trong thời gian phục vụ tại Sàigòn, y đã lưu lại khá nhiều kỷ niệm xác thịt. Lệnh thuyên chuyển đến quá đột ngột, y chỉ kịp xếp hành trang vào va-li rồi lên phi trường. Y đang nghĩ tại Hồng Kông thì nhận được lệnh trở lại Sàigòn.

Uyên-sơn mừng rơn như người trúng số độc đắc. Nói cho cùng, trúng số độc đắc, y cũng chưa sướng bằng. Vì y có cơ hội gặp lại người đẹp.

Không có gì buồn bằng trời mưa. Nhất là mưa đêm. Và nhất là mưa đêm ở một thành phố có lệnh giới nghiêm. Từ tối, người ta đã đóng cửa im ỉm. Trời mưa, người ta còn đóng cửa im ỉm hơn nữa.

Vậy mà tư trên phi cơ bước xuống, Uyên-sơn không nhìn thấy trời mưa. Cũng may là mưa đã thưa hột. Chứ còn nếu mưa tầm tã như hồi tối thì gã đàn ông đa tình đã ướt sũng như chuột lột.

Mãi đến khi nước mưa thấm vào cổ áo và chảy từng giọt trên da thịt Uyên-sơn mới dừng lại, lấy bàn tay vuốt mặt.

Hành khách đã tề tựu đông đủ trước ghi-sê quan thuế. Uyên-sơn là nhân viên trung cấp ngoại giao nên không được qua khu VIP dành cho các yếu nhân. Y từ Hồng Kông đến một cách vội vàng, tòa đại sứ Anh chưa kịp biết tin để tiếp đón, song dầu họ biết tin y tới, họ cũng chỉ phái một xe hơi có tài xế lên phi trường là cùng.

Uyên-sơn đặt cái va-li nhỏ xuống đất, rút khăn tay lau nước mưa. Y mới giã từ Sàigòn mà có cảm tưởng đã ra đi từ lâu lắm. Dưới mắt y, phi trường Tân Sơn Nhứt đã đổi khác. Nhân viên phi trường có vẻ ít nói hơn, đèn điện ban đêm có vẻ sáng hơn, âm thanh máy bay lên xuống có vẻ ồn hơn.

Đột nhiên, y đau nhói ở cuống tim. Dung mạo phi trường Tân Sơn Nhứt mờ dần, mờ dần, nhường chỗ cho dung mạo một người đàn bà, đúng hơn một cô gái Việt kiều diễm.

Nàng có cặp mắt, sống mũi, làn môi rất Tây phương, thoạt nhìn ai cũng tưởng nàng mang hai dòng máu trong người. Thân hình nàng còn Tây phương hơn nữa, vương tôn công tử của Sàigòn văn vật đều cho nàng là gái lai, vì phải lai ngoại quốc mới có được bờ vai thuôn tròn, nước da trắng như trứng gà bóc, suối tóc đen vàng óng ánh, cái mông tròn trịa, vòng eo nhỏ xíu và nhất là vòng ngực.... vòng ngực vĩ đại không dưới một trăm phân, thừa bản lãnh cạnh tranh với núi của các giai nhân quốc tế....

Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Đoàn Vũ Khỏa Thân - Người Thứ Tám Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Đoàn Vũ Khỏa Thân - Người Thứ Tám   Đoàn Vũ Khỏa Thân - Người Thứ Tám Icon_minitimeTue May 23, 2017 4:17 am

Đàn bà đẹp có bộ ngực một trăm phần không phải là vật dễ thấy, theo bản thống kê chính thức thì trong số một chục ngàn phụ nữ may ra mới tìm được là hội đủ điều kiện. Trong cơn lốc tiến bộ của những năm hậu chiến, con số giai nhân có bộ ngực một trăm phân ngày một gia tăng, tuy nhiên, họ không thể nào so sánh với nàng được, vì vật của nàng không bắt nguồn từ phòng giải phẩu thẩm mỹ, không dựa trên chất si-li-côn và lát-tích, mà hoàn toàn thiên nhiên, khiến nàng không phải cần đến các dụng cụ nhân tạo bằng cao su mút.

Từ khi bước chân vào đời, Uyên-sơn đã nhiều lần gặp gỡ. Song chưa thấy ai bằng nàng. Y cũng chưa thấy ai khó bằng nàng. Y là thanh niên khá khôi ngô, ăn diện đúng thời trang Ba Lê, cơ thể cân đối, bót phơi lại luôn luôn đầy ắp. Vậy mà nàng chỉ có cảm tình tha thiết chứ chưa hoàn toàn gắn bó với y....

Cho đến khi Uyên-sơn bị triệu hồi đột ngột về nước....

Xa y, nàng mới nhận thấy cuộc đời trống trải. Y cũng nhận thấy không thể sống xa nàng. Lần này, y sẽ trở lại Sàigòn. Y sẽ lấy nàng làm vợ. Nếu MI-6 không cho phép, y sẽ đệ đơn từ chức. Đối với tài xoay xở của y giữa một thị trấn quốc tế như Sàigòn, thì Uyên-sơn kiếm tiền không khó.

Nàng là Túy Vân, hoa khôi của Sàigòn hoa lệ... Uyên-sơn nhắc thầm trong miệng :

- Túy Vân.... Túy Vân....

Y là môn đệ trung thành của ánh đèn màu và sàn gỗ bóng loáng, nên không đêm nào là không có mặt tại những vũ trường danh tiếng. Kể ra, nhân viên sứ quán không được quyền rong chơi bừa bãi, nhưng y lại được quyền vì chức vụ ngoại giao chỉ là cái vỏ bề ngoài. Tấm thẻ nhân viên MI-6 như ngọn đĩa thần cho phép y được thụ hưởng theo sở thích.

Nhưng tình trạng khẩn trương đã dẫn đến lệnh đóng cửa vũ trường. Trong nhiều đêm liên tiệp, Uyên-sơn mất ngủ. Thường lệ, ba bốn giờ sáng y mới lên giường được. Các thú vui ban đêm bị ngăn chặn, phố xá đóng cửa từ trước giờ giới nghiêm, bắt buộc Uyên-sơn phải về phòng từ 10 giờ tối. Y mua hàng đống sách trinh thám để đọc hầu trám bít những giây, những phút buồn tênh, song những màn đấu võ kinh hồn trong tiểu thuyết vẫn không làm y quên được không khí ngạt mùi thuốc lá thơm của tiệm nhảy, những giai nhân hỏa diệm sơn được tác giả miêu tả chỉ là sản phẩm tưởng tượng càng khiến y nhớ đến người đẹp bắng xương bằng thịt quay cuồng trên sàn gỗ hơn bao giờ hết.

May thay, y đã tìm được một chân trời mới.

Vũ trường đóng cửa, một kỹ nghệ son phấn khác đã âm thầm xuất hiện. Và một đêm kia, Uyên-sơn được giới thiệu đến một câu lạc bộ đặc biệt dành riêng cho khách chơi ngoại quốc.

Uyên-sơn không thuộc hết đường phố Sàigòn, tuy nhiên nếu phải nhắm nghiền hai mắt ban đêm, y vẫn tìm ra tòa nhà ban phát lạc thú kia ở gần ngã tư Kỳ Đồng - Trương Minh Giảng, trong một khu vực phẳng lặng, gồm toàn biệt thự đồ sộ, sang trọng.

Bề ngoài, nó cũng giống như hàng chục, hàng trăm biệt thự thượng lưu khác, được xây cất theo kiến trúc tân tiến, với ba tầng lầu và nhiều phòng gắn máy điều hòa khí hậu, nhìn xuống cái sân rộng trồng toàn hoa lạ, có cả hòn giả sơn nước phun tung tóe theo điệu nhạc vui tai, lại có cả hầm rượu đắt tiền, và ở trên sân thượng một bể bơi nước luôn luôn trong xanh, phảng phất hương thảo mộc nữa...

Bên trong nó là một ổ thanh lâu quý phái. Mọi thú vui cầy kỳ trên trái đất đều có sẵn : nếu muốn, khách có thể bỏ tiền ra để trở thành "nhất dạ đế vương" bên cạnh những cung tần mỹ nữ phục sức bằng hàng mỏng nhất thế giới, hoặc ít ra khách cũng được thưởng thức những cuốn phim màu đặc biệt.

Và đặc biệt nhất là môn thoát y vũ.

Có được một vũ nữ thoát y đẹp và có chân dài đã là khó khăn ở một thị trấn luật lệ nghiêm khắc, vậy mà tòa nhà này lại cung cấp được cả một đoàn vũ nữ thoát y, phần đông là gái ngoại quốc du nhập hợp lệ hoặc lén lút vào Nam Việt.

Động đào này được tổ chức theo nguyên tắc bí mật tình báo. Muốn vào phải qua nhiều trạm kiểm soát. Tòa nhà rộng thênh thang trên thửa đất ba ngàn mét vuông được xây tường gạch cao hơn đầu người, bên trên được che kín bằng tôn lá, và bên trên tôn lá còn có kẽm gai nữa. Từ ngày Sàigòn có nhiều ngoại kiều ưa sống kín đáo và an ninh, những hàng rào bằng tôn uốn đã trở thành vật quen thuộc, cho nên dân chúng ở kế cận không lấy làm ngạc nhiên.

Vả lại, họ muốn tò mò cũng chẳng nhìn thấy hoặc nghe thấy được gì. Hàng rào tôn uốn không có một kẽ hở cỏn con nào để con mắt hiếu kỳ của người lạ có thể quan sát bên trong. Nếu ai đánh bạo lại gần thì đàn chó bẹt-giê thính hơi kinh khủng sẽ sủa vang. Một người gác sẽ ra ngoài, mời kẻ hiếu kỳ đi nơi khác. Còn nếu có ai có tài phi thân qua lớp kẽm gai tua tủa vào trong vườn thì phải đối phó với chó săn được huấn luyện để cắn nát cổ, tuy nhiên, bọn bẹt-giê nguy hiểm này còn chưa nguy hiểm bắng bọn đà điểu cao lêu nghêu có thể đè bẹp những khối thịt nặng trăm cân.

Mọi bức tường trong biệt thự đều được lót cao su hãm thanh nên tiếng động - kể cả tiếng đàn hát ồn ào - không thể lọt ra ngoài.

Hội viên "câu lạc bộ" có thẻ riêng, đánh số hẳn hoi, và thẻ mỗi tháng, đôi khi mỗi tuần, mỗi đồi. Khách vượt qua vọng gác cửa được dẫn vào phòng đợi, tại đó, người ta kiểm soát thẻ hội viên xong xuôi khách mới được tự do đột nhập động đào.

Uyên-sơn trở thành hội viên trung thành, và y đã tìm thấy trong câu lạc bộ này những thú vui tân kỳ mà cả những khu dạ lạc hữu danh trên thế giới như xóm Sôhô, Luân Đôn, xóm Mông-mác, Ba Lê, bến tàu Hăm-bua, Đức quốc, Peitou, Đài Loan, Đồng pha lan, Vạn Tượng.

Tuy nhiên, sự trung thành của Uyên-sơn còn bắt nguồn từ một nguyên nhân tình cảm khác.

Vì Túy Vân....

Vì trong những đêm miệt mài truy hoan y đã lọt được vào mắt xanh của đệ nhất vũ nữ thoát y Túy Vân....

Đêm nay, trở lại Sàigòn, Uyên-sơn hồi hộp như kẻ ly hương nhiều năm vừa được nhìn thấy đất mẹ.

Y đang nhẫn nha xách va-li ra ngoài hành lang phòng đợi thì đụng đầu một cô gái tuyệt đẹp.

Y khựng người trong giây phút, vốn là kẻ đắm say nữ sắc, Uyên-sơn không thể không bắt chuyện với nàng. Khuôn mặt trái soan, miệng cười hoa nở, cặp mắt đen láy, hàng mi cong vút của nàng chứng tỏ nàng là phụ nữ Việt, nhưng ngực nàng, eo nàng, mông nàng, và nhất là cặp giò thuôn dài trong bộ din bó chặt lại phản phất bản sắc nẩy nở và rắn chắc của giai nhân Tây phương.

Y còn bối rối, chưa tìm ra cách nhập đề thì người đẹp đã lên tiếng trước. Nếu y biết tên người đẹp là Nguyên Hương, bí thư trưởng của ông Hoàng, tổng giám đốc sở Mật Vụ Nam Việt thì y sẽ không mừng rỡ như trở cờ trong dạ nữa.

Tội nghiệp cho điệp viên MI-6 Uyên-sơn ! Y đã quen mặt các yếu nhân Mật Vụ song Nguyên Hương lại đeo mặt nạ bằng porotherme nên y tưởng nàng là người lạ.

Nguyên Hương chặn Uyên-sơn lại, giọng sỗ sàng :

- Ông là Uyên-sơn, nhân viên tòa đại sứ Anh quốc ?

Uyên-sơn giật mình :

- Vâng, tôi là phụ tá tùy viên thương mãi.

Nguyên Hương chỉ cánh cửa bên trái:

- Mời ông vào đây có chút vệc.

Giá Nguyên Hương là đàn ông, Uyên-sơn đã trố mắt hỏi lý do của sự triệu mời khó hiểu này. Song Nguyên Hương lại là đàn bà, và là đàn bà có khả năng hớp hồn đàn ông. Nên y tuân lệnh răm rắp.

Uyên-sơn ngoan ngoãn theo Nguyên Hương vào căn phòng, bên ngoài có tấm bảng nhỏ, viết chữ đỏ "quan thuế". sáu khi y bước vào, cửa phòng đóng lại thì bên ngoài, một thiếu nữ khác mặc đồng phục áo dài xanh đính con rồng vàng bằng chỉ thêu đã nhanh nhẹn gỡ tấm biển, cất vào cặp da xách nơi tay.

Uyên-sơn nhìn người đàn ông trung niên phục sức chải chuốt ngồi sau bàn buy-rô bằng cặp mắt khinh khỉnh. Đây là lần thứ nhất quan thuế chặn y lại ở phi trường. Y không vi phạm luật lệ quan thuế, vả lại, dầu y vi phạm nữa thì y cũng không ngại. Truyền thống ngoại giao quốc tế cho phép y mang ngoại tệ vào Sàigòn.

Người đàn ông trung niên ngẩng đầu lên bắt gặp tia mắt miệt thị của Uyên-sơn, rồi nói:

- Mời ông ngồi xuống.

Uyên-sơn cau mặt:

- Cám ơn, tôi đứng quen rồi. Đêm đã khuya, tôi cần về thành phố trước giờ giới nghiêm để kịp hẹn. ông cần gặp tôi có việc gì ?

- Việc riêng.

- Ông là nhân viên quan thuế ?

- Cũng gần như vậy. Phiền ông cho coi giấy tờ.

- Nhân viên quan thuế không có quyền xét chứng minh thư của nhân viên ngoại giao. Tôi sẽ....

- Vô ích, ông Uyên-sơn ạ. Thứ nhất, ông không phải là nhân viên được hưởng quy chế ngoại giao. Thứ hai, trong phòng này chỉ có ông và tôi. Nếu ông phản đối, bắt buộc tôi phải dùng biện pháp mạnh.

- Vậy ông cứ áp dụng biện pháp mạnh đi, tôi sẵn sàng thù tiếp, ông đừng quên là tôi có thể phản đối mạnh mẽ với chính phủ ông. Và ông sẽ mất chức và ra tòa.

- Đó là việc sau, ông muốn phản đối với ai tùy ý. Yêu cầu ông xuất trình giấy tờ... vì chúng tôi được mật báo ông là Uyên-sơn giả hiệu. Uyên-sơn thật sự đang ở Luân Đôn.

- Tưởng gì.... chứ nếu ông ngờ tôi là Uyên-sơn đội lốt thì tôi xin sẵn sàng xuất trình thông hành. Xin báo ông biết, ông là nhân viên an ninh hạng bét, trước khi tới đây, nếu ông liên lạc với sứ quán Anh quốc thì đã rõ tôi là Uyên-sơn thật sự trăm phần trăm, từ Hồng Kông đến.

Vừa nói, Uyên-sơn vừa ngồi xuống ghế. Y rút bót phơi đưa thông hành cho người đàn ông trung niên. Nguyên Hương đứng bên giật luôn cái bót phơi đầy ắp giấy tờ. Uyên-sơn phản đối:

- Ô kìa....

Nguyên Hương mỉm cười:

- Ông cũng phản đối cả tôi nữa sao?

Uyên-sơn nín thinh. Nguyên Hương đưa cái bót phơi cho người đàn ông trung niên. Người ấy đứng dậy, mở cửa sang phòng bên. Nguyên Hương lại gần Uyên-sơn, nhìn vào giữa mắt y, giọng ôn tồn nhưng chứa đựng đe dọa :

- Phiền ông đợi một lát. Chỉ một lát thôi.

Uyên-sơn chắt lưỡi:

- Vì cô nên tôi chịu ép một bề. Cô đừng tưởng tôi sợ.

Nguyên Hương cười:

- Tôi biết lắm.

Hơi thở thơm tho của nàng phà vào mũi Uyên-sơn. Y há miệng toan nói song lại ngậm tăm. Hơi thở giai nhân như có thuốc mê. Tim y đập thình thịch, y mọc vẩy ốc khắp người. Y muốn rướn lên, chạm bàn tay vào hai trái tuyết lê khiêu gợi của nàng song thân thể y bị dán chặt vào ghế. Nàng đủng đỉnh hỏi:

- Ông có lấy làm phật ý không ?

- Không.

Nàng nhún vai:

- Ông nghĩ rất đúng. Vào địa vị ông, tôi không những không phật ý mà còn giữ kín chuyện này nữa. Vì nói ra, ông sẽ gặp bất lợi... khá nhiều bất lợi.

- Hừ, cô hăm dọa tôi. Tôi đã nói hồi nãy rằng tôi không sợ. Lẽ ra tôi làm thinh, nhưng giờ đây tôi sẽ không làm thinh nữa. về đến khách sạn, tôi sẽ điện thoại cho bộ ngoại giao.

- Để làm gì, thưa ông Uyên-sơn ?

- Làm gì thì cô biết lấy.

Nguyên Hương nghiêm sắc mặt:

- Xin ông nhớ lại những việc ông đã làm tại Sàigòn. Nếu ông há miệng phản đối, chúng tôi sẽ tìm cách tống khứ ông về Luân Đôn. ông sẽ không được đoàn tụ với người yêu của ông ở đây nữa.

- Trời ơi, té ra...

- Chuyện riêng của ông, ai chẳng biết. Chúng tôi có đủ phương tiện để ngăn ông gặp lại Túy Vân.

Sau mấy phút đồng hồ bàng hoàng. Uyên-sơn đã lấy lại sự bình tĩnh của người nhân viên tình báo chuyên nghiệp. Y thách thức Nguyên Hương bằng cặp mắt tóe lửa :

- Vâng. Tôi xin bái phục cô đã khám phá ra mối tình thầm kín của tôi. Nhưng Sàigòn là đất tự do, người ngoại quốc yêu phụ nữ bản xứ không phải là một tội. Túy Vân là vũ nữ, nàng muốn yêu ai mà không được. Nàng lại chưa chồng, nàng có quyền lựa chọn bạn trăm năm. Còn tôi, tôi là trai chưa vợ....

- Ông chóng quên quá... ông quên người đàn bà chung sống với ông tại Luân Đôn rồi sao

?

Uyên-sơn lịm người như vừa nghe sét đánh ngang tai. Phải, trước ngày sang Sàigòn, y đã chung sống với một thiếu phụ trên căn bản "già nhân ngãi, non vợ chồng". Nàng là con hổ cái, khi ghen có thể xé xác y làm trăm mảnh. Y hứa hẹn trời biển với nàng nên nàng đinh ninh khi y trở về sẽ cưới nàng làm vợ. Nếu nàng phăng ra sự thật...

Tuy nhiên, ở Sàigòn xa Luân Đôn hàng vạn cây số. Y sẽ ở lì ở Sàigòn, không về nữa. Trên pháp lý, nàng chưa phải là vợ y. Nghĩ đoạn, Uyên-sơn cười nhạt:

- Cô định săng-ta tôi phải không ? Sự liên hệ của tôi với người đàn bà ở Luân Đôn chưa đủ để tôi phải nghe theo mệnh lệnh của cô. Bây giờ tôi đã biết cô là ai. Cô là nhân viên của ông Hoàng. Phiền cô về trình với ông Hoàng là Uyên-sơn không còn là điệp viên tập sự nữa, vả lại, trên nguyên tắc, MI-6 là đồng minh của sở Mật Vụ....

- Ông biện hộ giỏi lắm. Nhưng ông Uyên-sơn ơi, ông còn quên nhiều việc khác nữa. ông có quyền phụ bạc người yêu của ông ở Luân Đôn, song ông không có quyền vi phạm luật lệ nước tôi.

- Vi phạm luật lệ? Tôi có cảm tưởng là cô đang mê ngủ.

- Thưa ông, trong cơn mê ngủ, tôi đã nhìn thấy một thiếu nữ Việt làm thư ký đánh máy đang viết đơn khiếu nại về vụ một ông phụ tá tùy viên thương mãi xâm phạm tiết hạnh....

- Gớm thật... cái gì ông Hoàng cũng biết. Vâng, tôi thú nhận là có đi lại với nàng. Tuy nhiên... tôi đã điều đình và nàng đã chấp thuận điều kiện do tôi đưa ra. Trước ngày tôi về nước, nàng đã rút đơn thưa kiện...

- Ông lầm rồi. Nàng đang nhờ luật sư đưa nội vụ ra tòa.

Uyên-sơn toát mồ hôi. Chung quy cũng vì bệnh hảo ngọt mà ra... Cô gái trong cuộc là thư ký đánh máy trong sứ quán. Y dại dột dính chùm với nàng, và rốt cuộc nàng bắt y phải gánh chịu hậu quả. Một hậu quả mỗi ngày một lớn.... Cái bào thai trong bụng nàng....

Uyên-sơn ngước nhìn Nguyên Hương, vẻ mặt lo lắng. Y biết là sở Mật Vụ Nam Việt vừa xô y vào "ổ phục kích". Tự điển điệp báo có một danh từ bóng bẩy, "ổ phục kích", mô tả tình trạng điệp viên bị một cơ quan thù hay bạn xập bẫy để săng-ta.

Là nhân viên MI-6, tổ chức điệp báo nổi tiếng trên thế giới về nghệ thuật "phản phục kích", Uyên-sơn đã học một khóa huấn luyện đặc biệt. Trong thời gian ba tuần lễ, các giảng viên đã dạy Uyên-sơn mọi cách để chống lại các cám dỗ và thủ đoạn. Phó tổng giám đốc MI-6 từng dặn dò Uyên-sơn trước ngày y xuất ngoại:

- Các bạn phải tuyệt đối thận trọng để khỏi rơi vào ổ phục kích. Smerch, GRU và Quốc Tế Tình Báo sở có một đạo binh phụ nữ kiều diễm và dễ dãi chuyên mồi chài nhân viên ngoại giao tây phương. Vì vậy, nhất cử nhất động mà các bạn nghi ngờ phải được báo cho thượng cấp biết kịp thời, hầu để chuẩn bị đối phó. Các bạn cũng nên nhớ là không riêng gì địch phục kích ta. Ngay cả các cơ quan điệp báo của thế giới tự do đã có sự hợp tác khá mật thiết cũng chưa có ai hoàn toàn thành thật với ai. về phương diện quyền lợi, mỗi quốc gia có quyền lợi riêng, chẳng hạn Anh quốc công nhận ngoại giao các chế độ cộng sản như Trung Hoa thì Hoa Kỳ chống lại, do đó, MI-6 hợp tác với C.I.A. nhưng không cho C.I.A. biết hết những bí mật ở Hoa Lục.

Nếu chẳng may các bạn đề phòng mà vẫn rơi vào ổ phục kích - đặc biệt là ổ phục kích của đồng minh - thì thượng sách là giả vờ nghe theo rồi liệu thời cơ phúc trình về trung ương. Trong quá khứ, một phái viên MI-6 hoạt động tại Hông Kông bị rơi vào ổ phục kích của C.I.A. và C.I.A. lợi dụng kế mỹ nhân buộc phái viên này cung cấp cho họ một số tài liệu liên quan đến chính thể cộng sản Bắc Kinh. Phái viên MI-6 giả vờ thỏa thuận rồi bí mật báo về Luân Đôn. Trung ương MI-6 bố trí "phản phục kích" nhân viên C.I.Ạ. tại Hồng Kông bằng cách lén lút chụp hình và ghi âm buổi trao tài liệu, rồi thông báo cho trung ương C.I.A. biết, rốt cuộc, C.I.A. phải triệu hồi nhân viên của họ về để cảnh cáo mặc dầu nhân viên này phục vụ hoàn toàn theo lệnh trên, đồng thời C.I.A. phải hủy bỏ kế hoạch săng-ta đã định.

Lời nói của viên phó giám đốc MI-6 kêu vang trong óc Uyên-sơn như âm thanh của cuộn băng nhựa. Y bèn tương kế tựu kế, giả vờ gật đầu.

Song Nguyên Hương đã nhếch mép cười:

- Tôi cần nói rõ là chiến thuật giả vờ của ông chỉ làm hại cho ông thôi, ông nên thành thật, đừng mong phúc trình về Luân Đôn.

- Cô đã hiểu lầm....

- Vâng, tôi hy vọng là đã hiểu lầm.... Nhưng ông Uyên-sơn ơi, tôi đọc thấy ý nghĩ của ông trong cặp mắt. Chúng tôi đã bố trí chặt chẽ : trong trường hợp ông giở thủ đoạn hàng hai, chúng tôi sẽ tóm ông và lôi ông ra tòa án quân sự về tội ăn cắp tài liệu quốc phòng.

- Bịa đặt.... láo khoét....

Nguyên Hương nghiêm mặt:

- Chúng tôi đã chụp hình và ghi âm đầy đủ. Cô thư ký trong sứ quán mà ông yêu thương tha thiết lại là nhân viên của ông Hoàng. Theo lệnh ông Hoàng, nàng đã xô ông vào "ổ phục kích". Nàng cung cấp những tấm hình chụp yếu nhân của sở Mật Vụ để ông bán cho bảo tàng viện Tút-sô. Một số tài liệu ông mang về cho MI-6 cũng do chúng tôi đưa cho nàng.... ông thua sát ván rồi... ông Uyên-sơn ơi, ở vào hoàn cảnh ông, tôi sẽ hợp tác chặt chẽ với sở Mật Vụ. Ông sẽ được ở lại Sàigòn, du hí với người yêu, ông sẽ lãnh lương tháng nhiều gấp đôi lương MI-6. Thế nào, ông đã suy nghĩ xong chưa?

Uyên-sơn thở dài, tiếng thở dài não nùng như gã viên chức máu mê cờ bạc vừa nướng hết tiền quỹ trong sòng ru- lét:

- Vâng, tôi cũng chẳng còn con đường nào khác nữa. Tuy nhiên, tôi chỉ có thể nhận lời dứt khoát, sau khi....

Nguyên Hương cắt ngang :

- Điều kiện chấp thuận.

Giọng nói của nàng có vẻ đàn chị, dõng dạc và sang sảng. Dường như nàng cố ý cắt ngang lời nói của gã đàn ông với mục đích gieo vào đầu y mặc cảm tự ti. Uyên-sơn há miệng toan tiếp lời thì một lần nữa, Nguyên Hương lại cúp :

- Yêu cầu ông đứng dậy.

Vẻ mặt Uyên-sơn ngơ ngác :

- Đứng dậy... đứng dậy để làm gì hả cô ?

Nguyên Hương gắt:

- Từ phút này trở đi, ông không được phép đặt câu hỏi nữa. Mà chỉ được phép tuân lệnh. Từ phút này trở đi, ông là nhân viên của sở Mật Vụ Nam Việt, và là thuộc cấp của tôi.

Uyên-sơn nhìn nàng bằng cặp mắt chăm chú :

- Nhưng... cô là ai ?

Nguyên Hương đáp :

- Là ai, ông không cần biết. Nào, tôi đã ra lệnh cho ông đứng dậy, tại sao ông lại ngồi xuống ?

Uyên-sơn lại thở dài:

- Vâng, tôi xin ngồi xuống. Nhưng cô bắt tôi ngồi xuống để làm gì ?

- Ông Uyên-sơn, ông dễ mất tinh thần quá. Tôi không hề yêu cầu ông ngồi xuống...

- À, vâng.... xin lỗi cô, tôi quên. Cô yêu cầu tôi đứng dậy. Tôi thường lẩm cẩm như vậy.

- Làm việc dưới quyền ông Hoàng, ông còn lẩm cẩm nữa thì có ngày mất mạng. Bây giờ ông đứng lên. Đứng lên để nghênh tiếp ông tổng giám đốc.

- Ông Hoàng ?

- Phải, ông Hoàng, thượng cấp trực tiếp của ông kể từ phút này.

Có tiếng giầy da đế cao su kêu lẹt xẹt ở phòng bên, tiến lại gần cửa.

Rồi một người đàn ông nhỏ thó, già nua hiện ra giữa khung gỗ. Người đàn ông này là ông Hoàng. Khuôn mặt cao su porotherme đã được tháo gỡ, ông tổng giám đốc trầm ngâm nhìn Uyên-sơn qua cặp kiếng cận thị dày cộm. Trên tay ông có cái bót phơi đựng giấy tờ của Uyên-sơn. Y giơ bàn tay trước ngực như sợ ông Hoàng biến thành mũi dao nhọn đậm vào tim y, giọng lo sợ :

- Thưa... người đàn ông trung niên hồi nãy.

Y định nói thêm "là ông..." song cuống họng bị chặn nghẹt vì cảm xúc quá độ. Y sực nhớ đến bộ âu phục chải chuốt : vai thuôn, rờ-ve nhỏ xíu, cổ sơ-mi nhọn, cà-vạt màu vàng nhạt - màu thời trang trong năm của thủ đô Ba Lê - gốc mù-soa trắng nhô khỏi túi áo vét-tông, giày mũi vuông.... lối trưng diện ấy, khuôn mặt ấy, giọng nói ấy, dáng điệu ấy chỉ có thể là của người 45, 50 tuổi là cùng. Y không biết tuổi thật của ông tổng giám đốc sở Mật Vụ Nam Việt, nhưng theo lời ông tổng giám đốc MI-6 thì ông Hoàng khó thể dưới 65 hoặc 60 tuổi....

Vậy mà kỹ thuật cải trang với nhựa dẽo porotherme đã hoàn toàn biến đổi ông thành người trẻ, với ba bốn chục tuổi lùi về quá khứ... Uyên-sơn bất giác rùng mình. Y đã nghe nói nhiều về tài ba xuất quỷ nhập thần của ông Hoàng. Giờ đây y mới thấy đúng, ông Hoàng chỉ cần 5 phút đồng hồ để cải đồng hoàn lão hoặc cải lão hoàn đồng.

Thói thường, những người có bộ mã đồ sộ, bắp thịt nồi cuồn cuộn, cổ to như cột nhà, mới làm cho thiên hạ ngán sợ. Nhưng với ông Hoàng, tình trạng trái ngược đã xảy ra. Thân hình ông ốm nhom, ông lại thấp lùn, tay chân ngắn ngủn, ngực lép như đồng hồ Oméga, đôi mắt kèm nhèm vì cận thị quá nặng, cử chỉ chậm chạp lừng khừng, vậy mà ai gặp ông, đối thoại với ông đều phải rụt rè, kính nể.

Vì đôi mắt đeo kiếng cận thị dày cộm ấy lại ngầm chứa một mãnh lực dị thường. Khi ông nhìn ai, một luồng nhỡn tuyến vô hình tỏa ra bao trùm lấy, như thể mẹ ấp con. Nhiều khi luồng nhỡn tuyến vô hình ấy lại lóe sáng như có chất thép. Giọng nói của ông thường ngày rời rạc, buồn tẻ, có thể trở nên rắn rỏi, sang sảng như giọng nói của viên tướng trẻ điều binh ngoài mặt trận.

Uyên-sơn rùng mình như lên cơn sốt rét. Y khép nép lên tiếng :

- Kính chào ông.

Ông Hoàng trả lại cái bót phơi cho Uyên-sơn :

- Ông đừng phiền nhé. Trước khi gia nhập ngành điệp báo, ai cũng phài trải qua những phút bực mình như vậy. Vì ông có liên hệ gia đình với ông tổng giám đốc M1-6 nên được nhận thẳng vào tổ chức. Ngày xưa, khi tôi đầu quân cho o.s.s. người ta còn lục vấn tôi từ sáng đến tối nữa kia. Từ nay, chúng ta là bạn. Nếu ông thành thật, và luôn luôn cố gắng, tôi sẽ đặc biệt nâng đỡ ông.

- Thưa ông... tôi sẽ làm những gì ?

Ông Hoàng nhún vai:

- Ô, chẳng có gì là khó khăn cả. Tôi sẽ cho ông biết sau. Bây giờ ông cần nghỉ ngơi một vài ngày cho lại sức. Tôi cũng không gấp đâu. À, ông nên bỏ cái này vào túi....

Ông Hoàng ấn vào tay Uyên-sơn một cái gói giấy báo to bằng nửa hộp bích quy. Y biết ngay là giấy bạc. Bạc 500 đồng xếp cao như vậy có thể là một triệu trở lên. Với một triệu bạc, Uyên-sơn tha hồ phè phởn. Y rụt tay lại, giọng tần ngần :

- Thưa ông, tôi không dám nhận.

Ông Hoàng vỗ vai y :

- Ông cứ nhận đi. Đây mới là một triệu rưởi. Khi nào tiêu hết, ông cứ điện thoại cho tôi biết.

Trọng khi đưa gói bạc cho Uyên-sơn, ông Hoàng hất nhằm cái bót phơi đang nằm trên bàn,. Cái ví da căng phồng rớt xuống đất, giấy tờ và tiền bạc bắn tung tóe.

Uyên-sơn cúi xuống nhặt, ông Hoàng cũng cúi xuống nhặt giùm. Gã nhân viên MI-6 quay lưng lại nên không thể nhìn thấy nụ cười bí hiểm trên môi ông tổng giám đốc sở Mật Vụ Nam Việt. Y tưởng cái bót phơi bị rớt vì ông Hoàng có cử chỉ vụng về. ông đã có ý vụng về để một tờ đô-la xanh 5 đồng - đúng hơn phân nửa tờ đô-la - rơi ra ngoài.

Và ông cúi xuống chỉ để lượm mảnh giấy bạc cắt đôi ấy. Tờ đô-la được cắt bằng kéo bén thành một đường tréo ngoẳn ngoèo. Trong thế chiến thứ hai, các điệp viên tây phương nghĩ ra kỹ thuật tiếp xúc với nhau bằng cách cắt đôi tờ giấy bạc theo một kiểu riêng, mỗi người giữ một nửa, gặp nhau rập hai mảnh lại, nếu khít là đúng. Kỹ thuật giản dị này đã được giới ma-cô quốc tế bắt chước, nhất là ở các xóm đĩ điếm Đông Kinh, Ba Lê, Hăm Bua khi họ dẫn khách xộp vào những ồ nhện kín đáo đắt tiền....

Ông Hoàng cầm mảnh giấy bạc lên quan sát. Mặt Uyên-sơn bỗng ửng đỏ. ông Hoàng không hỏi y nhưng y cảm thấy có bổn phận phải trả lời. Dầu sao y cũng đã nhận tiền của sở Mật Vụ Nam Việt. Y bèn cất tiếng :

- Thưa ông... đây là mật hiệu liên lạc để vào câu lạc bộ Ngũ Nhật Hội ở đường Yên Đỗ...

Ông Hoàng giả vờ lãng tai, khiến Uyên-sơn phải lập lại lần nữa, mặt y đỏ lại thêm đỏ. Cái được y gọi là câu lạc bộ Ngũ Nhật Hội thật ra là một trong những tổ quỷ quốc tế. Y là khách chơi nhẵn mặt, vậy mà không hiểu sao trước mặt Nguyên Hương y lại cảm thấy xấu hỗ.

Ông tổng giám đốc sở Mật Vụ cũng không lạ gì câu lạc bộ Ngũ Nhật Hội. Tại nước Hy-lạp cổ xưa, phụ nữ thường tổ chức một cuộc lễ hàng năm kéo dài trong 5 ngày (tức là ngũ nhật), mệnh danh là liên hoan Thesmophoria để tưởng nhớ hai nữ thần ân ái, Persephone và Demeler. Tập tục kỳ lạ này lan rộng ra ngoài biên giới Hy-lạp với vùng Hắc Hải và cả tới Trung và Cận Đông nữa.

Trước hội lễ 9 ngày, phụ nữ phải hoàn toàn chay tịnh về ân ái. Mục đích của sự chay tịnh này là để sửa soạn cho những cuộc ái ân cuồng loạn trong Ngũ Nhật Hội.

Ông Hoàng bỏ nửa tờ đô-la vào túi trên của Uyên-sơn rồi chắc lưỡi:

- Có, tôi biết. Tôi đã nghe báo cáo về câu lạc bộ Ngũ Nhật Hội. Tuy nhiên, việc đối phó không thuộc thẩm quyền của Sở tôi. Vả lại, tổ chức những cuộc vui kín đáo cho một số người được lựa chọn đâu phải là phi pháp, phải không ông ? Chúng ta là con người, và con người phải sống, phải yêu, cho nên tôi rất thông cảm đối với sự du hí của các cộng sự viên. Ông đừng ngại... Thôi, đêm đã khuya, ông phải ra xe ngay mới kịp.

Như người mất hồn, Uyên-sơn cúi xuống xách va-li. ông Hoàng ung dung hút xì-gà, nhìn gã nhân viên MI-6 mất hút trong bóng đêm của phi cảng Tân Sơn Nhứt.

Chú thích:

1. Tác giả đã đề cập đến khuôn mặt giả này trong tác phẩm "Mèo Xiêm Cọp Thái" đã xuất bản, vô-lăng bằng chất POROTHERME hiện được bán tại Sàigòn. Bạn đọc cũng có thể thấy khuôn mặt giả trong phim truyền hình Mission impossible ở Sàigòn.

2. Kiểu xe z.28 được triển lãm tại Nữu Ước mùa thu năm 1967, và bắt đầu được sản xuất năm 1968. Hình xe Camaro z.28, được in trong cuốn sách này.

3. Xin đọc Mèo Xiêm Cọp Thái đã phát hành.
Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Đoàn Vũ Khỏa Thân - Người Thứ Tám Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Đoàn Vũ Khỏa Thân - Người Thứ Tám   Đoàn Vũ Khỏa Thân - Người Thứ Tám Icon_minitimeTue May 23, 2017 4:18 am

Người Thứ 8
Đoàn Vũ Khỏa Thân
Chương 5
Thanh toán


Gần nửa đêm, Uyên-sơn về đến khách sạn. Vì còn độc thân, y không ở nhà riêng như các nhân viên khác trong sứ quán, vả lại, y có cảm tình đặc biệt với đại lộ Tự Do, nhất là về buổi chiều và ban đêm cuối tuần, hoặc những ngày đầu tháng.

Tuy là người ngoại quốc, Uyên-sơn đã nhìn thấy trên đường Tự Do nhiều điều mà người Việt không có cơ hội nhìn thấy. Y gặp gỡ nhiều lần đến nỗi quen mặt, và quen cả cách phục sức của những người sống bằng nghề đổi tiền chợ đen, hoạt động trong cửa tiệm đàng hoàng, phía sau tủ kiếng đựng sách báo hoặc đồ bách hóa, hoặc lưu động trên vĩa hè, trong các snack-bar, trong đường hẻm Eden và đường hẻm của một hãng sơn mài mỹ thuật.

Trời mưa - đặc biệt là những buổi nhá nhem trời mưa lất phất - Uyên-sơn nhớ nhất những người đàn bà thuộc đủ lứa tuồi, trung niên có, trẻ măng có, ăn mặc lõa lồ có, đoan trang có, đi đi lại lại như đèn cù chặn ngang khách lại và hỏi thăm xuồng xã như thể bạn thân, kèm theo đề nghị mua bán ái tình....

Trước kia, Uyên-sơn là thân chủ thường trực của... đường Tự Do. Nhưng từ ngày gặp Túy Vân, thưởng thức những lạc thú thần tiên trong câu lạc bộ Ngũ Nhật Hội, y đã trở thành người đàn ông chưa vợ gương mẫu, rảo bước bưng tai trước những lời mời mọc và cử chỉ níu kéo tha thiết.

Đêm nay, bước vào thang máy lên phòng ở lầu ba lữ quán Đại Lục, Uyên-sơn cũng vội vã một cách khác thường. Nhưng y lên phòng không phải để rửa mặt, thay quần áo, và sửa soạn lên giường kéo một giấc ngủ đền bù. Sau khi cất va-li vào tủ, y mở hé cửa ra bao lơn, nhìn xuống công trường đối diện. Giờ đây, ngoài những nhân viên an ninh và khách chơi đêm, đường Tự Do không còn ai.

Uyên-sơn nhìn đồng hồ. Mới gần 11 giờ. Còn một giờ nữa mới đến giờ giới nghiêm. Y tắt đèn trong phòng, rón rén ló đầu ra ngoài hành lang. Một du khách say bí tỉ đang loay hoay với cái chìa khóa cửa. Thang máy đã xuống tầng dưới. Y bèn tiến lại cầu thang bê-tông.

Mưa đã tạnh. Gió mát từ bờ sông thổi lên khiến Uyên-sơn thoải mái. Y bước qua đường giữa lúc một chiếc xe hơi du lịch bất chấp đèn hiệu giao thông phóng vèo vèo. Chậm một li nữa là Uyên-sơn đã bị nghiến chết. Y rút mù-xoa ra lau mồ hôi lạnh trên trán, buông một tiếng chửi rủa vu vơ rồi men lề đường đến gần nhà hàng Pagode.

Y quẹo trái, đến trước cửa văn phòng công ty hàng không Việt Nam thì cúi xuống, buộc lại dây giầy. Sự thật là y dùng giầy đóng theo lối Mỹ, không cột dây, mà được khép chặt bằng giây thun cao su. sở dĩ y cúi xuống là để có thể nhìn qua hai ống quần để quan sát phía sau.

Trống ngực Uyên-sơn đập thình thịch. Y là điệp viên MI-6, được huấn luyện thành thạo, nên không lạ gì các kỹ thuật được áp dụng của sở Mật Vụ. Chắc chắn ông Hoàng đã ra lệnh cho nhân viên thân tín theo dõi y từng giờ, từng phút, ngay sau khi y rời trường bay Tân Sơn Nhứt.

Phía sau, y không thấy bóng dáng nào khả nghi. Y hơi chột dạ vì một thiếu phụ thoang thoảng mùi nước hoa đắt tiền rựợt theo. Thiếu phụ này là nhân viên của ông Hoàng chăng ? Nàng vượt qua chỗ y đang cúi xuống, dừng lại rồi nói bằng tiếng Anh bập bẹ :

-    Chào anh.

Uyên-sơn giật mình đứng dậy :

-    Không dám. Chào cô.

Thiếu phụ nắm tay y, giọng thân mật:

-    Anh đi với em nhé ?

Uyên-sơn thở phào ra. Té ra thiếu phụ là đệ tử của thần mày trắng. Y tự phụ quen hết các khuôn mặt trên đường Tự Do vậy mà thiếu phụ đang áp ngực vào vai y vẫn làm y rợn tóc gáy.

Y hất nàng ra, rồi nói giọng dấm dẳn :

-    Cám ơn. Tôi không quen cô.

-    Cần gì phải quen nhau, hả anh ? Em chỉ cần anh bằng lòng là được. Trông em có sạch nước cản không anh ?

-    Yêu cầu cô tránh ra cho tôi đi. Nếu không bắt buộc tôi phải kêu cảnh sát.

Thiếu phụ trố mắt nhìn y. Có lẽ lần đầu nàng sửng sốt khi thấy một người đàn ông ngoại quốc đẹp trai đi một mình ban đêm đe dọa tố cáo với nhân viên an ninh. Thiếu phụ hừ một tiếng rồi đi thẳng.

Hú vía ! Uyên-sơn vòng trở lại đường Tự Do, cúi xuống buộc dây giầy lần nữa, trước khi xô cửa một quán rượu còn sáng đèn bên trong. Y gạt bọn gái lõa lồ sang bên, kiếm ghế trống trong góc, ngồi xuống gọi whuýt-ky. Nhưng y chỉ gọi rượu mà không uống. Y xĩa tiền trên bàn, rồi lẳng lặng tiến lại máy điện thoại.

Đêm nay Uyên-sơn cần gọi điện thoại. Y không dám dùng điện thoại ở lữ quán vì sợ nhân viên của ông Hoàng nghe lọt. Một niềm lo sợ vô biên tràn ngập tâm hồn gã nhân viên MI-6. Y bỗng cảm thấy lạc lõng và cô đơn. ông Hoàng có tai, có mắt khắp nơi, nếu ông Hoàng biết được hoạt động thật sự của y....

Y lẩm bẩm một mình :

-    Trời đất! Đúng là lão già Hoàng đã biết. Nếu vậy thì nguy. Mình phải liên lạc ngay mới kịp    

Cô gái giữ két che miệng ngáp bằng bàn tay đeo đầy nhẫn kim cương giả và vàng tây. Nàng không để ý đến Uyên- sơn .Y nhấc máy điện thoại, áp vào tai, hối hả quay số. Ban đêm, tiếng chuông reo ròn rã, tưởng như có thể đánh thức người chết dưới mồ. Uyên-sơn nhột nhạt ở xương sống : đêm nay, nếu y hớ hênh và vụng về, y sẽ mất mạng.

Y sẽ phải nằm trong lòng đất lạnh lẽo cho đến ngày xương thịt rã rời.

Uyên-sơn mừng rú như bắt được của. Đầu dây vừa có tiếng "alô, tôi nghe đây" quen thuộc. Y nói nhanh :

-    Rạp chiếu bóng Đại Nam đây. Tôi muốn hầu chuyện ông phó giám đốc.

Trong máy có tiếng đàn ông đáp :

-    Ông phó giám đốc đi Vũng Tàu vắng. Tuần sau mời ông kêu lại.

Giọng nói trong máy bỗng trở nên hách dịch, như thể quan lớn truyền lệnh cho chốt đen :

-    Uyên-sơn phải không ?

Uyên-sơn rụt rè :

-    Vâng, tôi đây.

-    Tới khi nào ?

-    Thưa, mới tới xong.

-    Tôi đã dặn anh chờ tôi ở lữ quán, trong vòng 24 giờ nữa sẽ tiếp xúc, tại sao anh lại gọi điện thoại trực tiếp như vậy ? Anh có biết như vậy là vi phạm nguyên tắc an ninh tối thượng không ?

-    Thưa... tôi biết. Nhưng tôi không thể nào chờ 24 giờ đồng hồ. Tôi phải gặp ông ngay bây giờ.

-    Lộ rồi hả ?

-    Vâng, lộ rồi. Lão Hoàng vừa chặn tôi lại ở phi trường Tân Sơn Nhứt. Yêu cầu ông đề phòng.

-    Ha ha, anh định dạy khôn tôi nữa ư ? Anh đang ở đâu ?

-    Trong một snack-bar đường Tự Do.

-    Đúng 15 phút nữa, tôi sẽ đến góc đường Nguyễn Thiệp, đối diện tòa nhà mới cất của hãng National. Anh biết chỗ chưa ?

-    Biết. Ông vẫn lái chiếc xe đua thường lệ chứ ?

-    Không. Lần này tôi đi chiếc Fiat 1500L sơn đen, đeo bảng số El... có tài xế. Tôi ngồi băng sau. Anh sẽ lộn lên lộn xuống nhiều vòng trên đường Tự Do, khi nào chắc chắn không bị theo mới được phép ra đường Nguyễn Tiệp gặp tôi. Tôi sẽ chờ anh đúng 3 phút. Nếu không thấy anh, tôi sẽ quay lại đúng 30 phút sau. Anh nhớ chưa?

Người đàn ông có giọng nói kẻ cả đã cắt điện đàm. Uyên-sơn gác máy, tâm thần bâng khuâng. Y ngoảnh sang quầy két. Cô gái giữ két vẫn tiếp tục che miệng ngáp. Từ nảy đến giờ nàng ngáp liên hồi. Thoạt đầu nàng còn che miệng, bây giờ thì nàng ngáp tự do. Miệng nàng há rộng như miệng cá ngão, bên trong đầy răng vàng. Uyên-sơn không dám nhìn sâu hơn vào miệng nàng. Lưỡi và nướu nàng xám xịt, chứng tỏ nàng là đệ tử của ả phù dung. Nàng ngáp muốn trẹo quai hàm có lẽ vì nhớ thuốc. Nhưng cũng có lẽ vì đêm qua không ngủ. Quan sát khuôn mặt bự phấn trắng và khóe mắt bị răn trước tuổi của nàng, Uyên-sơn biết nàng đã đa mang nghề khác, ngoài nghề thâu tiền. Trước kia, đồng bệnh tương lân, y thường cất tiếng mời mọc. Nhưng đêm nay, y không dám nghĩ đến nữa.

Y chỉ nghĩ đến cái hẹn sắp xảy ra ở đường Nguyễn Thiệp. Không phải lần đầu y hoạt động hàng hai, song đây là lần đầu y sợ. Nhà hàng Bờrôđa tắt đèn nên con đường Nguyễn Thiệp chìm trong cảnh tranh tối tranh sáng. Vậy mà Uyên-sơn lại thấy ánh sáng chói lòa. Còn chói lòa hơn giữa trưa đầy nắng nữa.

Y có cảm giác như hàng chục, hàng trăm cặp mắt tò mò đang cắm vào lưng y, bám sát từng bước một của y. Và trong những cặp mắt tinh quái này có nhân viên của ông Hoàng....

Hốt hoảng, Uyên-sơn quay lại. Phía sau chỉ có một gã ngoại kiều say khướt mồng tơi đang dựa vào vai cô gái ăn sương, thân hình gầy nhom như cả tháng chưa được ăn cơm. Những chiếc xe cuối cùng trước giờ giới nghiêm phóng nhanh trên đường nhựa láng bóng. Đám người đi xe hai bánh rước khách chơi ngoại kiều cũng đã rồ máy.

Uyên-sơn liếc nhìn cổ tay. Còn đúng một phút nữa đến giờ gặp gỡ. Trên môi y, một nụ cười khoái trá vừa nở. Trừ phi nhân viên của ông Hoàng là con muỗi, y mới không nhìn thấy.

Sự tin tưởng trong lòng Uyên-sơn, y không còn lo lắng và sợ hãi như trước đó 5 phút. Qua tiệm bán đồ thêu trước khi đến góc đường. Uyên-sơn dừng lại. Dáng điệu khoan thai, y cho tay vào túi lấy thuốc lá, từ từ cắm một điếu vào miệng, và che bàn tay để châm lửa.

Y ngửa cổ thở khói lên trời giữa lúc chiếc Fiat sơn đen cao lêu nghêu từ đường Tự Do rà rà tới. Xe đảo nhẹ vào lề trái, cửa sau được mở ra, và nhanh như tên trộm, Uyên-sơn nhảy vọt lên.

Tài xế lái ra đại lộNguyễn Huệ, quẹo tay phải lên phía Bắc thành phố.

Ngồi sẵn ở băng sau là một gã đàn ông trên 40 đeo kiếng đen, kiểu kiếng đồ sộ dành cho người đi mô-tô, mặc áo ngắn tay mông-ta-gu và quần màu sẫm. Uyên-sơn chưa ngồi yên vị thì hắn đã hỏi:

-    Kiểm soát phía sau đàng hoàng chưa ?

Uyên-sơn đáp :

-    Rồi.

-    Kể lại vụ Tân Sơn Nhứt cho tôi nghe.

-    Vâng.... Câu truyện hơi dài, phải mất 10 phút tôi mới kết thúc được. Sau đó tôi còn phải trở lại khách sạn. Tôi sợ....

-    Giờ giới nghiêm phải không ? Xe tôi có giấy phép riêng, đi đến sáng cũng được, vả lại, lát nữa anh sẽ gặp nàng và ở lại đêm.

-    Nàng đang chờ tôi ở câu lạc bộ ?

-    Im cái mồm, có xe lạ phía sau.

Uyện-sơn nghiêng người, nhìn qua kiếng sau. Đại lộ Hai Bà Trưng rộng thênh thang và vắng tanh nên y thấy rõ chiếc Pontiac kiểu mới tắt đèn chạy sau gần 50 thước. Uyên-sơn vội ra lệnh cho tài xế :

-    Quẹo sang bên phải.

Tài xế gằn giọng :

-    Anh sống đã lâu ở Sàigòn mà không biết đường Phan Đình Phùng chạy một chiều hay sao ? Quẹo bên phải để nghe cảnh sát thổi còi tu-huýt bắt dừng lại ấy à ?

Gã đàn ông mặc mông-ta-gu vẫn lặng lẽ quan sát phía sau. Chiếc Pontiac rẽ trái xuống Phan Đình Phùng. Hắn nhún vai:

-    Cứ theo lộ trình cũ. Mấy phút nữa, mình sẽ biết là họ có theo hay không. Dầu họ theo nữa cũng chẳng ăn thua gì. Trừ phi họ có đôi tai thần mới nghe được tiếng nói trên xe.... Uyên-sơn, mặc kệ họ, anh thuật lại cho tôi nghe đi.

Bằng giọng đều đều như trả bài. Uyên-sơn kể lại những chuyện đã xảy ra tại phi cảng Tân Sơn Nhứt. Ngồi bên gã đàn ông mặc mông-ta-gu, y tăng thêm tin tưởng, như thể đứa trẻ nằm gọn trong lòng mẹ.

Nhưng Uyên-sơn đã lầm.

Gã đàn ông mặc mông-ta-gu cũng lầm.

Ông Hoàng đã có đôi tai thần để theo dõi cuộc đối thoại trong xe Fiat sơn đen chạy trên đường Hai Bà Trưng. Khi ấy ông Hoàng đang ở trên trời. Trong một máy bay trực thăng cỡ nhỏ bay vòng tròn trên đầu thành phố ngủ say.

Ban đêm, dân chúng Sàigòn đã quá quen với tiếng động cơ trực thăng, nhất là từ khi biện pháp không kiếm được tăng cường đến mức tối đa để ngăn ngừa hỏa tiễn của địch. Sàigòn lại là thành phố có nhiều tiếng động nhất nhì thế giới nên dầu đêm khuya thanh vắng, tiếng động cơ trực thăng cũng vẫn bị chìm lắp.

Trong ca-bin phi hành, ngoài hoa tiêu ra, còn có ông Hoàng và nữ bí thư Nguyên Hương. Trực thăng được trang bị những dụng cụ nghe trộm điện tử tối tân, bay trên cao nó có thể nghe rõ mồn một những tiếng thì thầm dưới đất.

Ông Hoàng đeo mũ nghe vào tai, Nguyên Hương ấn nút trên cái máy trước mặt:

-    Thưa ông, Uyên-sơn đã lên xe hơi ở góc đường Nguyễn Thiệp.

Ông Hoàng gật đầu :

-    Tốt lắm. Bây giờ cô chụp hình chiếc xe đi.

Dưới bụng trực thăng có nhiều ống kiếng chụp hình kỳ dị. Một trong các ống kiếng này có thể chụp xuyên qua vật cứng. Nói cách khác, nó có thể chụp xuyên qua mui sắt của chiếc xe hơi Fiat 1500L để thấy rõ người ngồi bên trong.

Thoạt đầu, các nhà địạ chất dùng máy ảnh đặc biệt này để chụp các lớp đất bên dưới của địa cầu với mục đích thám hiểm và khám phá giếng dầu lửa và quí kim. Dần dà, công dụng của nó được phổ cập vào nghề gián điệp : các vệ tinh không gian của Hoa Kỳ đã được trang bị bằng những ống kiếng tương tự để có thể nhìn xuyên qua lớp tôn ngụy trang các căn cứ quân sự hoặc lớp bê-tông dầy của hầm chứa giàn phóng hỏa tiễn xuyên lục địa phía sau bức màn sắt Sô Viết.

Tình báo trung ương Hoa Kỳ C.I.A. là cơ quan điệp báo đầu tiên trên thế giới dùng loại máy hình đặc biệt này để chụp kẻ tình nghi hoặc nhân viên của địch họp trong những trụ sở an toàn. Ban Chuyên Môn của sở Mật Vụ Nam Việt đã dựa vào nó để chế tạo loại máy hình xách tay, cân nặng 10 kí-lô, trông hao hao như máy chụp hình vô tuyến truyền hình. Hình nó chụp rất rõ, không cần chuyên viên không-ảnh giải thích, người thường cũng có thể hiểu được.

Đặc điểm của nó lại giống như máy Polaroid của Mỹ, nghĩa là sau khi chụp độ một phút đồng hồ là có ảnh rửa in luôn trong máy.

Nguyên Hương đưa tấm ảnh còn ướt đưa cho ông Hoàng xem. Hình được chụp nghiêng góc 45 độ nên thấy mặt ba người ngồi trong xe. ông Hoàng ra lệnh :

-    Cô yêu cầu ban Truy Tầm Căn Cước cho biết hai tên cùng đi với Uyên-sơn là ai. Tôi muốn biết kết quả nội đêm nay.

Nguyên Hương vâng một tiếng nhỏ. Ban Truy Tầm Căn Cước có một thư khố vĩ đại, ảnh chân dung, tướng mạo, chi tiết về đời sống của hàng chục triệu người ghi chụp đầy đủ trên phim nhựa vi-ti. Hồ sơ được phân loại một cách khoa học, nhân viên ban Truy Tầm chỉ mất một thời gian ngắn là tìm ra tông tích kẻ lạ.

Tuy nhiên, trời đã khuya. Như thường lệ, ban Truy Tầm chỉ mở cửa ban ngày. Lát nữa về sở, Nguyên Hương phải nhờ vệ sĩ lái xe đến nhà từng nhân viên, sồng sộc vào phòng riêng, lôi cổ họ dậy trước cặp mắt ngơ ngác, chán nản và tức tối của vợ họ, rồi ấn họ vào trong xe bít bùng, áp giải như phạm nhân đến văn phòng. May ra với phương pháp bắt cóc độc đoán ấy, Nguyên Hương mới có hy vọng đệ trình kết quả cho ông Hoàng trước khi trời sáng.

Ông Hoàng chỉ ra lệnh, và ngồi chờ thuộc viên thi hành, chứ không biết đến nỗi khổ tâm của nữ bí thư trưởng Nguyên Hương, ông Hoàng là bậc thầy của nghề điệp báo, cái gì ông cũng biết, việc gì ông cũng làm được, song nhiều khi ông lại nghệ sĩ hơn cả nghệ sĩ chính cống nữa. Ông đã già, không vợ con, không gia đình nội ngoại, không dây dưa tình ái, nên có thể làm việc bất kể giờ giấc, đêm cũng nhự ngày, ông quên rằng hầu hết nhân viên của sở đều phải... nghỉ đêm ở nhà, vì bổn phận làm cha, làm... chồng. Đối với họ thì thức đêm, hoặc bị lôi dậy ban đêm là một cực hình.

Vậy mà họn phải đi đêm gần như cơm bữa. "Đi đêm có ngày gặp ma", một nhân viên cao cấp ban Truy Tầm bị vệ sĩ của ông Hoàng vào phòng the mời đi một đêm trời mưa như trút nước. Trời mưa tầm tã làm con người văn minh lười mặc quần áo, và lười ra ngoài đường. Sàigòn là thành phố quán quân về nóng chảy mỡ, đêm nào có mưa là thiên hạ mới ngủ được.

Nhân viên cao cấp ban Truy Tầm đang say sưa giấc điệp bên cạnh cô vợ trẻ măng thì thiên lôi gõ cửa. ông chồng vểnh tai nghe rồi thì thầm với vợ :

-    Có lẽ là mấy thằng trời đánh của sở... Em bảo họ là anh đau nặng...

Hai gã vệ sĩ đen trùi trũi xô cửa bước vào với nụ cười "xin lỗi anh chị, đây là lệnh trên" trên môi cả hai sắp sửa ngồi xuống bên giường thì cô vợ đã đặt ngón tay lên miệng :

-    Suỵt, nhà tôi đau.

Một gã cười:

-    Trời mưa to, lại ba bốn giờ sáng thế này thì đàn ông đều mắc bệnh như nhau. Bệnh lười. Phương chi bên cạnh còn có nàng tiên kiều diễm nữa.

Hắn tưởng ca ngợi nhan sắc của nàng sẽ làm nàng phồng mũi. Ngờ đâu, mắt phượng tròn xoe :

-    Tôi không thích nói đùa. Phiền hai anh về sở trình lại là anh ấy không đi được.

-    Thưa chị....

-    Yêu cầu anh nói nhỏ kẻo nhà tôi thức dậy.

Một gã nóng ruột cầm mép mền, toan kéo. Cô vợ nắm lấy bàn tay hắn, giọng bực bội:

-    Tôi yêu cầu các anh lần cuối. Từ nhiều tháng nay, tôi đã rình cơ hội làm dữ để ông Hoàng đuổi chồng tôi ra khỏi Sở. Thà anh ấy đạp xích-lô nuôi tôi ngày một bữa rau đậu còn hơn làm ông bự ở ban Truy Tầm...

Nói đoạn, nàng xô gã vệ sĩ một cái thật mạnh. Bị xô bất thần, hắn chúi vào tường. Gã thứ nhì nhảy vào can thì bị cô vợ "sư tử Hà Đông" nện cho một phát karatê vào cổ. Té ra nàng là vỏ sĩ karatê mà hai gã vệ sĩ không biết...

Nếu giao đấu thật tình họ sẽ ăn gỏi nàng. Song họ là đàn ông, và là bạn của anh chồng. Nên họ đành nhịn nhục về Sở, thuật lại tự sự với Nguyên Hương. Sau khi vợ hành hung vệ sĩ của ông tổng giám đốc, anh chồng hoảng hồn vội đội mưa đến tìm Nguyên Hương để tạ lỗi. Nội vụ được dàn xếp êm thắm, nhưng từ đấy đám vệ sĩ rủ nhau lảng trốn để khỏi phải "xâm nhập gia cư" các bạn đồng liêu theo lệnh ông Hoàng...

Ông Hoàng... Ông Hoàng... Bất giác Nguyên Hương nhìn trộm ông Hoàng đang tập trung tư tưởng trước máy khuếch-ba. Từ lâu, kỹ nghệ điệp báo tư nhân đã chế tạo được một số dụng cụ điện tư nhạy cảm, có thể nghe trộm trong đường kính một hai cây số. Trong khoảng cách này, người ta chỉ cần chĩa một dụng cụ giống như cây đèn pha xe hơi thẳng vào chỗ phát ra âm thanh là nghe rõ mồn một như đứng bên. Nếu không gặp chướng nhại vật như cửa, đồi núi, người ta còn có thể nghe trộm xa hơn.

Máy khuếch-ba do ông Hoàng xử dụng là một kỳ công khoa học, gắn trên phi cơ vẫn nghe rõ tiếng trò chuyện trong phòng đóng kín cửa dưới đất, qua trung gian của một bộ phận tiếp vận tí hon, nhỏ bằng hột đậu hoặc mỏng dẹt như tờ giấy. Trong lúc "tịch thu" giấy tờ của gã điệp viên MI-6 tại phi trường, ông Hoàng đã dán vào đáy bót phơi một miếng da hình vuông. Troạt trông, nó là da thuộc, đồng màu với da bót phơi, kỳ thật nó được chế tạo bằng một chất kim loại nhẹ và dẻo, có khả năng tiếp vận âm thanh và phóng lên không trung.

Giọng báo cáo đều đều của Uyên-sơn vang lên trong ống nghe. Y thuật lại từ đầu đến cuối, nhưng không quên tiểu thuyết hóa để tăng phần hấp dẫn. Tuy nhiên gã mặc mông-ta-gu vẫn thản nhiên như tay đánh xì chuyên nghiệp, mặt luôn luôn lạnh như tiền, miệng hơi mím, không biết là buồn hay vui nữa.

Uyên-sơn ngừng nói. Gã mặc mông-ta-gu hất hàm :

-    Còn gì nữa không ?

Uyên-sơn đáp :

-    Hết. Sau đó tôi về thành phố, giả vờ lên phòng rồi bí mật xuống đường, đi vòng quanh một hồi trước khi gọi điện thoại cho anh.

Uyên-sơn đã lấy lại bình tĩnh cho nên không xưng hô khách sáo và sợ sệt như trước nữa. Y liền nhìn vẻ lì lợm của gã mặc mông-ta-gu rồi nhún vai:

-    Tôi thành thật xin lỗi anh. Lẽ ra tôi không nên gọi điện thoại thẳng cho anh như vậy. Nhưng đây là trường hợp bất khả kháng.

Gã mặc mông -ta-gu đáp gọn lỏn :

-    Không sao.

Xe hơi không chạy về hướng Yên Đỗ như Uyên-sơn chờ đợi. Tài xế tống mạnh ga xăng, vọt qua cầu Công Lý. Uyên- sơn hỏi, giọng ngạc nhiên :

-    Tại sao không xuống câu lạc bộ ?

Gã mặc mông-ta-gu đáp :

-    Nàng đang chờ anh tại Trương Tấn Bửu.

Uyên-sơn ngồi im. Gặp lại nàng cũng như người sắp chết đuối trên biển rộng được tàu buôn đến cứu, song y lại không vui. Niềm vui chớm nở hồi nãy đã tan biến. Y bắt đầu lo sợ. Y có linh tính là nhiều việc rùng rợn sắp xảy ra. Y bèn nói lớn với tài xế :

-    Thắng lại ! Thắng lại cho tôi xuống !

Xe đã rẽ vào đường Trương Tấn Bửu. Tài xế xuống số, cho xe giảm tốc độ. Gã mặc mông-ta-gu hỏi Uyên-sơn :

-    Anh muốn xuống ở đây ư ?

Uyên-sơn lí nhí:

-    Vâng.

Tài xế quay đầu lại:

-    Tôi đậu xe lại nhé ?

Gã mông-ta-gu ra lệnh :

-    Ừ, lái sát lề cho hắn xuống.

Xe hơi đang phóng nhanh được hãm lại êm ru. Gã mông-ta-gu mở cửa sau :

-    Tùy anh, anh không muốn gặp nàng đêm nay cũng được. Vì đó là việc riêng của anh, không liên quan gì đến tôi. Uyên-sơn choàng tỉnh mộng, xua tay rối rít:

-    Không, không, tôi nói lầm. Tôi không xuống nữa đâu. Anh tha lỗi cho tôi.

Gã mông-ta-gu lẩm bẩm:

-    Đồ con nít.

Nếu là lúc khác, Uyên-sơn đã xin hắn một cái răng cửa. Y là kẻ rất nhiều tự ái. Hồi còn đi học, y đánh lộn ngày một với bạn. Lớn lên, y vào lính, y nổi tiếng là ba gai. Có lẽ vì tính hiếu động này mà y được tuyển nạp vào sở Gián Điệp.

Nhưng lần này Uyên-sơn lại ngậm thinh trước lời chửi rủa của gã đàn ông mặt đá ngồi bên. Vì y vừa có những phản ứng ngây ngô như đứa trẻ lên 10. Y đành ngồi thu trong góc, mặt cúi xuống.

Tài xế lái vào một biệt thự lớn trong hẻm tối om. Gã mặc áo mông-ta-gu xuống trước, pha trò :

-    Sắp gặp người đẹp rồi đấy. Sướng không ?

Lần đầu tiên, gã mặc mông-ta-gu pha trò. Uyên-sơn cười toét miệng :

-    Dĩ nhiên.

Lâu lắm, y chưa được ôm nàng vào lòng. Y đã hy sinh tất cả - hy sinh danh vọng, hy sinh sự tin cậy của ông tổng giám đốc MI-6 để đổi lấy những phút ân ái thần tiên với nàng. Nhiều phen y hối hận nhưng chỉ hối hận thoáng qua, sự đòi hỏi ghê gớm của xác thịt đã hoàn toàn trấn áp tiếng gọi của lương tâm.

Y ngoan ngoãn theo chân gã mặc mông-ta-gu vào phòng khách. Tài xế mở đèn sáng. Tiếng máy điều hòa khí hậu kêu vo vo. Gã mặc mông-ta-gu kéo riềm che kín cửa, đoạn chỉ ghế xa-lông, bảo Uyên-sơn :

-    Phiền anh ngồi đợi một lát.

Hắn nháy mắt ra hiệu cho gã tài xế rồi bước rảo sang phòng bên. Uyên-sơn tần ngần, nhìn ngang ngửa rồi rút thuốc lá ra hút, bàn tay hơi run run. Trong những ngày hò hẹn với nàng, y đã đến nhiều phòng khách lạ, tuy vậy y vẫn tìm thấy ở đó một bầu không khí quen thuộc. Chứ không phảng phất một vẻ rợn người như ở đây.

Nàng là vũ nữ thoát y, chuyên phô bày thân thể trắng ngần, cân đối và kiều diễm cho thiên hạ chiêm ngưỡng hằng đêm nên có cảm tình đặc biệt với loài hoa trắng ngần, cân đối và kiều diễm. Nàng ở đâu là có hoa ở đấy, hiếm đến mấy cũng phải tìm ra bằng được và cắm trong bình cũng màu trắng kê ở góc phòng khách, gần cửa ra vào. Nàng mê hoa đến nỗi trong xe hơi lúc nào cũng mang theo bình pha lê đựng hoa hồng trắng. Mỗi lần đến ngủ đêm với Uyên-sơn, nàng đều không quên bình hoa.

Nàng thường tâm sự với y :

-    Hoa là đời em, là lẽ sống của em....

Đêm nàng ăn lễ sinh nhật, phòng nàng gần chìm ngập trong rừng hoa trắng. Hàng chục, hàng trăm bó hồng trắng muốt được bầy khắp nơi do vương tôn công tử gởi tặng. Phần nhiều là hoa hồng trồng tại những thửa vườn riêng trên đồi Đà Lạt. Song cũng có những bó hồng, giá mua đắt như bạch kim, được gởi từ ngoại quốc tới bằng máy bay qua trung gian của hãng Interflora.

Gã đàn ông mặc áo mông-ta-gu dặn Uyên-sơn đợi nàng. Nhưng sau một phút quan sát với nhãn quan tinh tế của người làm điệp báo, Uyên-sơn bắt đầu chột dạ. Nàng không có mặt tại nhà này vì lẽ giản dị, y không nhìn thấy hoa hồng trắng.

Y ném điếu thuốc lá mới hút được một hơi xuống đất, khói bốc nghi ngút, rồi vội vàng đứng dậy. Gã tài xế chặn y lại, vẻ mặt hung dữ :

-    Anh đi đâu ?

Uyên-sơn hơi tái mặt:

-    Đi tìm Túy Vân.

-    Nàng chưa đến.

-    Tại sao ông Chấn lại nói với tôi là nàng đang ngồi đợi trong phòng ?

-    Ông Chấn nào ?

-    Trời, đến anh cũng không biết ông Chấn ư? ông Nguyễn Chấn là cái ông mặc mông-ta-gu mầu sẩm cùng đi xe Fiat với anh đến đón tôi tại góc đường Nguyễn Thiệp chứ còn ai nữa !

-    Thế hả ? Lần đầu tiên tôi mới hân hạnh được biết bạn thân của tôi là Nguyễn Chấn.

-    Vậy tên thật của hắn không phải là Nguyễn Chấn?

-    Dĩ nhiên. Cũng như nghề của tôi không phải là nghề tài xế, mặc đồng phục lái xe hầu ông phụ tá tùy viên thương mãi tòa đại sứ Anh quốc.

-    Anh nói gì tôi không hiểu.

-    Ráng mà hiểu.

-    Ông Chấn đâu rồi. Tôi không chịu nỗi thái độ hỗn xược của anh nữa. Dầu sao tôi cũng giúp các anh được nhiều việc quan trọng mà chẳng lấy đồng xu teng nào cả... Các anh có bổn phận phải trọng đãi tôi.

-    Hừ, đồ chó săn, đồ dại gái... Còn lâu mới được chúng tao trọng đãi.

Uyên-sơn giận tím mặt trước sự thay đồi ngôn ngữ sống sượng của gã tài xế. Y tiến lên một bước, vung tay định đánh. Vì nhu cầu nghề nghiệp, y được huấn luyện nhu đạo và đã trèo lên cấp đai đen đệ nhất. Trong thời gian phục vụ tại Pháp, y đã học võ Panache, một môn võ cận chiến được phát minh trước thế chiến thứ hai (1) gồm những tinh hoa của võ Nhật và Sambo. Cách đánh đỡ của võ Panache hao hao như Vovinam, nhưng khi lâm trận thì ác liệt hơn.

Ngón tay của Uyên-sơn sắp xỉa vào mặt gã tài xế thì y bị trựợt ngã. Khi ấy, y mới sực nhớ nền nhà bằng gỗ đánh vẹt-ni bóng loáng như sàn nhảy vũ trường. Uyên-sơn lồm cồm bò dậy để lãnh một quả đấm tàn bạo vào giữa ngực. Nhờ được tập tành, y chỉ chúi xuống chứ chưa bị đo ván. Nếu y không phí sinh lực trong cuộc sống truy hoan thường xuyên thì vị tất trái thôi sơn của gã tài xế đã làm nên chuyện.

Máu nóng dồn lên màng tang, Uyên-sơn nhảy bổ vào người gã tài xế. Hai người ôm nhau lăn tròn trên sàn gỗ. Uyên- sơn đè bên trên, sống bàn tay hùng hồ chặt xuống. Y nhắm vào khớp xương vai, với mục đích làm đối phương gãy lìa cánh tay. Song gã tài xế đã vùng dậy kịp thời bằng một thế gỡ tuyệt diệu.

Nghĩa là đối phương cũng am tường bí quyết của môn cận vệ chiến như Uyên-sơn.

Tuy nhiên, gã tài xế không nghĩ đến đấu quyền với Uyên-sơn. Mà tìm cách áp đảo bằng súng. Gã tài xế lăn tròn hai vòng để ra khỏi tầm đánh của Uyên-sơn, tay luồn vào trong áo rút ra khẩu súng trái khe nòng ngắn, kèm theo tiếng quát:

-    Uyên-sơn, đứng yên !

Tiếng cười ngạo nghễ tiếp theo :

-    Uyên-sơn, mày thua tao rồi.

Uyên-sơn quắc mắt!

-    Tao đâu chịu thua. Chẳng qua mày có súng. Liệu hồn, cất súng đi, ông Nguyễn Chấn bắt gặp thì mày tan xương nát thịt.

-    Đồ ngu. Chính Nguyễn Chấn đã dặn tao canh chừng mày.

Uyên-sơn choáng váng như sét đánh ngang tai. Hồi nãy, giác quan thứ sáu đã báo y biết mà y không chịu nghe theo. Tuy vậy, y vẫn không tin. Y không tin Nguyễn Chấn lại có thể đổi trắng, thay đen quá dễ dàng như vậy.

Y nhớ lại một đêm mưa to gió lớn, Túy Vân trình diễn một điệu vũ khỏa thân Nam Mỹ tại câu lạc bộ Ngũ Nhật Hội. Thời tiết bên ngoài đang từ 25 độ tụt xuống 15 độ, y ngồi trong phòng gắn máy điều hòa, mặc com-lê chỉnh tề mà rét run như cầy sấy. Y là người Anh, sống quen với trời lạnh, nếu không còn rét run nhiều hơn nữa.

Vậy mà điệu vũ thoát y đã làm không khí trong phòng ấm lại, ấm lại như có lò sưởi. Y ngây người ngắm nàng uốn éo trên bục gỗ, tất cả những nét kín đáo trên cơ thể điều đặn, trắng nõn của nàng được phơi bày rõ rệt dưới ngọn đèn sáng quắc. Kỹ thuật thoát y vũ của Túy Vân đã lên đến trình độ tuyệt diệu khiến cử tọa mê man như chàng trai 18 mới vào đời được một người đàn bà trung niên, giàu kinh nghiệm, mơn trớn trong phòng kín.

Y lân la làm quen với nàng; Rồi lọt vào mắt xanh của nàng. Y đang tận hưởng hạnh phúc thì bão tố xảy ra. Nàng thú thật là nhân viên của một tổ chức bí mật, và thủ lãnh trực tiếp của nàng là Nguyễn Chấn. Chấn ra lệnh cho nàng lôi kéo Uyên-sơn. Nếu nàng thất bại. Tổ chức sẽ nghiêm trị.

Đang đêm, y vùng dậy như bị điện giật, hốt hoảng vặn đèn lên, và hỏi Túy Vân :

-    Nguyễn Chấn muốn anh giúp hắn những gì ?

Nàng nức nở :

-    Em không biết.

-    Đừng sợ. Anh sẽ tìm cách cứu em ra khỏi nanh vuốt của hắn. Hắn mó vào người em, anh sẽ cho hắn một bài học.

-    Vô ích. Anh ạ. Anh có thể giết được Nguyễn Chấn nhưng không có thể giết được đồng lõa của hắn. Bọn hắn đông như kiến cỏ, ở đâu cũng có.

-    Hắn là nhân viên gián điệp cộng sản ?

-    Em không biết. Nhưng dường như tổ chức của hắn do một nhóm tư nhân quốc tế thành lập.

-    Anh sẽ yêu cầu chính phủ Sàigòn can thiệp.

-    Như vậy, em sẽ bị bắt, chúng mình sẽ sống xa nhau.

-    Nhưng sau một thời gian chúng mình sẽ được đoàn tụ. Anh sẽ bảo lãnh cho em trở về, và chúng mình sẽ sang Anh quốc lập nghiệp.

-    Đó chỉ là hy vọng hão huyền. Ngày em ra tù, đồng lõa của Nguyễn Chấn sẽ hạ sát em. Vả lại, em còn có gia đình... Người Việt vốn có truyền thống gia đình, em không thể xuất ngoại hưởng hạnh phúc, bỏ mặc thân nhân em....

-    Nghĩa là Nguyễn Chấn lợi dụng mối tình của anh đối với em để săng ta ?

-    Không phải Nguyễn Chấn. Kẻ khốn nạn là em. Lẽ ra em phải nói rõ anh biết mưu mô thâm độc và đê hèn của hắn ngay từ phút đầu tiên. Nhưng em không có can đảm. Em đã nhẫn tâm phỉnh phờ anh. Em không xứng đáng với tình yêu cao thượng của anh nữa....

Nói đoạn, Túy Vân khoác áo ngủ vào người, mở tủ lấy rượu uống. Biết nàng cần say để quên sự thật phũ phàng, Uyên-sơn không ngăn cản.

Té ra nàng uống thuốc độc để tự vận. Thấy nàng quay mặt vào tường khóc tỉ tê. Uyên-sơn cất tiếng gọi:

-    Thôi, đi ngủ đi em. Đến mai chúng mình sẽ liệu....

Túy Vân vẫn ngồi bất động. Uyên-sơn đi chân đất lại bàn, lựa lời dỗ dành nàng. Và y suýt đứng tim khi thấy ống thuốc ngủ Epanal 10 nằm lỏng chỏng bên ly rượu đã cạn. Epanal 10 là loại thuốc ngủ cực mạnh, chỉ uống một viên cũng ngủ quay lơ. Y nhớ lại hồi tối nàng tạt vào hiệu thuốc ở đầu đường để mua một ống thuốc ngủ. Nàng thường mất ngủ sau những đêm dài phô bày thân thể dưới ánh đèn sáng quắc.

Ụyên-sơn dốc ngược ống thuốc vào lòng bàn tay. Bên trong chỉ còn một viên màu nâu. Nghĩa là nàng đã uống cả ống. Y vội nắm vai nàng lắc mạnh :

-    Túy Vân, em uống Epanal phải không ?

Nàng không đáp. Y mếu máo :

-    Trời ơi, em nông nổi quá, dại dột quá ! Em chết thì anh biết sống với ai... vả lại tình hình đâu đến nổi vô phương giải quyết để em phải trốn tránh nợ đời. Túy Vân.... em mới uống thuốc, thuốc đang còn trong bao tử chưa kịp tan ra đâu. Em cho tay vào cuống họng móc cho nó mửa hết ra....

Nàng vẫn ngồi bất động, hai mắt lờ đờ nhìn vào khoảng không. Uyên-sơn quỳ xuống van lơn :

-    Anh lạy em, em móc hết thuốc ra đi, kẻo rượu mạnh làm thuốc tan rất nhanh. Anh phải chở em vào bệnh viện rửa ruột thì khổ. Sứ quán sẽ biết chuyện, anh sẽ....

Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Đoàn Vũ Khỏa Thân - Người Thứ Tám Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Đoàn Vũ Khỏa Thân - Người Thứ Tám   Đoàn Vũ Khỏa Thân - Người Thứ Tám Icon_minitimeTue May 23, 2017 4:19 am

Túy Vân vẫn không trả lời. Có lẽ tai nàng đã ù, nàng không nghe tiếng năn nỉ thống thiết của Uyên-sơn nữa. Cuống quýt, y bế nàng lại giường. Nàng vùng vay không cho y cứu chữa. Nàng thét lên :

- Đừng anh... đừng anh.... Anh để em chết, em là kẻ có tội, em đã cố tình phản bội người yêu nhất đời em....

Cử chỉ của Túy Vân càng làm Uyên-sơn như điên như dại. Nàng đã tỏ cho y biết nàng yêu y bằng mối tình trọn vẹn. Vì vậy, y phải cứu nàng với bất cứ giá nào. Y sẽ vâng lời Nguyễn Chấn.

Đêm mưa tầm tã ấy, Túy Vân thoát chết. Uyên-sơn phải đè nàng xuống, đấm vào cằm cho nàng mê mang mới có thể luồn tay vào miệng, ngoái lia lịa. Túy Vân thoát chết nhưng không thoát khỏi màn lưới của Nguyễn Chấn, và từ đó Uyên-sơn tuột dốc. Y cộng tác với Nguyễn Chấn mặc dầu y không lạ gì thủ đoạn săng-ta, một trong các cạm bẫy sơ đẳng của nghề gián điệp mà y là thành phần kinh nghiệm.

Tuy nhiên, Nguyễn Chấn đã ưu đãi y một cách đặc biệt.

Uyên-sơn không hề ngữa tay nhận tiền, Nguyễn Chấn cũng không hề đề cập đến vấn đề thù lao. Nhưng trên thực tế Uyên-sơn cần gì cũng có. Y không ngờ Nguyễn Chấn có thể trở mặt đột ngột như vậy. Vì y là nguồn cung cấp tin tức quý giá. Trong lúc này, y vẫn còn cần thiết đối với tổ chức của Nguyễn Chấn.

Trừ phi....

Một tia chớp lóe vụt trong óc Uyên-sơn. Trong khi hồi tưởng quá khứ, tình cờ Uyên-sơn khám phá ra nguyên nhân khiến Nguyễn Chấn trở mặt đột ngột.

Y không còn hoang mang nữa. Vì y đã đoán thấy số phận mà Nguyễn Chấn dầu muốn dầu không sẽ dành cho y. Nghĩa là Nguyễn Chấn sẽ thủ tiêu y để bảo vệ bí mật. Tuy nhiên, cả y lẫn Nguyễn Chấn đều bị rơi vào một cạm bẫy tinh vi. Y bắt đầu thấy rõ sự thật. Nguyễn Chấn vẫn còn mù tịt. Song y không thể giải thích cho Nguyễn Chấn biết. Vì nếu thấy rõ sự thật, Nguyễn Chấn sẽ phải tàn nhẫn hơn nữa.

Uyên-sơn chưa muốn chết. Đời sống ở Sàigòn với Túy Vân thần tiên biết bao ! Y đã chung chạ nhiều đêm với nàng, thân mật hơn cả vợ chồng, nhưng vẫn chưa khám phá được hết những bí quyết siêu đẳng trên thân thể nàng, trong nụ cười lẳng lơ mà đoan chính của nàng, nơi bộ ngực rắn chắc mà mềm mại của nàng... Trời ơi, Túy Vân là một kho báu vô tận, y phải chiến đấu để sống.

Nghĩ vậy, Uyên-sơn không nổi giận trước lời nói hỗn xược của gã tài xế nữa. Gã tài xế đã gọi y là đồ ngu, đồ dại gái, đồ chó săn. Nhưng y không thèm quan tâm. Y chỉ quan tâm tới khẩu súng trái khế đang nằm gọn trong tay đối phương.

Uyên-sơn dịu giọng :

- Chắc anh nghe lầm. Các anh với tôi vẫn là bạn. Hồi nãy chính Nguyễn Chấn đã nói như thế.

- Hắn nói những gì ?

Gã tài xế đã phạm phải một khuyết điểm không thể tha thứ được. Lẽ ra Uyên-sơn phải đứng trong tầm súng, hắn lại dại dột cho Uyên-sơn tiến lên một bộ. Đến khi hắn phăng ra ý định ghê gớm của Uyên-sơn thì khẩu súng trong tay đã bị một ngọn cước vũ bão quét văng xuống đất.

Uyên-sơn vận dụng hết tinh hoa của võ Panache trong cú đánh móc vào xương hàm đối phương. Gã tài xế hự một tiếng ngắn rồi ngã ngồi xuống đi-văng. Đúng ra, Uyên-sơn phải bồi thêm một đòn ác liệt nữa vào cuống họng gã tài xế trước khi tẩu thoát để ngăn ngừa hậu hoạn. Song y lại vội vã chạy băng ra cửa.

Uyên-sơn chưa kịp đặt tay vào quả nắm thì cánh cửa đồ sộ đã được xô mạnh từ bên ngoài vào. Y đụng phải cánh cửa lim dầy cộm và nặng nề, trán sưng u một cục to bằng trái ổi, mắt tóe đom đóm. Chướng ngại bất thần đã làm kế hoạch bỏ trốn của Uyên-sơn chậm lại nửa phút đồng hồ. Và đó là nửa phút đồng hồ bất hạnh nhất đời gã nhân viên MI-6.

Vì Nguyễn Chấn, lẳn mình trong cái áo mông-ta-gu đàng điếm, đã có đủ thời giờ quan sát quanh phòng và rút súng, lảy cò.

Viên đạn được bắn qua ống hãm thanh nên chỉ tạch một tiếng vui tai. Nguyễn Chấn nhắm giữa miệng Uyên-sơn đang há hốc trong cơn kinh ngạc và hoảng hốt. Nạn nhân ngã nhào xuống nền phòng khách.

Tuy vậy, Uyên-sơn vẫn chưa chết. Nguyễn Chấn ghé miệng thổi luồng khói khét lẹt từ nòng súng bay ra, rồi nói:

- Chẳng qua vì hoàn cảnh. Anh đừng giận tôi nhé !

Nguyễn Chấn phân bua bằng giọng thản nhiên, cũng thản nhiên nhự thể thày giáo vừa lỡ tay đồ mực của học trò. Nếu chỉ nghe giọng nói của hắn không ai có thể tưởng tượng được hắn vừa giết người bằng viên đạn 9 li vào miệng.

Nạn nhân nằm tênh hênh, mắt vẫn mở thao láo. Y không nói được thành tiếng nên dường như muốn nói bằng mắt. Trong giây phút gần về với đất, Uyên-sơn trở nên sáng suốt hơn bao giờ hết. Một quyền lực vô hình đã giúp y nhìn thấy vị lai, nhìn thấy rõ ràng như những nét của bức họa tĩnh vật treo ngay ngắn trên bức tường đối diện.

Nguyễn Chấn quỳ xuống, vuốt mắt Uyên-sơn :

- Sở dĩ tôi giết anh là vì công việc bắt đầu bị lộ. Từ anh, ông Hoàng sẽ có thể phăng ra Túy Vân rồi ra tôi. An ninh của tổ chức phải được đặt trên tính mạng cá nhân. Anh yên tâm, tôi sẽ mai táng anh tử tế.

Uyên-sơn cố ngồi dậy để hét lớn vào mặt gã mặc áo mông-ta-gu. Song toàn thân y đã biến thành tảng đá. Y nghoẹo đầu sang bên, trái tim ngừng đập từ từ. Nếu có thể biến ý nghĩ cuối cùng trong óc thành âm thanh, Uyên-sơn đã nói

- Hừ, tôi là thằng ngu.... Tôi bị ông Hoàng lừa, và anh, anh cũng bị ông Hoàng lừa. Tôi chết trước rồi anh chết sau, anh biết chưa ?

Nguyễn Chấn nhăn mặt khi thấy tên tài xế thất thểu tiến lại, một tay ôm ngực. Gã tài xế rên khừ khừ :

- Đau quá !

Nguyễn Chấn cười nhạt:

- Mày đau ở chỗ nào ?

Gã tài xế đứng khựng lại trước câu hỏi đượm vẻ miệt thị khác thường của Nguyễn Chấn. Vì từ lâu, họ đã sống bên nhau, hành động mật thiết với nhau trong một tổ chức. Mỗi khi vui miệng, nhất là sau khi chè chén say sưa, họ thường gọi nhau bằng mày. Nhưng là tiếng "mày" thân mật. Tiếng "mày" gần gũi. Tiếng "mày" đầy tình mến thương.

Tiếng "mày" của Nguyễn Chấn giáng vào nhĩ tai gã tài xế lạnh lùng, rùng rợn, như tiếng quan tòa tuyên án tử hình. Gã tài xế bừng tĩnh mộng. Giấc mộng phũ phàng của nghề điệp báo. Hắn biết là tình bạn giữa hắn và Nguyễn Chấn đã hết.

Hắn vội níu lấy cánh tay Nguyễn Chấn :

- Tôi đang bị thương nặng, anh không tìm cách cứu tôi sao ?

Nguyễn Chấn nhún vai:

- Đang nghĩ nhưng chưa tìm ra. Anh nên giúp tôi, vì dầu sao chúng mình cũng là bạn thân của nhau từ nhiều năm nay. Xương hàm của anh đã bị đánh gẫy, tôi phải chở anh vào bệnh viện mới có đủ tiện nghi rọi kiến và bó bột. Dạo này, người ta tò mò lắm. Nhân viên bệnh viện sẽ căn vặn tại sao anh vỡ xương hàm. Anh không thể khai láo được. Vả lại, còn tôi nữa....

Giọng gã tài xế thều thào ướt nhèm nước mắt:

- Vậy anh lái tôi đến ông bác sĩ ở đầu đường Trương Tấn Bửu. Tôi sẽ vào chữa một mình.

Nguyễn Chấn lắc đầu :

- Cũng không được. Anh và tôi, chúng mình đều dùng căn cước giả. Công an, Phản Gián đông như kiến cỏ, họ có thể phăng ra chúng mình dễ dàng. Vì an ninh chung của tổ chức, tôi không thể mang anh đến nhà thương.

Nguyễn Chấn dìu gã tài xế xuống đi-văng rồi nói tiếp, giọng thản nhiên một cách rùng rợn :

- Từ lâu anh vẫn tuyệt đối trung thành với tổ chức. Một lần nữa, tôi thành khẩn yêu cầu anh....

- Anh muốn tôi làm gì... ? Trời ơi, anh muốn thủ tiêu luôn cả tôi, bạn thân và là đồng chí của anh ư ?

- Tôi không còn con đường nào khác.

- Anh là con người khô khan nhất, tàn bạo nhất thế giới.

- Vào hoàn cảnh tôi, anh cũng sẽ hành động như tôi. Nếu tôi nể tình bạn không giết anh, thượng cấp cũng sẽ giết tôi về tội bất cẩn. Hơn thế nữa, anh đã bắt đầu bất mãn. Theo nội quy, sự bất mãn thường dọn đường đến phản bội. Phải ngăn chặn phản bội bằng cách ngăn chặn bất mãn. Tôi sẽ hết sức nhẹ tay cho anh chết được toàn thây.

Gã tài xế gầm lên :

- Mày đừng hòng giết tao ! Về võ nghệ, tao không đến nỗi thua mày....

Nguyễn Chấn lạnh lùng lùi lại một bước. Hắn không muốn phí thời giờ thêm nữa. Vì đêm nay, thời giờ đối với hắn rất quý báu.

Tạch.... Khẩu súng hãm thanh lại kêu lên một tiếng nhỏ. Gã tài xế chưa kịp lao người vào bàn tay cầm súng của Nguyễn Chấn thì đã lãnh trọn viên đạn 9 li vào miệng. Nguyễn Chấn có một cái thú giết người kỳ quặc : thú bắn vào miệng, khiến cho nạn nhân nát răng, nát lưỡi, nát cuống họng.

Cái thú ấy luôn luôn ám ảnh hắn từ gần 10 năm nay. Trước kia, hắn là một công chức cần cù của Sở Giây Thép Vạn Tượng. Nếu Ai Lao tiếp tục giữ nếp sống thanh bình, phẳng lặng, không bị quay cuồng trong cơn lốc khói lửa thì có lẽ anh thư ký Bưu Điện không bỏ sở, bỏ gia đình êm ấm, dấn thân vào cuộc đời giang hồ.

Vì hắn giữ quá nhiều tiền nên thiên hạ rủ đánh bạc. Thoạt đầu, hắn từ chối. Nhưng mỗi ngày người ta mỗi lôi kéo hắn. Nếu không muốn đánh thì đến coi cho vui. Bùi tai, Nguyễn Chấn bước chân vào sòng tài xỉu ở gần Chợ Mới. Hồi ấy, món tài xỉu mới được du nhập vào Vạn Tượng song trình độ sát phạt không thua các sòng bạc quốc tế như Macao....

Như mọi người khác mới đam mê, thoạt đầu Nguyễn Chấn cương quyết đứng xem, không chơi. Nhưng dần dà hắn nể bạn đặt một vài trăm bạc. Đặt tài được tài, đặt xỉu được xỉu, Nguyễn Chấn bắt đầu ham. Rồi hắn lao đầu xuống dốc lúc nào không biết.

Hắn nướng hết tiền két của Bưu Điện vào sòng tài xỉu. Thua cay, đáo gỡ, hắn phải xoay sở để "phục thù". Và để hoàn lại những số tiền đã mượn ẩu. Nguyễn Chấn đâm ra ăn cắp công quỷ. Vẫn không đủ, hắn quay ra hợp tác với bọn buôn lậu. Ai Lao là thiên đường của nghề buôn lậu nên Nguyễn Chấn kiếm tiền như nước.

Việc đáng đến đã đến. Trong những ngày đêm miệt mài bên bàn tài xỉu, bên mâm đèn thuốc phiện, Nguyễn Chấn đã lọt vào mắt xanh một cô gái khá xinh đẹp. Nếu chỉ lọt vào mắt xanh thì cũng chưa đến nỗi, đằng này hắn lọt luôn vào vòng tay tràn trề nhựa yêu của nàng. Hắn tung tiền ra để nhốt nàng trong lầu son, gác tía, giữ nàng độc quyền cho hắn. Nàng thề non hẹn biển là chỉ yêu một mình hắn.

Nguyễn Chấn đinh ninh nàng sẽ quỳ xuống chân hắn van xin. Song sự thật đã xảy ra khác hẳn. Thấy hắn vào phòng, nàng thản nhiên ngồi dậy, hỏi hắn :

- Anh đấy à ? Tại sao anh vào phòng mà không gõ cửa ? Đàn ông gì mà bất lịch sự như vậy ?

Nguyễn Chấn rít lên :

- Cô là vợ tôi, cô mang trai về nhà ân ái, cô còn chưa biết tội ư ?

Cô vợ cười khanh khách :

- Ai bảo với anh tôi là vợ anh ? Anh lầm to, tôi chỉ là gái bao, anh hết tiền tôi phải đi ngủ với người khác.

Lời nói của vợ hắn trân tráo và sống sượng đến nỗi hắn lặng người một lát trong sửng sốt và kinh hoàng. Lời nói tàn nhẫn này đã xô đời hắn vào một khúc rẽ quyết liệt. Giấc mộng ái ân nồng thắm hoàn toàn bị sụp đổ. Nguyễn Chấn lao đầu vào sự giết chóc.

Thật ra hắn không muốn giết nàng. Vì dầu sao hắn cũng còn đôi chút thương hại. Nàng chết vì đã dại dột khiêu khích hắn. Nàng không thèm mặc quần áo, trần như nhộng, bước xuống giường, tay chỉ cánh cửa :

- Mời anh ra ngoài đợi một lát.

Nguyễn Chấn rút súng ra, hăm dọa :

- Nếu cô còn tiếp tục hỗn xược, tôi sẽ bắn vỡ miệng.

Nàng há miệng ra, thách thức :

- Miệng tôi đấy, anh bắn thử coi.

Như người điên, hắn đút luôn khẩu súng vào miệng nàng bóp cò. Mặt nàng nát bét. Tên tình nhân của nàng xông vào cũng lãnh đạn vào miệng.

Hình ảnh của cặp trai gái mất răng, mất lưỡi, mất xương hàm bám chặt trí nhớ của Nguyễn Chấn từ đó, để rồi không bao giờ phai nhạt nữa. Từ đó, hắn chỉ khoái giết người bằng cách bắn vào miệng nạn nhân.

Nguyễn Chấn chắt lưỡi nhìn hai cái xác nằm co quắp trên nền nhà. cả hai đều nát miệng, cả hai đều mở mắt trừng trừng. Nguyễn Chấn lẩm bẩm một mình :

- Chúng mày đừng giận tao nhé !Hắn tắt đèn trong nhà, đóng chặt các cửa rồi ra xe. Mấy phút sau, chiếc Fiat 1500L sơn đen đã chạy bon bon trên đường Yên Đỗ. Hắn ung dung rút thuốc lá ra hút. Trong bóng tối xe hơi, hắn nhoẻn miệng cười. Dường như nụ cười kiêu hãnh này muốn nói "thế là xong" mọi việc đã chu tất"....

Nếu biết ông Hoàng đang bay vòng tròn trên không phận Sàigòn trong chiếc trực thăng mà ống sắp-măng được gắn dụng cụ hãm thanh đặc biệt, Nguyễn Chấn đã không dám dựa đầu vào ghế hút thuốc lá, nhoẻn miệng cười tự đắc và lái xe hơi lười biếng bằng hai ngón tay.

Vì ông tổng giám đốc sở Mật Vụ đã nghe rõ được mọi âm thanh trong tòa biệt thự ở đường Trương Tấn Bửu từ đầu đến cuối. Đến khi Nguyễn Chấn dừng xe ở góc đường Yên Đỗ - Trương Minh Giảng, ông Hoàng mới tháo mũ nghe ra khỏi đầu và tắt máy khuếch-ba. Ông lấy tay chỉ cái bình thủy đựng cà-phê đặc để trên sàn trực thăng bên cạnh cái cặp da to tướng chứa toàn hồ sơ tối mật.

Ông Hoàng thèm uống cà-phê có nghĩa là phần quan trọng của kế hoạch đêm nay đã được hoàn thành. Lệ thường, Nguyên Hương là nhân viên thừa hành, ông Hoàng chỉ đặt kế hoạch, nhưng lần này ông Hoàng đích thân điều khiển nên nàng không hiểu tại sao trực thăng đến gần đường Yên Đỗ rồi được lệnh trở về Tân Sơn Nhứt. Sợ ông tổng giám đốc đãng trí (vì nàng nghĩ rằng tuổi già đang biến ông Hoàng thành lẩm cẩm) Nguyên Hương rót cà-phê vào cái ly giấy, miệng hỏi:

- Thưa... bây giờ về Tân Sơn Nhứt ?

Ông Hoàng gật đầu

- Công việc đã xong ?

- Ừ, đã xong. Tôi đã khám phá ra đường đi nước bước của Nguyễn Chấn, sở dĩ tôi yêu cầu MI-6 thuyên chuyển Uyên-sơn về Sàigòn là vì muốn dùng hắn làm cái mồi. Tôi biết hắn có một số hành động phi pháp song chưa biết hắn liên lạc với ai nên mới chặn hắn lại ở trường bay, tìm cách hăm dọa úp mở cho hắn hoảng sợ. Hoảng sợ, hắn phải tiếp xúc với thượng cấp.

- MI-6 ?

- Không. Uyên-sơn là nhân viên nhị trùng. Hắn lãnh lương MI-6 nhưng lại bí mật đi lại với Quốc Tế Đặc Vụ.

Nguyên Hương giật bắn người:

- Thưa, Quốc Tế Đặc Vụ của Sam Phoun ấy à ?

- Phải.

- Chủ tịch Quốc Tế Đặc Vụ Sam Phoun đã chết trong chiến dịch Hoa Phong Lan ở Vạn Tượng. Chỉ còn lại thiếu tướng Sulivông. Văn Bình báo cáo là Sulivông đã bị cơ quan an ninh của chính phủ hoàng gia Lào bắt giữ, vậy Quốc Tế Đặc Vụ đã mất hết người lãnh đạo. Theo thiễn ý....

- Phải, Sulivông đã bị chặn bắt ngay sau khi được Văn Bình tha. Nhưng, như cô đã biết, Sulivông thuộc một trong 5, 6 gia đình có thế lực lớn nhất ở Lào quốc, hắn bị bắt, sắp bị đưa ra tòa lãnh án thì đột nhiên thoát khỏi nhà giam. Cuộc vượt ngục của Sulivông chứa đựng nhiều bí mật, chính phủ hoàng gia cho biết hắn có đồng lõa trong số binh sĩ gác lao nên kế hoạch tẩu thoát được thực hiện không lấy gì làm khó. Tuy nhiên, theo cuộc điều tra riêng của sở thì Sulivông được bí mật thả khỏi nhà tù do sự can thiệp của Pathét-Lào và sứ quán Trung Cộng. Dường như hoàng thân Souphanouvong cam kết với chính phủ hoàng gia là nếu thiếu tướng Sulivông được giúp đỡ để vượt ngục thì Pathét-Lào sẽ án binh bất động, tạm thời đình chỉ các cuộc tấn công quân sự và mở cuộc thương thuyết. Đưa Sulivông ra tòa bất quá cũng chỉ có thể xử hắn 10 năm tù, vì một người thế gia lệnh tộc như hắn không thể nào bị án tử hình, thì tha hắn còn hơn, phương chi lại giảm bớt được áp lực chiến sự. Đó là chưa kể đến những hứa hẹn đường mật của Trung Cộng nữa. Vì vậy Sulivông đã biến mất khỏi doanh trại Chinainô thuộc ngoại ô Vạn Tượng sau .

12 tháng bị giam giữ. Nhà cầm quyền hoàng gia thông báo cho tôi biết, và nhờ hợp sức truy nã Sulivông trong trường hợp hắn vượt biên giới (2).

Tôi giả vờ tin là Sulivông vượt ngục thật sự, nhưng mặt khác, tôi ngầm theo dõi... Cách đây 16 tháng, tôi được tin hắn tái sinh Quốc Tế Đặc Vụ, và giữ chức Chủ Tịch thay thế Sam Phoun, Sulivông là anh em cột chèo với Sam Phoun, vì tình riêng hắn phải trả thù. Ta lại đã phá tan công trình làm ăn hàng chục năm của hắn tại Lào. Nên tôi chờ đợi cái ngày Sulivông lộ diện. 8 tuần trước, đàn em của hắn bắt đầu hoạt động tại Sàigòn. cầm đầu chi bộ Sàigòn là Nguyễn Chấn.

- Thưa, nếu ông đã biết đại diện của địch ở Sàigòn là Nguyễn Chấn thì còn cần ban Truy Tầm Căn Cước hoạt động đêm nay làm gì nữa ?

- Tôi quên chưa nói rõ. Nhân viên của Sở ghi âm được một cuộc nói chuyện của Nguyễn Chấn với Sulivông nhưng chưa thấy mặt. sở cũng đọc được một số mật điện trao đổi giữa chi bộ Sàigòn và trung ương Quốc Tế Đặc Vụ. Nếu không có cuộc theo dõi đêm nay thì còn lâu nữa tôi mới nhận diện được hắn. Tuy nhiên, tùy theo sự việc xảy ra trong vòng 12 giờ sắp tới, công việc của ta sẽ dễ dàng hơn trước hoặc khó khăn hơn trước.

Nguyên Hương dạ một tiếng nhỏ rồi cúi đầu xuống bình thủy cà-phê. Cặp mắt cận thị của ông Hoàng như có tia sáng laser soi thấu tâm cang nàng, ông nhìn nàng một giây rồi hỏi:

- Cô sợ khó khăn vì ông tổng giám đốc MI-6 phải không ?

Nguyên Hương run tay, suýt xô đổ bình thủy, thật vậy, nàng đang nghĩ đến ông tổng giám đốc tình báo Anh quốc, tên tắt là ông M. ông M. là lãnh tụ điệp báo cao nhất trong thế giới tự do, và là bạn lâu năm của ông Hoàng. Không phải đến bây giờ ông M. mới đa mưu túc kế, từ 40 năm trước, nghĩa là từ ngày ông dấn thân vào nghề, giữ chức vụ chỉ huy trong ngành điệp báo Anh cát lợi, ông M. đã nổi tiếng về tài nhìn xa thấy rộng. Mật vụ của Đức Quốc xả, gián điệp cộng sản Liên Sô bị thua không còn manh giáp ở Luân Đôn cũng như trên khắp Liên Hiệp Anh, một phần là nhờ khả năng đối phó của ông.

Với những thành tích lẫy lừng như vậy, ông M. không thể không đặt nghi vấn về việc sở Mật Vụ Nam Việt yêu cầu thuyên chuyển cấp tốc Uyên-sơn. Vì ông M. chấp thuận ngay đề nghị của ông Hoàng nên Nguyên Hương lo ngại. Có thể trong khi ông Hoàng theo dõi Nguyễn Chấn, nhân viên MI-6 núp trong một chiếc xe hơi nào đó để theo dõi ông Hoàng. Nếu vậy thì nỗ lực sắp đặt của ông Hoàng trở thành công cốc....

Ông Hoàng thu người trong góc trực thăng như sợ lạnh. Giọng ông có một tác động kỳ lạ, đang hoang mang, Nguyên Hương bỗng tràn trề tin tưởng :

- Cô yên tâm. Tôi đã lo liệu chu đáo. Như cô đã biết, MI-6 có hai bộ phận ở Sàigòn, cả hai đều hoạt động chìm, bộ phận thứ nhất gọi là Mộc Tinh, chuyên thu lượm tin tức, bộ phận thứ hai, kín đáo hơn, gọi Hỏa Tinh, chuyên kiểm soát bộ phận thứ nhất. Uyên-sơn trực thuộc bộ phận Mộc Tinh. Trưởng ban Hỏa Tinh là viên đệ nhị tham vụ đặc trách Thông Tin trong tòa đại sứ.

Ngay sau khi ông M. ra lệnh cho Uyên-sơn qua Sàigòn, một bức mật điện được đánh từ văn phòng trung ương MI-6 cho trưởng ban Hỏa Tinh. Mật mã của MI-6 được coi là bí hiểm nhất nhì thế giới, nhưng ông M. không ngờ là tôi đã đọc được. Cho nên tôi biết rõ ý định của ông M., đó là ra lệnh cho bộ phận Hỏa Tinh tiếp xúc với Uyên-sơn nội trong đêm hắn đến Sàigòn. Mật điện còn nói rõ là cuộc tiếp xúc nên diễn ra trong giờ giới nghiêm. Trưởng ban Hỏa Tinh sẽ dùng Uyên-sơn làm cái mồi để khám phá ra bí mật của tôi. Họ không ngờ là tôi đã phỗng tay trên, bố trí ngăn chặn Uyên-sơn từ trên trường bay Tân Sơn Nhứt.

- Thưa, viên đệ nhị tham vụ sẽ đến lữ quán Đại Lục ?

- Phải. Ông M. làm việc cẩn thận lắm. ông ta dặn viên trưởng ban Hỏa Tinh điện thoại cho Uyên-sơn trước, nếu Uyên-sơn không trả lời thì đúng 2 giờ sáng đột nhập vào phòng hắn. À, bây giờ mấy giờ rồi ?

- Kém 15 phút đầy 1 giờ.

- Vậy đang còn sớm. Cô gọi điện thoại về khách sạn Đại Lục cho tôi.

Hệ thống truyền tin của ông Hoàng trên chiếc phi cơ trực thăng cỡ nhỏ này còn tối tân gấp nhiều lần hệ thống truyền tin của các văn phòng tổng trưởng nội các hoặc văn phòng tổng giám đốc đại công ty Hoa Kỳ nữa. Tất cả máy móc truyền tin nhự điện thoại vô tuyến siêu tầng số, dụng cụ ghi âm, dụng cụ phát thanh cho người ngoài không nghe trộm được, đều được thu gọn trong một cái thùng chữ nhật hao hao như cái máy thâu hình National 23 inch.

Điện thoại siêu tầng số trên trực thăng có thể liên lạc trực tiếp và tức thời với mọi số điện thoại ở trong và ngoài nước. Riêng đối với nhân viên văn phòng, ông Hoàng có thể nhìn thấy mặt họ trong khi nói chuyện (nhưng ngược lại, họ không nhìn thấy mặt ông), nhờ máy điện thoại-vidéo. Hơn thế nữa, các tài liệu, tin tức được ghi trên giấy, và phim ảnh cũng có thể được truyền đi bằng hệ thống điện thoại-vidéo này do hãng Grundig (3) chế tạo.

Máy điện thoại của ông Hoàng được gắn liền với cái máy Atéphone S.63 (4), một dụng cụ khuyếch âm nhạy cảm, nên mỗi khi nói chuyện không cần phải cầm máy lên. Ngoài ra, khi gọi một số cộng sự viên cao cấp hoặc liên lạc với các yếu nhân chính quyền và an ninh, ông không cần phải quay số như thường lệ, mà chỉ cần bấm một cái nút nhỏ. Ông Hoàng có thể gọi 200 số bằng phương pháp này trong khi những loại máy tối tân được bán trên thị trường chỉ gồm từ 50 đến 100 số là tối đa (5).

Máy điện thoại của nữ bí thư Nguyên Hương còn được trang bị thêm một số dụng cụ điện tử đặc biệt khác nữa. Đặc biệt nhất là dụng cụ "trả lời tự động" và "báo động".

Nguyên tắc hoạt động của máy "trả lời" rất giản dị : khi nàng không có mặt trong văn phòng mà có người kêu điện thọại thì máy sẽ đáp là nàng đi vắng, và yêu cầu người gọi trình bày ý muốn của mình, máy sẽ ghi âm, xong xuôi còn biết cám ơn và chúc mạnh khỏe nữa. Cách văn phòng hàng trăm cây số, Nguyên Hương quay số điện thoại của nàng ở văn phòng, bấm một cái nút dọc, máy sẽ phát lại những lời đã được ghi (6).

Trong máy điện thoại của nàng còn có một loại chuông riêng. Chuông này sẽ reo báo động khi có người lạ đột nhập vào văn phòng (7). Thành ra nàng ngồi trên trực thăng mà vẫn theo dõi được mọi việc xảy ra tại trụ sở.

Nguyên Hương đã gọi điện thoại được nhân viên phụ trách tổng đài điện thoại tại lữ quán Đại Lục. Nàng trao đổi mật ngữ. Giọng nói thánh thót của cô gái Huế cất lên :

- Thưa, tôi xin nghe.

Ông Hoàng hỏi:

- Có ai gọi dây nói cho Uyên-sơn chưa?

Cô gái Huế đáp trong điện thoại siêu tầng số VHF :

- Thưa, một người ngoại qụốc nói tiếng Anh. Y gọi cả thảy ba lần. Tôi cắm lên phòng Uyên-sơn những cả ba lần đều không có ai trả lời. Có lẽ hắn ngủ say hoặc đi vắng.

- Thôi được. Cám ơn cô.

Ông Hoàng quay về phía Nguyên Hương

- Hồi nãy ở phi trường tôi đã chụp được một bức thư viết tay của Uyên-sơn. Cô hãy dựa vào tuồng chữ của hắn để viết mấy giòng để trong phòng hắn ở Đại Lục, nói là hắn phải đến ngôi nhà số.... đường Trương Tấn Bửu vì lý do nghề nghiệp, và nếu sau 1 giờ sáng hắn chưa về thì tất bị nạn. Chỉ có thế thôi. Chúng ta sẽ ru ngủ được ông tổng giám đốc MI-6.

- Thưa, còn ông ?

- Lát nữa, tôi sẽ gọi điện thoại báo tin tôi đi đâu đêm nay.

- Thưa....

- Không hề gì đâu. Từ nhiều năm nay, anh chị em trong sở o bế tôi, canh giữ tôi, không cho tôi làm gì cả nên tay chân tôi trở nên lóng cóng và ngứa ngáy. Tôi cần tỏ cho mọi người biết tôi còn khỏe, còn đủ gân cốt bắn súng và đấu quyền với địch, chứ chưa gần đất xa trời như anh chị em tưởng đâu.

Nguyên Hương nín lặng, nhìn qua khung cửa trực thăng. Gió đêm thổi vù vù song nàng vẫn nghe được tiếng tim đập trong ngực nàng. Nàng bỗng nhớ lại lời nói tha thiết của Văn Bình. Chàng cho rằng sau nhiều năm giam hãm trong phòng giấy, ông Hoàng thèm hoạt động chỉ là một phản ứng tự nhiên. Nhưng đó là phản ứng của ngọn đèn cạn dầu, bùng lên thật mạnh rồi tắt.

Nàng thương ông tổng giám đốc như cha. Nàng không thể khoanh tay nhìn ông lao đầu vào nguy hiểm. Song nàng biết rằng can ông không phải dễ. ông Hoàng là một trong số những người cứng đầu nhất thế giới.

Trực thăng từ từ đáp xuống sân bay bê-tông bóng loáng.

Chú thích:

1. Cha đẻ của võ Panache (Pháp quốc) là Roger Lafond, quân nhân chuyên nghiệp, nhập ngũ năm 1933 với tư cách huấn luyện viên võ thuật đặc biệt về môn đấu kiếm, đấu gậy và quyền Anh. Lafond bị Đức cầm tù sau ngày Pháp thất trận. Đại chiến chấm dứt, Laíond trỏ về, sáng lập môn võ Panache mà ông nghĩ ra trong thời gian tù tội. Sau đó,

Lafond mở võ đường tại Ba Lê. Bí quyết của võ Panache là đánh thật nhanh vào điểm hụyệt và né cũng thật nhanh. Trước khi tấn công võ Panache thường đánh dứ (gần giống với hư quyền của Trung Quốc)

2. Về hoạt động của Sulivông, Sam Phuon, Quốc Tế Đạc Vụ, xin các bạn xem trong Bà Chúa Thuốc Độc (2 cuốn trọn bộ) đã xuất bản (1967)

3. Ngoài hãng Grundig ra, còn có điện thoại Picturephone của hãng Bell, và rẽ tiền hơn là Visiophone của hãng Pison Bros. Có tầm hoạt động từ 3000 đến 4000 mét.

4. Trên thị trường còn có những máy tương tự như Exterphone TAP-905; Amplimatic AIT, Assman T607, Ampliréseau Néophone.

5. Tối tân nhất hiện nay là máy Sélectaphone AIT có thể gọi tự động 50 số.

6. Ghi âm điện thoại thì có Polydict 818, Alibi-Nota F ở xa gọi về văn phòng để nghe băng ghi âm thì có máy Sentaphone 23 os, hoặc muốn ra lệnh về văn phòng thì có máỵ Alibi- Nora F.

7. Hệ thống canh phòng và báo động điện tử này hiện được thiết lập tại các văn phòng điệp báo trên thế giới với máy C.G.C.T. hoặc M.I6.
Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Đoàn Vũ Khỏa Thân - Người Thứ Tám Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Đoàn Vũ Khỏa Thân - Người Thứ Tám   Đoàn Vũ Khỏa Thân - Người Thứ Tám Icon_minitimeTue May 23, 2017 4:20 am

Người Thứ 8
Đoàn Vũ Khỏa Thân
Chương 6
Ngũ Nhật Hội


Nguyên Hương đậu xe trên đường Nguyễn Huệ. Từ nhiều tháng nay, từ ngày sở dọn về tòa nhà khang trang gần bờ Sông, chưa bao giờ nàng được hưởng cái thú đậu xe trên đường Nguyễn Huệ để vào Tax dán mắt vào tủ gương, chiêm ngưỡng và mua sắm những đồ làm đẹp sang trọng nhất và tối tân nhất, hoặc vào bên trong các tiệm giải khát cửa kiếng trong suốt, để ăn kem, ngắm trai thanh gái lịch lượn đi lượn lại như đèn cù giữa trăm ngàn màu sắc.

Nguyên nhân không phải vì nàng lái xe dở ẹt, chưa đủ bản lãnh len vào giữa đoàn xe dài ngoẳng. Nàng lái giỏi không thua nam giới (dĩ nhiên nàng không dám so sánh với Văn Bình), xe hơi của nàng thuộc loại ngắn và gọn, loại Honda đua, mui trần. Chiếc xe đua nhỏ xíu của nàng còn đắt tiền hơn khổng lồ uống xăng Mustang của Hoa Kỳ, vì nó là Honda 800-SS.

Có đủ 6, 7 ngàn đô-la để sắm xe đua hạng nhất, Nguyên Hương không thể không có tiền sắm quần áo và mỹ phẩm thượng đẳng được bầy bán trong khu vực trung tâm này của thành phố. Trên thực tế, nàng có hàng vạn đô-la, hàng triệu bạc Việt Nam, nàng muốn tiêu bao nhiêu cũng được, không ai ngăn cản, không ai kiểm soát nàng.

Song nàng không thể vào Tax, không thể bách bộ trong đồ mini-jupe trên đại lộ Tự Do, vì lẽ nàng phải làm việc suốt ngày đêm. Nàng không thể đậu xe trên đường Nguyễn Huệ vì cách đó một quãng ngắn là văn phòng bí mật của sở Mật Vụ, nhân viên của địch có thể nhận ra nàng và tìm cách ám sát. Kỹ thuật ám sát đã tiến đến trình độ tinh vi và khoa học vô song, chỉ một cái bút máy nhỏ, một viên lát-tích lớn bằng hòn bi của trẻ con cũng đủ làm chiếc Honda của nàng nổ tan thành nhiều mảnh vụn.

Một lý do khác đã khiến Nguyên Hương xa rời cụộc sống mua sắm và trưng diện của mọi phụ nữ cùng lứa. Lý do này là tình yêu. 30 tuổi, nàng còn trẻ, trẻ như thiếu nữ 23, 24 song trái tim nàng đã khóa chặt với hình bóng thường trực của Văn Bình ở trong.

Nàng buông ra một tiếng thở dài. Đại lộ Nguyễn Huệ ban ngày đông đảo, náo nhiệt chừng nào thì ban đêm vắng vẻ, yên lặng chừng nấy. Thiên hạ đã đi ngủ từ lâu. Nàng lên kiếng, cho tay vào hộc dưới táp-lô lấy cái xách (sac) bằng da hải cẩu sơ sinh, loại hải cẩu mới đẻ được một tháng, màu vàng nhạt sinh sống trên biển băng ở miền Bắc Gia nã đại. Trong một chuyến qua Mỹ, Văn Bình đã mua tặng nàng. Da hải cẩu sơ sinh không phải là da đắt tiền, vì da chồn biển (vison) còn đắt tiền cả chục lần. Chàng mua tặng nàng vì một lý do đặc biệt.

-    Anh đã đến tận nơi, theo chân những người săn hải cẩu. Suốt đời, anh sẽ không thể nào quên được cái cảnh hàng chục, hàng trăm thợ săn lực lưỡng tay cầm cây gậy kếch xù lục lọi trên một vùng băng cứng mênh mông trắng xóa. Kỹ nghệ thuộc da chỉ cần hải cẩu mới chào đời độ ba bốn ngày nên thợ săn chỉ cần giáng cây gậy vào đầu con vật, một lần, hai lần, ba lần cho đến khi nó hộc máu tươi và lăn ra, rồi cúi xuống, rút dao lột lấy da, mang về bán.

Nghe chàng nói, Nguyên Hương rú lên, tay che mắt:

-    Ghê sợ quá, em không thích cái ví hải cẩu này nữa đâu.

Văn Bình nâng cái xách lên ngắm nghía :

-    Anh mua cho em cũng vì lý do đó. Em nghĩ coi, anh cũng như em, chúng mình có thích bắn người, giết người đâu ? Vậy mà năm nào anh cũng dúng tay vào máu hàng chục người. Hàng năm vào khoảng 260 ngàn con hải cẩu sơ sinh bị thợ săn tàn sát. Hàng năm, con số điệp viên bị tàn sát trong cuộc chiến tranh bí mật, được mệnh danh một cách văn vẻ, giữa hai phe, cũng lên tới cả trăm. Cuộc tranh dành điệp báo cũng tàn nhẫn như cuộc săn hải cẩu sơ sinh ở miền Bắc Gia nã đại. Chúng ta không thích nhưng vì quyền sống của dân tộc, quyền sống của nhân loại tự do, chúng ta phải thích.

Nguyên Hương vuốt ve làn da hải cẩu mịn màng, giọng ngậm ngùi:

-    Tội nghiệp.

Văn Bình thở dài:

-    Nếu được mục kích tại chỗ, em còn tội nghiệp hơn nữa. Mới ra đời chưa đầy một tuần lễ, con hải cẩu còn nằm bên mẹ. Đột nhiên thợ săn xấn đến, giết chết nó trước mắt người mẹ. Làm nghề gián điệp cũng vậy, nếu bị bại lộ hoặc lâm nguy, nhân viên của sở như anh và em chỉ biết trông cậy vào tài năng bản thân và thần may rủi vì chính phủ không nhìn nhận cũng như không can thiệp.

Nguyên Hương dùng cái ví hải cẩu được mấy tuần lễ thì Văn Bình phải qua Thái Lan. Trở về, chàng mang bệnh mất trí. Nhiều lần nàng vào dưỡng đường thăm chàng, chàng đều ngồi yên một góc, không thốt nửa lời. Y sĩ tưởng chàng phải điều trị một thời gian dài mới có hy vọng bình phục.

Tình cờ cái xách tay bằng da hải cẩu đã giúp chàng ra khỏi cơn mơ hỗn loạn. Nàng trượt chân, đánh rơi cái xách xuống đất. Chàng cúi xuống nhặt. Trong những lần thăm trước, nàng âu yếm với chàng song chàng vẫn dững dưng như thể chàng chưa hề gặp nàng và yêu nàng. Mủi lòng, nàng bưng mặt khóc.

Chàng bèn hỏi:

-    Tại sao cô khóc ?

Nàng sụt sùi:

-    Vì em thương anh quá. Em không ngờ nghề điệp báo đã làm một người đàn ông khỏe mạnh, khả ái, văn võ toàn tài như anh trở thành bệnh nhân loạn trí.

-    Cô thương tôi hả ? Tại sao cô lại thương tôi ?

-    Em là Nguyên Hương đây mà !

-    Hừ, hồi nãy có một lão già là dò vào đây vỗ ngực tự xưng là ông Hoàng, ông Hoàng tổng giám đốc sở Mật Vụ, bây giờ đến lượt cô. Cô làm phiền tôi quá ! Đêm qua tôi ngủ không được phút nào. Vì phép xã giao, cô nên ra về, đóng cửa lại cho tôi ngủ.

-    Anh quên đấy. Đêm qua, anh uống thuốc ngủ nên có thức phút nào đâu.

-    Cô nói xạo.

-    Em nói thật mà.... Vì đêm qua, em đến thăm anh hồi 9 giờ, khi ấy anh đã ngủ. Em ngồi bên giường, canh cho anh ngủ. Đến 3 giờ sáng, anh mới trở mình, dậy đòi uống nước, uống xong, anh ngủ luôn một mạch. Em ra về hồi 6 giờ sáng trong khi anh còn ngủ.

-    Đúng cô là người mất trí. Đêm qua tôi thức, còn cô mới ngủ.

Nguyên Hương cầm cái xách ngắm nghía một hồi, rồi không hiểu sao nàng lại đánh rơi một lần nữa. Văn Bình lại cúi xống lượm. Chàng hơi nhăn mặt:

-    Hầu cô như thế này thì tôi điên mất.

Khi chàng ngẩng đầu lên, Nguyên Hương khựng người. Viên y sĩ chuyên trị thần kinh đứng bên cũng khựng người như nàng. Cặp mắt lờ đờ của bệnh nhân mất trí Văn Bình bỗng sáng vụt lên như trong con ngươi có ngọn đèn. Ngọn đèn của trí tuệ và tiềm thức bị tắt một thời gian đã bùng cháy lại mãnh liệt.

Bùng cháy lại mãnh liệt vì cái xách da hải cẩu màu vàng nhạt....

Bàn tay Văn Bình run run. Chàng nâng cái xách lên ngang mày, quan sát giây lâu. Rồi chàng từ từ mở ra. Tim Nguyên Hương đập nhanh như muốn phá toang lồng ngực nhảy ra ngoài. Giây phút quan trọng đã đến. Cơn bệnh mất trí giống như cái máy bị cắt dòng điện. Phải nối dây điện lại thì động cơ mới chạy. Theo lệnh y sĩ, các bạn thân của Văn Bình nối đuôi nhau vào thăm chàng, tìm cách gợi lại kỷ niệm đã qua, hầu giúp chàng nhớ lại. Nguyên Hương không ngờ cái xách da hải cẩu vô tri đã cứu được Văn Bình khỏi bệnh mất trí....

Cặp mắt bừng tỉnh của Văn Bình vừa thoáng nhìn thấy một mảnh quá khứ và kỷ niệm. Trong tâm trí chàng một sự biến đổi xảy ra. Nhưng cái xách bằng da hải cẩu mới sinh vẫn chưa đập mạnh vào ngũ quan mê ngủ của Văn Bình bằng cái ve hình trái tim dèn dẹt nhỏ xíu mà Nguyên Hương luôn luôn cất trong ví.

Cái ve này bằng pha lê trắng nõn và trong suốt, đựợc chế tạo đặc biệt để đựng nước hoa, nên mỗi khi ghé Pháp - quê hương của những loại nước hoa quý phái và đắt tiền nhất thế giới - chàng đều không quên đến miền Nam đến Grasse để mua nước cốt.

Đối với phụ nữ, không gì quý bằng nước hoa. Phụ nữ thích nhất nước hoa mà người khác không có. Văn Bình đến tận các hãng xưởng, tự tay pha chế. Pha chế nước hoa là nghệ thuật vô cùng khó khăn và cầu kỳ. Một nước hoa tốt thường gồm từ 80 đến 150 chất thơm khác nhau. Mọi thứ hoa nổi danh trên trái đất đều được xử dụng, như phong lữ thảo (géranium) của miền Bắc-Phi da đen, bạc hà từ Nhật Bản, Trung Hoa gởi tới, hoa hồng ở Viễn Đông, nước cốt hoa hồng của Bảo Gia Lợi, hồ phách và xạ hương Trung Hoa....

Nguyên Hương ưa nước cốt hoa nhài hơn mọi thứ nước hoa khác. Hoa nhài ở miền Nam nước Pháp được coi là thơm nhất thế giới. Văn Bình thường đến Grasse vào mùa Thu, mùa hái hoa nhài. Gần 10 ngàn bông hoa mới cân được một kí. Và phải dùng đúng một tấn nghĩa là một ngàn ký bông nhài mới ép được một ký rưỡi nước cốt. Nhưng đó là nước cốt hạng nhì, muốn có nước cốt thượng hảo hạng phải cho vào nồi cất như cất rượu. Và muốn có một ký nước cốt thượng hảo hạng này, người ta phải dùng từ 7 đến 10 tấn hoa nhài.

Cái ve thủy tinh cất trong xách Nguyên Hương đựng nước cốt thượng hảo hạng hoa nhài pha trộn với nhiều nước cốt khác. Xức vào, nhất là vào da và tóc, nó tiết ra một mùi hương thác loạn, ngửi thấy, đàn ông sẽ cồn cào ruột gan, mắt mờ, tay chân run run, máu nóng chạy rồn rập trong cơ thể. Văn Bình đặt tên cho ve nước cốt này là "thác loạn".

Chàng vừa tặng nàng một lọ nước hoa Thác Loạn gần nửa lít. Tuy vậy, Nguyên Hương chỉ dùng một cách dè xẻn. Hồi tối trước khi lên xe đến phi trường Tân Sơn Nhứt để gặp Uyên-sơn, nàng lóng cóng mở nút, giốc ngược ve nước hoa, khiến cái chai đầy ắp trở thành chai không trong nháy mắt.

Mùi thơm của nó thật độc đáo, và lạ lùng. Đang ngủ li bì, con voi khổng lồ trong rừng rậm cũng có thể vùng dậy trước mùi thơm Thác Loạn. Nhờ một sự ngẫu nhiên khác thường, Văn Bình được ngửi mùi thơm Thác Loạn.

Chàng mở xách tay ra, sắc mặt đột nhiên biến đổi. Chàng cầm ve nước hoa đưa lên mũi, rồi ngoảnh nhìn Nguyên Hương. Rồi chàng buột miệng :

-    Mùi thơm này quen quá ! Quen quá !

Nguyên Hương mừng đến chảy nước mắt. Vậy là Văn Bình sắp sửa bình phục. Nàng muốn chạy băng ra đường la lớn cho toàn thể mọi người nghe :

-    Sung sướng quá ! Sung sướng quá ! Trời ơi !

Đêm nay, trên đường Nguyễn Huệ, Nguyên Hương có cảm tưởng như mùi thơm của nước hoa Thác Loạn được hòa trộn vào không khí, chan hòa trong cảnh vật.

Lữ quán Đại Lục còn mở cửa. Nguyên Hương thản nhiên đi thẳng lại cầu thang. Bộ xiêm y sang trọng, và nhất là sắc đẹp lộng lẫy và quý phái của nàng đã giúp nàng qua khỏi nhân viện gác cửa dễ dàng. Nàng không lấy làm ngạc nhiên. Nhan sắc phụ nữ vẫn được coi là cuốn sổ thông hành quốc tế từ xưa đến nay. Cho dẫu nhân viên gác cửa là chú lính da đen cộc cằn, thô bỉ của tòa bin-đinh Mỹ bất khả xâm phạn, Nguyên Hương vẫn có thể xử dụng pháp thuật cao siêu của nàng để bước vào tự do. Phương chi đây chỉ là khách sạn....

Nguyên Hương ung dung lên lầu. Đế giầy mỏng của nàng bước êm ru trên thảm ni-lông đỏ. Nàng dận giầy thật thấp, vậy mà dáng dấp của nàng vẫn cao, trông như đàn bà Tây phương. Trình độ cân đối và nẩy nở của nàng cũng chẳng thua đàn bà Tây phương là bao, và ở một số ưu điểm, còn hơn nữa là khác. Nàng không cần chầu chực tại dưỡng đường giải phẫu thẩm mỹ mà cơ thể vẫn tròn trịa, vẫn căn cứng, vẫn làm đàn ông thuộc mọi lứa tuổi mù mắt và mắc bệnh căng máu....

Đến phòng Uyên-sơn, nàng dừng lại nghe ngóng. Nàng đặt tay lên quả nắm cửa. Kinh ngạc xiết bao, cách cửa từ từ đẩy vào trong.

Nàng định lùi lại nhưng không kịp nữa. Nàng định rút súng ra nhưng cũng không kịp nữa. Nàng chỉ chậm hơn đối phương một vi phân tích-tắc đồng hồ. Nên càng đành phải nuốt hận.

Một nòng súng chĩa qua khung cửa mở hé. Một tiếng nói cất lên nho nhỏ :

-    Mời cô vào trong phòng.

Khi ấy, Nguyên Hương mới nhận chân được tài ba lỗi lạc của Văn Bình. Kể ra, nàng đã có nhiềụ dịp thưởng thức và khâm phục chàng. Tuy nhiên, có lẽ đây là lần thứ nhất nàng mới nhận chân được sự tối cần thiết, tối quan trọng của giác quan thứ sáu trong nghề gián điệp. Trong số nữ nhân viên Biệt Vụ, Nguyên Hương là người có đệ lục quan khá nhậy cảm. Nàng thường tiên đoán được sự việc xảy ra.

Nhưng so sánh với đệ lục quan của Văn Bình, nàng chỉ được coi là cô bé học trò khờ khạo. Nếu có Văn Bình một bên, nàng đã có thể thoát hiểm. Vì mũi chàng, tai chàng, mắt chàng có thể ngửi thấy, nghe thấy, nhìn thấy, qua cánh cửa và bức tường lữ quán. Và chàng tìm cách phản công...

Cho dẫu bị dí súng xuất kỳ bất ý chàng vẫn phản công được như thường. Nhiều khi kẻ địch bị chàng đánh rơi súng mà không biết. Văn Bình đã dậy Nguyên Hương một số tư thế bí truyền để đoạt khí giới của địch, và nàng học đâu nhớ đấy. Tuy vậy, chàng vẫn chưa hoàn toàn bằng lòng. Chàng lắc đầu ngao ngán :

-    Em có thể phản ứng nhanh hơn nữa không ?

Nguyên Hương đáp :

-    Hết sức rồi, anh ạ.

-    Thật là khó hiểu. Theo sự cấu tạo thiên nhiên, đàn bà thường có phản ứng nhanh hơn đàn ông. vấn đề nhanh chậm rất quan hệ trong việc đoạt súng của địch. Địch kề súng vào người, ngón tay đã đặt lên cò, chỉ ấn nhẹ là đạn nổ, ta phải làm cách nào để khi địch lảy cò thì viên đạn bắn trệch ra ngoài. Nào, em tập lại lần nữa đi.

Nhưng tập lại lần thứ 10, lần thứ 20, lần thứ 50, nhưng vẫn không theo kịp Văn Bình. Chàng nỗi nóng, gắt um lên. Như đứa trẻ, nàng òa lên khóc.

Kỷ niệm nên thơ ấy sống lại trong lòng nàng khi họng súng của địch được chĩa vào ngực nàng. Có lẽ vì vậy mà nàng quên cả phản công.

Cửa mở rộng ra. Nguyên Hương khoan thai bước vào. Nàng hơi tái mặt song vẫn giữ nguyên bình tĩnh. Địch giơ súng hăm dọa, nghĩa là địch chưa định giết nàng. Nghĩa là nàng đang còn cơ hội chuyển bại thành thắng.

Mùi thơm nước hoa nhài thượng lưu hợp với mùi thơm da thịt nàng tạo thành một mê hồn hương tràn ngập gian phòng khách sạn. Nàng nhận thấy tác động mãnh liệt của mùi thơm này trong tia mắt đột ngột biến đổi của đối phương.

Hắn đạp cho cánh cửa xập lại. Trọng phòng chỉ có hắn và nàng. Hắn cao hơn nàng một cái đầu, cái sơ-mi cụt tay trắng để lộ những bắp thịt rắn chắc và bộ ngực nở nang. Bộ tóc húi cua, đôi vai dầy, sống mũi và vành tai lỏng lẻo chứng tỏ hắn là môn đệ trung thành của võ đài. Cách cầm súng ung dung và dáng dấp lạnh lùng của hắn cũng ngầm báo cho nàng biết hắn là kẻ chuyên nghiệp trong nghề xử dụng đạn chì.

Mắt hắn chớp vài ba cái rồi trở lại như cũ. Hắn vừa chế ngự được tình cảm sôi sục. Tuy nhiên, Nguyên Hương vững tin vào bản lãnh thiên phú của nàng. Nàng biết rằng địch có thể kiểm soát được sự thèm khát trong phút chốc mà thôi. Đến một mực độ nào đó hắn sẽ không điều khiển lý trí được nữa. Khi ấy sự thèm muốn sẽ trào ra như trận lụt cuốn phăng những con đê kiên cố nhất. Anh hùng cái thế hét một tiếng là trăm vạn hùng binh bỏ chạy mà còn bị khuất phục dễ dàng, huống hồ cái ngữ đàn ông đầy thịt này....

Hắn hươi tròn khẩu súng trái khế 9 li:

-    Cô là ai ?

Ngay trong phút đầu tiên, hắn đã phạm một lỗi lầm nghề nghiệp không thể tha thứ được. Lẽ ra hắn không nên hỏi nàng là ai. Vì hỏi như vậy hắn đã dại dột thú nhận là chưa biết ất giáp gì về nàng.

Nguyên Hương bèn hỏi ngược lại:

-    Còn ông, ông là ai ?

Nàng điểm câu hỏi bằng nụ cười quyến rũ. Hắn thè lưỡi liếm mép như thể cả ngày chưa được hớp nước, cử chỉ này không xa lạ đối với Nguyên Hương. Đàn ông bối rối trước đàn bà đẹp thường có cử chỉ như hắn. Sự bối rối dầu chỉ là trong vài ba giây đồng hồ phù du sẽ có thể giúp Nguyên Hương lấy lại vai trò chủ động.

Lợi dụng tình thế, nàng tiến lên một bộ. Gã đàn ông lắc lắc khẩu súng :

-    Đứng lại, cô làm gì thế ?

Hắn đinh ninh nàng tiến lên để giằng lấy khẩu súng. Hắn không thể nào ngờ được nàng tiến lên một bộ để phản công bằng bát quái quyền. Bát quái quyền là một trong các bộ môn võ thuật kỳ bí của nước Trung Hoa cổ xưa, và từng được coi là tiền thân của nhu đạo hoặc karatê hiện đại.

Nguyên Hương, nhờ sự chỉ bảo tận tâm của Văn Bình, đã nắm được tinh túy của bát quái quyền. Theo chương trình huấn luyện dài hạn của sở, cứ 6 tháng nhân viên cao cấp văn phòng phải đến phòng tập một lần dượt lại những thế võ đã học, và học thêm một số thế võ mới. Hôm ấy, Nguyên Hương đang tập đánh bằng gót chân và bàn chân. Văn Bình đứng nhìn nàng tập rồi nhăn mặt:

-    Không được.

Nàng phụng phịu :

-    Đối với anh thì cái gì của em cũng là không được cả.

Văn Bình phì cười:

-    Em nói sai rồi. Cái gì của em cũng được cả. Trừ phi anh điên anh mới chỉ trích cái gì của em. sở dĩ anh nói "không được" vì anh nhận thấy phụ nữ không thích hợp với môn đá.

Nguyên Hương đỏ mặt đứng yên. Trong thâm tâm, nàng nghĩ như chàng từ lâu. Không có gì bất tiện cho bằng phụ nữ dận giày cao gót, ngón chân nuôi móng dài lê thê và tô son láng bóng, phóng bàn chân lên trong thế độc cước hoặc song cước. Tư thế này làm đàn bà mất hẳn vẻ đẹp tha thướt thiên nhiên. Hơn thế nữa, nó còn ảnh hưởng nguy hại đến khả năng sinh lý và làm cho thân thể xiêu lệch, mất vẻ cân đối thẩm mỹ.

Văn Bình nắm bàn tay búp măng của nàng, giọng âu yếm :

-    Để anh dậy em nhá ! Phụ nữ chỉ thích hợp với một số thế khóa atêmi của nhu đạo. về quyền Tàu thì có Phuợng chỉ bí pháp (1). Tuy nhiên học bát quái quyền vừa nhanh lại vừa đẹp hơn. Anh bảo đảm với em chỉ một vài ngày là em am hiểu 8 thế căn bản của bát quái quyền. Và từ 8 thế căn bản này, em có thể biến hóa thành 64 thế, thừa đủ để đánh ngã đối phương nam giới trong nháy mắt.

Không phải lần đầu Văn Bình nhắc đến bí quyết của bát quái quyền, nhưng trong những lần trước, chàng chỉ nói phớt qua rồi quên luôn. Từng học võ lâu năm, và tham khảo nhiếu sách võ” Nguyên Hương đã biết sự lợi hại ghê gớm của bát quái quyền mà 8 thế căn bản dựa trên 8 quẻ của Kinh Dịch là càn, khảm, cấn, chấn, tốn, ly, khôn, đoài.

Nàng lại biết bát quái quyền ra đời từ gần năm ngàn năm trước, dưới triều vua Phục Hy, một trong Ngũ Đế (2). Trong 8 thế căn bản, thì phân nửa là tấn công, và hầu hết thế công cũng như thế thủ đều dùng hai bàn tay.

Hồi ở Hoa Lục, Văn Bình đã mầy mò đến tận tỉnh Hồ-Bắc để khảo cứu vệ bát quái quyền. Vì sau hàng ngàn năm, bát quái quyền đã thay hình đổi dạng, riêng tại quê hương của nó là Hồ-Bắc là còn một số võ sư chính thống (3). Dựa vào bát quái quyền, Văn Bình đã sáng chế ra một số đòn thần tốc, hễ đánh là chết, ít ra cũng trọng thương, hễ đở là đối phương bị hóa giải dễ dàng. Tuy nhiên, chàng chưa hề truyền thụ lại cho ai.

Đúng như Văn Bình trù liệu, Nguyên Hương chỉ cần 48 giờ đồng hồ để đi sâu vào thế giới kỳ lạ của bát quái quyền. Sau nhiều ngày tháng tập luyện kế tiếp, nàng đã tạo được hai bàn tay nửa cứng, nửa mềm, khi cứng có thể đánh nát sọ đối phương, khi mềm có thể hút đòn đối phương như thể được thoa bằng chất keo thật dính.

Vì vậy, khi nàng tiến lên một bộ, vung hai bàn tay xòe rộng trong thế "rồng xanh ngoảnh mặt", gã đàn ông bị thịt hoa cả mắt, chưa kịp lảy cò súng thì bàn tay phải cầm súng của hắn đã bị đau thấu xương. Hắn nghiến răng chịu đau để giữ khẩu súng khỏi rơi. Nhưng cũng trong giây đồng hồ ấy, bàn tay trái của Nguyên Hương đã đập vào giữa mặt hắn.

Hắn loạng chọang muốn ngã song đã kịp thời xuống tấn để sửa soạn tấn công. Song Nguyên Hương đã tiến lên một bộ nữa với thế "hắc hổ xuất động", cả hai bàn tay của nàng đều bổ vào mặt hắn. Gần 80 kí thịt xương cứng rắn bỗng trở thành mềm nhũn như bún. Hắn rú lên một tiếng ngắn rồi vập đầu vào cánh cửa.

Nguyên Hương dựng hắn ngồi đậy, tát mạnh vào má cho hắn tỉnh lại. Hắn nhìn nàng bằng cặp mắt sửng sốt hải hùng. Có lẽ sự sửng sốt hải hùng của các nạn nhân sống sót trong hai vụ oanh tạc bom nguyên tử tại Trường Kỳ, Quang Đảo trong thế chiến thứ hai cũng chỉ đến thế là cùng.

Sở dĩ hắn kinh ngạc ngoài sực tưởng tượng vì hắn tưởng nàng là phụ nữ chân yếu tay mềm, hoặc chỉ biết sơ sài dăm ba miếng võ tự vệ. Thế tấn công bằng bát quái quyền của nàng đã làm tinh thần hắn hoàn toàn bấn loạn.

Nguyên Hương trả khẩu súng cho hắn :

-    Đáng lý tôi giáng thêm đòn nữa cho anh táng mạng, nhưng vì lòng nhân đạo tôi tha chết cho anh.

Hắn chống tay đứng lên, đút khẩu súng trái khế vào túi, rồi thất thểu mở cửa ra ngoài. Nguyên Hương mỉm cười nhìn theo. Nàng đã đọc thấy ý nghĩ trong đầu hắn. Hắn chỉ bước đến gần cửa thì quay ngoắt lại, khẩu súng lại lọt vào lòng bàn tay.

Nhưng Nguyên Hương đã phá lên cười khanh khách. Biết bị lỡm, gã đàn ông cúi xuống, dùng ngón tay hất cối đựng đạn ra. Bên trong không còn viên đạn nào cả. Trước đó một phút, khẩu súng chưa bị đánh rớt xuống sàn gác còn chứa đầy đạn, loại đạn 9 li có sức tàn phá mãnh liệt.

Hắn kêu lên tiếng "trời ơi" rồi hốt hoảng mở cửa, toan chạy trốn. Nguyên Hương đã nắm áo hắn lôi lại:

-    Thế nào, anh định chạy đi đâu ?

Cặp mắt hắn mất hết thần sắc :

-    Tôi xin cô....

Nàng dằn từng tếng :

-    Anh đã thấy chưa ? Lần thứ hai, tôi tha chết cho anh. May mà anh gặp tôi, chứ nếu gặp người khác thì phút này anh đã nằm thẳng đơ trên đất.

-    Vâng, tôi biết tài nghệ và lòng khoan dung của cô rồi. Tôi chỉ là nhân viên thừa hành....

-    Hừ, Nguyễn Chấn đã lừa anh vào chỗ chết. Lát nữa, anh trở về tay không, Nguyễn Chấn sẽ tặng anh một viên đạn. Anh hiểu chưa?

Gã đàn ông tái mặt không còn hột máu. Nguyên Hương đã nói đúng tâm tư hắn. Hắn được lệnh đến phòng của Uyên-sơn ngồi chờ, dẫu phải chờ đến sáng, nếu có ai tới thì dùng võ lực bắt mang đi. Sự việc đã xảy ra khác hẳn.... Thất bại, hắn không dám trở về nữa. Kỷ luật của Quốc Tế Đặc Vụ được tượng trưng bằng cái đầu lâu đen sì kê trên hai khúc xương tréo cũng đen sì....

Nguyên Hương chỉ mất một phút đồng hồ để thuyết phục gã thuộc viên của Quốc Tế Đặc Vụ. Hắn ngoan ngoãn theo nàng xuống cầu thang. Trước khi ra khỏi phòng, nàng không quên để lại trên bàn bức thư ngắn giả mạo tuồng chữ của Uyên-sơn. Bức thư này sẽ đánh lạc hướng tìm tòi của đồng minh MI-6.

Gió mát thổi vù vù quanh công trường Lam Sơn. Giữa đêm khuya vắng lặng, tiếng giầy đế cờ-rếp của gã đàn ông vẫn kêu vang vang như thể đe da đóng cá sắt. Nguyên Hương đối xử dịu dàng và rộng rãi với hắn không phải vì nàng ghét dúng tay vào sự giết chóc. Nàng đã sống quá lâu trong nghề xung đột bóng tối để hiểu rằng tình nhân đạo chỉ là danh từ trống rỗng và khôi hài.

Sở dĩ nàng dùng lời lẽ ngọt ngào vì nhận thấy không còn giải pháp nào khác. Hắn không đáng tội chết, nhưng nếu nàng tha hắn, kế hoạch của ông Hoàng có thể bị bại lộ. Để bảo vệ bí mật, nàng phải giết hắn. Nhưng giết hắn rồi mang xác đi đâu ? Chỉ còn cách chuyển lên mái nhà. Lực lượng an ninh ở trung tâm thành phố rất đông đảo, họ sẽ nhìn thấy và sẽ nêu ra nhiều câu hỏi soi mói bất lợi. Cho dẫu không gặp nhân viên an ninh chính quyền, Nguyên Hương vẫn gặp nhiều khó khăn lớn lao khác. Khó khăn lớn lao nhất là tuy giỏi võ, nàng vẫn là đàn bà, nàng không thể khiêng gã đàn ông lên vai vượt mái nhà nhanh nhẹn như Văn Bình.

Thượng sách là lừa hắn ra khỏi lữ quán. Và hắn đã vui vẻ đi theo nàng.

Đến giãy quán bán hoa Nguyễn Huệ, Nguyên Hương bước rảo lại chiếc xe hơi Honda. Nàng phải đi thật nhanh vì sợ gã đàn ông đổi ý kiến. Nếu hắn bỏ chạy, bắt buộc nàng phải đuổi theo quật ngã hoặc nổ súng.

Nàng mở cửa xe, nhường hắn trèo lên trước. Trước khi cho máy nổ, nàng mở một cái nút ở táp-lô trông giống như nút mở tắt máy thâu thanh xe hơi. Nút này được nối liền với dụng cụ đặc biệt có nhiệm vụ báo động nếu trong khi nàng vắng mặt kẻ gian mở cửa xe, mở nắp ca-bô để đặt chất nổ. Dụng cụ này có thể "nhìn thấy" bất cứ vật lạ nào được gắn vào dưới gầm xe. Trong trường hợp xe hơi bị gắn mìn, một hồi kèn êm tai sẽ nổi lên.

Từ ngày nhiều vụ mất trộm xe hơi xảy ra trong thành phố cùng với nhiều vụ gắn chất nổ vào xe hơi của sở Mật Vụ, ông Hoàng đã sai chế tạo dụng cụ "mắt thần" tối tân này. Bởi vậy, tỷ lệ phá hoại và mưu sát nhân viên Mật Vụ đã được giảm xuống mức tối thiểu.

Động cơ chiếc Honda 800-SS reo lên bum bum. Tiếng máy nổ tròn trịa và ấm áp như có mãnh lực thầm kín lôi kéo gã đàn ông trở về thực tại. Hắn bắt đầu cảm thấy dại dột. Hắn liếc nhìn Nguyên Hương, rồi hối hả mở cửa xe.

Song Nguyên Hương đã hành động đúng lúc khiến gã nhân viên Quốc Tế Đặc Vụ trở tay không kịp. Đề máy xong, nàng quật trái bàn tay vào cuống họng hắn. Hắn hự một tiếng rồi gục xuống. Hắn sẽ ngủ say hàng giờ. Nàng sẽ lái về một địa điểm định sẵn, nhốt hắn vào phòng giam riêng để khai thác. Có thể hắn sẽ được trả tự do sau khi công tác hoàn tất. Nhưng cũng có thể hắn phải đi thẳng một mạch sang thế giới bên kia.

Nguyên Hương nhìn đảo một vòng. Chung quanh không có một ai. Nhân viên cảnh sát đang đứng ở xa, tận Tòa Đô Chánh. Nếu có con mắt điện tử họ mới có thể nhận rõ bên trong chiếc Honda 800-SS nhỏ xíu.

Nàng mở điện thoại siêu tần số, gọi cho ông tổng giám đốc.

-    Thưa ông, xong rồi.

Giọng ông Hoàng khàn khàn (có lẽ vì ông đã hút đến điếu xì-gà Ha-van thứ mấy chục trong ngày).

-    Gặp người của Nguyễn Chấn không ?

-    Thưa có. Tôi đã bắt mang theo.

-    Tốt lắm. Cô chở hắn về Ngô Đức Kế, giao cho nhân viên trực. Nhớ chích thuốc ngủ cho hắn.

-    Thưa, vẫn tiến hành kế hoạch ?

-    Vẫn. Tôi đang chờ cô.

Nguyên Hương đau nhói nơi tim. ông Hoàng đã quyết đơn thương độc mã nhảy vào hang cọp. Nàng cố can gián song ông không chịu nghe.

Nàng thở dài, dứt xe ra khỏi lề.

Kể ra, Nguyên Hương đã lo lắng hơi quá đáng. Là người thân của ông tổng giám đốc già nua, nàng có quyền lo lắng. Song nàng quên rằng ông Hoàng chỉ già tuổi chứ chưa già tâm trí. Về mưu lược, ông vẫn sắc bén, hữu hiệu hơn bao giờ hết. Cho nên ông nhảy vào hang cọp thật đấy nhưng không e ngại vì ông đã mang theo đầy đủ phương tiện và dụng cụ thích ứng để giết cọp con.

Ông Hoàng lái xe vào vệ cỏ đường Trương Minh Giảng, sắp dấn thân vào nguy hiểm, ông bỗng cảm thấy trong lòng thơ thới. Lâu lắm, ông không có dịp dượt lại tài bắn súng và đấu quyền. Và cũng từ lâu lắm, ông không có dịp đi một mình, lái xe một mình, theo một lộ trình do ông tự ý định đoạt.

Thật vậy, chức vụ tổng giám đốc Sở Mật Vụ đã bắt buộc ông phải giữ an ninh tối đa. ông đi đâu, vệ sĩ bén gót theo đến đấy. Trong thời gian gay cấn đầu tiên, vệ sĩ mặc thường phục ngồi chật ních xe hơi, lấy xương thịt làm mộc che cho ông. Đến khi sở có tiền, và sắm được xe hơi bọc thép dầy, sườn xe, và kiếng xe đạn bắn không thủng, con số vệ sĩ tháp tùng được giảm xuống còn 4 người.

Sau đó, Lê Diệp đã thay đổi hoàn toàn. Chàng sếu vườn của sở Mật Vụ đuổi hết đám vệ sĩ sau khi thử tài họ. Vệ sĩ nào cũng có hàng tá bằng cấp cận vệ chiến mà chỉ chịu đựng một phút đồng hồ với Lê Diệp. Chàng cho rằng sự hiện diện của bọn giá áo túi cơm càng làm cho ông Hoàng gặp khó khăn thêm. Từ đó, Lê Diệp trở thành con bài trùng của ông Hoàng. Chàng theo ông ngày cũng như đêm, như bóng với hình. Vì chàng còn độc thân, lại không bận bịu tình yêu, bận bịu rượu huýt-ky như Văn Bình, nên nhiều khi ngủ luôn tại sở, trên cái ghế bố kê cạnh văn phòng. Nhưng Lê Diệp đã gặp nạn....

Ông Hoàng bước xuống xe.

Hai con chó lặng lẽ nhảy xuống theo. Hai con chó này là sức mạnh kinh khủng có thể bảo vệ ông Hoàng hữu hiệu hơn một tiểu đội vệ sĩ đai đen nhu đạo, trang bị khí giới tối tân.

Chúng không phải bẹt-giê giống Đức, nổi tiếng trên thế giới. Tuy nhiên, chúng còn lanh lẹ hơn bẹt-giê, tinh khôn hơn bẹt-giê nhiều lần. Chúng là chó Nhật, song không phải loại chó Nhật thấp nhỏ, lông dài chấm đen và đỏ, khuôn mặt hiền lành, loại chó làm kiểng dành riêng cho phụ nữ đài các, giống như chó Pê-ki-noa.

Mà là chó Nhật chiến đấu. Chó săn Nhật gồm bốn thứ. Chó săn nhỏ nhất là Shiba-lnu, cao độ 40 phân tây, tai nhỏ, hình tam giác, đuôi dài vắt vẻo, lông muối tiêu hoặc xám, bình thường rất vui vẻ, ưa đùa nghịch, nhưng khi lâm trận không thua cọp beo. Nó ra đời từ thế kỷ thứ 5 trước Tây lịch, từ Trung Quốc du nhập vào đảo Phù Tang. Lớn hơn Shiba-lnu là giống Hokaidô-lnu, cao độ 50 phân tây, mõm nhọn hoắt, mắt nhỏ, tròng nâu sẫm lông dựng tua tủa màu muối tiêu, xám hay vằn, sinh sống tại đão Hokaido. Giống này lớn con, và khỏe mạnh, lại rất trung thành với chủ. Nhiều con Hokaidô-lnu đã liều thân cứu chủ, và còn được ghi danh trong sử sách Nhật Bản.

Chó lớn nhất là Akita-lnu, cao độ 70 phân, xương sống cứng như cột sắt, mắt nhỏ hình ba cạnh, tai nhỏ và dây bản, lưng đầy lông cứng, phía dưới có lông măng mịn màng. Trong quá khứ, nó sống tại miền Đông-Bắc. Từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 109, nó được giới võ sĩ đạo dùng để đánh trận. Hiện nay chính phủ Nhật liệt giống Akita này vào loại súc vật hữu ích được bảo vệ. Giống dữ nhất là Tôsa, cao độ 60 phân tây, nặng chừng 38 kí, người tròn lẵn, mõm vuông, tai cụp, lông dày và ngắn, màu đỏ. Nó ra đời vào cuối thế kỷ 19 do sự lai giống giữa chó bẹt-giê tây phương và chó địa phương.

Hai con chó của ông Hoàng thuộc loại Tôsa, Shiba và Akita phối hợp. Đích thân Văn Bình qua Nhật, đến một trại nuôi chó lớn ở ngoại ô Quang Đảo, chọn mua và mang về Sàigòn. Ban Huấn Khuyển của sở phụ trách nuôi nấng từ khi chúng mới được 1 tháng, trông nom từng li từng tí, bắt đầu từ tháng thứ hai đã tập tành. Giờ đây, chúng đã được 3 năm. Tuổi chó được tính khác tuổi người, năm thứ nhất của chó tương đương với 25 năm của người, còn năm thứ hai trở đi thì mỗi năm của chó bằng 5 năm của người nên chó 3 năm có thể được coi là tương đương với 35 tuổi của người. Người 35 tuổi đã chín chắn, cơ thể và trí thông minh nẩy nở cực độ nên hai con chó Tôsa của ông Hoàng được xếp vào loại bẹt-giê dũng mãnh nhất của sở.

Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Đoàn Vũ Khỏa Thân - Người Thứ Tám Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Đoàn Vũ Khỏa Thân - Người Thứ Tám   Đoàn Vũ Khỏa Thân - Người Thứ Tám Icon_minitimeTue May 23, 2017 4:20 am

Đặc điểm của hai con Tôsa là một đực, một cái. Chúng là vợ chồng nên bảo vệ nhau hết mình. Chúng không sủa gâu gâu như mọi loại bẹt-giê thông thường. Khi nào chúng cũng im lặng. Chúng nhảy ào lại, cắn cổ nạn nhân chỉ gây ra tếng động như gió thổi.

Giống chó chỉ phân biệt được khoảng nửa triệu mùi vị khác nhau (4): tuy nhiên, cặp chó Tôsa này lại phân biệt được trên ba triệu, nghĩa là nhiều hơn nữa.

Chương trình huấn luyện đã được hoạch thảo và tiến hành một cách khoa học, tinh vi và kiên nhẫn. Ngoài các nhân viên thường trực của sở, ông Hoàng còn cho mời viên phụ tá của ông Hanssman, tổng giám đốc một trung tâm dạy chó lừng danh nhất nhì thế giới đến tận Sàigòn để giám sát việc huấn luyện (5).

Sau khi nhảy xuống đất, cặp Tôsa liếm giày ông Hoàng rồi tách làm hai, con đực chạy trước, con cái le te theo sau, ông Hoàng đi giữa. Với thế tiền hô hậu ủng thầm lặng này, ông Hoàng có thể hoạt động trên đất địch như vào chỗ không người. Kẻ nào xấn đến, cặp chó chỉ rướn lên là xô ngã. Trong tầm xa một trăm thước, chúng còn đánh hơi thấy người ẩn núp để bắn lén nữa.

Mấy phút sau, ông Hoàng quẹo bên phải vào đường Yên Đỗ.

Tòa biệt thự ba tầng mà ông Hoàng sắp đột nhập đứng sừng sững phía trước. Mặt tiền của nó ngoảnh ra đường Trương Minh Giảng, gần góc đường Kỳ Đồng. Đề phòng người lạ ở trên lầu dùng viễn kính chung quanh nên ông Hoàng đi len trong hẻm Yên Đỗ.

Ông đang chờ cơ hội thuận tiện để băng qua đường và bắt đầu công cuộc đột nhập.

Cơ hội thuận tiện này đã đến.

Mọi đèn điện trong khu vực đột nhiên tắt ngúm.

Đó không phải do ngẫu nhiên hoặc máy móc trục trặc mà ra. Mà là một phần trong kế hoạch hành động của ông Hoàng.

Trước đó đúng 3 phút, Nguyên Hương đã có mặt gần trạm biến điện của khu vực Trương Minh Giảng. Công việc của nàng rất giản dị: mở cửa vào và tìm cách cúp hơi.

Cửa trạm biến điện được khóa kiên cố. Nhưng loại khóa này đã trở thành đồ chơi trẻ con đối với chuyên viên điệp báo như Nguyên Hương. Nàng đã trù tính kỹ càng, từ lúc nàng đậu chiếc Honda 800-SS đến lúc đèn điện phụt tắt chỉ mất từ 120 Đến 180 giây đồng hồ.

Tuy nhiên, trở ngại bất thần đã hiện ra. Nàng không ngờ trước trạm cũng có người gác, và là người gác cầm súng. Giờ giới nghiêm đã đến từ lâu, đường xá vắng teọ, vắng ngắt, nếu nàng ló mặt ra, người gác sẽ nhìn thấy và kêu lớn "ai đó, đứng lại". Nàng có đầy đủ giấy tờ cần thiết, chỉ đọc sơ qua người gác cũng nổ đom đóm mắt. Song le công việc sẽ bị trì chậm.

Và nhất là bị bại lộ.

Vì vậy, nàng phải kiếm phương kế thực hiện kế hoạch một cách thần tốc và êm thắm.

Đứng trong hẻm nhìn ra, nàng thấy rõ khẩu tiểu liên M.16 trong tay người gác, một thanh niên cao lớn. Hắn cách nàng gần 50 thước. Nếu khoảng cách được thu hẹp vào 5 hoặc tối đa 10 thước, nàng có thể thừa cơ hắn quay lưng lại, phóng vọt ra tặng hắn một atêmi. Hắn sẽ ngã vùi xuống cỏ, ngủ luôn cho đến sáng.

Đằng này, hắn lại ở quá xa. Hắn lại đứng nguyên một chỗ, mặt hướng về phía nàng.

Nhìn đồng hồ, Nguyên Hương chau mày, lẩm bẩm :

- Muộn mất rồi. Mình không thể đợi thêm nữa.

Nói đoạn, nàng xăm xăm bước ra khỏi hẻm tối. Quả như nàng tiên đoán, nàng mới đi được một quãng ngắn thì gã đàn ông đã quát to :

- Ai đó ? Đứng lại !

Nguyên Hương đứng lại và đáp :

- Thưa ông, tôi đây.

Hắn tiến về phía nàng. Nguyên Hương khấp khởi mừng thầm. Nàng có thể quật hắn ngã dễ dàng như lấy mù-soa trong túi.

Nhưng chỉ tiến được mấy bước, hắn đứng lại, chĩa súng, giọng chát chúa :

- Cô có biết mấy giờ rồi không ?

Nàng đáp :

- Thưa, đang giờ giới nghiêm.

- Phải rồi. Phiền cô cho xem giấy tờ.

- Thưa, giấy tờ đây.

Gã đàn ông thiếu kinh nghiệm đã phạm một lỗi lầm ấu trĩ. Hắn chìa tay ra toan đón xấp giấy do Nguyên Hương đưa thì một trận gió đã thổi vèo vào cổ. Trận gió này là một thế đánh sấm sét của bát quái quyền nhằm triệt hạ đối phương trong chớp mắt bằng sống bàn tay quét ngang yết hầu. Thế võ này mang cái tên thi vị là "phượng hoàng vỗ cánh". Chim phượng hoàng vừa vỗ cánh bay tới thi gã đàn ông cân nặng 70 kílô đã bị bắn vào bức tường gạch quét vôi trắng trồng đầy hoa ti-gôn. Hắn chỉ kêu được hai tiếng ngắn :

- ồi cha !

Rồi nằm thẳng đơ ra.

Nguyên Hương cúi xuống, cầm cườm tay hắn lên nghe mạch. Huyết quản hắn vẫn đập theo nhịp bình thường. Nghĩa là hắn chỉ ngủ mê chứ không nguy đến tính mạng. Nàng đã canh đúng sức mạnh của ngón đòn. Nếu già thêm một chút, nạn nhân đã hồn lìa khỏi xác. Vào ba giờ đồng hồ nữa, hắn sẽ tỉnh dậy. Khi ấy, kế hoạch của ông Hoàng đã được thực hiện xong xuôi. Hắn sẽ làm tờ trình lên thượng cấp. Trong vòng một tuần lễ, một bản báo sao của tờ trình này sẽ được gởi đến sở Mật Vụ, và nằm trong "hồ sơ đến" của văn phòng bí thư trưởng Nguyên Hương.

Nàng mỉm cười nhè nhẹ. Để chữa thẹn, gã đàn ông kia sẽ thêu dệt thêm. Hắn sẽ báo cáo là bị mấy tên lưu manh lạ mặt chặn đánh đột ngột khiến hắn trở tay không kịp.

Nguyên Hương rút trong túi ra chùm chìa khóa. Chùm chìa khóa này chỉ gồm 5 chìa dài, ngắn, dài mỏng, to nhỏ khác nhau, hình thù vô cùng quái dị, 5 cái chia này có thể mở được hàng ngàn hàng vạn ổ khóa bí hiểm nhất trên thế giới.

Nàng tra chìa vào ổ. Cách một tiếng nhỏ, cánh cửa được mở ra.

Rồi đèn điện trong khu vực tắt ngúm.

Ông Hoàng bước dọc theo hàng rào cao lút đầu người, được tôn uốn ghép vào nhau, che kín như bưng, bên trên dây kẻm gai lại được truyền điện 220 vôn.

Đối với ông Hoàng, Tôn Hành Giả trong nghề điệp báo thế giới, thì vượt qua bức tường, nhảy vào trong vườn chẳng có gì là khó khăn. Tuy ông đã luống tuồi, gân chân ông vẫn còn đủ dẻo để rún lên trên nếu có điểm tựa kiên cố bên dưới. Tuy nhiên, ông Hoàng không cần xử dụng võ thuật. Vì từ nhiều năm nay, ông đã dày công nghiên cứu một nghề điệp báo hành động mới, giống như sách cẩm nang "đẻ không đau", "ai cũng học được tiếng Anh". Nói cách khác, ông cố gắng tìm tòi và phát minh ra những dụng cụ và kỹ thuật tân tiến khiến cho bất cứ ai cũng có thể làm điệp viên hành động dễ dàng, khỏi phải trải qua 5, 7 năm trời huấn luyện như trong quá khứ.

Theo như ông Hoàng, khẩu hiệu của điệp viên hành động tương lai là "tất cả phải làm bằng máy". Vì vậy, đêm nay đột nhập tòa nhà ba tầng lầu tức câu lạc bộ Ngũ Nhật Hội, ông Hoàng dùng toàn máy móc kỳ lạ.

Đường đi tối như hũ nút nhưng ông không vấp mặc dầu bị cận thị nặng vì trên cặp kiếng cận thị còn có một cặp kiếng mỏng khác, có tác dụng nhìn xuyên qua màn đêm. Vả lại con Tôsa đực chạy trước thỉnh thoảng lại dừng lại, đợi ông Hoàng, đuôi ve vẩy chạm vào người ông, đoạn đường nào khấp khểnh hoặc có ổ gà sâu nó đều ngoạm ống quần ông báo tin.

Từ trong vườn vẳng ra tiếng chó sủa gâu gâu. Bọn bẹt-giê trong biệt thự đã đánh hơi thấy người lạ.

Nhưng trước đó một phút, ông Hoàng đã lấy trong túi ra một cái tu huýt hao hao như tu huýt của trẻ con chơi. Đó là loại còi riêng, khi thổi thì số siêu âm thanh phát ra, không nghe được thành tiếng, ngoại trừ chó và gia súc. Đàn chó trong biệt thự vừa gâu gâu dữ dội thì ông Hoàng đưa cái tu huýt lên miệng.

Trong chớp mắt, như có ma thuật, ông đã làm đàn chó hung hăng câm lặng, tai cụp, đuôi rũ, nằm bẹp trên đất. Hai con Tôsa không hề gì vì chúng được đeo mặt nạ cao su, có một bộ phận lọc ngăn cản siêu thanh. Loại siêu thanh do tu huýt của ông Hoàng phát ra làm cho đàn chó trong biệt thự ù tai, nhức óc như bị dùi nhọn xắn sâu vào khiến chúng phải nằm xuống thở dốc.

Ông Hoàng tiếp tục thổi. Kinh nghiệm cho thấy chó bẹt-giê rất giỏi chịu đựng, có nhiều con vừa nằm xuống đã vùng dậy được ngay và cất tiếng sủa mạnh mẻ hơn trước như thể để mách chủ nhân. Hiện tượng này sẽ làm người gác trong vườn ngờ vực. Và kế hoạch đêm nay của ông Hoàng sẽ hỏng bét.

Ba con bẹt-giê to lớn, lông xù, trông như con beo, ngày thường oai vệ bao nhiêu thì đêm nay hèn nhát bấy nhiêu. Ngày thường, chúng chỉ rướn cẳng lên, sủa một tiếng nhỏ là người mang khí giới trong tay cũng hoảng sợ bỏ chạy. Vậy mà khi nghe tiếng còi siêu thanh quái đản của ông Hoàng, cả ba con bẹt-giê hùng dũng đều rúc mõm xuống đất, không dám ngẩng lên.

Trong vòng 60 giây đồng hồ, cả ba con bẹt-giê bách chiến bách thắng đã bị mê man hoàn toàn, ông Hoàng ngừng thổi síp-lê, nghe ngóng. Tiếng sủa hoàn toàn câm bặt. Biết là bọn chó đã bất tỉnh, ông Hoàng ung dung tiến lại cánh cửa hông. Tòa nhà rộng trên ba ngàn mét vuông đất này có hai cửa hông, dành riêng cho khách kín đáo không muốn ra về bằng cửa trước.

Cánh cửa bằng sắt tròn gắn tôn dày được đóng chặt bằng một sợi xích to tướng. Tưởng như xích khóa cửa xà-lim tử hình của thời Trung cổ cũng có thể lớn đến ngần ấy là cùng. Đầu xích có một ổ khóa hình chữ nhật, trông như gói thuốc lá. ổ khóa này có một đặc điểm : nếu người lạ dùng chìa giả để mở hoặc dùng kềm để bẻ, nó sẽ rú lên một hồi còi báo động. Lệ thường, muốn mở khóa người ta phải quay chia từ trái sang phải, ngược chiều kim đồng hồ, ổ khóa này lại mở lộn lại.

Ông Hoàng đã chuẩn bị chu đáo nên không gặp mảy may trở ngại. Toàn khu bị cúp điện, hệ thống báo động khoa học của câu lạc bộ Ngũ Nhật Hội đã bị vô hiệu hóa. Như các biệt thự lớn ở Hoa Kỳ, câu lạc bộ Ngũ Nhật Hội được gắn chuông điện tử báo động ở các cửa lớn ngoài bờ rào và trong nhà. Trên lầu ba, ngoài một số nhân viên thường trực dùng ống viễn kính quan sát quanh vườn còn có một hệ thống truyền hình riêng đảm nhiệm việc kiểm soát và canh phòng.

Tòa nhà cũng được trang bị một máy phát điện khổng lồ chạy bằng xăng, khi điện do thành phố bị cắt nó có thể thay thế. Tuy nhiên, nó phải mất đúng 5 phút mới cung cấp được hơi điện. Trong thời gian 5 phút ấy, ông Hoàng đã có thể thực hiện được kế hoạch trù liệu.

Ông Hoàng bước vào trong vườn. Con Tôsa đực đã xung phong vào trước, ông Hoàng nghe nó cào đất xột xoạt. Hiểu ý nó, ông bèn ngồi thụp xuống. Một con vật cao lêu nghêu chạy vụt tới, nhanh như trận bão.

Tuy vậy, ông Hoàng không ngạc nhiên. Vì ông đã biết con vật dị thường này là con đà điểu. Chủ nhân câu lạc bộ nuôi 2 con đà điểu để giữ cửa cùng với đàn bẹt-giê và các dụng cụ điện tử. Đà điểu chạy nhanh bằng xe hơi, khối thịt rắn chắc của nó đủ sức húc đồ bức tường gạch, hai con Tôsa chưa phải là địch thủ đồng cân của nó.

Tuy nhiên, đà điểu chỉ to xác chứ không làm nên chuyện trước cái tu-huýt siêu thanh vạn năng, ông Hoàng nâng còi lên miệng thổi. Kỳ lạ thay, hai con đà điểu lực lưởng, can đảm bỗng khuỵu xuống.

Ông Hoàng dừng lại. Cặp vợ chồng Tôsa quấn quít bên chân ông, ông vuốt đầu con cái, giọng thân mật, như thể nói với con người:

- Nằm ở đây chờ một lát nhé !

Đôi bẹt-giê hiểu tiếng người, thè lưỡi ra liếm bàn tay ông Hoàng rồi tuân lệnh rút lui ra gần hàng rào. Chúng nằm thẳng trên đất, mõm hơi nghếch lên.

Trong khi ấy, ông Hoàng đã trèo bậc cấp vào phòng khách. Tứ phía tối om. Từ cầu thang có ánh đèn bấm chiếu lại. Song ông Hoàng vẫn thản nhiên đặt chân lên cầu thang xi-măng, lót thảm êm ái.

Ông Hoàng lên đến lầu nhất thì đèn điện cũng vụt sáng. Tuy đã nghe báo cáo tường tận về sự thật bên trong tòa nhà bí mật, ông cũng không ngăn được sự sửng sốt. Trước mặt ông, sau lưng ông, là một quang cảnh mà ông chưa hề thấy, mặc dầu ông đã phiêu bạt khắp thế giới, từng lăn lộn trong những thiên đường ăn chơi đắt tiền nhất.

Chỗ nào cũng có ánh sáng. Nhưng toàn là ánh sáng gián tiếp bằng đèn ống giấu trong tường, trên trần, dưới sàn tỏa ra. Đèn ne-ông gồm nhiều màu khác nhau, xanh, vàng, lục, hồng, tím, đỏ” tất cả đều nhàn nhạt, huyền ảo, khiến dạ khách ngây ngất như lạc vào động tiên. Khách đã ngây ngất càng ngây ngất thêm vì không khí sực mùi hương hoa, một loại hoa quý phái, đắt tiền, được trọng vọng vì hình dáng xinh đẹp và mùi hương đằm thắm : hoa cẩm chướng.

Trên bậc thang xi-măng đá rửa trắng toát, ngoài hành lang, dưới cửa sổ, trong phòng, hàng chục, hàng trăm chậu cẩm chướng, đủ cở, đủ màu được bày la liệt. Cây cẩm chướng có những cái lá nhỏ hơn, mịn hơn lá cây hoa khác, hoa lại nở thật nhiều, nhiều đến nỗi màu xanh phớt của lá bị chìm hẳn trong màu hoa, hoa trắng, hoa hồng, hoa đỏ.

Ông Hoàng đã làm nhiều nghề trong đời. Nhiều khi ông đội lốt song nhiều khi ông thành thạo như người trong nghề thật thụ. Một trong những nghề ông thường làm nhất là nghề trồng hoa. Có lẽ ông sinh trưởng trong một vùng trồng hoa, và song thân ông từng sinh sống bằng nghệ thuật trồng hoa hồng, thược dược và lê-dơn. Phần khác, có lẽ vì ông có tâm hồn thi sĩ.

Từ ngày hồi hương, nhận lãnh trách nhiệm tổ chức và điều khiển ngành điệp báo, ông Hoàng đã mở trại trồng hoa cả thảy 2 lần. Cơ sở đầu não của ông được ngụy trang trong trại. Hàng ngày, ông dậy sớm, ra vườn chăm hoa, rồi tiếp các nhân viên. Dần dà, vì công việc của sở gia tặng, vấn đề an ninh cũng trở nên phức tạp nên ông Hoàng phải bỏ trại hoa ở ngoại ô để dọn vào trung tâm thành phố.

Là chuyên viên trồng hoa, ông đã biết rõ giá trị của hoa cẩm chướng. Nó không phải là bà hoàng của các loài hoa, nhưng khách yêu hoa lại có cảm tình với nó thắm thiết hơn là với hoa nào khác, ông Hoàng có cảm tình đặc biệt với ba biến thể thượng lưu của hoa cẩm chướng, đó là "vương hậu" trắng nõn nà như tuyết, "hoa hồng tháng 5" màu hồng dịu dàng, gợi cảm, si mê, và hoa Saxonia màu đỏ tía. Ba biến thể này được trồng ở Tây phương, trong những trại hoa nổi tiếng, giá đắt kinh khủng, phải là nhà triệu phú mới đủ tiền mua về cắm trong bình.

Vậy mà cẩm chướng quý phái màu trắng, màu hồng và màu đỏ đua nhau khoe sắc, khoe hương trước mắt và mũi ông Hoàng, tổng giám đốc sở Mật Vụ. Nếu không có công việc quan trọng phải giải quyết, ông đã ngồi xuống một bên, nâng niu đóa hoa thùy mị....

Ông bước qua giữa hai chậu cẩm chướng màu hồng để vào phòng. Một căn phòng lớn, choáng gần hết lầu nhất.

Bên trong đã có nhiều người. Toàn là người ngoại quốc, phục sức sang trọng, vét-tông, cà-vạt đen, sơ-mi trắng cổ cứng. Họ ngồi quanh những cái bàn tròn, bên trên trải khăn vàng nhạt, ông Hoàng đếm được gần 20 cái bàn, hầu hết đều kê hai bên dọc theo tường. Trên bàn nào ông cũng thấy cái xô đá bằng nhom trắng, nhô ra phía trên cái cổ màu xanh của chai rượu sâm-banh.

Ông Hoàng đã nhiều lần đọc báo cáo của nhân viên về câu lạc bộ Ngũ Nhật Hội. Nhưng ông không yêu cầu bên cảnh sát can thiệp. Vì ông nghĩ rằng sào huyệt trác táng và đồ bác này sẽ giúp ích không nhỏ vào công tác thu lượm tin tức tình báo, vả lại, ở một thủ đô gần ba triệu dân với mấy trăm ngàn ngoại kiều như Sàigòn thì đầu mụ Tú Bà này bị chặt, đầu mụ Tú Bà khác lại mọc lên, không bao giờ dứt như thể đầu Phạm Nhan. Hơn nữa, câu lạc bộ chỉ dành riêng cho khách ngoại quốc.

Tuy nhiên, các báo cáo của nhân viên chỉ nói Ngũ Nhật Hội là ổ trụy lạc hạng cực sang. Mãi đến nay, ông Hoàng mới biết sự liên hệ của Nguyễn Chấn, nghĩa là của Quốc Tế Đặc Vụ, với cựu thiếu tướng Sulivông.

Nguyễn Chấn đến câu lạc bộ Ngũ Nhật Hội để làm gì ? ông Hoàng không tin hắn đến đó với mục đích tìm vui. Linh tính nghề nghiệp già dặn đã ngầm báo ông Hoàng nhiều bí mật quan trọng.

Hầu hết đèn điện trong phòng đều tắt cùng một lượt. Chỉ còn lại mấy ngọn đèn trên trần, ông Hoàng khoan thai ngồi xuống cái bàn trống, ông đeo mặt nạ cao su porotherme nên trẻ hẳn, bộ âu phục đắt tiền của ông cũng làm ông lùi lai hai, ba chục tuổi. Nhờ kỹ thuật cải trang tinh vi này, ông không sợ bị nhận diện. Khách vào câu lạc bộ đều có thẻ riêng, và phải qua nhiều trạm kiểm soát. Lên được lầu nhứt phải là khách quen hoặc được tin cậy. Vì vậy, ông Hoàng thản nhiên ngồi chờ chiêu đãi viên tiến lại bàn.

Tuổi tác, sức khỏe và gánh nặng công việc đã biến ông Hoàng thành tu sĩ từ lâu. Nhưng cô bé hầu bàn đang ưỡn ẹo bước đến trước mặt đã truyền vào các thớ thịt, đường gân và xương sống của ông một luồng điện cực mạnh, ông cảm thấy toàn thân rung rung.

Chiêu đãi viên ở đây phục sức toàn bằng đồ ni-lông và đăng ten đắt tiền của hãng Valentine, nỗi tiếng ở Mỹ về thời trang lõa lồ khêu gợi đàn ông. Cô gái cúi đầu chào ông Hoàng. Nàng trạc 18, 20, cái tuổi sung sức nhất của nữ giới. Diện mạo và thân thể nàng khá đẹp.

Song sắc đẹp của nàng khó thể lôi cuốn những người đàn ông khô khan và nghiêm nghị nếu nàng không mặc đồ voan mini màu trắng. Bộ đồ này gồm một cái áo rộng mỏng như giấy bóng từ ngực xuống tới dưới bụng một chút, phơi trần toàn bộ ngực khiêu khích. Loại áo cuồng loạn này được ghi trong ca-ta-lô của hãng Valentine với số 207. Mặc quần như vậy, phụ nữ trở nên quyến rũ hơn là khỏa thân gấp bội.

Bất giác ông Hoàng liên tưởng đến Văn Bình.

Điệp viên z.28 hằng bị chê bai là hảo ngọt cực độ đối với đàn bà. Giờ đây, cọ sát với nhan sắc hỏa diệm sơn, ông Hoàng mới biết thái độ si mê của Văn Bình chỉ là phản ứng tất nhiên. Nếu không mang một đống năm tháng và trách nhiệm lớn lao trên đôi vai gầy còm, ông đã nuốt nước miếng, mắt nổ đom đóm, tai ù đi để rồi đầu hàng vô điều kiện.

Nàng cất tiếng hỏi, ngọt như mật ong :

- Em khui sâm-banh cho anh uống nhé ?

Ông Hoàng gật đầu. Cô gái đứng sát vào người ông. Nàng cố tình cọ bộ ngực đồ sộ và lồ lộ vào má ông Hoàng, ông tổng giám đốc sở Mật Vụ phải giả vờ nghiêng đầu châm xì-gà mới khỏi bị nghẹt thở. Nàng mở nút sâm-banh, kêu một tiếng bụp nhẹ nhàng, rồi rót vào ly pha lê, bưng tận miệng cho ông Hoàng.

Dầu cận thị nặng, ông già Mật Vụ vẫn nhìn thấy rõ ràng hai trái tuyết lê trắng nõn của nàng đung đưa cách mặt ông chưa đầy hai gang tay. ông uống một hơi, cạn nửa ly sâm-banh. Cô gái phà hơi miệng vào mũi ông Hoàng :

- Hôm nay có thực đơn đặc biệt, óc bồ câu trộn thịt băm, lưỡi vịt hầm, và gà gô chiên. Anh bằng lòng không ?

Ông Hoàng gật đầu ngay để tống cổ cô gái trần truồng đi nơi khác, ông đến đây không phải để ăn cao lương mỹ vị. Nhưng món như óc bồ câu nhồi thịt băm, lưỡi vịt hầm, gà gô chiên được coi là thực đơn trợ lực được các vua chúa ở Trung Hoa và xứ ngàn một đêm lẻ thường dùng, hầu thỏa mãn tam cung lục viện. Người ta phải mỗ từ 20 con bồ câu trở lên mới lấy được đủ óc. Và phải là bồ câu đực và bồ câu cái, số lượng đồng đều, đực nhiều hơn hoặc cái nhiều hơn là tác dụng khích động của nó bị hư hỏng. Thịt băm được nấu chung với óc bồ câu cũng không phải là thịt bò, hoặc thịt heo thông thường. Vì theo bí quyết nấu ăn nội cung, thịt heo hoặc thịt bò trộn với óc bồ cậu mất hết tinh dược, óc bồ câu chỉ được trộn chung với một thứ thịt đặc biệt: thịt đùi ếch. Và cũng phải chọn đủ đùi ếch nam, ếch nữ.

Lưỡi vịt hầm cũng khó nấu không kém óc bồ câu. Tùy sở thích, nó được hầm với sâm nhung thứ tốt hoặc với một số cỏ quý. Và gà gô chiên - món ăn mà người Pháp khoái khẩu nhất - cũng không phải thứ gà gô mua ngoài chợ, đem về cắt tiết, vặt lông, moi ruột, bỏ vào lò quay cho vàng rộm. Gà gô này được nuôi trong chuồng riêng, với thức ăn riêng - những thức ăn này được giữ bí mật nên ít ai biết - một đĩa gà gô dọn cho 4 thực khách gồm hai con đực con cái còn tơ.

Theo người Trung Hoa thì trên thiên hạ có 8 món ăn quý nhất, gọi là bát trân như gan rồng, tủy phụng, thai con báo, đuôi cá gáy, chả thịt cú, môi đười ươi, bàn tay gấu, nhượng heo con (6). ông Hoàng đã có dịp thưởng thức những món ăn kỳ lạ ấy. Ngon thì ngon thật, nhưng chúng quá cầu kỳ. Tuy nhiên, về sự cầu kỳ, bát trân còn thua xa nghệ thuật nấu món khích dâm ở các vương quốc Trung Đông.

Từ nhiều năm nay, ông Hoàng không dúng đũa vào món ăn ngon nữa. Đối với ông, món nào cũng như món nào. Dường như vị giác của ông trở nên yếu kém vì óc suy nghĩ tột độ. Từ nhiều năm nay, ông sống thanh đạm như thày tu, nhiều khi còn thanh đạm hơn cả thày tu. Vì vậy, khi nghe quảng cáo những món ăn khích dâm thượng hạng, ông khựng người, ông gật đầu nhưng không phải để tỏ dấu ưng thuận, ông muốn được ngồi yên một mình để lo công việc.

Cô gái núi lửa bước khỏi bàn bỗng hối hả quay lại. Một lần nữa, nàng lại ưỡn ngực trắng phau phau cho ông chiêm ngưỡng. Giọng nàng ỏng ẹo :

- Anh dùng thêm xúp Ý đại lợi đặc biệt nữa nhé ?

Cô gái nói dứt, không đợi ông Hoàng trả lời, đã quày quả bước đi. Cũng may nàng bước đi, chứ nếu đứng lại, nàng sẽ nhận thấy một sự thay đổi rõ rệt trên gương mặt ông Hoàng, ông là người không biết xúc động vụn vặt, và vô ích, vậy mà đêm nay nghe nói đến xúp Ý đại lợi ông lại xúc động mãnh liệt như chàng thanh niên mới nếm mùi tinh ái lần thứ nhất trong đời.

Mắt ông hoa hẳn. ông không còn nhìn thấy những ngọn đèn ống lờ mờ, những bông hoa cẩm chướng huyền ảo, những người đàn ông phục sức sang trọng say sưa uống sâm-banh nữa. Ông chỉ nhìn thấy bóng dáng sôi đọng của quá khứ.

Ý là quê hượng của bà Maria, vợ ông. Tuy khác chủng tộc, ông yêu bà tha thiết, và bà cũng yêu ông tha thiết. Maria lìa bỏ cõi thế từ lâu. Hồi còn sống, nàng đã cung phụng thần khẩu của chồng một cách tài hoa.

Ông hay uống rượu, nếu vợ ông không phải là Maria thì thật khó mà chọn được rượu ngon trong số 36 thứ rượu vang trắng và 41 thứ rượu vang đỏ đã được coi là ngon nhất trên đất Ý. Maria thường cho ông uống Valpolicella. Ông hỏi tại sao thì nàng âu yếm đáp :

- Vì rượu Valpolicella là rượu của những người yêu nhau. Các cặp tình nhân ở vùng Vê-rôn chuyên môn uống rượu này. Người ta nói là uống nó thì mối tình trai gái được bền chặt mãi mãi.

Song cũng có những ngày Maria cho ông uống một thứ rượu vang khác thơm ngon và nồng say hơn "rượu tình". Nó màu trắng nhưng không giống vang trắng của Pháp, uống vào, ông cảm thấy tâm thần bâng khuâng, luyến tiếc vẩn vơ. Ông thuật lại cho Maria thì nàng cười” cười nhưng vẻ mặt buồn buồn :

- Rượu này là một trong hai thứ rượu vang ngon nhất nước Ý, có lẽ còn ngon hơn mọi vang khác ở Âu châu nữa kia. Người ta gọi nó là Thiên Lệ, nghĩa là nước mắt của thần linh. Theo thần thoại, Ma Vương, tức Luciphe, bị trục xuất khỏi thiên đường đã ăn trộm một mảnh giang sơn trên thiên quốc xuống hạ giới sinh sống. Mảnh thiên quốc này trở thành bờ biển Ý đại lợi. Nhân một ngày kia giáng trần, Thượng Đế ngự du qua Ý, xúc động trước phong cảnh tuyệt vời đã đánh rơi giọt lệ. Trời khóc vì nhận thấy phong cảnh tuyệt vời ấy không còn ở trên thượng giới nữa. Giọt lệ của Trời rớt xuống đất, nở thành cây nho, và nước ép của cây nho này được đặt tên là Thiên Lệ.

Maria kể chuyện tài tình cũng như chọn rượu và nấu ăn. Vì vậy, ông Hoàng được uống toàn rượu ngon cũng như được ăn toàn món ngon, ông Hoàng ưa nhất món xúp với miến, ông ưa đến nỗi Maria phải nói:

- Xúp này anh còn thích thì không hiểu xúp Ý đại lợi đặc biệt anh còn thích đến đâu nữa.

Vì vậy ông Hoàng mới biết món xúp "đặc biệt". Xúp này không phải là món nước thông thường hoặc cầu kỳ của người Ý. Mà là món ăn khích dâm của vua chúa và giới quyền quý trong nước Ý cổ xưa. Món này là tả pí lù gồm chân con bê, tôm hùm nhỏ gỡ thịt nấu lẫn với cà-rốt, rau cần và củ hẹ (7). Nước Ý còn có một loại cây kỳ lạ, gọi là cây pizza ugurdu, đem pha với rượu hoặc dầm với thức ăn có thể biến những người lòng lạnh như tảng đá băng thành núi lửa tình ái, mê đắm cả đêm, cả tuần, cả tháng cũng không thấm mệt. Nghệ thuật gia chánh của Ý cũng chuyên về phương diện cung phụng tình ái với những món xúp nấu với rau ngò, rau nguyệt quế, nấm mèo, lá bách lý hương, rau cần, ac-ti-sô, sô-cô-la và rau bạc-hà....

Maria không còn nữa. Đêm nay, tại câu lạc bộ Ngũ Nhật Hội, người ta mời ông Hoàng ăn xúp đặc biệt thật sự, chứ không đùa bỡn như Maria ngày xưa. Bỗng dưng một giọt nước mắt không biết tại sao mà có rớt vào tròng kiếng cận thị làm mắt ông Hoàng mờ hẳn. Ông ngồi thẳng người để thích hợp với vai trò trung niên mà ông đang đóng.

Khay thức ăn vừa được bưng tới.

Ông Hoàng nhoẻn miệng cười với cô ả chiêu đãi rồi giả vờ cúi đầu xuống vẻ mặt hân hoan. Tay ông cầm dao và nĩa, song ông không ăn. Ông chờ cô gái đi khuất vào bóng tối rồi ngẩng lên, tiếp tục quan sát chung quanh.

Những ngọn đèn mờ ảo trong gian phòng rộng thênh thang không đủ sức chiếu sáng đồ đạc và thực khách. Phải bước từ từ hoặc phải quen biết vị trí của bàn ghế trong phòng người ta mới không bị vấp. Quang cảnh tranh tối tranh sáng này rất lợi cho ông Hoàng, ông Hoàng mỉm cười một mình khi thấy những ngọn đèn cuối cùng đã tắt ngúm.

Tất cả đều tối đen.

Đã biết nguyên nhân của sự tắt đèn toàn diện, ông Hoàng nhìn lên sân khấu kê ở cuối phòng. Sân khấu này là một bục gỗ khá lớn, bên ngoài che màn nhung đỏ. Lệ thường, các nhà hàng lớn đều có sân khấu "bỏ túi" để trình diễn ảo thuật, múa nhảy, ca hát, và đặc biệt là môn vũ cởi quần áo. Tuy nhiên, ông Hoàng nhận thấy bục gỗ ở đây lớn gấp ba bục gỗ phụ diễn thông thường. Màn nhung chưa mở, bên trên có hàng chữ lớn bằng lân tinh như sau :

Liên Nữ Đài.

Phía dưới là chữ :

Padmini.

Không cần vén màn nhung lên, ông Hoàng đã biết phía sau có những gì. Vì Liên Nữ - tiếng Ấn là Padmini - là hiện thân của thần ân ái, là người đàn bà hội đủ điều kiện thể xác và tinh thần để chiều chuộng những người đàn ông khó tính nhất trên thế gian.

Một nốt nhạc cao ré lên, tiếp theo là phần dạo đầu của một bản nhạc thời trang dâm loạn. Tiếng đàn dương cầm như tràn ngập gian phòng, từ trên cao tỏa xuống, xoắn sâu vào tim óc mọi người. Rồi màn nhung được kéo ra từ từ. Trên tường, một lùm đèn pha chiếu xuống sân khấu thành một loa tròn.

Đứng giữa loa sáng là một cô gái tuyệt đẹp.

Trước khi vào đây, ông Hoàng đã biết Ngũ Nhật Hội là sào huyệt của các vũ nữ thoát y táo bạo. Song ông không ngờ người ta đã đốt cháy giai đoạn bằng cách trình diễn khỏa thân hoàn toàn ngay từ phút đầu tiên, và ngay từ phút đầu tiên, điệu nhạc đã làm cử tọa nhảy chồm trên ghế cùng một lúc với những động tác vô cùng khêu gợi, vô cùng dâm toạn của cô gái nhảy múa.

Tất cả những cử chỉ thầm kín trong phòng the giữa đàn ông và đàn bà đều được tuần tự gợi lại. Cô gái nhăn mặt, rên lên từng hồi.

Đèn pha từ màu xanh chuyển sang màu đỏ rồi một vũ nữ, hai vũ nữ, ba vũ nữ, bốn vũ nữ, toàn thể đều không mang mảnh vải nào trên người cùng tiến ra giữa bục gổ, uốn éo theo điệu đàn man rợ và khích động.

Ông Hoàng lặng lẽ đứng dậy.

Lẽ ra, ông đứng dậy từ nảy. Mấy chục năm trước, những xen giựt gân này có thể làm ông xao xuyến. Nhưng giờ đây lòng ông đã lạnh. Còn lạnh hơn băng tuyết Tây bá lợi á nữa...

Ông men theo bờ tường tiến đến cánh cửa ở góc, bên ngoài che màn kín mít. ông hé màn đặt tay lên quả nắm. Cánh cửa mở ra êm ru.

Sau cánh cửa là một cầu thang xi-măng trôn ốc dẫn lên tầng trên, cầu thang này ăn thông với sân khấu. Đoàn vũ nữ khỏa thân phải dùng cầu thang mới xuống được bục gỗ trình diễn da thịt.

Trong khi ấy, bản nhạc đã đến những nốt gay cấn nhất. Đoàn vũ nữ bắt đầu nằm ngả nghiêng trên sàn gỗ, tiếng rên hoan lạc của họ át cả tiếng dương cầm thúc giục.

Cầu thang chỉ có một ngọn đèn mờ màu hồng. Ngày thường chậm chạp, ông Hoàng bỗng trở nên nhanh nhẹn khác thường. Trong thoáng mắt, ông đã trèo lên hết 25 bậc thang, và rẽ sang trái.

Hành lang trên lầu nhì chạy dọc theo nhiều căn phòng nhỏ cửa đóng kín, bên ngoài đeo bảng số. ông Hoàng chưa biết sẽ vào phòng nào thì có tiếng kêu sau lưng :

- Ê, đi đâu đấy ?

Ông Hoàng quay lại. Đối diện ông là một cây thịt chừng 90 kí, mặt trái bầu rỗ hoa mè, tay cụp, mũi tẹt, miệng cá ngão, cằm lẹm, má bánh đúc.

Đứng với hắn, ông Hoàng nhỏ như con nhái bén. Bàn tay kếch xù của hắn chỉ vươn ra là đầu ông Hoàng nát ngướu.

Hơn thế nữa, trong tay hắn lại có khẩu tiểu liên khét tiếng về bắn nhạy : M.16.

Chú thích:

1. Về phươngng chỉ bí pháp, tác giả đã trình bày tường tận trong bộ truyện "Kẻ thù không mặt" sắp xuất bản.

2. Ngũ Đế là 5 vua thời cổ bên Tàu. Phục Hy, Thần Nông, Hoàng Đế, Đường Nghiêu, Ngu Thuấn.

3. Vua Phục Hy chỉ dẫn đường cho bát quái quyền, chứ chưa phải là người sáng tạo. Người sáng tạo là Tống Hải Chương (1795-1880 trước Tây lịch) sống tại Hồ-Bắc. Hiện nay chỉ còn một số rất ít võ sư trên thế giới là nắm vững được bí quyết của bát quái quyền. Lối đánh của nó rất ngoạn mục song cũng rất lợi hại.

4. Điều này đã được một nhà sinh vật học Liên Sô, tên là Frolov tìm ra. Một bác học Liên Sô khác, Nỉyi. Mysnikov, tại viện Pavlov, còn khám phá ra khả năng đánh hơi phi thường của giống chó. Theo Nysnikov, thì giống chó có thể đánh hơi thấy chất nước đái quỷ (ammoniaque), một muỗng nhỏ pha với nước trong một con sông lớn.

5. Đó là trung tâm Grunheide, do người Đức Konrad Most sáng lập cách đây 40 năm để dạy chó săn cảnh sát. J. Hanseman là người tiếp tục công việc của Konrad Most.

6. Sau này bát trân được đổi lại, với 8 món như sau : yến sào, hải sâm, bào ngư, hậu xỉ, lộc cân, cửu khổng, tế hỉ, hùng chưởng. Các món này được bán tại nhà hàng lớn của Tàu.

7. Chỉ biết cho vui thôi nhé ! chớ thí ghiệm mà khốn !
Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Đoàn Vũ Khỏa Thân - Người Thứ Tám Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Đoàn Vũ Khỏa Thân - Người Thứ Tám   Đoàn Vũ Khỏa Thân - Người Thứ Tám Icon_minitimeTue May 23, 2017 4:21 am

Người Thứ 8
Đoàn Vũ Khỏa Thân
Chương 7
Gãy cành thiên hương


Nguyên Hương lái xe vào một tòa nhà trệt nằm giữa khu vườn rộng gần trạm xăng Trương Minh Giảng, cửa cổng được khép chứ không khóa nên khi nàng đụng càng xe thì nó mở ra từ từ. Nàng quay đầu xe, bước xuống đóng cửa cổng.

Tòa nhà chìm trong cảnh im lặng tuyệt đối. Không một tiếng động nhỏ kể cả tiếng dế rỉ rả. Tòa nhà này là một trong nhiều biệt thất của sở rải rác trong thành phố. Hiện nó được dùng làm trung tâm huấn luyện nữ nhân viên ban Biệt Vụ. Khóa học chỉ diễn ra ban ngày, ban đêm chỉ có một số nhân viên trực canh gác. Riêng đêm nay, theo chỉ thị của ông Hoàng, toán trực đã rút đi nơi khác. Trong khu vườn rộng mênh mông chỉ còn một mình Nguyên Hương với chiếc Honda đua 800-SS giấu trong bụi rậm bên cạnh lối đi trải đá cuội trắng xóa.

Nguyên Hương đã thi hành đúng kế hoạch của ông Hoàng. Nàng cúp hơi điện đúng 4 phút, thời gian đủ để ông lọt vào trong câu lạc bộ Ngũ Nhật Hội rồi trả lại sáng như cũ. Xong xuôi, nàng về tòa nhà trệt của sở.

Mặc dầu ông Hoàng đã bố trí chu đáo, ruột gan Nguyên Hương vẫn nóng như lửa đốt. Nàng luôn luôn ghé tai vào cái máy vô tuyến bỏ túi, loại nhỏ nhất thế giới, chỉ lớn bằng cái quẹt máy Zippo mà tầm hoạt động lại xa đến 15 cây số, nói cũng như nghe đều rõ mồn một như thể đối thoại với người ngồi bên. Khi ông tổng giám đốc quyết định đột nhập câu lạc bộ Ngũ Nhật Hội, bất chấp sự can gián của nàng, nàng bèn xin được đi theo. Nhưng một lần nữa, ông Hoàng lại lắc đầu :

- Không được. Cô phải ở bên ngoài để trợ ứng. Khi nào cần, cô can thiệp cũng không muộn, vả lại, cặp chó Tôsa của tôi đã đủ khả năng đối phó trong trường hợp khó khăn nhất. Tôi không tin là chúng bị thua. Chúng có thể đấu ngang ngửa với hàng chục võ sĩ đai đen, vì ngoài thiên bẩm của loài thú tinh khôn, chúng còn được học võ, những thế võ bí truyền vô cùng lợi hại. Ngoài ra, như cô đã biết, tôi đã mang theo nhiều khí giới hóa học mới được chế tạo. Những khí giới này có thể đánh lui cả một tiểu đoàn binh sĩ võ trang tối tân.

Tôi dấn thân vào hành động đêm nay không hẳn vì Văn Bình, Lê Diệp và Triệu Dung vắng mặt. sở không thiếu nhân viên hữu tài, và tuy chưa ai sánh nỗi Văn Bình, ban Biệt Vụ vẫn có những nữ nhân viên đủ điều kiện hoàn thành kế hoạch Luân Vũ, mang lại phần thắng cho sở.

Lý do hành động trực tiếp của tôi cũng giống như lý do của các nhà khoa học khi tìm ra một dụng cụ hoặc môn thuốc mới. Trước khi thí nghiệm cho nhân viên, và cho người ngoài, phải thí nghiệm cho bản thân. Tôi tin chắc sẽ thành công. Sự thành công của tôi sẽ đánh dấu một khúc quanh quan trọng trong lãnh vực điệp báo. Từ trước đến nay, nhân viên điệp báo phải là võ sĩ tuyệt luân, trình độ kiến thức phải cao hơn sinh viên đại học chuyên nghiệp.

Ông Hoàng vừa nhắc đến một nguyên tắc căn bản : thật vậy, muốn gia nhập sở Mật Vụ, phải có cấp bằng Tú Tài toàn phần trở lên. Những ứng cử viên điệp báo hành động phải có cấp bằng cử Nhân trở lên. Trung bình, lớp huấn luyện nhập môn kéo dài từ 6 tháng đến một năm. Huấn luyện sơ cấp từ một đến hai năm. Huấn luyện trung cấp từ hai đến ba năm.

Nghĩa là muốn trở thành nhân viên điệp báo hành động thực thụ phải trải qua trình độ huấn luyện kéo dài từ ba năm rưỡi đến sáu năm. Chức vụ chỉ huy dành cho nhân viên đã học lớp huấn luyện cao cấp. Sau trình độ cao cấp còn ba trình độ khác nữa : trình độ đặc biệt và trình độ chuyên vụ. Nghĩa là trung bình một nhân viên điệp báo tài giỏi phải trải qua từ 6 đến 10 năm huấn luyện. Lệ thường, sinh viên tốt nghiệp cử Nhân, nhất là cử Nhân Toán - điều kiện để được ưu tiên kết nạp - sau 15 năm đèn sách. Học thêm 10 năm điệp báo hành động nữa, vị chi là 25 năm. Khi tốt nghiệp điệp báo thì đã trên 30 tuồi. Chỉ phục vụ được 5, 10 năm là già.

Vì vậy, ông Hoàng đã trình bày trước một đại hội thu hẹp các lãnh tụ điệp báo thế giới tự do một dự án thay thế nhân viện bằng xương thịt với máy móc và dụng cụ điện tử. Điệp viên không cần học võ thuật, chỉ cần được trang bị một số khí giới đặc biệt, có thể bỏ gọn trong túi áo. Không phải dùng súng, dùng dao kềnh càng, mất công học tập lôi thôi, chỉ cần cái quẹt máy, điếu thuốc, cái bút... Nhảy qua tường cao thì có máy phản lực cá nhân nặng 15 kilô, trèo tường trơn trượt thì có những đôi giày riêng, đụng tường là dính như con thạch sùng, giết người chỉ cần bấm nút....

Đại hội hoàn toàn tán thành dự án của ông Hoàng, song tỏ vẻ hoài nghi về triển vọng thực hiện, ông Hoàng lặng lẽ thiết lập một trung tâm khảo cứu, quy tụ những bộ óc phát minh hữu danh nhất nhì hoàn vũ, để bắt tay vào công cuộc điện tử hóa ngành điệp báo. Và ông đã thu lượm được kết quả cụ thể.

Và cũng chính ông đích thân thí nghiệm từng dụng cụ một trước khi chế tạo hàng loạt để phân phát cho nhân viên và phổ biến trong các cơ quan bạn.

Sự tin tưởng và hăng say thành công đã biến ông già tổng giám đốc sở Mật Vụ thành con người bướng bỉnh nhất thế giới. Ai can gián, ông cũng không nghe, kể cả Nguyên Hương. Và Nguyên Hương chỉ có thể phản kháng bằng cách thở dài một mình.

Từ tối đến giờ, nàng thở dài không biết bao nhiêu lần rồi. Chưa bao giờ nàng thở dài nhiều như vậy. Chẳng phải vì đời nàng gặp ít ngang trái, mà vì tâm trí nàng luôn lụôn bị ám ảnh bởi lời dặn ngày xưa của bà cô. Gia đình nàng chỉ có một bà cô trẻ. Bà chết sớm và gặp giờ linh nên rất thiêng. Mỗi khi thấy nàng, bà đều nói:

- Cháu nghịch quá, nghịch như con trai ấy. Phải trang nghiêm hơn chút nữa đi cháu.

Khốn khổ cho co bé nhỏ xíu còn mài đũng quần trên ghế tiểu học nào biết nghiêm trang là gì ! Nàng bèn thở dài. Bà cô bèn quắc mắt, rồi nhìn ngang nhìn ngửa như sắp làm việc quốc cấm :

- Chết, tại sao cháu lại thở dài ? Ai dạy cháu thở dài như thế ? Từ nay trở đi, không được thở dài nữa, nghe cháu.

- Tại sao hả cô ?

- Cháu ngu lắm. cổ nhân có câu "gái thở dài, trai nằm sấp" khi nào con gái thở dài là bắt đầu thích trai, thèm chồng. Việc đó dành cho người lớn.

Nguyên Hương chẳng hiểu gì cả. Nàng chỉ biết vâng lời cô, nhiên hậu không dám thở dài nữa, hoặc muốn thở dài thì trốn ra vườn, núp dưới bụi rậm thở dài một dây một hồi. Lớn lên, cái bệnh thở dài lén lút ăn sâu vào xương tủy của nàng. Một hôm, nàng đi coi bói bài, thấy bói nghe nàng thở dài nhè nhẹ cũng thở dài theo :

- Ừ, cô hay thở dài nên lận đận tình duyên là đúng ! Cứ theo con bài thì cô khó thể lấy chồng sớm mặc dầu cô có nhan sắc mặn mà, hơn chị hơn em rất nhiều. Và tôi sợ cô sẽ ở vậy mãi. Đức năng thắng số, cô ạ, cô cứ cầu nguyện đi, may ra số sẽ thay đổi. Cô phải sống độc thân không phải vì cô thiếu người yêu. Mai kia, có hàng chục hàng trăm người đàn ông có tài, có danh phận, có đức độ ao ước tranh dành để được hỏi cô làm vợ, nhưng cô đều khước từ.

Vì cô chỉ yêu một người, người ấy cũng yêu cô nhưng không hiểu tại sao hai người vẫn phải xa nhau...

Hôm ấy, Nguyên Hương thở dài thật nhiều.

Cũng thở dài thật nhiều như đêm nay...

Đột nhiên, sau khi thở dài, nàng cảm thấy cõi lòng ấm lại. Đã lâu nàng không được Văn Bình hôn. Chàng bận hết công việc này đến công việc khác, phi cơ vừa đáp xuống Tân Sơn Nhứt chàng chỉ kịp đến sở tường trình kết quả công tác là đã hối hả trở lên Tân Sơn Nhứt để xuất ngoại. Một phần cũng vì nàng tìm cách tránh mặt chàng từ khi chàng có con riêng với Quỳnh Loan, cô bé nhí nhảnh của ban Biệt Vụ. Tuy vậy, nụ hôn đằm thắm của ngày xa xưa vẫn còn đọng hương trên môi, trên tóc, trên da thịt nàng. Toàn thân nàng rung chuyển mãnh liệt như thể bàn tay êm dịu của Văn Bình đang mơn man cổ nàng, luồn vào trong áo để tìm xuống bộ ngực căng phồng và rắn chắc....

Văn Bình đang nằm trên giường bệnh, ông Hoàng, người đàn ông già nua khả kính được nàng coi như cha đang lăn lưng vào nguy hiểm.

Nóng ruột, Nguyên Hương ấn nút phát âm của máy vô tuyến. Máy thu âm của ông Hoàng được thu nhỏ bằng cái ruột bút chì nguyên tử, gắn chìm trong gọng kiếng cận thị. Trong tai ông Hoàng vừa nổi lên ba âm thanh đều đặn, tút, tút, tút... Có nghĩa là Nguyên Hương muốn biết ông Hoàng an toàn không.... ông Hoàng cho tay vào túi, ấn nút cái quẹt máy để trả lời. Nguyên Hương nghe ba tiếng tít, tít, tít. Nghĩa là ông Hoàng vẫn an toàn.

Nhưng chỉ một phút sau khi ông báo tin an toàn thì cây thịt 90 kí sần sùi và dữ tợn hiện ra sừng sững.

- Ê, đi đâu đấy ?

Hắn vừa nói vừa hươi nòng súng máy M-16 gần ngực ông Hoàng. Súng M-16 được coi là hung thần trong làng súng tự động. Nó bắn rất chính xác và nguy hiểm dầu chỉ phát ra một âm thanh nhỏ. Đạn M-16 xuyên vào thịt bằng một lỗ nhỏ xíu nhưng khi phá ra lại khoét một lỗ loe tròn như cái phễu. Chỉ lãnh một viên là đủ táng mạng, chứ không cần 2, 3 viên như đối với súng cạc-bin.

Hơn ai hết, ông Hoàng đã hiểu rõ tác dụng của súng M-16. ông đã đích thân yêu cầu ban Chuyên Môn dựa vào kinh nghiệm và thành tích của súng M-16 để chế tạo một loại súng ngắn, có thể dấu gọn trong người.

Ông thấy rõ ngón tay của tên gác khổng lồ đặt trên cò súng. Song ông không lo sợ. Thậm chí nét mặt ông vẫn thản nhiên như thể đang đứng trước khẩu súng bắn nước của trẻ con.

Ông nhún vai:

- Đi tìm người quen, cất súng đi, anh làm trò gì thế ?

Tên gác nhe hàm răng cải mả :

- Này bồ, đừng giả vờ ngây thơ nữa. Giơ hai tay lên đầu mau lên kẻo cả xạc-giơ 20 viên đạn lại cắm vào người bây giờ.

Ông Hoàng cau mặt:

- Anh là người gác ?

- Dĩ nhiên, ông đã lên lầm cầu thang.

- Vậy anh để tôi xuống.

- Không được. Trước khi xuống, ông phải vài trình diện ban An Ninh. Nếu ông lên đây vì lạc đường, hoặc vì sự tình cờ, người ta sẽ cho ông ra về thong thả. Còn như ông cố ý....

- Bọn anh sẽ bắn chết ?

- Đó là cái chắc. Thôi đừng ví von làm gì, vô ích. Giơ hay tay lên đi.

Ông Hoàng từ từ giơ hai tay lên.

Sự phản công của ông Hoàng đã diễn ra nhanh như làn sóng điện, ông không phản công bằng bát quái quyền như Nguyên Hương, hoặc bằng siêu atêmi như Văn Bình.

Mà là phản công bằng một khí giới kỳ lạ vừa được phát minh. Khí giới kỳ lạ này là cái bút máy nhỏ, bề tròn và bề dài chỉ bằng một phần ba bút máy Pạc-ke 75 nằm gọn trong lòng bàn tay răn reo của ông tổng giám đốc. Khi ông giơ tay lên thì một làn hơi từ đầu bút máy vọt ra,vô hình, không màu sắc, không mùi vị, song sức công phá lại mạnh gấp đôi phát atêmi của điệp viên z.28. Làn hơi trúng giữa mặt tên gác. Hắn tối mắt, đầu đau nhói như hàng chục mũi kim nhọn đâm thấu óc. Hắn buông khẩu tiểu liên xuống nền gác rồi ôm mặt loạng choạng, gục đầu vào tường.

Trong giây phút, hắn đã mê man hoàn toàn. Hành lang vắng ngắt. Đoàn vũ nữ khỏa thân dưới sân khấu đang trình diễn đoạn chót, cử tọa nghẹt thở chỉ chú ý đến những tấm thân kiều diễm phơi trần dưới ánh đèn pha. Khi ấy, nếu bom nặng một tấn rớt giữa mái nhà họ cũng không nghe tiếng, huống hồ tiếng kêu của khẩu súng và cây thịt rớt trên nền gác quá nhỏ bé....

Ông Hoàng lôi sểnh sệch gã đận ông bất tĩnh vào căn phòng mang số 12 ở cuối hành lang, ông dùng thuật kuatsu, ấn vào huyệt màng tang cho hắn tỉnh dậy.

Mở mắt ra thấy ông, tên gác há miệng toan kêu. Song ông Hoàng đã gõ ngón tay vào trán hắn :

- Im miệng. Kêu thì chết.

Tên gác thều thào :

- Ông là ai ? ông muốn gì ?

Ông Hoàng cười nhạt, dí ngòi bút máy vào khớp xương vai, bấm nhẹ một cái. Tên gác có cảm giác như xương quai xanh bị vỡ nát bởi hàng trăm mảnh lựu đạn. Cơn đau làm hắn mụ người, mắt mở thao láo, nước mắt, nước mũi chảy ròng ròng.

Ông Hoàng hỏi hắn :

- Còn muốn lộn xộn nữa không ?

Hắn nằm im không đáp. ông Hoàng lại giơ bút máy lên? Hắn vội rên rỉ:

- Lạy ông, tha cho tôi. Tôi đau lắm.

- Thế hả ? Nếu muốn khỏi đau, anh phải trả lời câu hỏi của tôi. Nguyễn Chấn ở phòng nào ?

- Nguyễn Chấn là ai, tôi không biết.

- Vậy anh phải biết cô Túy Vân.

- Cô ta đang trình diễn dưới nhà.

- Bao giờ lên ?

- Sắp sửa.

- Túy Vân lên phòng nào ?

- Phòng số 7.

Ông Hoàng đã biết xong điều cần biết. Hắn là nhân viên cấp dưới nên không đáng chết. Tuy nhiên, ông Hoàng không thể cho hắn tự do. Hắn cần nằm ngủ một lát. Một lần nữa, ông Hoàng bơm hơi chứa trong bút máy vào mặt tên gác. Loại súng hơi này bắn được 10 phát. Tùy theo để súng xa hay gần, bắn một viên hay nhiều viên, người bắn có thể biết trước nạn nhân bị ngã bất tỉnh trong bao nhiêu lâu. Thời gian mê man được tính sẳn : ít nhất là 5 phút, và lâu nhất là 2 tiếng đồng hồ. Chất hơi độc trong bút máy gần giống hơi Mace do Hoa Kỳ chế tạo dùng vào việc chống biểu tình, tuy nhiên, nó được gạn lọc tinh vi hơn, tác động của nó lại nhanh hơn và mạnh hơn.

Ông Hoàng bỏ mặc nạn nhân nằm dưới đất, mở hé cửa nhìn ra ngoài, vẫn không có ai. Ban nhạc dưới nhà đang chơi những nốt cuối cùng.

Phòng số 7 ở giữa hành lang. Như ông Hoàng đoán trước, phòng nào cũng không khóa cửa. Mỗi vũ nữ thoát y đều có phong riêng để sửa soạn.

Lâu lắm, ông Hoàng chưa bước vào phòng phụ nữ, nhất là phòng riêng của phụ nữ trẻ. Phòng đàn bà thường khác đàn ông, cách trang trí của nó khác hoàn toàn, mùi bàn ghế, mùi giường nệm cũng khác hoàn toàn. Nó phảng phất một mùi lạ, không biết ở đâu đưa tới, một mùi xa xôi mà gần gũi lạ lùng mà quen thuộc, lờm lợm mà ngây ngất. Nó là mùi tóc, mùi da thịt, mùi mồ hôi, mùi son phấn.

Hồi xưa, ông Hoàng còn trẻ, thế kỷ 20 mới khởi đầu, phòng riêng đàn bà thường đượm mùi dầu dừa, mùi hoa nhài, hoa bưởi, trộn với mùi băng phiến và mùi thuốc nhuộm quần áo mới. Với những biến chuyển hậu chiến xâu sa, phòng đàn bà đã có những mùi vị mới. Mùi nước hoa, mùi son phấn mỗi ngày một thơm song mùi da thịt, mùi mồ hôi mỗi ngày một hôi thêm. Muốn biết nữ chủ nhân đẹp hay xấu, hoặc đẹp đến mức độ nào thì chỉ cần đột nhập vào phòng riêng được đóng kín. Và không cần gặp mặt, chỉ cần dùng mũi cũng đủ.

Mùi đàn bà trong phòng ùa vào mũi vào miệng ông Hoàng, ông vội đứng lại, buồng phổi căng lên như muốn rách vỡ. Ông nhắm mắt lại một giây cho tâm thần lắng xuống rồi từ từ mở ra. Căn phòng nhỏ có một cửa sổ nhìn xuống vườn, được đóng chặt và kéo rèm dầy.

Đồ đạc đều bằng lát-tích bơm hơi. ở góc phòng, gần cửa ra vào, là cái bàn và hai cái ghế xa-lông lùn và rộng với hàng chục màu sặc sỡ chói mắt. Bộ xa-lông này tháo hơi ra có thể bỏ gọn vào cặp da xách tay. ở góc phòng đối diện, ông Hoàng thấy một cái giường cũng bằng túi lát-tích thổi phồng.

Phòng được ngăn làm đôi bằng một tấm bình phong bằng sơn mài trên vẽ hình thanh niên tóc dài và đàn bà trần như nhộng. Phía sau là bàn phấn. Còn bên trái là cửa vào buồng tắm.

Ông Hoàng đi sâu vào trong phòng, dừng thật lâu trước bàn phấn, ông ngồi xuống, rút ngăn kéo ra. Bên trong đầy ắp thư từ và hình ảnh. ông Hoàng quan sát kỹ lưởng từng tấm ảnh. Nếu ai ngồi gần sẽ thấy mặt ông hơi khác.

Rồi ông đứng dậy, bách bộ trong phòng với điếu xì-gà Ha-van ngất ngưởng trên môi. Mùi xì-gà thơm phức quyện lấy không khí trong phòng. Đứng ngoài hành lang, người bị tịt mũi cũng ngửi được mùi xì-gà đặc biệt ấy. Dường như ông Hoàng không quan tâm đến việc bị bại lộ. ông ung dung rít từng hơi thuốc, nhả khói lên trần nhà.

Tiếng giầy phụ nữ cao gót đến trước cửa phòng số 7 thì dừng lại.

Ông Hoàng định ngồi xuống ghế bỗng thay đổi ý định, ông hé cửa buồng tắm bước vào, tuy nhiên điếu xì-gà vẫn tiếp tục cháy và tỏa mùi thơm ngào ngạt.

Cửa phòng mở ra. Một cô gái tuyệt đẹp đứng giữa ngưởng cửa, miệng cũng phì phèo thuốc lá. Nàng chỉ trạc 20, gương mặt và thân hình phảng phất vẻ đẹp đẫy đà và khêu gợi của Tây phương. Nàng mới trình diễn thoát y xong nên trên người không mặc gì hết, ngoại trừ tấm áo choàng bằng voan kim tuyến khoác trên vai, để lộ 3 ngôi sao đỏ bằng giấy lân tinh dán vào những điểm xung yếu trên tấm thân cân đối, nẩy nở và trắng nõn nà.

Ông Hoàng nhìn thấy bóng nàng trong gương kê gần cửa buồng tắm. Tuy đã lớn tuồi, niềm ham muốn tắt từ lâu vì công việc bộn bề, ông cũng cảm thấy bồi hồi. Ông nhấc điếu xì-ga ra khỏi miệng để có thể tập trung sự quan sát vào bức tượng khỏa thân bằng xương bằng thịt đang ưỡn ẹo trong tấm gương cao hơn đầu người lấp loáng ánh đèn nê-ông.

Làn da trơn bóng và căng phồng của nàng không có vết thẹo mụn cá hoặc tàn nhang. Phần đông vũ nữ thoát y đều săn sóc thân thể không kém gì dung mạo, tuy nhiên thân thể của cô gái vừa bước vào phòng đã có những đường cong hấp dẫn kỳ lạ. Ngắm nàng, ông Hoàng thấy ngưa ngứa ở cổ họng, ông phải thu hết can đảm mới khỏi ho bật lên thành tiếng.

Nàng đóng cửa lại, vứt điếu thuốc xuống đất, rồi tiến đến gương, sắp sửa ngồi xuống ghế. Nhưng có tiếng người đập cửa ầm ầm.

Cô gái cau mặt:

- Ai đấy ?

Tiếng bên ngoài:

- Mở ra. Có việc quan trọng.

Mặt cô gái hơi biến sắc.

Nàng nhìn lấm lét quanh phòng khi nhận ra người gõ cửa là Nguyễn Chấn. Nguyễn Chấn đi thẳng ra xa-lông rồi dừng lại giữa nhà, ngẩng mặt hoi cô gái:

- Cô có nhận được mẩu giấy của tôi không ?

Cô gái gật đầu :

-Có.

- Tại sao cô không lên phòng ngay ?

- Em đang bận trình diễn. Phải hết bản nhạc em mới ngưng được. Hồi nãy em ngưng sớm hơn mọi bữa 5 phút mà khách cũng la hét om sòm.

- Khách la hét không bằng tôi.

- Em xin lỗi anh.

- Tôi đến đây không phải để nghe cô xin lỗi.

- Trời đất ơi, tại sao hôm nay anh lại gay gắt với em như vậy ? Anh quên đêm chủ nhật tuần trước rồi ư ?

- Không, tôi không quên, sở dĩ tôi không muốn nhắc lại là vì tôi cho đó là chuyện thông thường.

- Anh là người đàn ông bội bạc. Khi chưa chinh phục được em, anh gạ gẫm, quà cáp, tìm đủ cách mua chuộc, nhưng đến khi đã chiếm xong rồi thì coi là chuyện thông thường.

- Cô lôi thôi quá ! Đàn ông ngủ với đàn bà không là chuyện thông thường thì còn là cái gì nữa ? Theo cô, nó là vụ nổ bom nguyên tử 100 mêgaton chắc ? Thôi, tôi xin cô, nếu cô còn là cành vàng lá ngọc, kín cổng cao tường thì than phiền cũng đúng, đằng này trước khi ôm ấp tôi cô đã ôm ấp nhiều người khác... Nghe cô trách tôi bội bạc, suýt nữa tôi không còn nhớ cô là nhân viên nòng cốt trong "đoàn vũ khỏa thân" của ông chủ tịch nữa.

- Thật tôi không ngờ anh tàn ác đến mực độ ấy. Trong Tổ Chức, mỗi người một nhiệm vụ, anh là đàn ông khỏe mạnh, giỏi võ nên dùng sức lực, còn tôi là đàn bà... tôi chỉ có một khí giới : thân thể. Chính anh bố trí bắt các nhà bác học đem về, và thuyết phục tôi ngủ với họ.... Cũng chính anh thuyết phục tôi lừa phỉnh Phạm Thiên.

- Túy Vân, tôi cấm cô...

- Tôi cũng cấm anh gọi tôi là Túy Vân.

- Ừ, cô tha hồ cấm, nhưng cô cũng đừng quên rằng cô chỉ có thể cấm tôi gọi cô bằng những tên cô ghét, hoặc cấm tôi rờ mó vào da thịt cô. Chứ cô không thể cấm tôi ra lệnh cho cô. Vì tôi là thượng cấp trực tiếp của cô. Cô đã uống máu ăn thề khi gia nhập Tổ Chức. Trái lệnh thượng cấp là tử hình...

Cô gái rùng mình. Nguyễn Chấn nói đúng : nàng đã uống máu ăn thề, và trái lệnh thượng cấp là bị tử hình...

Đêm ấy, một đêm mưa to gió lớn trong khu rừng đầy cọp dữ và rắn độc gần Luang Prabang, đế đô Ai Lao, nàng được đưa vào một cái đền nhỏ nằm vắt vẻo trên đỉnh núi. Nàng ra đi từ chập tối mà đến nửa đêm mới lên đến nơi.

Nhìn cách kiến trúc của ngôi đền và cách bài trí bên trong, nàng biết không phải là chùa thờ Phật, như hàng trăm hàng ngàn ngôi chùa trên đất Lào. Trong đền, không có ai, ngoại trừ một người đàn ông đeo mặt nạ, đứng bên bàn thờ, tay cầm thanh mã tấu còn ướt máu tươi.

Ngoài trời mưa vẫn tuôn xối xả. Trời tối om như mực tàu. Trong đền chỉ có hai ngọn bạch lạp cháy leo lét. Trên bục thờ, nàng thấy một tờ sớ bằng giấy vàng trên viết tên tuồi của nàng và lời thề. Bên cạnh tờ sớ là con gà mái bị trói thúc ké, nằm ngoan ngoãn chờ chết trên cái đĩa gỗ sơn son.

Theo lệnh người đeo mặt nạ, nàng cầm dao cắt cổ gà, hứng máu vào ly rượu. Nàng uống một hớp, người đeo mặt nạ, đại diện Tổ Chức, uống một hớp. Đoạn, nàng cởi áo ngoài, chìa cánh tay trần cho người đeo mặt nạ chích cây kim vào gân bả vai, nặn máu vào chén rượu vừa uống dở. Như vậy là máu nàng đã đựợc hòa với máu con vật tế thần. Xong xuôi, người đeo mặt nạ bưng trên bệ cao xuống một cái hộp hình tròn bằng đồi mồi, nạm vàng và cẩn kim cương óng a óng ánh. Hình cái hộp như cối pháo 5 thước.

Mở lên, bên trên toàn bọc bằng nhung đen. Giữa hộp có một cái ve nhỏ. Đó là rượu pha máu của mọi cá nhân gia nhập Tổ Chức.

Người đeo mặt nạ lâm râm khấn vái rồi tháo dấu xi trên cổ ve rượu máu. Y thận trọng rót một giọt vào ly rượu uống dở trước khi lấy ống hút một phân khối rượu đựng trong ly này bỏ vào cái ve.

Y nghiêm mặt ra lệnh cho nàng :

- Quỳ xuống !

Nàng quỳ hai gối xuống cái chiếu cạp điều sờn mép, cái chiếu từng được dùng từ nhiều năm cho lễ tuyên thệ đồng sinh đồng tử. Người đeo mặt nạ cất tiếng sang sảng :

- Cô hãy uống cạn ly rượu này. Bắt đầu từ đây, cô được chính thức gia nhập Tổ Chức. Toàn thể anh chị em trong Tổ Chức được gắn bó với cô thắm thiết còn hơn ruột thịt, và sẽ bảo vệ cô, giúp đỡ cô trong mọi trường hợp. Tổ Chức sẽ lo cho cô sống sung túc về vật chất. Nếu cô mệnh một, Tổ Chức sẽ lo cho gia đình. Để xứng đáng với sự ân cần của Tổ Chức, cô phải luôn luôn cố gắng. Và nhất là trung thành. Trung thành vô điều kiện. Trung thành tuyệt đối.

Mọi ý định hành động bất trung thành đều bị phạt tử hình.

Sau khi bị hành quyết, tử tội sẽ bị đốt xác ra tro, bỏ xuống Ma Huyệt gần Luang Prabang. Những kẻ bị vứt xác xuống huyệt này sẽ đời đời kiếp kiếp làm ma, không được đầu thai lên dương thế làm người, đời đời kiếp kiếp con cháu sẽ sống trâu ngựa.

Run rẩy, nàng đỡ lấy chén rượu. Lời thề đã được hòa trong máu. Cho đến chết, nàng phải nhớ. Tác dụng của lời thề vẫn còn lại sau khi chết...

Cô gái rùng mình. Nguyễn Chấn nhìn trừng trừng vào mắt nàng :

- Nhân danh thượng cấp, tôi yêu cầu cô thu xếp hành trang để rời Sàigòn nội sáng mai.

Cô gái tỏ vẻ ngơ ngác :

- Em phải rời Sàigòn ?

- Phải.

- Rời Sàigòn đi đâu ?

- Cô được thuyên chuyển tới một nơi khác ở xa Việt Nam.

- Tại sao ? Em có phạm lỗi lầm nào đâu ?

- Đây không phải lỗi lầm cá nhân. Mà là an toàn của Tổ Chức.

- Nghĩa là bị lộ ?

- Phải, chúng ta đã bị lộ. Người ta đang tìm cách gặp em. Từ em, họ sẽ phăng ra toàn bộ kế hoạch của Tổ Chức.

Giọng nói của Nguyễn Chấn dịu hẳn. Tia mắt hắn cũng trở nên trìu mến khác thường. Hắn đặt bàn tay lên bờ vai trần tròn trịa và láng bóng của nàng :

- Em ra đi, người chịu thiệt thòi nhất là anh. Song anh không còn cách nào khác nữa. Cũng như em, anh phải tuân theo mạng lệnh của Tổ Chức. Có lẽ em được cử đi Nhật. Chừng nào xong việc anh sẽ xin phép qua đó thăm em và sống với em một thời gian. Gần sáng, anh sẽ có đầy đủ giấy tờ và tiền nong cho em. Hết giờ giới nghiêm, em xuống ga-ra, mở cốp xe sẽ thấy một cái va-li nhỏ bên trong đựng thông hành và ba ngàn đô-la. Em sẽ đáp máy bay 8 giờ sáng. Bây giờ em muốn hỏi thêm điều gì nữa không ?

Cô gái ngần ngừ một phút. Nàng ngồi xuống ghế bàn phấn, vẻ mặt mất thần.

Rồi nàng ngẩn đầu lên, giọng rụt rè :

- Em muốn xin phép anh hoãn lại 24 giờ đồng hồ.

Giọng Nguyễn Chấn xoắn chặt:

- Để làm gì ?

- Em muốn chào mẹ em. Lâu lắm, em chưa được gặp bà cụ. Nhân tiện để biếu bà cụ một món tiền.

- Em cứ để tiền trong hộc xe hơi. Em đậu xe bên ngoài phi cảng. Buổi trưa, anh sẽ lên lấy xe và mang tiền về trao Ịại cho bà cụ. Em phải đi ngay vì sợ sáng mai nhân viên Mật Vụ sẽ vào câu lạc bộ tìm em thì hỏng chuyện. Em đã hiểu chưa ?

- Hiểu rồi. Em xin nghe lời anh.

Nguyễn Chấn nhoẻn miệng cười. Hắn rút trong túi quần ra một ve rượu huýt-ky dẹt cở nhỏ rồi nói:

- Em uống đi cho khỏe.

Nguyễn Chấn bước ra cửa, nhưng cô gái gọi giật lại:

- Trước khi đi, em còn gặp lại anh nữa không ?

Nguyễn Chấn lắc đầu :

- Không. Em cũng không được tiết lộ cho ai biết. Anh sẽ nói với họ là em bị mệt, ra cấp đổi gió một vài tuần. Thôi, chúc em đi thượng lộ bình an...

Nguyễn Chấn ra đến cửa, cô gái vội chạy theo :

- Này anh ?

Hắn gỡ tay nàng ra :

- Cái gì thế ?

- Em ngửi thấy mùi lạ lắm.

Nguyễn Chấn cười hô hố :

- Dĩ nhiên. Trong phòng đàn bà thì thiếu gì mùi lạ.

- Em nói thật đấy. Anh ngửi mà xem. Mùi này là mùi xì-gà. Loại xì-gà Ha-van đắt tiền.

- Không lẽ trong câu lạc bộ Ngũ Nhật Hội khách lại hút thuốc lào và thuốc rê...

- Khổ quá, anh cứ đùa mãi. Em sợ có người núp trong này.

Ông Hoàng vẫn đứng trong buồng tắm, ung dung hút xì-gà. Cô gái nói không sai : điếu xì-gà Ha-van đắt tiền, người hút không rát lưỡi, khô cổ khan giọng, người ngửi lại cảm thấy tâm thần sảng khoái, ông nghe cô gái nói mà nét mặt không thay đổi. Ông vẫn tiếp tục hút, tiếp tục ngắm hai con chim bồ câu đang rỉa cánh cho nhau trên một cành cây nhân tạo bên cửa sổ. Từ nãy đến giờ, đôi chim vẫn nhìn ông bằng luồn mắt bình thản, và trong khi ông hút xì-gà chúng bình thản tỏ tình với nhau.

Cặp bồ câu đang rỉa lông giúp ông Hoàng tìm ra một ý kiến mới lạ. ông mỉm cười một mình, rồi ngửa cổ thở khói về phía đôi chim uyên ương.

Mùi xì-gà ngạt ngào lại ngạt ngào thêm. Bên ngoài Nguyễn Chấn khịt khịt cái mũi rồi nói:

- Ừ, mùi xì-gà thơm thật đấy. Nhưng thứ xì-gà anh hút còn thơm hơn nhiều.

- Anh Nguyễn Chấn, anh làm sao thế ?

- Chẳng sao cả. Nếu em nghi có người lạ trong phòng thì mở tủ tìm xem.

- Cái tủ của em nhỏ xíu, con nít núp cũng không lọt huống hồ người lớn.

- Vậy em nên tìm trong buồng tắm.

- Anh cùng vào với em. Em sợ lắm.

Nguyễn Chấn lại cười:

- Anh cũng sợ như em.

- Lạy anh...

- Thôi, đừng ngây thơ... cụ, nữa cô. Đàn bà đẹp không khi nào biết sợ. Hiện nay cô không mặc quần áo, cục sắt nhìn thấy cô cũng phải nhổm dậy, huống hồ con người. Giá trong buồng tắm có người lạ, hắn cũng mê man bất tỉnh trước nhan sắc tuyệt vời của cô. Với lại, tôi không tin trong phòng này có người. Chẳng qua cô bị ám ảnh. Câu lạc bộ được phòng vệ vô cùng kiên cố, còn kiên cố hơn dinh Tổng Thống nữa, một con chim bay vào không lọt, trừ phi có phép tàng hình mới nhảy qua được hàng rào truyền điện, rồi đối phó với đàn bẹt-giê, với đà điểu, với người gác, với hệ thống canh phòng điện tử tân tiến... Cô làm tôi mất thời giờ nhiều quá. Rượu đấy, tôi chọn toàn thuốc tốt để ngâm cho cô. Cô chỉ uống một ngụm là quên hết sự đời.

Cô gái thở dài:

- Cám ơn anh.

Nguyễn Chấn hôn gửi rồi đóng cửa phòng. Nghe tiếng cửa kêu sầm, cô gái gieo mình xuống ghế, khóc thút thít.

Khi nàng ngoảnh lại thì một người đàn ông trung niên, vẻ mặt nho nhã, phục sức sang trọng đã ngồi trên, ghế đi- văng sau lưng nàng không biết từ bao giờ. Nàng hẫng người như đang đi trên bãi cát bị cơn gió biển xô suýt ngã. Ông Hoàng vẫn hút điếu xì-gà Ha-van bất hủ.

Cô gái nhìn ông Hoàng rồi nhìn điếu xì-gà Ha-van, lắp bắp :

- Ông là ai ?

Ông Hoàng gạt tàn vào cái đĩa lát-tích màu tím cà :

- Bạn thân của cô.

- Ông núp ở đâu ?

- Trong phòng cô. Nói đúng ra, tôi không hề ẩn náu lén lút. Bằng chứng là tôi hút xì-gà và cô đã ngửi thấy mùi thơm.

- Ông đã nghe hết cuộc nói chuyện giữa tôi và Nguyễn Chấn ?

- Đúng.

- Vậy ông là... nhân viên Công an.

- Ồ, công việc này không liên hệ đến Công An.

Cô gái há hốc miệng khi thấy ông Hoàng từ từ tháo cái mặt nạ bằng cao su porotherme ra. Cách đây ba bốn năm, mặt nạ cao su này phải gồm nhiều miếng rời, dán chận lên nhau, khi gỡ ra rất mất thời giờ và nhiều khi còn làm da thịt trầy trụa. Nhưng mặt nạ porotherme của ông Hoàng được chế tạo theo một công thức bí mật đặc biệt nên chỉ gồm nguyên một miếng, dính chặt vào mặt, gỡ ra lại dễ dàng.

Xoạc... xoạc.... cái mặt nạ cao su rớt xuống bàn. ông Hoàng hỏi cô gái, giọng hiền từ :

- Cô biết tôi là ai chưa ?

Cô gái gật đầu, mặt xanh mét như tàu lá :

- Thưa biết.

- Cô phải biết, vì toàn thể nhân viên trong Tổ Chức của cô đều được coi kỹ tấm hình của tôi. Cô gia nhập Quốc Tế Đặc Vụ đã lâu chưa ?

- Thưa... cụ.

- Không sao, cô gọi tôi là ông cũng được. Tiếng cụ già quá, phải không cô ?

- Thưa ông... tôi không thể nói được.

- Tại sao ?

- Tôi đã thề trung thành đến phút cuối cùng.

- Cô chỉ thề trung thành với Tổ Chức chứ không thề trung thành với cá nhân Nguyễn Chấn.

- Vâng. Nguyễn Chấn là đại diện của ông chủ tịch.

- Giả sử Nguyễn Chấn lợi dụng sự trung thành của cô để đưa cô vào chỗ chết ?

- Thưa ông, không khi nào. Giữa Nguyễn Chấn và tôi, ngoài tình đảng viên ra còn tình bạn, tình yêu thắm thiết nữa. Ông là ông Hoàng, ông chủ tịch Quốc Tế Đặc Vụ có lần nói với tôi rằng ông Hoàng là lãnh tụ gián điệp cừ khôi nhất nhì thế giới, không bao giờ lầm lẫn. Nhưng ông Hoàng ơi, lần này ông đã lầm lẫn một cách tai hại. Tôi có thể đoán chắc với ông là Nguyễn Chấn không khi nào tìm cách hại tôi. Tổ Chức luôn luôn biệt đãi tôi. sở dĩ tôi phải xuất ngoại vì nội vụ bị bại lộ.

- Cô đoán chắc mấy chục phần trăm ?

- Một trăm phần trăm.

- Thật đáng buồn. Tôi vượt qua hàng rào truyền điện, triệt hạ thú vật, nhân viên và dụng cụ điện tử canh phòng, vào đây với một mục đích duy nhất, cứu cô. Phải, cứu cô ra khỏi cái chết. Vậy mà cô không tin tôi. Cô còn tin tưởng tuyệt đối vào Nguyễn Chấn, vào sự ngay thẳng của Quốc Tế Đặc Vụ.

- Thưa ông... từ lâu tôi vẫn kính trọng ông. Và không riêng tôi, mọi người đều kính trọng ông. Kính trọng về tuổi tác. Kính trọng về đức độ. Kính trọng về tài ba. ông đừng nói nữa kẻo sự xảo ngôn của ông sẽ làm tôi hết kính trọng.

- Nghĩa là cô cho tôi nói láo.

- Tôi đâu dám dùng chữ "nói láo" hỗn xược ấy với một người đáng tuổi cha, đáng tài thầy như ông. Mặc dầu sự thật cũng gần như vậy.

Nói đoạn, cô gái cầm chai rượu thuốc nâng lên mắt, ngắm một cách say sưa. Dường như nàng quên bẳng trong phòng có ông Hoàng. Nàng chỉ nghĩ đến chai rượu.

Ông Hoàng hỏi:

- Rượu thuốc ?

Cô gái đáp :

- Vâng. Đây không phải rượu thuốc thông thường. Mà là rượu ngâm với rễ cây tột quý gọi là trường-duyên-thảo. Uống vào thì đàn bà giữ được trẻ mãi, nhan sắc còn nguyên không sợ tàn tạ vì năm tháng. Ngoài ra, nó còn mang lại sức khỏe, và sức chịu đựng dẽo dai. Mỗi đêm nhảy múa 5, 6 giờ đồng hồ liên tiếp dưới ánh đèn một ngàn nến, nếu không có rượu thuốc trường-duyên-thảo này thì chắc tôi đã vào bệnh viện từ lâu rồi. ông biết một ve rượu thuốc nhỏ xíu như vậy trị giá bao nhiêu không ?

Ông Hoàng lặng thinh. Cô gái nói tiếp, giọng hãnh diện :

- Một ngàn đô-la. Mỗi tuần, Nguyễn Chấn mang biếu tôi một ve. Vị chi bốn ngàn đô-la một tháng, sở dĩ trường duyên-thảo đắt như vàng vì trên thế giới nó chỉ được tìm thấy ở một giải núi ở Tây-Bắc Phi châu. Chạy dài suốt ba quốc gia Fyiarốc, Angiêri và Tuynidi. Muốn hái trường-duyên-thảo, người ta phải trèo lên đỉnh núi cao nhất, nghe đâu đến ba, bốn ngàn thước.

Ông tổng giám đốc Mật Vụ vẫn lặng thinh, ông không muốn nói vì tỏ ra ông biết quá nhiều. Là yếu nhân điệp báo thế giới, ông không thể không biết đến trường-duyên-thảo. Dược tính của nó là đảm bảo cho nam nữ một sức khỏe bất tận trong phòng the.

Các cơ quan điệp báo quốc tế đã dành khá nhiều thời giờ và công phu để tìm trường-duyên-thảo. Vì khoa học đã khám phá ra nhiều môn thuốc làm gia tăng khả năng yêu đương, song khả năng này lại có hạn, chứ không vô hạn như trường-duyên-thảo. Hơn nữa, nó lại không di hại cho cơ thể như các viên thuốc hóa học bày bán ngoài thị trường. Nó còn làm cho người uống biến đổi da thịt, tóc bạc hóa xanh, mặt nhăn nheo hóa trơn tru, răng đang lung lay được cứng lại, áp huyết cao được giảm xuống mực bình thường, mọi bệnh tạng phủ như bệnh tim, bệnh... già được hoàn toàn chữa khỏi như có thuốc tiên.

Tuy nhiên, kiếm được trường-duyên-thảo không phải dễ. Nó chỉ mọc nơi cao nhất. Trên thế giới, chỉ có hai nơi có. Thứ nhất là ở trên ngọn núi Tizi cao khoảng 4000 thước (1), thứ hai là ở một mỏm núi thấp hơn đỉnh Everest thuộc Hy mã lạp sơn, nhưng khó trèo hơn Everest nhiều.

Trường-duyên-thảo là một loại cây lùn thấp, bò sát mặt đất, như rau sam của ta, màu nó xanh biếc, cọng và lá nó trong suốt, tưởng bằng lát-tích. Nó chỉ mọc trong thạch động, hễ mang ra trồng ngoài ánh mặt trời là chết ngay. Người ta cũng tìm cách bứng gốc mang về trồng trong tủ gương được điều hòa khí hậu song cách trồng này đã làm trường-duyên-thảo mất hết dược tính. Cho đến nay vẫn chưa rõ nguồn gốc của trường-duyên-thảo, từ đâu mà ra, tại sao mà có. Theo tương truyền thì ngày xửa ngày xưa trên đỉnh núi Tizi và Hy mã lạp sơn có một giọng người sinh sống. Họ chẳng làm gì cả. Không phải trồng trọt để lấy lương thực vì hồi ấy loài người còn quá hiếm, lương thực thiên nhiên lại đầy rẫy trong vùng. Họ chỉ bước ra cửa động là có trái cây tha hồ. Họ cũng không phải dệt vải để may mặc vì lẽ giản dị, hồi ấy họ chưa biết dệt vải, cũng như chưa biết may mặc. Quần áo của họ chỉ gồm một cái lá hoặc chẳng có gì hết.

Thời tiết quanh năm lại không lấy gì làm ấm áp nên quanh năm họ chỉ ở lì trong thạch động. Và hoạt động thường trực của họ là tình yêu. Trong một cơn đại biến thiên nhiên, có lẽ vì núi sập, giống người đa tình này bị chết hết.

Tuy vậy, họ không bị tuyệt chủng. Vì máu họ thấm vào đất, sinh ra trường-duyên-thảo (2).

Cô gái mở nút ve rượu, ghé mũi vào ngửi, hai mắt lim dim, vẻ hoan lạc hiện rõ trên mặt, như thể vừa được chích bạch phiến. Rồi nàng run run đưa cổ chai lên, sửa soạn uống.

Ông Hoàng ngăn lại:

- Thong thả.

Cô gái tỏ vẻ sửng sốt như từ trên trời rơi xuớng :

- Ông làm gì thế ?

Ông Hoàng ung dung đáp :

- Vì trong ve rượu có độc.

Nói đoạn, ông Hoàng dằng lấy ve rượu, quay lưng lại, đặt trên tủ buýp-phê. Cô gái đứng dậy, phản đối:

- Ông nói bậy. ông trả chai trường-duyên-tửu cho tôi. Không bao giờ Nguyễn Chấn đầu độc tôi đâu.

Ông Hoàng nghiêm mặt:

- Nếu cô không tin, tôi sẽ cho cô thấy rõ sự thật.

Ông Hoàng bước nhanh vào buồng tắm. Cô gái chạy theo, giọng hớt hơ hớt hải:

- Ông vào buồng tắm làm gì ?

- Để mượn cô đôi bồ câu.

- Không được. Cặp chim này rất quí. Chúng là bạn thân nhất đời của tôi.

- Như vậy nghĩa là cô sợ trong rượu có thuốc độc. Cô sợ đôi chim của cô chết.

- Tôi không sợ. Vì tôi biết....

- Vậy đôi chim của cô sẽ chẳng việc gì hết.

Con chim đực ngoan ngoãn nằm trong tay ông Hoàng, ông vuốt đầu nó một cách thân mật rồi đi ra phòng ngoài. Con cái vỗ cánh sành sạch bay theo.

Như bị thôi miên, cô gái chằm chằm ngó ông Hoàng rót rượu vào cái đĩa sâu lòng bằng sứ Nhật Bản. ông rót một cách thận trọng, còn thận trọng hơn cả rót át-xít, tưởng như hơi rượu cũng có thể làm cho người ngửi thiệt mạng. Màu rựợu vàng như rơm. Rót ra nó thoang thoảng một mùi hương quyến rũ, mùi hương của rượu huýt-ky chính cống Ái Nhĩ Lan đựng trong thùng gỗ sồi cất giữ từ đời cha đến đời con dưới hầm mát.

Nàng vươn tay ra :

- Ông ơi !

Ông Hoàng ngẩng lên :

- Cô chịu khó chờ tôi một phút.

Cô gái nói luôn một hơi, như thể sợ nói chậm thì quên :

- Ông ơi, trả con bồ câu lại cho tôi. Nó không quen uống rượu trường-duyên-thảo.

Không trả lời, ông Hoàng bưng đĩa rượu đặt dưới mỏ con chim. Nó chiêm chiếp một tiếng rồi gục xuống uống, ông Hoàng coi đồng hồ :

- 2 phút đồng hồ. Phiền cô đợi đúng 2 phút.

Cô gái chắp hai tay :

- Lạy trời !

Nàng định khấn vái thêm song miệng nàng bị cứng lại. Vì nàng vừa thấy con chim bồ câu đực thân yêu ngước cặp mắt óng ạ óng ánh nhìn nàng rồi nhìn con cái... Có lẽ đọc được tư tưởng của con đực, con cái vội nhảy tới kêu chiêm chiếp một cách thảm thiết.

Đúng như ông Hoàng dự tính, sau 2 phút, con chim đực ngã lăn xuống bàn.

Và chết.

Cô gái khóc ré lên. Nàng vồ lấy con chim còn nóng hổi, hôn lung tung vào bộ lông láng mượt. Nhưng ông Hoàng vội gỡ tay nàng ra, giọng nghiêm nghị:

- Không được. Cô đụng vào thì khốn. Con chim bị chết vì một chất độc cực mạnh chế bằng nhựa cây curare. Nước rãi của con chim bị chết vương vào da cô có thể làm tay chân cô tê liệt. Nếu da có chỗ xây xát, nó sẽ ngấm vào máu, nguy hại đến tính mạng.

Ông Hoàng lấy con chim chết ra khỏi tay cô gái rồi dìu nàng ngồi xuống ghế. Nàng vẫn ôm đầu khóc sụt sùi. Nếu có tài nhìn thấu tam can ông Hoàng, nàng sẽ không khóc nữa. Vì sự việc vừa xảy ra hoàn toàn do sự sắp xếp khéo léo của ông tổng giám đốc Mật Vụ.

Ông Hoàng chỉ cần một thời gian vi ti để thực hiện kế họạch. Thừa cơ dằng lấy ve rượu và quay lưng lại, ông đã mở nút, bỏ vào một viên thuốc màu trắng nhỏ xíu. Viên thuốc này tan ngay trong rượu. Nó chứa một thứ độc dược cực mạnh, có thể giết người trong chớp nhoáng. Tuy nhiên, nó sẽ trở thành một hóa chất vô hại nếu kẻ uống lầm được uống thuốc giải. Thuốc mầu xanh, hình bầu dục, bỏ vào rượu pha viên thuốc trắng sẽ biến tất cả thành màu đỏ.

Dầu quan sát kỹ lưỡng, nàng cũng vẫn không khám phá nổi sự khéo tay của ông Hoàng. Văn Bình nỗi tiếng là khéo tay mà cũng phục ông sát ván. Trong ban Chuyên Môn dưới quyền của ông, có một phần vụ đặc biệt, chuyên dạy nhân viên cách làm quỷ thuật. Nhân viên điệp báo phải giỏi cách làm quỷ thuật vì khi cần đến họ phải móc túi lấy đồ, nhanh nhẹn và tài tình như kẻ móc túi thiện nghệ. Phần vụ huấn luyện quỷ thuật này áp dụng phương pháp của John Scarne, chuyên viên quỷ thuật của quân lực Hoa Kỳ (3).

Sự khéo tay của ông Hoàng đã dẫn đến nhiều giai thoại lý thú. Trong những ngày đầu thế chiến, nước Pháp bị chiếm đóng, ông điều khiển một cơ sở của đồng minh ở vùng Ba Lê. Một hôm, ông nhận được một cuộn phim vi-ti, chưa kịp rời khỏi tiệm cà-phê thì bị Phản Gián Đức ập vào bắt, vì nội phản. Không hiểu ông xoay sở cách nào mà cuộn phim nhựa lại nằm gọn trong túi áo vét-tông của tên trưởng toán Phản Gián quốc xã. Hắn lục soát khắp người ông, không tìm thấy tang vật, trong khi ấy ông Hoàng một mực kêu oan. Tuy vậy, ông vẫn bị còng tay, đưa lên xe cây. Ông đã úm ba la móc túi được chìa khoá còng, bình thản mở còng cho toàn thể mọi người, mở luôn khóa cửa. Thấy động, bọn quốc xã đậu xe lại nhưng những người bị bắt đã tông chạy, ông Hoàng cố tình ở lại đánh ngã tên trưởng toán, đoạt lại cuốn phim vi-ti và khẩu súng tiểu liên rồi mới chịu tháo lui.

Tuồi tác không làm sự khéo tay của ông Hoàng giảm sút. Hai năm trước, ông đã dùng nghề mọn để lỡm một ông bộ trưởng vốn có thành kiến với hoạt động điệp báo. Ông bộ trưởng này cho rằng sở Mật Vụ của ông Hoàng là một cơ quan ma, không làm được việc gì xứng đáng để có thể nhận lãnh trợ cấp của phủ Thủ Tướng, ông Hoàng không thể đưa thành tích và tài liệu ra chứng minh, vả lại, từ nhiều năm nay, ông vẫn giữ thái độ im lặng đối với những luận cứ chỉ trích.

Ông bộ trưởng này có khá nhiều ảnh hưởng và tài thuyết phục nên đã yêu cầu được Hội Đồng Nội Các nhóm họp, với sự tham dự của ông Hoàng để nghe một bản phúc trình về việc nên giải tán sở Mật Vụ. Bản phúc trình được soạn thảo rất công phu, dài gần 20 trang đánh máy li ti, kể hết tội trạng của ông Hoàng và nhân viên dưới quyền. Ông Hoàng dư biết Thủ Tướng cũng như Hội Đồng Nội Các sẽ bác bỏ bản phúc trình hàm hồ này, tuy vậy, ông cần cho đương sự một... bài học.

Ông Hoàng đến sớm, ngồi chờ ông bộ trưởng, ông bộ trưởng xuống xe, gương mặt trịnh trọng, bắt tay ông Hoàng qua loa rồi tiến lại ghế dành riêng cho thuyết trình viên, ông mở đầu bằng những lời lẽ chắc nịch, công kích sở Mật Vụ là một Tổ chức vô bổ rồi nói:

- Tôi xin mời quý vị nghe bản phúc trình sau đây với đầy đủ lý lẽ xác đáng và chi tiết cụ thể.

Dứt lời, ông cho tay vào túi trong áo vét-tông lấy ra cuộn giấy, ông hất cặp kiếng bị trễ xuống mũi, rồi cất tiếng đọc bằng giọng trang nghiêm như tuyên thệ nhậm chức :

- Em Hường ơi, anh nhớ em quá... Đêm nay, xong phiên họp với cái cục nợ Thủ Tướng, anh sẽ đến với em. Nhớ tắm nước nóng pha nước hoa anh mua cho thơm đấy, nghe cưng... Em...

Ông bộ trưởng hảo ngọt đột nhiên ngậm miệng, mặt tái mét, không bấm ra được một hột máu. ông chợt nhớ ra tờ giấy ông đang đọc không phải là đoạn đầu của bản phúc trình chỉ trích sở Mật Vụ mà là đoạn cuối của bức thư tình ông viết hồi trưa, gởi cho cô bé xinh như mộng, trẻ hơn ông gần hai giáp.

Ông vốn mắc bệnh đãng trí và cẩu thả nên đã trở thành trò đùa cho ông tổng giám đốc sở Mật Vụ. Thừa dịp bắt tay chào, ông Hoàng đã đánh tráo một xấp giấy tương tự vào túi trong của ông bộ trưởng. Luồn tay vào túi trong một nhân viên cao cấp có tiền hô hậu ủng để móc trộm một văn kiện quan trọng đã là khó, thay thế bằng một tờ giấy khác còn khó hơn nữa. Vậy mà ông Hoàng đã làm được.

Không những thế, nhân viên của sở lại còn chụp hình được bức thư mới viết cho người yêu của ông bộ trưởng. Những thành tích ấy chứng tỏ sở Mật Vụ không phải là Tổ chức vô bồ. Kết quả là mọi người quanh bàn họp được một mẻ cười no nê. ông Thủ Tướng là nhân viên quảng đại song vẫn không vui vì bị cộng sự viên gọi là "cục nợ". Thượng bất nghiêm, hạ tắc loạn, ông bộ trưởng dại gái và đãng trí phải lặng lẽ đút đơn xin từ chức. Từ đó sở Mật Vụ và ông Hoàng vững như bàn thạch.

Đối với những việc gay go như ăn cắp chìa khóa hoặc công khai rút trộm bản phúc trình mật, ông Hoàng còn làm dễ như chơi thì việc bỏ viên thuốc độc vào ve rượu trường-duyên-thảo chẳng có gì là khó. Cho nên cô gái tưởng lầm là kẻ địch đầu độc nàng là Nguyễn Chấn.

Đang khóc, nàng ngẩng phắt lên, giọng ráo hoảnh :

- Hừ, họ tệ thật!

Ông Hoàng ngồi xuống bên vỗ về :

- Tôi đã bảo mà... Nguyễn Chấn rắp tâm giết hại cô. Cô đã hiểu tại sao chưa ?

Nàng lắc đầu, ai oán :

- Chưa.

- Vì cô biết được một số bí mật. Hắn phải thủ tiêu cô để phi tang.

- Phi tang. Thưa ông, tôi có làm gì lén lút đâu mà ông dùng danh từ "phi tang" ?

- Cô thử nhớ lại xem.

- Chắc ông muốn nhắc đến vụ cha tôi mất tích. Thú thật với ông, tôi chẳng biết gì hết. Cũng như cha tôi, tôi chỉ là nạn nhân.

- Vậy tên cô là Túy Vân ?

- Trời ơi, tôi cứ đinh ninh là ông biết rõ tên tôi. Vâng, tôi là Túy Vân, con gái của bác sĩ Phạm Thiên. Vì không được cha nuôi nấng từ tấm bé, hoàn cảnh sinh sống lại eo hẹp nên tôi đã phải làm nghề vũ nữ, một nghề...

- Nói bậy. Vũ nữ không phải là nghề xấu. Chỉ có người xấu chứ nghề không xấu.

- Thưa ông, ông phải là đàn bà mới hiểu được nổi khổ tâm của chúng tôi đêm đêm cởi bỏ quần áo cho đàn ông ngắm nghía. Tôi muốn thoát ly từ lâu mà chưa tìm ra cơ hội.

- Tôi sẵn sàng giúp cô. Miễn hồ cô giúp chúng tôi khám phá ra tung tích của bác sĩ Phạm Thiên.

- Như đã nói với ông, tôi chẳng biết gì hết. Người chủ trong mọi việc là mẹ tôi.

- Bà Túy Ngọc ?

- Phải. Mẹ tôi là Túy Ngọc.

- Cô hãy đưa tôi lại gặp bà.

- Thưa ông, cho đến phút này tôi không biết mẹ tôi đã dọn nhà đi đâu.

- Hồi nãy, cô xin phép Nguyễn Chấn hoãn cuộc hành trình 24 giờ để từ biệt bà Túy Ngọc. Vậy là cô không thành thực.

- Ồ, ông đã hiểu lầm. vâng, hồi nãy tôi đã xin phép Nguyễn Chấn. Nhưng người đàn bà tôi định gặp không phải là mẹ ruột. Năm tôi lên 2 tuồi, mẹ ruột tôi đem giao cho viện mồ côi. Sau đó, vì biến cố chiến tranh, viện bị tàn phá, nhân viên trong viện thiệt mạng gần hết, tôi trở thành con nuôi của một cặp vợ chồng không có con trong vùng, ông chồng đã chết, chỉ còn lại bà vợ, mẹ nuôi của tôi. Bà đối với tôi rất tốt, tốt như đối với con đẻ. Nếu ông muốn, tôi sẽ đưa ông tới gặp bà.

- Cám ơn cô. Tôi chỉ muốn gặp ai có thể giúp tôi tìm ra bác sĩ Phạm Thiên.

- Em, à xin lỗi ông, tôi chỉ được giáp mặt cha tôi một tiếng đồng hồ.

- Tại đâu ?

- Ngay tại đây.

- Ai đưa bác sĩ Phạm Thiên đến ?

- Nguyễn Chấn. Hắn hứa cho cha con tôi xum họp, nhưng từ mấy tuần nay không nói gì đến nữa.

Ông Hoàng bâng khuâng nhìn làn khói xi-gà xanh biếc. Rồi ông đứng dậy :

- Thôi, tôi về đây. Mai tôi sẽ gặp lại cô.

Cô gái giật mình :

- Sao ? Ông về ư ?

- Đêm đã khuya, tôi muốn về ngủ một lát.

- Lạ thật, tôi không ngờ một lãnh tụ điệp báo nổi danh thế giới như ông mà lại có thể dửng dưng, đùa bởn, trước cái chết của một người đàn bà yếu ớt...

- Nghề điệp báo tàn nhẫn lắm cô ạ ! Đối với tôi thì một người chứ cả trăm người chết nữa cũng không làm tâm hồn tôi rung động.

- Nhưng ông đã hứa giúp tôi.

- Trên đời, có đi có lại mới toại lòng nhau, cô ạ ! Tôi sẵn sàng cứu cô, bằng chứng là đã ngăn cô uống trường- duyên-tửu. Nghĩa là trước đây 5 phút, cô đã được tôi cứu khỏi cái chết trong đường tơ kẽ tóc... Tôi trông đợi thiện chí hợp tác của cô, song cô vẫn tiếp tục bưng bít sự thật. Vì vậy, tôi không còn cách nào khác, ngoài cách bỏ mặc cô ở lại đối phó với Nguyễn Chấn. Lát nữa, biết cô còn sống, hắn sẽ trở lại. Và tôi tin rằng lần này hắn sẽ không cần pha thuốc độc vào rượu nữa.

- Ông Hoàng ơi, tôi van ông... Tôi sẽ khai hết những điều ông muốn biết.

Ông Hoàng coi đồng hồ :

- Đang còn sớm chán. Nào, cô ngồi xuống đây, kể lại cho tôi nghe về cô, về Quốc Tế Đặc Vụ, về thiếu tướng Sulivông.

Mặt cô gái tái xanh :

- Thưa ông... xin ông đưa tôi ra khỏi nhà này sớm phút nào hay phút ấy. Nguyễn Chấn trở lại thì chết.

ông Hoàng mỉm cười.

Nụ cười lạ lùng, gần như quái đản. Thì vừa khi ấy, cửa phòng mở tung. Người xô cửa là Nguyễn Chấn.

Với khẩu súng trên tay.

Chú thích:

1. Đỉnh Tizi cao 14784 bộ (tức là khoảng 3.700 thược), thuộc giải núi Atlas dài 2.400 cây số.

2. Trường-duyên-thảo đã được nhắc tới trong cuốn Gensan-thropeia, một cuốn sách giáo khoa bằng tiếng la-tinh, tác giả là Johannes Benedict Sinibaldus, giáo sư Y Khoa người Ý, xuất bản tại La mã năm 1642. Nhiều đoạn trong cuốn sách này nói đến các môn thuốc tình yêu. Tuy vậy, Sinibaldus chỉ thuật lại là trên đỉnh núi Atlas có một loại cây tình yêu, chứ không nói rõ là trường-duyên-thảo. Scaliger, một khoa học gia thời Trung cồ cũng nhắc đến loại cây kỳ lạ này, và nói là nó mọc ở Ấn Độ. Dường như một số vua chúa Trung Hoa cồ xưa đã biết dùng trường-duyên-thảo. Có lẽ vì vậy mà họ có thể đương đầu với tam cung lục viện.

3. John Scarne phục vụ cho Bộ Chiến Tranh Mỹ trong thế chiến thứ hai, sau đó trở thành chuyên viên quỷ thuật tại Ngũ Giác Đài, cố vấn về các mánh khóe lừa bịp của dân đổ bác, dân quỷ thuật quốc tế. Kỹ thuật của Scarne được viết thành sách, ngày nay, nhiều cơ quan điệp báo đã học kỹ thuật này.
Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Đoàn Vũ Khỏa Thân - Người Thứ Tám Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Đoàn Vũ Khỏa Thân - Người Thứ Tám   Đoàn Vũ Khỏa Thân - Người Thứ Tám Icon_minitimeTue May 23, 2017 4:22 am

Người Thứ 8
Đoàn Vũ Khỏa Thân
Chương 8
Giấc ngủ kỳ lạ


Mắt Nguyễn Chấn tóe lửa, tưởng có thể thiêu rụi đồ đạc trong phòng. Khẩu Smith and VVesson trên tay hắn được liệt vào loại võ khí chiến trận nguy hiểm, nhưng nhìn nó người ta không sợ bằng nhìn cặp mắt của Nguyễn Chấn.

Cô gái đã nhìn thấy trước tiên.

Tự nhiên nàng rụng rời chân tay rồi ngã xuống đất, cơ thể mềm nhũn như bún. Nàng quá sợ Nguyễn Chấn đến nỗi bất tĩnh nhơn sự.

Ông Hoàng cúi xuống, nắm cườm tay nàng xem mạch. Nguyễn Chấn lúc lắc nòng súng, giọng đắc thắng :

- Tưởng ai, té ra ông Hoàng... Yêu cầu ông đứng dậy.

Ông Hoàng nghiêm nét mặt:

- Thong thả. Tôi chỉ có thời giờ trò chuyện với anh sau khi xem mạch Túy Vân.

- Ông đã xem xong chưa ?

- Rồi. Nàng chỉ mê man độ 5, 10 phút là cùng.

Ông tổng giám đốc Mật Vụ vừa biểu diễn trò quỷ thuật ngay trước mặt Nguyễn Chấn. Thừa dịp bắt mạch, ông Hoàng đã bấm nhẹ vào mê huyệt gần cùi tay nàng. Vì một lý do mà chỉ riêng ông biết, ông muốn cô gái bị bất tỉnh.

Nguyễn Chấn cười nửa miệng :

- Tôi không ngờ lại được vinh hạnh đón tiếp một nhân vật nỗi danh nhất nhì thế giới như ông. Chẳng hay ông tổng giám đốc quá bộ đến câu lạc bộ tồi tàn này để làm gì ?

Ông Hoàng cũng cười lại:

- Đến câu lạc bộ làm gì, anh đã biết. Vì anh đã nghe trộm ngoài cửa trong vòng một phút. Lẽ ra anh còn muốn nghe trộm thêm nữa, nhưng vì cô Túy Vân sửa soạn tiết lộ bí mật về Quốc Tế Đặc Vụ nên anh xô cửa vào can thiệp.

Nguyễn Chấn nhăn mặt ra vẻ kinh ngạc. Đứng ngoài hành lang, áp tai vào cửa, hắn đã tuyệt đối thận trọng. Hắn ráng chịu nhịn thở để bên trong khỏi nghe. Không dè ông Hoàng đã biết.

Ông Hoàng khoan thai thở khói xì-gà :

- Tôi chờ anh đã lâu. Anh nên cất khẩu súng vào trong bao da thì hơn. Là tổng giám đốc sở Mật Vụ, dưới quyền có hàng ngàn nhân viên có khả năng, tôi chẳng dại gì mang thân vào hang cọp một mình. Nếu anh khăng khăng không nghe, bắt buộc tôi phải hạ lệnh cho nhân viên đang bố trí bên ngoài ập vào.

- Ập vào... ha ha..., ông làm như Nguyễn Chấn này là tay mơ trong nghề, về tài ba và mưu lược, tôi chỉ đáng làm học trò hạng bét của ông, nhưng ông tổng giám đốc ơi, hùm thiêng khi phải sa cơ cũng hèn, ông có ba đầu sáu tay cũng không thoát khỏi tay tôi đêm nay. Tôi không tin là bên ngoài có nhân viên của ông, vì trước khi vào đây tôi đã quan sát tứ phía bằng viễn kính hồng ngoại tuyến. Cho dẫu ông có sẵn nhân viên nữa, họ cũng can thiệp không kịp. Thưa ông, họ phải mất từ 5 đến 10 phút mới vượt qua được hệ thống phòng thủ, trong khi khẩu súng của tôi chỉ mất một phần trăm tích tắc đồng hồ để triệt hạ ông. Đây này, ông coi tài tác xạ của tôi... Sau lưng tôi có 3 ngọn đèn gắn vào tường. Tôi sẽ bắn trúng bóng giữa.

Nguyễn Chấn quay tròn một vòng. Tiếng súng nồ ròn. Quả như hắn nói, viên đạn bắn vỡ nát cái bóng đèn giữa, ông Hoàng nhún vai:

- Uổng ghê ! Bắn giỏi như anh mà lại đầu quân cho một tổ chức gian phi ngoài vòng pháp luật.

- Tôi hiểu ý ông rồi. ông định tuyên truyền cho tôi rời bỏ Tổ Chức để gia nhập sở Mật Vụ do ông điều khiển. Thành thật mà nói, tôi vốn có cảm tình từ lâu với ông và sở Mật Vụ của ông. Nhưng ông ơi, kẻ trượng phu trên đời này không thể thờ hai chủ. Ăn cây nào, rào cây ấy, tôi chỉ có thể trung thành với Quốc Tế Đặc Vụ. vả lại, thiếu tướng Sulivông đã ưu đãi tôi một cách đặc biệt. Nếu cần hy sinh, tôi cũng sẵn sàng...

Ông Hoàng thản nhiên ngồi xuống ghế, vắt chân chữ ngũ, tiếp tục hút xì-gà.

Nguyễn Chấn nhăn nhó :

- Ô kìa, tôi bảo đứng lên, sao ông lại tự tiện ngồi xuống ?

- Tôi ra lệnh đã quen nên không thích ai ra lệnh cho tôi.

- Nếu ông cứng đầu, miễn cưỡng tôi phải lảy cò.

- Anh cứ việc bắn. Tuy nhiên, tôi không tin là anh dám bắn tôi. Bắt được một người như tôi, anh phải báo cáo về để thiếu tướng Sulivông để xin chỉ thị. Đây này... để tôi nhắc lại đặc lệnh số 25 của Trung Ương Quốc Tế Đặc Vụ cho anh nhớ " Trong thời gian hoạt động tại Sàigòn, mọi nhân viên không được xung đột với sở Mật Vụ của ông Hoàng. Trong bất cứ trường hợp nào, hễ bắt được nhân viên Mật Vụ mang số hiệu bắt đầu bằng chữ z, phải cấp thời tường trình về trung ương để quyết định số phận. Mọi hành động ngược lại đều bị nghiêm trị".

Đấy, anh đã nhớ lại chưa ? Điệp viên mang số hiệu bắt đầu bằng chữ z là điệp viên trung cấp. Tôi lại là chỉ huy trưởng của hệ thống z. Trừ phi thích ăn đạn vào gáy, anh mới dám nặng tay với tôi...

Nguyễn Chấn trố mắt nhìn ông Hoàng. Đặc lệnh số 25 tự tay thiếu tướng Sulivông ký. Tại sao lại có đặc lệnh này, hắn không được biết. Kỷ luật của Quốc Tế Đặc Vụ rất nghiêm minh, hắn không thể không tuân theo. Đặc lệnh số 25 là tài liệu nội bộ tuyệt đối bí mật, chỉ được phổ biến hạn chế trong một số nhân viên trung cấp cũa Quốc Tế Đặc Vụ. Tại sao ông Hoàng lại biết ? Điều này có nghĩa là ông Hoàng đã gài người bên cạnh thiếu tướng chủ tịch Sulivông. Ông Hoàng vừa gián tiếp báo cho hắn biết.

Bất giác hắn đâm ra lo sợ. Từ lâu, hắn vẫn coi ông Hoàng là đệ nhất hung thần của nghề điệp báo, song hắn chưa có dịp chạm trán, ông Hoàng ít khi đi ra ngoài. Phải là công tác tối quan trọng ông mới đích thân điềụ khiển. Và một người nắm giữ chức vụ tối quan trọng như ông không thể khờ khạo đặt chân vào hang hùm. Thế tất ông đã bố trí chu đáo. Nguyễn Chấn run run, mồ hôi lạnh toát ra đầy áo. Kể ra, hắn đồ mồ hôi lạnh cũng không phải là chuyện lạ. Trước hắn, hàng chục, hàng trăm người đã đổ mồ hôi lạnh khi gặp ông Hoàng. Viên phó giám đốc Phản Gián Sô Viết Smerch, một cơ quan chuyên bắt cóc, ám sát, treo tấm hình bán thân của ông Hoàng trong phòng ngủ. Mỗi đêm, trước khi lên giường, hắn đều ngắm ông Hoàng để lấy thêm can đảm. Ban Hành Động Hải Ngoại của Quốc Tế Tình Báo sở Trung Cộng đã rước những tay phù thủy nồi tiếng ở Vân Nam về tận Bắc Kinh, lập đàn cúng thần để trù ếm ông Hoàng. Chế độ của Mao Trạch Động nghiêng về duy vật chủ nghĩa nhưng cơ sở tình báo Bắc Kinh lại tin vào duy tâm chủ nghĩa. Lẽ ra bị trù ếm ráo riết như vậy, ông Hoàng phải chết, vậy mà ông vẫn sống khơi khơi...

Gần đây Tình Báo sở cho nhân viên sang tận Mandalay thuộc Miến Điện để thuê một bà đồng cốt già chuyên về thư phù. Bà đồng cốt này có biệt tài giết người ở xa ngàn dặm. Có ngày sinh, tháng đẻ càng tốt, nếu không chỉ cần nhìn ảnh, và cũng có thể thư cho nạn nhân trương phình gan ruột trong vòng ba tháng, hoặc sâu bọ bò lúc nhúc trong bao tử trong vòng 9 tháng. Có lần bà đã thư được cả một mũi tên nhọn trong ruột nạn nhân. Bị thư như vậy, nạn nhân chết dần, chết mòn, không phương thuốc nào cứu khỏi, kể cả giải phẩu tân tiến.

Hình thức thư phù nặng nhất được áp dụng trong trường hợp ông Hoàng. Chậm nhất là sau 9 tháng, ông Hoàng phải trở về với đất. Nhưng 9 tháng rồi 18 tháng, 27 tháng từ từ trôi qua, bụng ông Hoàng vẫn không trương phình, không có sâu bọ bò lúc nhúc, cũng không có mũi tên độc nhọn hoắt.

Những điều ấy, Nguyễn Chấn được nghe bạn bè kể lại. Hắn cầu Trời, khấn Phật để trên bước đường hoạt động, không phải chạm trán ông Hoàng...

Song đêm nay ông Hoàng lại đứng trước mặt hắn, ung dung, bình thản, ngạo mạn, coi khẩu súng nạp đạn sẵn trong tay hắn như thể khẩu súng bắn tia nước của con nít.

Ông Hoàng rút điếu xì-gà ra khỏi miệng :

- Hồi nãy, anh đã ngửi thấy mùi xì-gà của tôi. Nếu tôi không muốn gặp anh, tôi đã không hút xì-gà. Loại xì-gà Ha-van đặc biệt này tỏa ra một mùi thơm độc đáo, đứng xa hàng trăm thước cũng ngửi được. Tôi hy vọng anh vào phòng tắm tìm tôi nhưng anh lại bỏ đi...

Nguyễn Chấn đau nhói một bên hông. Mỗi khi bối rối, hắn thường đau nhói như bị chích mũi kim vào mạng mỡ. Những khi đau nhói như vậy, hắn lại hết run tay và toát mồ hôi lạnh. Trong giây phút, hắn quên bẵng ông Hoàng và sức mạnh siêu việt của sở Mật Vụ. Hắn bỗng nhớ đến tài ba quán thế của tướng Sulivông, của tổ chức Quốc Tế Đặc Vụ có tai mắt khắp năm châu, ông Hoàng là hung thần điệp báo thật đấy nhưng hiện đã già yếu, ông khó thể dùng võ lực để chuyển thủ thành công. Khẩu súng hắn đang nắm gọn trong tay là một trong các sản phẩm mới nhất của công ty chế tạo súng Smith-VVesson.

Trong số các súng ngắn xuất hiện trên thị trường từ giữa thế kỷ thứ 19 đến nay, súng s.w.được coi là vũ khí đàn anh (1). Quốc Tế Đặc Vụ đã mở cuộc nghiên cứu tường tận về 69 kiểu bán tự động 9 li 1954 (2). Kiểu này bắn được 8 viên đựng trong bì. Trước kia, người ta thường dùng súng s.w. trái khế vì sợ bắn đạn trong xạt-giơ dễ bị hóc. Nhưng công ty sản xuất đã cải tiến vượt bực nên kiểu súng s.w. 1954 được liệt vào hàng chính xác nhất, xuyên phá nhất, mà lại không cồng kềnh hoặc nặng nề như nhiều loại khác cùng cỡ.

Nòng súng được đúc bằng thép đặc biệt và có nhiều khía, do đó viên đạn bắn ra rất nguy hiểm. Nòng súng của Nguyễn Chấn lại được xoắn thêm khía nên càng nguy hiểm hơn. Với khẩu s.w. này trong tay, hắn có thể chặn đứng một tiểu đội võ trang. Không lẽ hắn lại chắp tay đầu hàng trước một ông già ốm nhách, trong tay không một tấc sắc...

Trong chớp mắt, Nguyễn Chấn trở nên can đảm. Hắn nhìn trừng trừng ông Hoàng, dằn từng tiếng :

- Ông đừng dọa tôi nữa, tôi không sợ đâu.

- Nghĩa là anh quyết bắt tôi ?

- Phải.

- Tôi cho vài phút cuối cùng để suy nghĩ.

- Tôi đã suy nghĩ rồi. Không một lời nói đường mật nào, không một sức mạnh nào có thể lung lạc tôi được nữa. Lẽ ra tôi bắt ông đứng dậy, đặt hai tay lên đầu, nhưng vì nể ông già cả, tôi bằng lòng cho ông ngồi yên trên ghế. Song ông phải ngồi yên...

Nguyễn Chấn tiếp tục chĩa súng vào ngực ông Hoàng rồi đi lùi. ông Hoàng không cần nhìn theo vì ông đã biết hắn sắp sửa làm gì. Cho dẫu ông không tiên đoán được ý định của hắn, ông cũng phải giả vờ hút xì-gà vì thái độ băng khoăn của ông sẽ có thể giúp Nguyễn Chấn lấy lại bình tĩnh.

Nguyễn Chấn vẫn tiếp tục đi lùi. Hắn đứng lại khi đụng giầy vào chân tủ buýp-phê. Hắn quay ngang người, mũi súng vẫn không rời mục phiêu.

Cái máy điện thoại màu hồng xinh xắn và ngon lành - cũng ngon lành như thân hình nảy nở của cô gái đang nằm mê man trên đất, mạnh voan quá mỏng càng làm rõ thêm sự trần truồng khêu gợi - trên mặt tủ buýp-phê, trong tầm tay của Nguyễn Chấn.

Ông Hoàng bỏ bàn tay cầm xì-gà sang bên. Nguyễn Chấn sừng sộ :

- Yêu cầu ông để tay trên đùi. Tôi không thích ông lợi dụng cơ hội tôi gọi điện thoại để lấy súng.

Ông Hoàng gạt tàn xuống xuống nền phòng láng bóng như sàn nhảy vũ trường :

- Khổ quá, tôi gạt tàn thuốc vào đĩa, anh cũng sợ. Thành ra tôi phải vứt tung tóe dưới đất. Anh yên tâm, tôi không rút súng đâu. Khi nào cần hạ anh, tôi sẽ liệu.

- Hừ, ông làm như thể có tài tung chưởng giết người, ông tổng giám đốc ơi, chưởng phong chỉ là sản phẩm của tiểu thuyết kiếm hiệp, nghĩa là không thể nào có.

Ông Hoàng không đáp. Nếu đáp, ông sẽ phải cải chính. "Chưởng phong" không hẳn là sản phẩm tưởng tượng của nhà văn Kim Dung, vì từ nhiều thế kỷ nay, nhiều võ sĩ Trung Hoa và Nhật Bản đã biết vận chân khí lên đầu ngón tay, ngón chân và miệng để đánh địch thủ trọng thương hoặc táng mạng trong khoảng xa. Chính điệp viên Văn Bình z.28 cũng đã luyện tập được võ khí vô hình mà vô cùng lợi hại này.

Khoa học điệp báo đã áp dụng "chưởng phong" vào hoạt động nghề nghiệp, sở Mật Vụ của ông Hoàng là một trong số các cơ quan điệp báo đi hàng đầu trong việc cơ khí hóa "chưởng phong". Nếu trong tiểu thuyết kiếm hiệp, con nhà võ chỉ vẫy cánh tay áo rộng hoặc chỉ ngón tay là đối phương ngã xụi, thì nhân viên của ông Hoàng cũng chỉ vung tay ra là triệt hạ được địch thủ võ trang tận răng trong vòng 5, 7 thước. Súng bắn hơi độc, bắn hơi hôn mê hoặc bắn tên thép nhọn được giấu gần nách, bóp mạnh bàn tay là viên đạn hoặc mũi tên bung ra. ông Hoàng còn sai chế tạo võ khí giấu trong mặt nhẫn hoặc đồng hồ, mỗi khi giơ tay lên là Thần Chết xuất hiện.

Ông Hoàng đã mang theo trong người những võ khí tuyệt luân này nên coi khẩu súng s.w. và sức khỏe trai tráng của Nguyễn Chấn là trò đùa trẻ nít. ông cười nhạt khi thấy hắn đặt ngón tay vào đĩa số điện thoại:

- Anh gọi cho thiếu tướng Sulivông phải không ?

- Phải.

- Phiền anh nói là tôi có lời hỏi thăm.

- Sẵn lòng. Tuy nhiên, một lần nữa, tôi yêu cầu ông ngồi yên. Nhất là hai bàn tay...

- Anh cấm tôi hút thuốc ?

- Xin ông cứ tiếp tục hút. Tôi chỉ cấm ông luồn tay vào trong áo vét-tông.

- Vậy lát nữa, tôi hút xong điếu này anh phải lấy điếu khác cất trong áo vét-tông cho tôi.

Mặt bừng bừng, Nguyễn Chấn áp tai vào ống nghe. Hắn nói luôn một hơi:

- Thưa, đây là Phạm Xuân...

Ông Hoàng không nghe được tiếng trả lời ở cuối đường dây. Song cũng như hồi nãy, ông chỉ quan tâm tới điếu xì- gà mới cháy một phần ba. Dường như ngoài khói thuốc xì-ga ra, ông chẳng nghĩ đến việc gì nữa.

Nguyễn Chấn liếng thoắng nói bằng tiếng Lào. Đối với người lịch lãm, từng sống trôi giạt khắp năm châu thì tiếng của một bộ lạc ăn thịt người ở tận xó rừng Nam-Mỹ xa xăm ông còn biết, huống hồ tiếng Lào, một xứ ở sát nách quê hương. Nguyễn Chấn đang báo cáo về việc bắt được ông và dường như người ở cuối đường dây không tin nên hắn giải thích lòng dòng mãi.

Một lúc sau, hắn nói bằng tiếng Việt:

- Ông Hoàng đang ngồi gần tôi. Nếu ông muốn, tôi có thể....

Trong điện thoại có tiếng gắt gỏng. Rồi Nguyễn Chấn nhích sang bên, nhường ống nghe cho ông Hoàng. Trước khi ông Hoàng cầm máy, hắn vội nhắc nhở :

- Yêu cầu ông nhớ giùm là khẩu súng của tôi luôn luôn ở sau lưng ông. Thiếu tướng Sulivông muốn trực tiếp nói chuyện với ông.

Ông Hoàng cười ròn rã khi nhận ra giọng nói quen thuộc của viên cựu trưởng ban Phản Gián quân đội hoàng gia Lào, hiện là chủ tịch Quốc Tế Đặc Vụ :

- Kính chào cụ tổng giám đốc.

- Không dám, kính chào thiếu tướng chủ tịch.

- Trời ơi, từ lâu tôi hằng ao ước được gặp cụ. Thật là dịp may ngàn năm một thuở. Tôi không dám tin là cụ sa cơ bị đàn em tôi bắt. Mà là cụ cố tình để bị bắt. Đúng hay sai, thưa cụ?

- Đúng.

- Nếu tôi không lầm, cụ muốn gặp mặt tôi để điều đình.

- Thiếu tướng không lầm chút nào. Tôi muốn giáp mặt thiếu tướng để xin chuộc lại bác sĩ Phạm Thiên.

- Tại sao cụ lại nghĩ là tôi chủ mưu bắt giữ Phạm Thiên ?

- Sở tôi đã nắm được bằng chứng cụ thể. Trước khi đến đây, tôi đã biết chắc là thiếu tướng sẵn sàng chấp nhận điều đình.

- Vâng, tôi hoạt động trong khu vực do cụ kiểm soát, cụ làm thinh không can thiệp nên tôi rất cảm kích. Giờ đây, đến lượt tôi tỏ thái độ biết ơn. Như cụ đã biết, tôi không có thù hiềm với Phạm Thiên cũng như với tình báo D.I.A.. Chẳng qua vì thiếu tiền. Nếu cụ rộng rãi về tài chính, tôi sẽ xin trả Phạm Thiên cho cụ.

- Ông ra gìá bao nhiêu ?

- Để khi nào gặp gỡ, chúng tôi sẽ thảo luận tiện hơn.

- Nghĩa là khi nào ?

- Cụ cho phép tôi được mở một dấu ngoặc. Cụ là ông trời con ở Nam Việt, cũng như ở Đông Nam Á, tôi chỉ là một tên chúa đảng hoạt động lén lút ngoài vòng luật pháp. Tôi thèm gặp cụ như đứa trẻ thèm mẹ về chợ, nhưng thưa cụ, vì điều kiện an ninh cá nhân, tôi không thể ló đầu ra. Dĩ nhiên, cụ sẽ nhân danh lãnh tụ một cơ quan điệp báo uy tín nhất nhì thế giới để đảm bảo an ninh cho tôi. Song tôi không dám chấp thuận. Vì lẽ còn D.I.A., còn một số cơ quan khác ngoài quyền kiểm soát của cụ đang ngày đêm rình rập sơ hở để kéo tôi vào rọ.

- Điều kiện ?

- Trong vòng 24 giờ nữa, tôi sẽ liên lạc với cụ tại văn phòng công ty Điện Tử.

- Tôi muốn càng sớm càng hay. Vì tôi đã hẹn với D.I.A. Vì tình đồng nghiệp, ông không nên trì hoãn làm tôi mất mặt với họ.

- Hừ... nếu ông coi tôi là đồng nghiệp thì trước đây đã không ra lệnh cho đại tá Văn Bình chơi một vố đau đớn. Tôi phải vào tù, Sam Phoun bị giết, tổ chức của chúng tôi bị tan rã.

- Tôi không ngờ ông lại có quá nhiều tình cảm như vậy. Tuy nhiên, những việc đã xảy ra ở Vạn Tượng là do Văn Bình chủ động.

- Văn Bình đang đau nặng, phải không ông ?

- Phải.

- Thảo nào ông "hạ sơn" hành động. Nếu Văn Bình không nằm liệt giường, tôi đã không được hân hạnh tiếp chuyện ông.

Giọng nói của Sulivông, chủ tịch Quốc Tế Đặc Vụ luôn luôn mềm mỏng, khả ái. Đang gọi "cụ", hắn dùng tiếng "ông". Và đang nói, hắn bỗng ngưng lại, cười khanh khách :

- À, cụ Hoàng ơi, giờ này nhân viên của cụ có ghi âm lời tôi nói hay không ?

Ông Hoàng đáp :

- Như ông đã rõ, tôi đang dùng điện thoại của câu lạc bộ Ngũ Nhật Hội. Vấn đề ghi âm khó thể đặt ra. Cho dẫu nhân viên của tôi có ghi âm nữa cũng vô ích. Vì máy điện thoại này được gắn dụng cụ đảo âm. vả lại, tôi ghi âm để làm gì ?

- Cụ nói đúng. Hệ thống điện thoại của tôi được coi là khá an toàn. Nếu không, tôi đã chẳng dám trò chuyện tràng giang đại hải với cụ. Bây giờ cụ cho phép tôi cắt nhé ?

- Vậy khi nào chúng ta gặp nhau ?

- Phiền ông chờ tôi. Sáng mai, tôi sẽ đến. Lẽ ra tôi muốn đến sớm hơn, nhưng vì không có quyền lưu thông trong giờ giới nghiêm như ông.

- Ồ, ông cứ khiêm nhượng mãi. Nếu không có giấy thật thì làm giấy giả.

- Tôi không dám.

- Đề nghị của thiếu tướng không thích hợp với thời khóa biểu của tôi. Vì trong vòng 5, 10 phút nữa, tôi phải ra khỏi câu lạc bộ.

- Trời ơi, cụ tưởng ra khỏi câu lạc bộ dễ lắm sao ! Một mình Nguyễn Chấn đã có thể giữ cụ lại. Huống hồ tôi còn hàng tá nhân viên ở đó nữa.

- Tôi trả điện thoại cho Nguyễn Chấn để ông ra lệnh giữ tôi lại.

- Cụ đang ở thế yếu, già néo đứt giây cụ ơi.

- Thế yếu mà thành thế mạnh đấy ông ạ. Vì tôi đã bắt được một con tin quan trọng : Túy Vân. Tôi sẽ mang nàng về trụ sở và dùng huyết thanh sự thật khám phá ra những điều tôi muốn biết. Và tôi sẽ tìm ra nơi ông trú ngụ.

- Hừ, Túy Vân đang ở trong phòng với cụ, nhưng cụ quên nhắc đến khẩu súng của Nguyễn Chấn. Nếu cụ mở cửa, cụ sẽ thấy nhiều khẩu súng nửa đang chờ ngoài hành lang. Thôi, chào cụ.

- Thong thả... thiếu tướng chịu khó nghe thêm vài phút nữa...

Đứng bên, Nguyễn Chấn quát lớn :

- Yêu cầu cụ bỏ điện thoại xuống bàn. Và giơ hai tay lên. Từ phút này trở đi, tôi không nhân nhượng nữa.

Ông Hoàng cười ha hả, và từ từ đưa hai tay lên khỏi đầu. Cái bút máy nhỏ xíu chứa thuốc mê cực mạnh kêu xì một tiếng. Nguyễn Chấn đã quan sát kỹ lưỡng, song không thể ngờ rằng ông Hoàng chỉ cử động nhẹ là cái bút máy kỳ lạ đã tuột từ ống tay áo xuống bàn tay và nhả đạn trong nháy mắt.

Đến khi hắn phăng ra sự thật thì viên đạn đã bắn vào mặt. Hắn buông súng, ngã chúi vào ghế sa-lông. ông Hoàng nhấc điện thoại lên, gằn giọng :

- Thiếu tướng có nghe thấy gì không ?

Tiếng nói của Sulivông đượm vẻ căm hờn :

- Té ra cụ dằn mặt tôi. Này, tôi nói cho cụ biết, Sulivông này không chịu thua đâu.

Ông Hoàng khoan thai gác ống nói, rồi cúi xuống điểm huyệt cho cô gái tỉnh dậy. Nàng mở mắt, nhìn ông bằng dáng điệu ngơ ngác, ông Hoàng chỉ khối thịt bất động của Nguyễn Chấn :

- Hắn đã chết. Từ nay, cô có thể yên tâm được rồi.

Ông Hoàng lấy cái áo choàng bằng vải dầy đưa cho cô gái, giọng thân mật như cha với con :

- Mặc vào kẻo lạnh.

Cô gái ngần ngừ một giây :

- Ông mang tôi đi đâu ?

- Đi đâu tùy cô. Cô muốn xuất ngoại hoặc ở lại trong nước, tôi sẽ tận tình giúp đỡ. về khoản tiền nong, cô khỏi lo. Cô sẽ có đầy đủ.

Nàng lấy bàn tay che mắt như sợ nhìn thấy sự thật phũ phàng :

- Thưa ông... tôi không dám.

Dường như đoán trước phản ứng bất nhất của cô gái nên ông Hoàng không lộ vẻ sửng sốt hoặc bực bội. ông chỉ mỉm cười một cách bình thản.

Vừa khi ấy, chuông điện thoại reo. ông Hoàng cầm máy, chìa cho cô gái:

- Thiếu tướng Sulivông gọi cô.

Cô gái khựng người:

- Thiếu tướng Sulivông gọi tôi ? Trời ơi, tại sao cụ biết ?

Cô gái hết nhin ông Hoàng đến nhìn máy điện thoại. Tiếng Sulivông từ máy vọng ra :

- Túy Vân phải không ?

- Kìa, thiếu tướng Sulivông gọi. Cô trả lời đi.

Mặt tái mét như tàu lá, cô gái lắc đầu quầy quậy, ông Hoàng bèn áp ống nghe vào tai. Tiếng Sulivông vẫn kêu vang

- Túy Vân, Túy Vân phải không ?

Ông Hoàng đáp :

- Không, tôi đây. Cô Túy Vân đang đứng bên.

Sulivông thở dài:

- Tôi chịu thua cụ rồi. Tôi xin chấp thuận những điều kiện của cụ.

Túy Vân bưng mặt khóc nức nở. Nghe tiếng khóc của nàng, Sulivông quát:

- Nín đi. Đừng lộn xộn.

Cô gái ghé miệng lại gần điện thoại:

- Xin thiếu tướng buông tha cho tôi.

- Cô hãy nghe mạng lệnh của tôi, nếu không mẹ cô sẽ chết, cha cô sẽ chết.

Cô gái cuống cuồng :

- Vâng, em xin nghe... em xin nghe... thiếu tướng dạy gì em cũng xin nghe...

Ông Hoàng nói:

- Dọa nạt đàn bà như vậy không phải là trượng phu, thiếu tướng Sulivông ạ.

Sulivông đáp :

- Cụ hẳn đồng ý rằng trong nghề điệp báo cứu cánh biện minh cho phương tiện. Cứu cánh được coi là quan trọng trên hết. Túy Vân không phải là nhân viên tự nguyện của tôi. Nàng gia nhập Quốc Tế Đặc Vụ, trở thành vũ nữ thoát y vì bị tôi "săng ta". Nhờ nàng, tôi đã bắt được Phạm Thiên. Nhiều lần nàng muốn rời Tổ Chức khiến tôi phải đe dọa. Lần này, được cụ che chở, có thể nàng sẽ phản bội. Cho nên tôi phải nhắc nhở cho nàng biết là nếu nàng phản bội, mẹ nàng và cha nàng sẽ bị giết, đốt cháy ra than rồi vứt xuống ma huyệt hầm Luang Prabang. Cụ Hoàng ơi, trong đời cụ, ít ra là hàng trăm lần cụ đã dùng lợi khí "săng ta" như tôi. Vì tôi không tin cụ là con người tình cảm thuần túy.

Ông Hoàng ngắt lời:

- Tôi còn nhiều công việc khác phải làm trong đêm nay, không còn thời giờ ở lại đây tri kỷ vụn với ông. Tôi chỉ cần biết: bao giờ ông trả Phạm Thiên ? Bao nhiêu tiền ? Thể thức trả Phạm Thiên cũng như thể thức trả tiền ra sao ?

- Thưa, cụ đã hỏi, tôi cũng xin đáp ngay. Giá tiền chuộc bác sĩ Phạm Thiên là 20 triệu đô la.

- 20 triệu một đầu người, ông điên nặng rồi.

- Tôi chẳng điên chút nào cả. Tôi vẫn còn sáng suốt, cụ ạ. Sáng suốt không bằng cụ, nhưng ít ra cũng không bị cụ lôi vào xiếc. Thưa cụ tổng giám đốc, 20 triệu đô la là một số tiền quá lớn đối với tư nhân, nhưng chỉ là muối bỏ biển đối với một tổ chức điệp báo quốc tế như sở Mật Vụ do cụ điều khiển, vả lại, giá trị của món hàng còn lớn gấp chục, gấp trăm lần số tiền tôi đòi, cụ ạ. Cụ thử nghĩ coi, trên thế giới hiện nay còn bộ óc siêu thức học nào cự phách hơn bộ óc của Phạm Thiên không ? Nếu bác sĩ Von Braun là nhân viên số một của ngành hỏa tiển thì bác sĩ Phạm Thiên là nhân viên số một của ngành siêu thức học.

- Đồng ý với ông là Phạm Thiên rất quý báu. 20 triệu chứ nhiều hơn cũng chưa xứng. Nhưng ông đừng quên rằng tổ chức của ông đang hoạt động trên vùng đất của tôi, nếu ông không biết điều, bắt buộc tôi phải nặng tay...

- Hừ... cụ tịch thu cơ sở tài chính của tôi là cùng... Cho dẫu mất hết để đổi lấy Phạm Thiên tôi vẫn còn lợi. Vì thưa cụ, tài sản của tôi tại Sàigòn chỉ độ hai triệu đô la, trong khi Phạm Thiên trị giá những hai chục triệu. Đem bán cho Smerch hoặc Quốc Tế Tình Báo sở, tôi có thể đòi gấp rưỡi. Nhưng thưa cụ, giữa họ và cụ, tôi quý cụ hơn, thà bán cho cụ lấy 20 triệu còn hơn bán cho họ lấy 30 triệu đô la...

- Đúng 20 triệu, ông không bớt ?

- Thưạ cụ, không lẽ giữa cụ và tôi lại mặc cả như hàng tôm hàng cá... Tuy nhiên, để giữ cảm tình, tôi xin đề nghị bớt 10 phần trăm. Vị chi trừ 2 triệu, còn 18 triệu. Đó là giá cuối cùng, tôi không thể nào bớt thêm nữa.

- Ông bắt ép tôi. Hiện nay tôi không còn con đường nào khác. Vâng, tôi đành chịu giá cắt cổ này. Bao giờ ông giao hàng ?

- Cụ đã biết số trương mục của tôi tại Thụy Sĩ. Sau khi cụ chuyển tiền, tôi sẽ giao trả Phạm Thiên.

- Nghĩa là ông chắc lép với cả tôi ?

- Xin cụ tha lỗi. Đó là thủ tục bất di bất dịch của việc bắt cóc... chuộc tiền.

- Thủ tục bất di bất dịch của việc bắt cóc chuộc tiền là tiền trao cháo múc, ông không tin tôi thì ngược lại, tôi cũng không thể tin ông.

- Vậy thì cuộc điều đình này phải chấm dứt.

- Tùy ông. Bắt đầu từ phút này, tôi sẽ ra lệnh cho nhân viên an ninh tăng cường canh phòng nhà ga, phi cảng, bến tàu và biên giới. Trừ phi ông mọc cánh biến thành chim mới thoát khỏi Việt Nam.

- Tôi sẽ hạ sát Phạm Thiên.

- Ông sẽ mất 18 triệu đô la. Tính mạng của ông sẽ bị đe dọa thường xuyên. Cơ sở Quốc Tế Đặc Vụ sẽ bị phá hủy hoàn toàn.

- Cụ gớm thật!

- Bởi vì ông bắt tôi nắm đằng lưỡi nên miễn cưỡng tôi phải đòi nắm đằng cán. Thật ra tôi chỉ muốn thương thuyết ổn thỏa, ông có tiền, còn tôi có Phạm Thiên.

- Chừng nào cụ gom đủ 18 triệu ?

- Ông cần chi phiếu hay tiền mặt ?

- Tiền mặt tiện hơn. Xin cụ cho bạc trăm.

- Số tiền 18 triệu bằng bạc trăm phải đựng một cái rương lớn. Về chi phiếu thì trong vòng một giờ tôi có thể xoay ra. Nhưng còn tiền mặt... Hẳn ông đã biết là trương mục của tôi có sẳn hàng trăm triệu đô la.

- Vâng. Nhưng thưa cụ... đã nghi nhau thì cũng nên nghi cho trót. Tôi phải mất ít nhất ba ngày mới cử người đến ngân hàng của cụ ợ Thụy Sĩ được. Trong khi đó, cụ có thể đánh điện cho họ... Cho nên, tôi xin mạn phép đề nghị là cụ thu thập đủ số tiền, rồi hẹn tôi đến một địa điểm nào đó... tiền trao cháo múc.

Ông Hoàng cười:

- Ông không sợ tôi lật lọng lừa bắt hay sao ?

Sulivông cũng cười trong điện thoại:

- Đường đường cụ là tổng giám đốc một cơ quan điệp báo hữu danh trên hoàn vũ. Vì uy tín chung, và nhất là danh dự cá nhân, cụ không thể trở mặt như vậy được. Nếu cụ không giữ lời hứa, quần hùng trong đám giang hồ sẽ không còn tin cụ nữa. Bởi vậy, tôi không sợ.

- Nhưng nếu ông không giữ lời hứa...

- Tôi chẳng dại gì hành động ngu xuẩn như vậy. Nghề làm ăn phải trọng chữ tín để tính chuyện về lâu về dài, phải không, thưa cụ ?

- Phải. Trở lại vấn đề tiền chuộc, tôi yêu cầu ông chờ vài ba ngày. Khi nào xong, tôi sẽ tin ông biết.

- Vâng. Xin cụ liên lạc với tôi trên làn sóng 9 kilô-xích vào hồi 12 giờ trưa hoặc 12 giờ đêm mỗi ngày. Tôi chờ cụ đúng 72 giờ đồng hồ. Quá thời hạn ấy, nếu cụ không lên tiếng có nghĩa là cắt đứt thương thuyết.

- Được. Tôi hy vọng có thể lên tiếng sớm hơn thời hạn 72 giờ. Bây giờ tôi muốn xuống dưới nhà để về trụ sở. Nếu không có gì trở ngại, phiền ông ra lệnh cho cô Túy Vân kiếm cho tôi một chiếc xe hơi và cả tài xế.

- Hân hạnh. Được chở cụ tổng giám đốc trên xe là hân hạnh lớn cho tôi. Cụ quen dùng xe hơi bọc sắt, gắn kiếng chống đạn, ống nhún dầu, máy điều hòa khí hậu mát rợi và thơm tho, không biết xe hơi cà tàng của tôi có làm cụ vừa ý được không ?

- Không sao.

- Vậy yêu cầu cụ gác điện thoại. Tôi sẽ gọi ngay cho nhân viên an ninh của tôi trong câu lạc bộ. Trong vòng 5 phút nữa, họ sẽ gõ cửa phòng. Hai nhân viên thân tín của tôi sẽ hộ tống cụ về trụ sở. Cụ đừng nên hỏi tỉ mỉ vì họ chẳng biết gì đâu. Họ cũng không biết tôi là thiếu tướng Sulivông nữa. Vì họ là đàn em của Nguyễn Chấn.

- Ông muốn tôi thả họ về hay giữ lại ?

- Cụ quả là lãnh tụ điệp báo siêu phàm. Cụ đã đọc được ruột gan của tôi. Đặt cụ vào địa vị tôi, cụ sẽ xử trí ra sao ?

- Ông muốn gì, tôi xin thỏa mãn. Tuy nhiên, xin báo ông biết là tôi chỉ có thể giam giữ chứ không thể hạ sát họ.

- Vâng. Xin cụ giam giữ họ tại một nơi kín đào. Sau khi công việc hoàn tất cụ hãy thả ra.

- Đồng ý.

- Riêng về cô Túy Vân, xin cụ đối xử tử tế. Nếu không có Túy Vân, tôi không tin là Phạm Thiên chịu về. Thôi, tôi xin chào cụ, và kính chúc cụ ngủ ngon đêm nay.

Ông Hoàng mỉm cười, gác ống nói, vớ lấy điếu xì-gà còn cháy đặt trên mép bàn.

Túy Vân ngồi khép nép trên đi-văng như cô con gái nhà lành, hàm răng đập vào nhau lập cập như thể bị cảm hàn. Dường như nàng muốn nói nhưng lưỡi bị líu lại.

Đúng 5 phút sau, có tiếng người gõ cửa. ông Hoàng mở ra. Hai gã đàn ông to lớn đứng sừng sững trên ngưỡng cửa. Thay ông Hoàng, họ cúi đầu chào cung kinh.

Một người nói:

- Kính mời cụ xuống xe.

Ông Hoàng ra hiệu bằng mắt cho Túy Vân. Nàng đứng dậy, lẽo đẽo theo ông ra cửa. Hai gã cận vệ tránh sang bên. Sự kính nể của họ đối với ông Hoàng có vẻ thành thật, không giả tạo.

Đèn bên ngoài vẫn sáng trưng. Hồi nãy vắng tanh vắng ngắt thì giờ đây đông đúc và ồn ào. Toàn đàn bà là đàn bà. Hầu hết đều đẹp. Không phải vẻ đẹp tha thướt, ẻo lả của giai nhân trong tranh, mà là vẻ đẹp sỗ sàng, căng cứng và bốc lửa. Đặc biệt hầu hết đều khỏa thân. Trên người họ chỉ có tấm áo voan mỏng dính, loại áo choàng không cột che thân mà là phô bầy những bí mật khêu gợi của thân thể. Thêm vào đó là những ngôi sao nhỏ xíu bằng giấy kim tuyến sặc sỡ, thay cho quần áo. Mỗi cô gái có 3 ngôi sao như vậy. Ngôi sao lớn nhất chỉ bằng cái mặt đồng hồ đeo tay Oméga loại đàn ông...

Một toán đàn bà khỏa thân từ cuối hành lang đi tới, trò chuyện huyên thiên. Thấy ông Hoàng, họ dừng lại, nhìn từ đầu xuống chân rồi bấm nhau cười.

Một trong hai gã cận vệ quắc mắt:

- Các cô làm gì thế ? Có đi ngay không ?

Tiếng nói của gã cận vệ như cây roi quất vào mặt các cô gái. cả bọn đang cười vội cúi xuống rồi lặng lẽ bước rảo.

- Họ là vũ nữ của câu lạc bộ phải không các ông ?

Một gã đáp :

- Phải. Vũ nữ hạng xoàng, chứ không nỗi tiếng như cô Túy Vân. Ngoài ra họ còn kiêm thêm nhiều nghề khác nữa. Nếu cụ muốn....

Ông Hoàng lắc đầu :

- Cám ơn. Tôi đã quá cái tuổi rung cảm từ lâu.

- Xin lỗi cụ. Sống ở đây nên tôi quen miệng nói bậy.

Túy Vân đi sau cùng. Nàng nhếch mép cười nửa rí rỏm, nửa bí mật khi nghe ông Hoàng nói chuyện với hai gã cận vệ.

Bốn người rẽ sang trái. Một gã cận vệ bấm nút, bức tường đối diện nứt ra làm hai, bên trong là thang máy. cửa thang máy từ từ mở ra, ông Hoàng bước vào.

Trong nháy mắt, thang máy đã tụt xuống mặt đất.

Ông Hoàng vẫn ung dung hút xì-gà. ông biết là bọn cận vệ luôn luôn nhìn trộm ông. Không cần ngoảnh ra sau, ông cũng biết là Túy Vân luôn luôn quan sát ông bằng mắt. Và ông khám phá ra lý do của sự băn khoăn ấy.

Gió khuya quạt nhè nhẹ vào mặt ông Hoàng. Sau những phút ở phòng lạnh, thở không khí khô rát, ông tổng giám đốc cảm thấy thể xác và tinh thần thoải mái.

Một tên cận vệ nhìn quanh quất, giọng kinh ngạc :

- Quái, bọn bẹt-giê đi đâu cả rồi ?

- Ồ, chúng đang ngủ. Đánh thức chúng làm gì, tội nghiệp !

Một tên quay lại:

- Cụ đã giết chúng ?

Ông Hoàng cười:

- Không đâu, hai anh yên tâm.

Tên thứ hai ngó ông Hoàng bằng vẻ mặt buồn rười rượi.

Ông Hoàng vỗ vai hắn :

- Anh thích chó lắm phải không ?

Hắn gật đầu :

- Phải. Tôi đã nuôi chúng từ khi chúng mở mắt.

- Vậy hả ? Có hai con bẹt-giê khác còn thức, để tôi gọi chúng đến cho vui.

Ông Hoàng nâng cái síp-lê siêu thanh lên thổi. Hai gã cận vệ không nghe thấy tiếng còi huýt. Nhưng cặp đực cái Tôsa của ông Hoàng lại nghe thấy rõ mồn một. Siêu thanh từ cái síp-lê đặc biệt phát ra thành nhiều tiếng dài ngắn xen kẽ, được lọc qua cái mặt nạ cao su của chó, là những hiệu lệnh quen thuộc đối với cặp bẹt-giê Nhật bách chiến bách thắng và khôn hơn người.

Từ nãy đến giờ, chúng nằm bẹp trên đất chờ đợi. Nghe tiếng gọi của chủ nhân, chúng vùng dậy, và nhanh như chớp nhoáng, chúng nhảy vọt qua bụi rậm um tùm đến trước mặt ông Hoàng phủ phục xuống một cách ngoan ngoãn và hiền hậu.

Cả hai tên cận vệ đều giật mình. Túy Vân bàng hoàng trong giây phút, phải vịn vào lan can để khỏi ngã.

- Trời ơi, bẹt-giê !

Ông Hoàng xoa đầu cặp chó :

- Phải, bẹt-giê của tôi. Nào, xe hơi ở đâu, cho tôi lên.

- Thưa cụ... hai con bẹt-giê này có cắn không ?

- Hừ... chó thường cũng cắn huống hồ bẹt-giê đặc biệt. Nhưng cặp chó Tôsa của tôi chỉ cắn những ai chống lại chủ chúng. Báo cho hai anh biết, chúng chỉ cắn nhẹ một miếng là nát cuống họng. Từ trước đến nay, chưa ai địch nổi chúng.

- Thưa... chúng tôi đâu dám. Lệnh trên dặn chúng tôi lái xe đưa cụ và tuyệt đối vâng theo lời cụ.

Hai con Tôsa đứng dậy ve vẩy đuôi. Đèn nhà xe vừa bật sáng. Một tên cận vệ chỉ chiếc Mercédès 280 SE sơn đen, dài ngoằng, bóng loáng, nằm chềnh ềnh giữa hai cái xe đua Fiat kiểu nhỏ sơn trắng.

- Mời cụ lên xe này.

Ông Hoàng chưa trèo lên mặc dầu tên cận vệ đã cung kính mở rộng cửa sau. ông lẳng lặng hút xì-gà và nhìn cặp chó chạy lăng xăng quanh xe. Một phút sau, chúng quay lại, ngoạm tay ông Hoàng, dìu lên xe.

Một tên cận vệ buột miệng :

- Chà, cặp chó khôn quá !

Hắn vừa dứt lời thì vội kêu lớn :

- Chó cắn... thưa cụ... chó cắn !

Như tuân theo một mệnh lệnh điện tử, hai con chó Tôsa cùng ngoạm vào mắt cá chân của bọn cận vệ. Hai gã đàn ông to lớn đứng im như phỗng đá, sợ cử động sẽ bị chó Tôsa cắn què. ông Hoàng thản nhiên ngồi xuống nệm xe Mercédès êm ái và mát rợi. Một tên cận vệ run rẩy :

- Cụ ơi... cụ cứu chúng tôi với !

Tên thứ hai nói như khóc :

- Tôi lạy cụ.... Cụ ra lệnh cho chúng đi. Trời ơi, nó đang ngoạm sâu hơn nữa.

Ông Hoàng rút điếu xì-gà ra khỏi miệng :

- Chẳng sao cả. sở dĩ chúng nó ngoạm chân các anh là để bảo vệ an ninh cho tôi.

- Thưa cụ... chúng tôi đâu dám xúc phạm đến cụ.

- Ấy, chúng nó không nghe được tiếng người nên thường lầm lẫn. Chúng nó ngoạm chân là để yêu cầu các anh cất bỏ súng lục trong túi áo.

Một tên cận vệ tái mặt:

- Khiếp thật ! Đeo súng trong người mà chó cũng biết ! Vâng, thưa cụ, chúng tôi xin bỏ súng. Súng này được dùng để hộ vệ cụ, xin cụ hiểu cho.

Nói đoạn hắn cho tay vào trong áo, rút khẩu Luger đen sì dưới nách, ném xuống đất. Ngay khi ấy, con chó Tôsa đực rời mõm khỏi mắt cá chân của hắn. Tên thứ hai riu ríu bắt chước. Nhưng hắn bỗng thét lên :

- Nó cắn tôi, nó cắn tôi... tôi chết mất!

Ông Hoàng cười:

- Anh nhút nhát quá. Nó có cắn anh đâu. Chẳng qua nó ngoạm sâu hơn vì anh vừa có cử chỉ khiếm nhã đối với chủ nó....

Hắn rên rỉ:

- Thưa cụ... tôi đâu dám.

- Như tôi đã nói, loài chó không nghe được tiếng người, trừ một số khẩu lệnh của chủ, nên chúng nó chỉ dùng tai và mắt để tìm hiểu. Lẽ ra phải ném khẩu súng một cách nhẹ nhàng như bạn anh, anh lại giáng thật mạnh xuống nền gạch. Con Tôsa của tôi tưởng lầm anh định khiêu khích tôi...

- Thưa cụ... nó đang ngoạm sâu hơn nữa. Xin cụ ra lệnh cho nó.

Ông Hoàng vuốt nhẹ trên lưng con Tôsa. Kỳ lạ thay, con chó nhả ngay mắt cá chân của tên cận vệ. Được giải thoát, tên cận vệ lắp bắp :

- Tôi xin cám ơn cụ.

Con Tôsa lại cắn gấu quần hắn. Hắn vội cầu cứu ông tổng giám đốc sở Mật Vụ lần nữa. ông Hoàng vỗ nhẹ vai tên cận vệ :

- Chẳng sao cả. Anh chịu khó chắp tay xin lỗi là nó buông ra ngay.

Tên cận vệ tru tréo :

- Trời ơi, cụ bắt người phải xin lỗi chó hay sao ?

- Ồ, vì anh khẩn khoản vật nài, tôi mới giúp anh. Xin lỗi hay không là quyền của anh, tôi không can thiệp tới.

- Xin cụ ra lệnh cho nó thả tôi ra.

- Con Tôsa của tôi đã được dậy quen như vậy từ lâu, tôi không thể ra lệnh ngược lại.

- Cụ ơi.... nó sắp cắn đến thịt tôi rồi. Cụ cứu tôi với, cụ ơi... khổ quá....

- Anh đã bằng lòng xin lỗi con Tôsa chưa ?

- Thưa cụ, tôi xin bằng lòng.

- Vậy anh cúi đầu xuống, xá nó ba cái.

Nước mắt nước mũi chảy ròng ròng, tên cận vệ phải làm y lời ông Hoàng. Sau đó, con Tôsa tinh quái mới chịu buông gấu quần tên cận vệ, và nhảy tọt lên xe. ông Hoàng ngồi giữa, hai con chó Nhật chồm hỗm hai bên.

Một tên cất tiếng hỏi:

- Thưa cụ, đi đâu ?

Ông Hoàng vừa nhắm mắt, vừa đáp :

- Đường Ngô Đức Kế.

Chiếc 280 SE nổ máy êm như được lót tên nệm bông. Xe đã chạy khỏi ga-ra mà người ngồi trên vẫn tưởng như động cơ chưa nổ. Máy điều hòa mới mở tỏa khắp xe một khí lạng thoải mái. ông Hoàng dựa đầu vào thành ghế :

- Bây giờ tôi cần ngủ một lát. Khi nào đến nơi, các anh gọi tôi dậy.

Cả hai tên cận vệ trố mắt nhìn nhau. Đêm khuya, đường phố vắng vẻ, chiếc Mercédès khổng lồ này chỉ cần 5 phút để chạy từ Trương Minh Giảng về Ngô Đức Kế. Ngủ 5 phút là nghĩa lý gì ? Đối với người có biệt tài về ngủ, thì cũng mất mấy phút trằn trọc. Đa số con người trên thế giới phải mất hàng chục phút để tìm giấc ngủ. Vậy mà ông già tổng giám đốc ốm o lại chỉ cần 5 phút để tìm giấc ngủ và tỉnh dậy ! Hai tên cận vệ trố mắt nhìn nhau vì chúng tưởng ông Hoàng mắc bệnh lẩm cẩm. Tuy vậy, chúng không dám hé môi.

Vì bốn con mắt sáng quắc như đèn điện đang nhìn chúng chằm chằm. Cặp chó Tôsa trung thành đang canh phòng cho chủ nhân ngủ. Võ thuật và khí giới đã trở thành vô ích đối với cặp chó Tôsa bách chiến bách thắng.

Ông Hoàng đã bắt đầu ngáy, ông ngáy nhè nhẹ và rụt rè như đàn bà. Nếu coi đồng hồ, hai tên cận vệ sẽ thấy là từ lúc ông dứt tiếng nói đến lúc ông ngủ say, cây kim phút chỉ mới chạy được nửa vòng. Nghĩa là ông Hoàng chỉ cần 30 giây đồng hồ.

Về tài ngủ nhanh, ông Hoàng được liệt vào bảng vàng vô địch, sở dĩ ông làm việc ngày đêm mà không kiệt sức vì thỉnh thoảng ông ngủ ngồi trên ghế độ 5, 10 phút. Không riêng gì ông, hầu hết các lãnh tụ gián điệp và điệp viên thượng thặng trên thế giới đều có biệt tài ngủ nhanh thiên bẩm như ông. Nhiều người chỉ cần nằm xuống là ngủ, và đúng thời khắc đã định, một hồi chuông vô hình reo vang trong óc đánh thức dậy. Nghiên cứu hiện tượng ngủ nhanh, dậy đúng từng phút này, các nhà khoa học cho rằng lãnh tụ gián điệp hoặc điệp viên thượng thặng thường có bộ óc phi phàm, nên có thể sai khiến cơ thể dễ dàng.

Bình thường ông Hoàng ngủ rất nhanh, trằn trọc nhiều nhất là vài ba phút, nhưng cũng có nhiều khi ông không tài nào ngủ được. Nhiều khi ông nằm chong mắt suốt đêm mặc dầu đã uống thuốc ngủ hoặc thuốc an thần. Có khi ông mất ngủ cả tháng. Rồi sau đó ông lấy lại giấc ngủ như cũ. sở dĩ ông mất ngủ như vậy là vì thần kinh bị căng thẳng cực độ, nếu là người thường thì đã phát điên phải vào dưỡng trí viện.

Ông Hoàng đã bắt đầu ngáy.

Bệnh ngủ thần tốc của ông Hoàng đã lây sang Túy Vân. Nàng ngồi xếp trong góc. Từ lúc ra khỏi phòng trên lầu đến giờ, ông Hoàng dường như cố tình quên bẵng có nàng đi theo. Ông Hoàng vô tình, hay dụng ý, nang không biết.

Thái độ lãnh đạm của ông Hoàng làm nàng khó chịu. Tuy nhiên, nàng lại mỉm cười. Cũng như nhiều lần trước, nụ cười của nàng có vẻ kiêu ngạo và kỳ quặc.

Chiếc Mercédès lộng lẫy đã phóng ra đường Trương Minh Giảng, ông Hoàng đã ngủ say. Hai tên cận vệ ngồi yên lặng ở băng trước. Cặp chó Tôsa dùng tấm thân tròn lẳn để che kín ông Hoàng, dường như sợ có ai lén bắn xuyên qua cửa kiếng dầy.

Đèn trong xe không được mở sáng nên khi xe phóng ra trụ đèn đường Túy Vân mới nhận ra gương mặt trầm tĩnh và phúc hậu của ông tổng giám đốc sở Mật Vụ. ông Hoàng ngồi cùng xe với nàng, và chỉ cách nàng trong gang tấc, nàng có thể đụng vào quần áo ông, hà hơi nóng vào mặt ông, hoặc nhổ một sợi tóc bạc trên đầu ông, vậy mà nàng lại có cảm tưởng rằng tất cả chỉ là ảo mộng.

Nàng rùng mình. Một niềm sợ sệt không tên chạy dọc theo xương sống nàng.

Nàng vội lắc đầu xua đuổi. Nàng luồn nhẹ bàn tay vào cái ví da. Ngón tay nàng chạm vào thỏi son Elizabeth Arden. Bề ngoài, nó là thỏi son thông thường của phụ nữ làm đẹp. Nhưng bên trong nó lại được dùng vào việc khác. Muốn chế ra nó, người ta phải tiêu vốn hàng vạn đô la, chứ không chỉ bán mấy trăm bạc một ống như son đàn bà thứ thật.

Đầu thỏi son có cái nút nhỏ. Nhỏ bằng nửa cái nút đổi ngày và lên giây thiều của đồng hồ Oméga. Nàng bấm nhè nhẹ... nhè nhẹ...

Tiếng ngáy của ông Hoàng mỗi lúc một lớn. Túy Vân đã khôi phục được sự bình tĩnh thường nhật. Làm nghề múa nhảy cởi quần áo trước mặt hàng chục, hàng trăm đàn ông như nàng, phải biết chế ngự cảm xúc, luôn luôn biết cách bình tĩnh. Nàng không còn bối rối và sợ sệt như trước đó một phút nửa.

Chiếc Mercédès SE tiếp tục phóng nhanh về trung tâm thành phố ngủ say.

Chú thích:

1. Khẩu súng ngắn đầu tiên của hãng Smith and VVesson ra đời năm 1857.

2. Kiểu s.w. 1954 khá xinh xắn, được sản xuất năm 1954 và ngưng sản xuất năm 1963. Hiện nay, hãng s.yv. sản xuất một loại1954 cải tiến. Có cả thảy 69 kiểu súng ngắn s.w., tuy nhiên chỉ có 3 kiểu bắn đạn bì, kỳ dư đều bắn đạn viên theo kiểu ru-lô. Kiểu bắn đạn bì đầu tiên của hãng s.w. được sản xuất vào năm 1913.
Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Đoàn Vũ Khỏa Thân - Người Thứ Tám Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Đoàn Vũ Khỏa Thân - Người Thứ Tám   Đoàn Vũ Khỏa Thân - Người Thứ Tám Icon_minitimeTue May 23, 2017 4:25 am

Người Thứ 8
Đoàn Vũ Khỏa Thân
Chương Kết
Kế hoạch Luân Vũ


Tít, tít, tít... tít, tít, tít...

6 tiếng tít tít điều đặn vừa từ máy truyền tin đặc biệt nhỏ bằng cái bật lửa Zippo phát ra. Đó là hiệu lệnh của ông Hoàng. 3 tiếng có nghĩa là ông Hoàng được an toàn, 6 tiếng có nghĩa là ông Hoàng bắt đầu ra khỏi câu lạc bộ Ngũ Nhật Hội đúng như kế hoạch Luân Vũ dự định.

Dưới chân nàng, động cơ bất kham của chiếc Honda 800SS chuyển mình, tiếng kêu phá tan bầu không khí im lặng đêm khuya. Nàng từ từ lái ra đường. Hai phút sau, chiếc Mercédès đồ sộ sơn đen chạy qua, nàng rồ ga lái theo. Qua viễn kính hồng ngoại tuyến, nàng thấy rõ cái đầu dài ngoằng của cặp chó Tôsa.

Hoạt động bên cạnh ông tổng giám đốc đã lâu, Nguyên Hương đã quen với mọi sự bất ngờ kỳ lạ nên nàng không còn ngạc nhiên nữa. Tuy vậy, đêm nay nàng lại ngạc nhiên. Đã lâu, nàng vững tin vào tài xuất quỹ nhập thần của ông Hoàng, song nàng không ngờ rằng ông Hoàng lại có thể xuất quỹ nhập thần đến mực độ ấy.

... Đúng như kế hoạch Luân Vũ dự tính, ông Hoàng vào câu lạc bộ bằng cửa hông nhưng sẽ về bằng cửa trước. Nàng muốn biết rõ chi tiết thì ông Hoàng đã khoát tay :

-    Rồi cô sẽ thấy.

Sự việc vừa xảy ra đã chứng tỏ hùng hồn rằng ông Hoàng nói đúng. Cuộc đấu trí trên lầu câu lạc bộ Ngũ Nhật Hội giữa ông Hoàng và thiếu tướng Sulivông, chủ tịch Quốc Tế Đặc Vụ, đã lọt vào vành tai Nguyên Hương từ đầu đến cuối không sót một tiếng. Giờ đây, nàng mới hiểu tại sao ông Hoàng đòi được đi một mình vào câu lạc bộ...

Nàng thở dài nhè nhẹ rồi quẹo vào đại lộ Tự Do. Ít khi nàng được tự do lái xe ban đêm như vậy. Hơi mát của đêm khuya thanh vắng tạt vào trong xe, tạo cho nàng một cảm giác lâng lâng. Cuộc thí nghiệm đêm nay của ông Hoàng sẽ mang lại những thay đổi mạnh mẽ và lớn lao trong kỹ thuật điệp báo hành động. Trong tương lai, bất cứ ai cũng có thể trở thành điệp viên, miễn hồ được trang bị dụng cụ tấn công và phòng thủ tối tân.

Nguyên Hương tống hết ga xăng, vượt qua xe Mercédès. Khi hai xe ngang mặt nhau, nàng nhận ra ông Hoàng đang nằm ngả trên nệm xe. ông Hoàng không hút xì-gà, có lẽ vì đang ngủ.

Nàng phóng trước, đến gần lữ quán Majestic thì rẽ sang bên phải. Đến gần đại lộ Nguyễn Huệ, nàng đậu lại.

Trong khi ấy, chiếc Mercédès sắp sửa quẹo vào đường Ngô Đức Kế. Tài xế hãm tốc độ rồi quay sang phía bạn :

-    Đến nơi rồi, mày xem ông cụ đã dậy chưa ?

Tên cận vệ ngồi bên đáp :

-    Tao muốn điên mất mày ơi.

-    Tại sao ?

-    Vì tao thấy ông già lạ quá. Mới đó đã ngủ quay lơ. Công việc quan trọng như vậy mà ông già tỉnh bơ như thể đi dạo mát. Tính mạng ông già đáng trăm triệu đô la, đêm hôm khuya khoắt thế này, có đứa nào chặn xe lại bắt cóc hoặc hạ sát thì khổ.

-    Hừ... mày quên mất hai con chó. ông già chẳng dại gì ngủ say nếu không có chúng nó canh gác. vả lại tao hơi ngờ... mày ạ.

-    Ngờ gì ?

-    Ngờ ông già còn thức.

-    Mày ngu lắm. Tiếng ngáy đều đều ấy không phải là tiếng ngáy giả vờ. Thôi, đánh thức ông già dậy đi.

   

Tên cận vệ thứ hai đặt bàn tay lên vai ông Hoàng. Song hắn vội rụt lại, vì con Tôsa đực gầm gừ. Con Tôsa cái dường như hiểu được ý định của tên cận vệ nên cọ mõm vào má ông Hoàng.

Ông tổng giám đốc choàng dậy. ông tỉnh dậy ngay như chưa hề ngủ :

-    Xin lỗi hai anh nhé ! Lâu lắm, không được ngủ nên tôi ngủ say quá. Các anh mở cửa xe và bật đèn lên.

Cách 50 thước, thấy ánh đèn, Nguyên Hương xuống xe lững thững đi bộ lại. Túy Vân la lên :

-    Thưa cụ, có người lạ.

Ông Hoàng đốt xì-gà :

-    Phải. Có người. Nhưng không phải người lạ. Họ là cộng sự viên của tôi.

Một tên cận vệ hỏi:

-    Thưa cụ... nghĩa là nhân viên của cụ lái xe đi theo chúng tôi từ nãy đến giờ ?

Ông Hoàng gật đầu :

-    Phải.

Cặp chó Tôsa dàn thành hàng ngang dưới đường. Thấy Nguyên Hương, chúng chồm lên, ve vẩy đuôi thân mật. Ông Hoàng nói với nàng :

-    Tôi không có xe hơi nên người ta cho tôi mượn. Đồng thời đưa tôi về tận nhà.

Nguyên Hương nghiêng đầu chào Túy Vân và hai tên cận vệ. Nàng nhường cho ông Hoàng đi trước với cặp Tôsa, rồi nói:

-    Mời quý vị theo tôi.

Trong chớp mắt, ông Hoàng biến đâu mất. Dường như ông bước vào trong tòa nhà tối đen bằng một cánh cửa được mở sẵn. Nguyên Hương dừng chân trước cánh cửa sắt của một tiệm bách hóa. Nàng mở khóa xô cửa sắt rồi lách sang bên :

-    Mời quý vị vào.

Tiệm bách hóa này là một trong nhiều lối đi riêng lên tầng thứ sáu, tầng cuối cùng của tòa bin-đinh mới cất gần góc đường Ngô Đức Kế, đâu lưng với trụ sợ Công Ty Điện Tử, nơi ông Hoàng đặt tổng hành doanh của Sở Mật Vụ.

Các tầng dưới trong bin-đinh đều có người ở, song không ai biết rõ những việc xảy ra trên tầng thứ 6. Vì cầu thang chỉ lên đến lầu 5 là hết. Thang máy cũng vậy. Ông Hoàng và nhân viên Sở Mật Vụ lên lầu 6 bằng thang máy riêng. Ngoài ra còn có cầu thang xoắn ốc nối liền lầu 6 với sân sau của tiệm bách hóa, và đường hầm dưới đất dẫn đến Công Ty Điện Tử nữa.

Mọi người vào xong, đèn điện trong tiệm mới cháy sáng. Túy Vân đi cạnh Nguyên Hương, vẻ mặt ngơ ngác và băn khoăn. Dường như đánh hơi thấy nguy hiểm, một tên cận vệ khựng lại:

-    Chúng tôi đã làm tròn nhiệm vụ. Yêu cầu cô cho chúng tôi về.

Nguyên Hương đáp :

-    Ông tổng giám đốc muốn nói chuyện. Sau đó, các anh về cũng chưa muộn.

-    Không. Xin cô mở cửa cho chúng tôi ra.

Từ nãy đến giờ, ông Hoàng đứng giữa hai con chó Tôsa, điềm nhiên hút xì-gà ở góc phòng mà bọn cận vệ không thấy. Chẳng nói chẳng rằng, ông rút khẩu súng bắn đạn hơi quen thuộc, cầm gọn trong lòng bàn tay. Viên đạn thuốc mê được bắn ra trong chớp mắt. Hai cây thịt nặng nề ngã xuống.

Túy Vân hốt hoảng đưa ngón tay lên miệng :

-    Trời ơi !

Ông Hoàng khoan thai bỏ khẩu súng tí hon vào túi, tiếp tục hút xì-gà :

-    Tại sao cô lại sửng sốt ? Hai tên cận vệ không chết mà chỉ bất tỉnh 10, 15 phút mà thôi. Chắc cô đã biết tôi bắn đạn hơi cho họ mê man là để chiều ý thiếu tướng Sulivông.

Giọng cô gái hơi run run :

-    Thưa cụ... tôi biết. Nhưng tôi thấy thái độ này quá tàn nhẩn...

-    Hừ, trong nghệ điệp báo còn hàng ngàn việc tàn nhẫn hơn thế nữa. Cô yên tâm. Vệ sĩ của tôi sẽ đưa họ về phòng riêng, chích thuốc cho tỉnh. Trong thời gian tạm ở đây, họ sẽ được đối xử ân cần.

Nguyên Hương bấm nút điện giấu sau tấm lịch treo tường. Bức tường gỗ nứt làm đôi, để lộ cái thang máy nhỏ. ông Hoàng nói:

-    Tôi đã sai người dọn phòng riêng cho cô nghỉ. Cô Nguyên Hương, bí thư của tôi, sẽ thay mặt tôi, lo liệu chu đáo.

-    Thưa, tôi phải ở đây đến bao giờ ?

-    Đến khi thân phụ của cô được Sulivông trả tự do. Cô sẽ giúp tôi nhận diện bác sĩ Phạm Thiên.

Nghe ông Hoàng nói, Túy Vân sáng rực gương mặt. Như đứa trẻ làm nũng mẹ, nàng xà vào người ông Hoàng, ôm cứng khiến ông suýt ngạt thở, và hôn lung tung lên mặt, lên ngực ông :

-    Sướng quá, sướng quá, cụ ơi ! Cụ là đại ân nhân của tôi, và gia đình tôi. Tôi xin nguyện kiếp sau làm trâu ngựa để hầu hạ cụ.

Ông tổng giám đốc gỡ tay nàng ra :

-    Ồ, cô đẹp như vậy mà làm trâu ngựa thì uổng. Tôi cầu mong cho cô sống mãi và đẹp mãi.

Câu nói đùa của ông Hoàng làm Túy Vân thêm bạo dạn. Nàng vít đầu ông Hoàng xuống hôn thật kêu vào má. Ông Hoàng suýt soa :

-    Chà, tôi già rồi mà được cô hôn cũng cảm thấy bủn rủn cả người. Chắc đêm nay và nhiều đêm nữa, tôi sẽ mất ngủ.

Nói đoạn, ông cười lớn rồi cùng cặp chó Tôsa rút ra ngoài bằng cánh cửa hông khuất sau cái tủ kiếng lớn.

Như tỉnh mộng, Túy Vân quay lại nhìn Nguyên Hương. Bí thư trưởng của ông tổng giám đốc tránh sang bên cho Túy Vân bước vào thang máy. Thang máy tuy nhỏ nhưng được trang bị tối tân, bên trong được điều hòa khí hậu.

Thang máy được nâng lên thật nhanh, giống như thang máy trong các tòa nhà chọc trời bên Mỹ, người yếu tim có thể chóng mặt, hoa mắt và bất tỉnh.

Trong giây phút, thang máy đứng lại. Hành lang phía trước là một kỳ công của nghệ thuật trang trí thuần túy đông phương. Nệm trải chân được dệt bằng tay bằng len đặc biệt của một giống cừu sinh sống trên miền giá lạnh y- Bắc Trung Hoa. Trên tường được treo nhiều bức tranh sơn thủy bằng mực tàu của một số danh họa nhà Minh. Cuối hành lang, đứng sừng sững một bức tượng gỗ do những tay thợ khéo ở Mút-tan chạm trổ. Mút-tan là một tiểu quốc theo đạo Phật ở sát nách Tây Tạng, dọc biên giới Hy mã lạp sơn, nơi mà nghệ thuật đúc tượng đạt tới trình độ cao siêu.

Nguyên Hương hướng dẫn Túy Vân vào gian phòng đối diện pho tượng. Bên trong gian phòng cũng được trang trí cổ kính và sang trọng như bên ngoài. Bàn ghế đều bằng gỗ mun hoặc bạch đàn bóng loáng, nạm xà cừ. Tấm bình phong án ngữ sau cửa được căng bằng một thứ lụa ngũ sắc do các nhà sư ở vương quốc Sikkim dệt. Cũng như Mút-tan, Sikkim là một vùng đất bé nhỏ và huyền bí ở bên rặng núi Hy mã hùng vĩ.

Nguyên Hương nói với Túy Vân :

-    Trong phòng này có đủ tiện nghi, nước nóng, máy điều hòa khí hậu, tủ lạnh đựng thức ăn và đồ uống, âm thanh nổi, điện thoại. Chị nằm ngả lưng cho khỏe. Ngoài hành lang có người gác, cần gì xin chị cứ gọi.

Túy Vân tần ngần trước cửa sổ treo rèm dầy kín mít:

-    Mở cửa này được không, thưa chị ?

Nguyên Hương gật đầu :

-    Được. Nhưng chị nên thận trọng. Vì cửa sổ này nhìn xuống đại lộ Nguyễn Huệ. Một số nhân viên đối phương đã biết tầng lầu này là lưu xá phụ thuộc của Sở Mật Vụ. Họ có thể bắn từ dưới đường lên phòng. Thôi, chị ở lại nhé !

Nguyên Hương khép cửa phòng. Nữ trưởng ban Biệt Vụ Thu Thu đang chờ nàng gần thang máy với hai cô gái trạc 20 mặc quần din và áo mông-ta-gu màu huyết dụ bóng loáng, ngực đính phù hiệu hình tròn, lớn bằng cái bát ăn cơm, thêu hình một nàng tiên tóc xõa lướt bay trong gió bằng chỉ kim tuyến óng ánh. Nàng tiên tóc xõa là biểu tượng của nữ ban Biệt Vụ. Tuy giữ hồ sơ nhân viên, Nguyên Hương không biết tên hai nữ nhân viên này. Có lẽ họ là nhân viên tập sự mới tốt nghiệp khóa huấn luyện cao cấp.

Gặp nàng, Thu Thu nhoẻn miệng cười:

-    Nhiệm vụ của chị đã xong, bây giờ đến lượt tôi.

Nguyên Hương hỏi:

-    Hai cô này gác đêm ở đây phải không ?

Thu Thu đáp :

-    Phải. Tôi vừa gặp ông Hoàng xong, ông cụ đang chờ chị trong văn phòng.

Nguyên Hương chào bạn, bước vào thang máy. Xuống dưới nhà, nàng rẽ sang trái, đến một cánh cửa khóa kín. Cửa này mở xuống đường hầm chạy ngầm dưới đất, xuyên qua hai ngôi nhà của tư nhân, đến trụ sở Công Ty Điện Tử. Đường hầm được điều hòa khí hậu, đèn sáng trưng nên Nguyên Hương đi thẳng một mạch.

Như thường lệ, ông Hoàng ngồi đợi sau bàn buya-rô đầy ắp hồ sơ, với điếu xì-gà Ha-van trên môi và cặp kiếng cận thị dầy cộm trễ xuống mũi..

Thấy nàng, ông ra lệnh :

-    Cô lấy giấy bút ra đây. Tôi cần liên lạc ngay với văn phòng thường trực của Hội Đồng cảnh Giác Quốc Tế.

Nguyên Hương kê tập lốc-nốt trên đùi, ngước mắt nhìn ông tổng giám đốc. Ông thở một hơi xì-gà rồi mới đọc một hơi:

-    Đây là nội dung bức điện "Tổng giám đốc Sở Mật Vụ Nam Việt trân trọng kính gửi văn phòng thường trực, nhờ chuyển đến trung ương C.I.A. và MI-6.

"Kế hoạch do Hội Đồng giao phó đã được hoàn tất một phần lớn. Trong vòng 24 giờ đồng hồ nữa, tôi sẽ cho chở bác sĩ Phạm Thiên trên một chuyến phi cơ tiêng từ Sàigòn đến đảo Xung Thằng. Yêu cầu quý ông bố trí tiếp đón."

Ngòi bút của Nguyên Hương chạy thoăn thoắt trên tờ giấy trắng. Viết xong, nàng thừ người, ra dáng bối rối. ông Hoàng vẫn thản nhiên với điếu xì-gà bất hủ. Nguyên Hương rụt rè

-    Thưa... Sulivông chưa giao Phạm Thiên, sở cũng chưa gom đủ số tiền chuộc 18 triệu đô la.

Ông Hoàng gạt tàn xuống đống hồ sơ :

-    Cô nghĩ sao ?

-    Thưa... về tiền mặt, sở còn 59 triệu đô la, nhưng tôi không tin là ông chịu xuất ra 18 triệu để chuộc Phạm Thiên. Cũng như tôi không tin Sulivông chịu thả Phạm Thiên.

-    Cô nói chưa đúng hẳn. Nếu ta chịu trả đủ tiền, Sulivông sẽ cho chuộc Phạm Thiên. Vì cần làm ăn lâu dài, hắn sẽ không dám lường gạt.

-    Thưa... dầu sao ông cũng đã cam kết với Sulivông. Vì danh dự của sở và của riêng ông...

-    Cô đừng ngại. Chúng ta không thể bội ước. Tuy nhiên, trong trường hợp Sulivông thiếu thành thật, chúng ta sẽ không trả tiền. Cô gửi ngay bức điện cho Hội Đồng cảnh Giác. Chúng ta sẽ tìm ra Phạm Thiên trả cho Hoa Kỳ, không mất một đồng xu, mà còn được tiền thưởng hàng chục triệu đô la nữa.

Nguyên Hương vẫn ngồi yên với cuốn lốc-nốt. ông Hoàng hỏi, giọng lơ đãng :

-    Mấy giờ rồi ?

Nguyên Hương giật bắn người:

-    Thưa ông, đúng 5 giờ sáng.

-    Thế hả ? Mấy hôm nay, làm việc nhiều, cô không được ngủ đầy giấc. Đánh điện xong, cô nên chợp mắt một lát cho khỏe. Tôi cũng vậy. Cô dặn Thu Thu đến gần trưa hãy đánh thức tôi dậy. Đúng ngọ, tôi cần gọi điện thoại cho vô tuyến cho Sulivông.

-    À, cô mời bà Thúy Liễu đến gặp tôi ngay.

Nguyên Hương vâng một tiếng ngắn. Thái độ khó hiểu của ông Hoàng đã đưa nàng từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Thúy Liễu - một trong những người yêu của Văn Bình trong sở Mật Vụ - hiện là trưởng ban Đảo Vụ. Ban này chỉ chuyên việc tìm kiếm, đào tạo những nhân viên bí mật có bộ mặt và thân hình giống các thủ lãnh cao cấp của Sở (1).

Ban Đảo Vụ đặt văn phòng ở tầng cuối của Công Ty Điện Tử. Mọi cửa ra vào đều bằng thép dầy, đóng cửa bằng dụng cụ điện tử, không một nhân viên nào được bén mảng tới, kể cả nhân viên trung cấp. Đối với nhân viên thường của Sở thì ban Đảo Vụ chỉ là một bộ phận của Ban Tài Chính, phụ trách việc trả lương cho nhân viên chính thức. Nhưng đối với các cộng sự viên thân cận nhất của ông Hoàng như Triệu Dung, Văn Bình, Lê Diệp, Thu Thu, Kathy, Quỳnh Loan... và Nguyên Hương, thì ban Đảo Vụ là nơi dự trữ 5 ông Hoàng khác nhau, và gần 10 người khác có khuôn mặt, thân hình, giọng nói, cử chỉ và nếp sống giống hệt với một số cộng sự viên cao cấp của ông tổng giám đốc.

Ban Đảo Vụ gồm một số phòng đặc biệt. Đặc biệt nhất là phòng giải phẩu và phòng Huấn Luyện. Phòng giải phẩu được coi là kỳ công của ông Hoàng trong nỗ lực không ngừng hiện đại hóa nền điệp báo nước nhà vì nó là phòng giải phẩu tối tân nhất Đông Nam Á, trị giá gần nửa triệu đô la.

Nó không phải là một phòng mỗ xẻ thông thường như được thiết trí trong các bệnh viện mà là một cái thùng lớn hình tròn đường kính gần 6 mét, có thể chứa được một bệnh nhân và một toán giải phẩu 12 người. Thùng này được làm bằng kim khí, bên trong có dưỡng khí riêng, dưới áp lực tối đa 3 at-mot-phe, tương tự như thùng sắt được các khoa học gia dùng để thám hiểm dưới đáy biển, hoặc như phi thuyền Apôlô.

Vì nhân viên gián điệp được giải phẩu ngụy trang cần được bình phục ttong thời gian ngắn nên Sở Mật Vụ phải áp dụng phương pháp OHB (2), nghĩa là giải phẩu siêu-áp trong thùng kín. Da non sẽ được kéo lên trong vài ngày, vết thương vừa mỗ xong có thể kín miệng, vấn đề an ninh giải phẩu lại được nâng lên mức tối đa.

Ngoài Sở Mật Vụ của ông Hoàng ra, chỉ có 3 sở gián điệp lớn nhất thế giới là Trung Ương Tình báo Hoa Kỳ. Tình Báo Anh quốc và GRU Sô Viết là có phòng giải phẩu siêu-áp. Toán y sĩ và điều dưỡng viên phục vụ trong phòng siêu-áp cũng đã được thực tập nhiều tháng tại bệnh viện Thánh Phao-lồ, Luân Đôn, và Trung Tâm Y Khoa Thiếu Nhi Bốt-tơn, Hoa Kỳ (3).

Bốt-tơn (Boston), Hoa Kỳ.

Ông Hoàng phái người đi khắp nơi trong nước để tìm kiếm những người hao hao giống ông. Sau khi kết nạp họ vào Tổ Chức với những món tiền thưởng khổng lồ - theo người am hiểu thì những món tiền thưởng gia nhập còn lớn gấp mấy chục lần tiền đầu quân cho các đại ban của những đại diễn viên cải lương như Hùng Cường, Thành Được, Bạch Tuyết, vân vân... - phái viên của ông Hoàng đưa thẳng thẳng họ về trụ sở Công Ty Điện Tử cho y sĩ khám xét rồi giải phẩu thẩm mỹ.

Tiếp theo giai đoạn giải phẩu là giai đoạn huấn luyện. Phòng Huấn Luyện choán gần nữa tầng lầu trong tổng hành doanh của Sở Mật Vụ. Nó gồm đủ dụng cụ tân tiến, như máy dạy học trong khi ngủ, vô tuyến truyền hình riêng, người máy giám khảo, luôn luôn theo dõi, phân tích và khám xét trình độ hấp thụ của học viên. Học viên phải trải qua một khóa học tối thiểu 6 tháng để học cách đi đứng, ăn nói, suy tưởng như ông Hoàng. Sau khi tốt nghiệp, học viên phải thực tập ngay trong sở. Xong xuôi, nghĩa là sau khi xuất hiện 3 lần trước mặt các nhân viên mà ai cũng tưởng là ông tổng giám đốc thực thụ đến ban huấn thị thì mới được trúng tuyển chính thức.

Đang hành động tại Đông Kinh, Thúy Liễu được gọi về nước, điều khiển ban Đảo Vụ. Hầu hết những nhiệm vụ chỉ huy quan trọng trong Sở Mật Vụ đều được ông Hoàng trao cho nữ giới. Ban quan trọng nhất, ban Biệt Vụ, quy tụ các nữ điệp viên, được trao cho Thu Thu, Katy, cựu nhân viên C.I.A., được cử làm trưởng ban Mắt Thần. Mắt Thần là tiếng lóng được dùng để chỉ các hoạt động trà trộn, thâm nhập vào lãnh thỗ địch (4). sở dĩ Katy được trao phần hành này vì trước khi gia nhập sở Mật Vụ Nam Việt, nàng đã theo học bộ môn thâm nhập tại trung ương C.I.A. và tốt nghiệp ưu hạng, hơn nữa, nàng đã nhiều lần thâm nhập Liên Sô (5).

Nguyên Hương sửa soạn gọi điện thoại cho phòng Đảo Vụ. Bỗng ông Hoàng nói:

-    Cô yêu cầu bà Thúy Liễu dẫn luôn ĐV số 5 lên đây.

Bạn Đảo Vụ có cả thảy 5 ông Hoàng giả. Những người này được gọi tắt là ĐV, từ số 1 đến số 5. ĐV số 5 được coi là giống nhất. Nguyên Hương định hỏi ông Hoàng cần nhân viên giống ông để làm gì thì ông tiếp:

-    Ban Đảo Vụ có mấy người giống cô ?

Nguyên Hương giật mình :

-    Thưa... giống tôi ?

ông Hoàng gật đầu :

-    Phải.

-    Thưa, hiện có 2 người.

-    Vậy hả ? Tôi muốn trong vòng nửa giờ, cả người ấy cũng phải có mặt trong văn phòng tôi.

Nói đoạn, ông Hoàng tắt đèn trên bàn giấy. Điều này có nghĩa là ông tổng giám đốc muốn nghỉ ngơi, không cho phép ai quấy rầy. Nguyên Hương đành thở dài - lại bệnh thở dài cố hữu ăn sâu vào xương tủy - rồi lặng lẽ đi ra.

Ông Hoàng nhìn theo nữ bí thư Nguyên Hương, rồi mỉm cười.

60 giờ đồng hồ sau.

Khi ấy là 5 giờ chiều.

Trời đang nắng chang chang bỗng đổ mưa ào ào. Trong giây lát, hầu hết những đường phố lớn đều ngập nước.

Một người đàn ông gầy ốm, tóc bạc phơ, mặc bộ com-lê cũ mèm và hai người đàn bà còn trẻ , mặt mày diễm lệ, thân hình nẫy nở, phục sức sang trọng, từ bin-đinh mới cất ở góc đường Ngô Đức Kế, rảo bước ra ngoài.

Người đàn ông là ông Hoàng, tổng giám đốc sở Mật Vụ. Còn hai người đàn bà là Nguyên Hương và Túy Vân.

Cuộc điều đình chuộc bác sĩ Phạm Thiên đã dẫn tới kết quả cụ thể. Theo chương trình do Quốc Tế Đặc Vụ hoạch định, ông Hoàng phải mang 18 triệu đô la, một phần ba bằng bạc mặt, hai phần còn lại bằng hạt soàn, đến một địa điểm định sau để tiếp nhận Phạm Thiên.

Va-li đựng giấy bạc do Nguyên Hương xách. Còn ông Hoàng thì ôm cái cặp da cá sấu mỏng lét bên trong có một gói kim cương trị giá 12 triệu mỹ kim.

Ba người trèo lên một chiệc Pờ dô (Peugeot) 404 sơn đen đậu sát lề. Xe này là của thiếu tướng Sulivông, chủ tịch Quốc Tế Đặc Vụ. Nguyên Hương cầm lái, ông Hoàng và Túy Vân ngồi băng sau. Nguyên Hương lái sang bên trái, lái xuống bờ sông và chạy ngược lên đường Hai Bà Trưng. Khi xe từ lướt qua văn phòng công ty Thủy Điện phía sau tòa nhà Quốc Hội, trong máy vô tuyến gắn ở táp-lô có tiếng người dõng dạc nói ra :

-    Yêu cầu cụ tổng giám đốc thực hiện đúng những yêu cầu sau đây :

1-    Không một nhân viên nào được phép đi theo.

2-    Không được dùng dụng cụ phát tín hiệu trong người.

3-    Tiếp tục ngồi trên xe, và xe tiếp tục chạy theo lộ trình đã định, không được đậu lại bất cứ ở đâu, ngoại trừ ở ngã tư có đèn lưu thông.

4-    Dọc đường, chúng tôi sẽ liên lạc để cho biết địa điểm gặp gỡ nhận tiền và trao hàng.

-    Trong trường hợp các điểm 1, hoặc 2, hoặc 3 không được tôn trọng, chương trình nhận tiền và trao hàng sẽ bị hủy bộ, và đương nhiên là chúng tôi không chịu trách nhiệm. Chiếc Peugeot 404 này được gắn một số máy óc điện tử tân tiến, có thể khám phá ra kẻ đi theo, đồng thời còn có thể nghe được và phá hỏng các tín hiệu vô tuyến.

Một lần nữa, chúng tôi xin hỏi cụ tổng giám đốc : cụ có đảm bảo là các điều kiện 1, 2 và 3 được tôn trọng trăm phần trăm không ? Nếu cụ trả lời "không", chương trình đã thỏa thuận sẽ được chấm dứt tức khắc, còn nếu trạ lời "có", xin cụ bấm cái nút đỏ trên máy vô tuyến để liên lạc với chúng tôi. Tuy vậy, chúng tôi chỉ đặt câu hỏi này lấy lệ vì tin chắc cụ trả lời "có".

Ông Hoàng ra lệnh cho Nguyên Hương :

-    Phiền cô trả lời giùm tôi. Đồng thời, cô nhắc lại những điều đã được thỏa thuận.

Nguyên Hương alô một tiếng rồi nói:

-    Chúng tôi sẽ thực hiện đúng các điểm 1, 2 và 3 do ông đề ra. Mặt khác, ông cũng không được hành động ngược lại những điều kiện của phía chúng tôi như sau :

1-    Cuộc tiếp xúc phải được diễn ra trước khi trời tối.

2-    Cuộc nhận tiền và trao hàng phải được tổ chức trong phạm vi thành phố Sàigòn.

3-    Phía chúng tôi được trọn quyền hủy bỏ mọi cam kết trong trường hợp các ông thiếu thành thật.

Từ máy vô tuyến vọng ra tiếng cười khanh khách :

-    Đồng ý.

Xe chạy qua cầu Kiệu.

Tiếng nói trong máy vô tuyến :

-    Cám ơn cụ. Các dụng cụ điện tử của chúng tôi cho biết là đến phút này cụ đã tôn trọng các điểm 1, 2 và 3 của điều kiện sách. Giờ đây, yêu cầu cô Nguyên Hương lái xe về đường Chi Lăng.

Xe quẹo sang bên mặt. Chạy được một quãng, đến gần nghĩa trang, tiếng nói trong máy vô tuyến tiếp tục :

-    Rẽ vào ngõ bên trái. Chạy trên một trăm thước thì dậu lại.

"Ngõ bên trái" là một con đường nhỏ vừa khít hai xe hơi tránh nhau. Nguyên Hương lái sát hàng rào dâm bụt.

Lại tiếng nói trong máy :

-    Yêu cầu quý vị xuống xe, đi bộ ra đường Chi Lăng. Ngay trên lề trái có một chiếc 404 sơn đen khác, mang bảng số EF.... Lần này, cô Túy Vân sẽ cầm lái.

Ông Hoàng thản nhiên ném điếu xì-gà còn cháy dở xuống nệm cỏ. Cả ba người trèo lên xe. Máy vừa nổ ròn, chưa kịp chạy thì tiếng nói quen thuộc lại vang rân trong máy vô tuyến :

-    Xin lỗi cụ. Cụ vừa vứt xuống nửa điếu xì-gà.

Ông Hoàng hơi gắt: Hừ... trong điều kiện sách không có khoản cấm tôi hút xì-gà. Và tôi cũng cần nói cho ông biết là không có sức mạnh nào trên trái đất có thể cấm tôi hút xì-gà được.

Giọng nói trong máy vẫn ôn tồn :

-    Thưa cụ... chúng tôi đâu dám cấm cụ hút xì-gà, vì xì-gà là thú vui độc nhất của cụ. Tuy nhiên, xin cụ cho phép chúng tôi nghi ngờ... Biết đâu điếu xì-gà không chứa đựng dụng cụ phát tín hiệu.

-    Nếu có, máy điện tự của ông đã nghe thấy.

-    Thưa cụ... máy của chúng tôi chỉ nghe thấy bên trong xe hơi. Trong trường hợp này, nó lại ở ngoài xe, trên lề đường....

-    Tôi hiểu rồi. Bây giờ cô Nguyên Hương xuống lượm điếu xì-gà lên.

-    Vâng. Nhưng theo ý tôi, nên để cô Túy Vân làm việc ấy tiện hơn.

Điếu xì-gà mầu nâu nổi bật trên nền cỏ xanh. Túy Vân cầm điếu thuốc trong tay, rồi bẻ ra làm hai. Bên trong không có gì hết ngoại trừ những sợi thuốc lá vàng rộm và nâu sẫm. Một phút sau, tiếng nói trong máy vô tuyến lại tiếp :

-    Xin cụ tha lỗi... Hoài nghi là điều kiện sinh tử của nghề điệp báo. Bây giờ, cô Túy Vân lái xe lộn về Sàigòn.

Dọc đường, có 2 phút, giọng nói quen thuộc lại cất lên ra lệnh cho Túy Vân đổi lộ trình. Cuối cùng, khi ánh sáng cuối cùng của ban ngày tắt ngúm, nhường chỗ cho ban đêm, xe hơi mới được phép đậu lại. Nơi đậu xe là một đường hẻm trong Chợ Lớn, gần khu đông đúc Nguyễn Tri Phương.

Tiếng nói trong máy nghe rõ mồn một:

-    Yêu cầu toàn thể ngồi yên trong xe, tắt máy và tắt đèn, sắp đến địa điểm tiếp xúc. Chúng tôi sẽ giao hàng trước. Cụ kiểm nhận xong, chúng tôi mới lấy tiền. Cụ đã nghe rõ chưa?

-    Rồi.

-    Xin cụ mở va-li bạc ở băng trước cho cô Túy Vân đếm. Đây là lệnh riêng cho cô Túy Vân : cô có trách nhiệm đến đủ 6 bó, mỗi bó một triệu đô la, và đếm đủ 24 viên kim cương, sau khi dùng kiếng lúp xem xét, và dùng thước đo đủ số ca-ra đã định. Công việc này kéo dài 15 phút. Xe được lên kiếng và mở máy lạnh. Cô mở ngọn đèn dưới táp-lô lên. Đúng 15 phút sau, tôi gọi lại. Hết.

Ông Hoàng dựa đầu vào kiếng, lim dim ngủ. ông phải tấm tắc khen thầm sự khôn ngoan của Quốc Tế Đặc Vụ. Xe PỜ-DÔ này được gắn một loại kếng riêng, chỉ bấm gần vô-lăng là một hóa chất kỳ lạ biến kiếng trắng thành kiếng đen, che kín mít như rèm dầy, ngoài không thể nhìn thấy trong, trong cũng không thể nhìn thấy ngoài (6). ông Hoàng lại biết là giây phút này, nhân viên Quốc Tế Đặc Vụ đang chăm chú quan sát bằng viễn kính hồng ngoại tuyến. Vì vậy, ông không còn cách nào khác, ngoài cách nhắm mắt nghỉ khỏe trong khoảng 15 phút chờ đợi.

15 phút trôi qua.

Kiểm tiền và hạt xoàn xong, nàng xập nắp va-li, rồi thấp thỏm ngồi chờ. Tiếng nói trong máy nổi lên :

-    Xong chưa ?

Túy Vân đáp :

-    Thưa rồi.

-    Bây giờ cô lái xe chạy thẳng. Đến ngã ba có cột đèn đường, cô quẹo vào tòa nhà trệt quét vôi trắng, bên phải cửa cồng đang được mở rộng. Cô cho xe vào ga-ra rồi chờ lệnh.

5 phút sau, chiếc 404 chạy từ từ vào một khu vườn rộng mênh mông, giữa hai hàng cây thông nhỏ hình nón. Biệt thự chìm trong bóng tối. Khi xe vào đến ga-ra, đèn ở nhà trên mới được bật lên. Theo lệnh của máy vô tuyến, ba người lần lượt xuống xe, trèo tam cấp lên phòng khách.

Đó là một biệt thự trệt, nằm giữa những khoảnh đất lớn hơn một mẫu. Ông Hoàng vừa đặt tay vào quả nắm thì cánh cửa phòng khách được mở vào bên trong. Người mở cửa là thiếu tướng Sulivông.

Năm tháng chồng chất không làm viên cựu chỉ huy trưởng điệp báo Lào quốc đổi khác. Y vẫn không khác ngày xưa, khi y mới lên 40, tóc hớt ngắn, làn râu mép được gọt tỉa diêm dúa, tương phản với cái miệng nhỏ mím chặt, như không bao giờ biết cười, vẫn như ngày xưa, y mặc sơ-mi dài chim cò rộng thùng thình phủ trên chiếc quần đen ống chân voi.

Sulivông nghiêng đầu thi lễ :

-    Kính chào cụ tổng giám đốc.

Ông Hoàng cũng nhũn nhặn đáp :

-    Không dám, kính chào thiếu tướng.

Sulivông đóng cửa lại rồi nói:

-    Thưa cụ, tôi từ giã quân đội từ lâu nên không còn là thiếu tướng nữa.

Ông Hoàng ngồi xuống ghế :

-    Đại tá Văn Bình thường nhắc đến ông nhưng mãi đến nay tôi mới được hân hânh gặp ông bằng xương bằng thịt. Xin ông kiểm điểm lại tiền và kim cương.

-    Không sao, tôi hoàn toàn tin ở cụ. Và đây, xin giới thiệu với cụ, bác sĩ Phạm Thiên.

Cửa sang phòng bên mở rộng. Phạm Thiên từ từ bước ra với một thiếu phụ trạc 45 tuổi. Tuy không còn trẻ nữa, thiếu phụ vẫn có thể làm cho nam giới ngây ngất. Mặt nàng, thân thể nàng, cử chỉ nàng, tất cả đều trẻ. Ông Hoàng biết nàng là Túy Ngọc, vợ cũ của Phạm Thiên.

Phạm Thiên trông có vẻ già hơn, ốm hơn và buồn hơn trong ảnh. Thấy Túy Vân, y khựng lại. Túy Vân chạy vội tới ôm chầm lấy y, khóc nức nở. Y lí nhí trong miệng "con, con" rồi đứng im. Sulivông đỡ cái va-li đựng đô la và hạt soàn, rồi nói với ông Hoàng :

-    Bác sĩ Phạm Thiên hiện hoàn toàn khỏe mạnh. Xin cụ hỏi đương sự xem có được chúng tôi đối xử xứng đáng không ?

Ông Hoàng đứng dậy, tiến lại gần Phạm Thiên, rút cặp mắt kiếng cận thị dầy cộm cầm tay, rồi ngó nhà bác học một cách sửng sốt. Bỗng như nhớ ra bệnh cận thị quá nặng của mình, ông vội đeo mục kỉnh vào mắt, đứng hơi nghiêng, nhìn xéo khuôn mặt hồng hào, đỏ da thắm thịt của Phạm Thiên, ông lẩm bẩm một mình, nhưng cốt cho mọi người nghe :

-    Vô lý, vô lý !

Sulivông theo dõi cử chỉ khác thường của ông tổng giám đốc sở Mật Vụ, không nói lời nào. Trong khi đó, Túy Ngọc cau mày có vẻ khó chịu, ông Hoàng ngắm Phạm Thiên từ đầu xuống chân, đoạn bóp bắp thịt tay, nắn lưng nhà bác học, như sợ đồ giả. Như vậy cũng chưa đủ, ông Hoàng còn hỏi Túy Ngọc, giọng dấm dẳn :

-    Ông Phạm Thiên bị bỏ đói cả thảy mấy ngày ?

Túy Ngọc trố mắt ra vẻ sửng sốt và bực bội. Phạm Thiên mau miệng :

-    Cụ lầm rồi. Tôi chưa hề bị bỏ đói ngày nào trong thời gian tạm giữ.

Ông Hoàng chậc chậc rồi nói:

-    Tôi không hỏi ông. Yêu cầu ông im miệng, ông có biết vì sự bê tha của ông mà chúng tôi mất 18 triệu đô la tiền chuộc không ? 18 triệu đô la không phải là món tiền nhỏ...

Phạm Thiên gân cổ đáp :

-    Ông không có quyền nhục mạ tôi. Sở dĩ các ông bỏ tiền ra chẳng phải vì thương tôi, mà vì tôi là món đồ cần thiết, tối cần thiết. Ông đừng tưởng tôi thích quay về Hoa Kỳ. Ông cứ cầm lấy 18 triệu đô la, tôi sẽ đưa vợ con qua Trung Hoa. Và tôi tin rằng chủ tịch Mao Trạch Đông sẽ trả một số tiền nhiều gấp đôi số tiền 18 triệu đô la....

Ông Hoàng nắm ve áo Phạm Thiên :

-    Té ra ông có tư tưởng phản bội... Rồi ông sẽ thấy, ông sẽ bị lôi ra tòa án.

Phạm Thiên giằng tay ông Hoàng ra. Tuy đã luống tuồi, ông tổng giám đốc vẫn còn nhanh nhẹn như trai tráng, ông tiến lên một bộ để giữ thế quân bình rồi xoắn sâu ve áo của Phạm Thiên khiến cho nhà bác học bạch diện thư sinh bị hụt chân ngã chúi vào đống bàn ghế.

Túy Ngọc xấn tới, vung tay đánh ông Hoàng. Nữ bí thư Nguyên Hương chực sẵn một bên, lẹ làng gạt đòn của Túy Ngọc, rồi dùng atémi quất xụi trên nền nhà.

Sulivông vội la lớn :

-    Không được làm thế !

Sulivông phóng tới, lấy đôi vai dầy làm mộc, nhưng không kịp nữa. Nguyên Hương đã phóng ra ngọn cước trúng ngực Túy Ngọc. Nạn nhân bắn vào dưới chân tường.

Nhưng Túy Ngọc đã chồm dậy, nhanh như chớp nhoáng. Nàng đã thủ trong tay một khẩu súng lục Mauser bóng loáng. Nàng rú lên :

-    Này, cho chết đáng đời....

Hoảng hốt, Sulivông tung chân trái, định đá vào bàn tay của người đàn bà đã bị cơn giận làm mất lý trí. Nhưng viên chủ tịch Quốc Tế Đặc Vụ đã can thiệp hơi chậm.

Đoàng... Đoàng....

Hai phát súng nồ liên tiếp, ông Hoàng và Nguyên Hương ngã vật xuống, không ai kêu được một tiếng.

Bắn xong, Túy Ngọc đưa nòng súng lên mũi ngửi. Dường như mùi thuốc khét lẹt làm dịu hẳn cơn giận của nàng. Và nàng bắt đầu nhìn thấy sự thật....

Nàng đã lỡ tay bắn chết ông Hoàng. Mặt nàng trở nên tái nhợt, nàng quăng khẩu súng xuống đất và thét lên :

-    Trời ơi, tôi vừa bắn chết ông Hoàng !

Từ lâu, ông Hoàng được coi là vị thần vạn năng của ngành gián điệp. Không ai dám đụng tới lông chân ông, chứ đừng nói là hạ sát ông nữa. Vì hậu quả sẽ vô cùng ghê gớm.

Thiếu tướng Sulivông run lẩy bẩy, tay phải vịn mép bàn cho khỏi té xỉu. Một phút sau, Sulivông mới thốt được nên lời

-    Nguy rồi... cô đã dại dột bắn chết ông Hoàng...

Hắn quay nhìn Túy Ngọc rồi rít lên :

-    Cô có biết hạ sát ông Hoàng rồi mình sẽ ra sao không ?

Gương mặt Túy Ngọc ướt nhèm nước mắt:

-    Thú thật, em không ngờ, em không chủ trương hạ sát ông Hoàng. Không hiểu sao ngón tay của em lại lảy cò. Sát nhân thì giả tử, thôi anh đi đi, em xin ở lại, nhận hết tội lỗi và đền mạng.

Sulivông cười ghê rợn :

-    Hừ... ở lại, nhận hết tội lỗi và đền mạng. Tôi không ngờ cô lại ngu xuẩn đến mực ấy. Họ sẽ giết cô đã đành, họ còn giết cả tôi nữa. Họ sẽ giết tất cả nhân viên Quốc Tế Đặc Vụ. Họ sẽ giết tất cả họ hàng nội ngoại của tôi. Họ sẽ phá nát tổ chức Quốc Tế Đặc Vụ. Trời đất ơi, tôi đã nuôi ong tay áo mà không biết...

Túy Ngọc nức nở :

-    Bây giờ anh giết em đi !

Sulivông giơ bàn tay lên, định quét atémi vào cuống họng Túy Ngọc. Nhưng Túy Vân đã chạy ùa lại, ôm lấy Sulivông

-    Em cắn rơm, cắn cỏ lạy thiếu tướng. Dầu sao mẹ em cũng đã lỡ rồi....

Sulivông xô Túy Vân ngã ngồi xuống thi thể nóng hồi của Nguyên Hương :

-    Tôi điên mất... tôi điên mất! Ai bảo với cô rằng thiếu phụ này là mẹ ruột của cô ?

Túy Vân lồm cồm ngồi dậy :

-    Xin lỗi thiếu tướng, em quên.

Sulivông gằn giọng :

-    Quên, quên, quên, quên,.... quên như thế này thì chết cả nút.

Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Đoàn Vũ Khỏa Thân - Người Thứ Tám Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Đoàn Vũ Khỏa Thân - Người Thứ Tám   Đoàn Vũ Khỏa Thân - Người Thứ Tám Icon_minitimeTue May 23, 2017 4:25 am

Phạm Thiên nãy giờ vẫn đứng yên. Túy Ngọc quỳ xuống, chắp tay vái hắn. Hắn vội bước lên, chắn ngang giữa Sulivông và Túy Ngọc :

- Chỗ anh em... tôi xin anh nghĩ lại. Việc đã rồi, họ đã thiệt mạng, anh có la hét, trừng trị thì họ cũng không sống lại nữa. Những viên đạn thuốc độc này hễ trúng là chết, không còn phương pháp nào cứu chữa. Tôi xin đề nghị...

Sulivông quát:

- Câm cái miệng.

Phạm Thiên ung dung :

- Hoạt động với anh đã lâu, bây giờ tôi mới thấy anh kém bình tĩnh. Theo tôi, chẳng có gì là nan giải, trời chưa tối, chúng mình lái xe ra Vũng Tàu còn kịp. Tàu biển đang đợi chúng mình bên ngoài hải phận, xuồng máy chỉ bơi 20 phút là tới nơi.

Sulivông thở dài:

- Ừ thì đi. Chẳng qua tôi nể anh... Vì Túy Ngọc vừa phạm một lỗi lầm không thể tha thứ được. Làm nghề này, giết người là thường. Túy Ngọc có thể giết bất cứ ai, nhưng không nên chạm đến ông Hoàng. Chúng mình là một tổ chức tư nhân, người ta chỉ bóp nhẹ là chết...

Sulivông nhìn xác ông Hoàng và Nguyên Hương nằm co quắp rồi thở dài lần nữa.

Cả bọn trèo lên chiếc Falcon kiểu 1965 do Phạm Thiên cầm lái. Trời nhá nhem tối, đường đi Cấp thưa thớt xe cộ, Phạm Thiên xả hết tốc độ.

Gần 8 giờ tối, họ đến Vũng Tàu. Phạm Thiên lái xe có vẻ thạo đường nên vào đến thị trấn hắn vẫn giữ nguyên tốc độ đường trường. Trông cách lái xe khoan thai và bình thản của hắn, không ai dám ngờ rằng hắn là nhà khoa học, chỉ biết làm bạn với chai lọ và hóa chất trong phòng thí nghiệm.

Ngoài đời, hắn là tay đua xe hơi cừ khôi. Và phải là tay chơi lọc lõi, với nụ cười đĩ điếm luôn luôn nở trên đôi môi dầy ươn ướt như lúc nào cũng đòi hôn đàn bà.

Sulivông nhổm lên băng trước :

- Này anh, có chắc là không bị theo không ?

Phạm Thiên cười kiêu ngạo :

- Anh yên tâm. Có ai rượt theo, tôi đã nhìn thấy. Từ chặng cuối xa lộ Biên Hòa trở đi, tôi đã tắt hết đèn hậu, và xử dụng óc điện tử B-49.

Óc điện tử B-49 là một phát minh quan trọng trọng nghề lái xe hơi. Ngay sau khi dụng cụ này ra đời, công an nhiều nước đã đổ xô đi mua. Dân anh chị Mỹ quốc đều đua nhau gắn máy B-49 trong xe. Nó gồm một bộ óc điện tử nhỏ xíu, chạy bằng điện xe hơi, có tác dụng quan sát phía sau xe, đề phòng bị người lạ rượt theo. Hễ nó thấy xe nào chạy theo cùng một tốc độ trên một quãng đường dài là réo hồi chuông báo động. Nhờ được trang bị viễn kính hồng ngoại tuyến, nó có thể nhìn xuyên qua màn tối dễ dàng.

Sulivông nói:

- Anh cẩn thận thêm nữa vẩn hơn. Vì nếu họ chờ cho mình đến Vũng Tàu mới săn bắt thì nguy.

Phạm Thiên cười xòa :

- Anh không tin vào tài của tôi nữa ư ? vã lại, họ không thể biết chúng mình lái ra Cấp. Giờ này, có lẽ họ mới khám phá ra ông Hoàng và Nguyên Hương chết cứng trong khu Nguyễn Tri Phương. Ha... ha... nhờ sự nóng nẩy dại dột của cô Túy Ngọc, mình vừa làm được một chuyện phi thường. Đêm nay, nghe tin ông Hoàng bị giết, quần hùng trên khắp thế giới sẽ ngã ngửa. Cơ sở của mình tại Nam Việt sẽ bị phá nát nhưng mình sẽ nổi tiếng, mình sẽ qua Âu châu lập nghiệp, vả lại, mình sẽ kể công với Trung Ương... Hiện mình nắm trong tay 18 triệu đô la. Cộng với mấy ....

Sulivông có vẻ không vui:

- Anh không nên lạc quan quá trớn như vậy. Từ nảy đến giờ tôi lo lắm, nhưng vì sợ anh mất tinh thần nên không nói ra đấy thôi.

- Lo cái gì ?

- Như anh đã biết, ông Hoàng không phải là một lãnh tụ điệp báo tầm thường. Phải nắm vững thành công trăm phần trăm, ông ta mới chịu xuất đầu lộ diện. Không lẽ ông ta lại ngu nuội đến nỗi mang thân đến cho mình ăn thịt.

- Anh nói cũng đúng. Nhưng anh đừng quên, ông Hoàng là người tự cao, tự đại. ông ta đinh ninh chúnh mình không dám mó đến lông chân nên mới ngang nhiên dẫn xác vào sào huyệt Quốc Tế Đặc Vụ để lãnh hàng, ông ta chết là phải, vì nếu còn sống, thiên hạ sẽ cười cho thối óc... Ha... ha... mang danh đại lãnh tụ gián điệp với hai thứ tóc trên đầu, với nửa thế kỷ tung hoành như vào chỗ không người, bây giờ bị nữ yêu hạng bét của Quốc Tế Đặc Vụ cho ăn kẹo đồng... ha... ha....

Sulivông chặn ngang :

- Phía sau có một chiếc xe đua mui trần, có lẽ là chiếc Floride....

Phạm Thiên chắc lưỡi:

- Không phải xe của họ đâu.

Phạm Thiên phóng nhanh hơn. Trong chớp mắt, chiếc Floride đã bị bỏ rơi hoàn toàn. Phạm Thiên lái vào con đường hẹp sau chợ, rồi sau cùng vào một tòa nhà trệt khá rộng, qua cửa cồng mở toang. Một người đàn ông chờ sẵn; vội vã đóng cửa lại.

Xe đậu ngay giữa vườn, Sulivông nhảy xuống, hỏi gã đàn ông vừa đóng cửa :

- Có gì lạ không chú ?

Tên gia nhân đáp :

- Thưa không.

Tên gia nhân cung kính mở cửa cho Sulivông bước vào nhà. Sulivông đi thẳng vào phòng ngủ. Hắn mở tủ, lấy sơ-mi mới ra thay, rồi tiến lại gần góc tường, lật tấm lịch bằng cạt-tông dầy. Phía sau bức tường vẫn phẳng lì, nhưng nếu ai nhìn kỹ sẽ thấy ở chính giữa có một cái nút nhỏ hình tròn cùng màu xám với bức tường. Sulivông bấm nhẹ, một cánh cửa bí mật được trổ ra.

Bên trong là một cái két sắt gắn chìm vào tường bê-tông. Sulivông lúi húi mở khóa. Một loạt những tiếng tách tách nổi lên. Sulivông kéo cửa tủ sắt luồn tay vào trong rút ra một cái hộp trông như hộp bánh bích quy nhưng khá nặng. Hắn mở nắp hộp kiểm điểm bên trong : toàn là kim cương, có những hột to bằng đầu ngón tay, lấp lánh ánh sáng dưới hai ngọn đèn nê-ông. Hắn bỏ hộp đựng kim cương vào va-li xách tay, đoạn ra lệnh cho tên gia nhân :

- Dẫn hắn lên đây.

5 phút sau, một người đàn ông trung niên nặng nề từ cửa hông bước vào phòng ngủ. Sulivông cất tiếng :

- Chào bác sĩ Phạm Thiên.

Người đàn ông được gọi tên Phạm Thiên ngẩng đầu nhìn mọi người trong phòng. Mắt hắn dừng lại trước người đàn ông giống hắn như đúc, và cũng mang tên Phạm Thiên như hắn. Sulivông nhếch mép cười:

- Bác sĩ ngạc nhiên phải không ? Trân trọng giới thiệu đây là cộng sự viên của tôi. Bác sĩ không cần biết tên thật của hắn làm gì, nhưng mỗi khi hoạt động hắn thường mang tên là Kong-Fô. Vâng, hắn là Kong-Fô, cũng là công dân Ai Lao như tôi.

Phạm Thiên nhìn Kong-Fô trừng trừng :

- Ông giả mạo như vậy để làm gì ?

Kong-Fô ưỡn ngực :

- Để làm gì, là chuyện riêng của tôi. Nhưng từ phút này trở đi, tôi trả cái tên và khuôn mặt Phạm Thiên lại cho bác sĩ.

Hắn đằng hắn một tiếng rồi từ từ cho bàn tay lên sau gáy, gỡ cái mặt nạ cao-su, ném xuống đất. Bỏ mặt nạ ra, hắn cũng không khác Phạm Thiên thật là bao. Hắn dí chân lên cái mặt nạ, giọng kẻ cả :

- Bác sĩ đã bằng lòng chưa ?

Phạm Thiên không đáp. Hắn rùng mình trước luồng nhỡn tuyến của Túy Ngọc. Hắn nói giọng buồn rười rượi:

- Thật anh không ngờ... anh không ngờ em lại làm gián điệp cho địch. Em đã lừa anh, mặc dầu em vẫn còn yêu anh. Mẹ con em đã đồng lõa với nhau để giữ anh lại. Trong những ngày bị giam trong hầm tối, anh đã suy nghĩ chín chắn. Anh đã đến một quyết định dứt khoát. Từ nay anh sống cũng như chết, anh tranh đấu để thành công vẻ vang trên đường đời là vì anh hy vọng tái hợp với em, với con. Nhưng anh đã hoàn toàn thất vọng. Túy Ngọc ơi, anh xin vĩnh biệt em. Túy Vân ơi, cha xin vĩnh biệt con...

Bỗng một tiếng nói sang sảng từ cửa phòng cất lên, làm toàn thể đều quay phắt lại sững sờ :

- Vĩnh biệt thiếu tướng Sulivông !

Người vừa nói là ông Hoàng. Phải, ông Hoàng bằng xương bằng thịt, ông Hoàng còn sống hẳn hòi, chứ không phải ông Hoàng nằm cứng đơ trong tòa nhà vắng vẻ tại khu Nguyễn Tri Phương, Chợ Lớn.

Sulivông giật bắn người:

- Ông Hoàng, té ra ông còn sống !

Ông Hoàng ném điếu xì-gà đang cháy xuống đất:

- Thiếu tướng nói sai rồi. Không phải tôi "còn sống", mà là tôi vẫn sống. Tôi chưa hề bị trúng đạn thuốc độc. Tôi cũng chưa hề chết.

Kong-Fô và tên gia nhân cùng cho tay vào túi một lượt. Nhưng Túy Ngọc đã rút súng ra nhanh như điện xẹt:

- Đứng yên, không được cựa quậy.

Túy Vân tiến lại phía mẹ, hai tay giơ lên :

- Mẹ ơi, tại sao mẹ lại làm thế ?

Túy Ngọc cười nhạt:

- Cô vẫn còn mê ngủ hay còn thích đóng kịch ? Tôi không phải là mẹ ruột của cô. Cô không phải là con ruột của tôi. Phạm Thiên cũng khựng người:

- Trời, cô gái này không phải là Túy Vân ư ?

Túy Ngọc gật đầu :

- Không phải. Túy Vân đã chết. Con của chúng ta đã chết trong một cuộc oanh tạc. Cô gái này chỉ giả mạo là Túy Vân.

Phạm Thiên hỏi vợ, giọng run run :

- Còn em ? Em cũng không phải là nhân viên của thiếu tướng Sulivông ?

Túy Ngọc mỉm cười:

- Không phải. Từ lâu em là nhân viên của ông Hoàng. Nhân viên của sở Mật Vụ Nam Việt.

Sulivông nghiến răng :

- Thảo nào... Tôi đối đãi với cô như bát nước đầy mà cô nỡ lừa tôi.

- Tôi yêu anh, tôi ăn nằm với anh, tôi tuân lệnh anh, chẳng phải tôi có cảm tình với anh hoặc sợ sệt anh. Chẳng qua vì tôi có công việc phải làm. Giờ đây, công việc đã xong, tôi xin phép được vĩnh biệt anh.

Sulivông nhìn ông Hoàng :

- Một lần nữa, ông là kẻ thắng còn tôi là kẻ bại. Nhưng tôi không còn phục ông nữa. Vì ông đã tráo trở, nuốt lời hứa trong họng.

Ông Hoàng đáp :

- Ông nên nhớ lại những lời cam kết giữa ông và tôi. Tôi đã nói rõ là nếu ông lừa tôi trước, bắt buộc tôi phải lừa lại. Vỏ quýt dầy tất gặp móng tay nhọn. Gieo gió tất gặp bão, ông còn phàn nàn gì nữa.

- Nói có quỷ thần chứng giám, tôi không hề lừa ông.

- Ấy chết, người Á đông ta vốn trọng lời thề và cung kính thần linh, ông thề bậy như vậy không sợ nguy hại đến mạng sống hay sao ? ông bảo là không lừa tôi, tại sao lại giao Phạm Thiên giả, còn Phạm Thiên thật thì nhốt kỹ ở Vũng Tàu ?

- Vì tôi chưa tin cụ.

- Hừ... chưa tin tôi mà lại nhận 18 triệu đô la của tôi. Thật đáng tiếc... khôn ba năm dại một giờ là vậy. Ông là chỉ huy trưởng điệp báo có tài mà lại dại dột nghe lời đàn bà thiết lập tổng hành doanh tại Sàigòn nên mới đến kết quả chua chát hôm nay. Bà Túy Ngọc hợp tác với tôi đã lâu, cần nói rõ để ông khỏi hiểu lầm. ông đang làm mưa làm gió tại Vạn Tượng thì gặp Túy Ngọc. Xưa nay ông vẫn là người đàn ông hảo ngọt, nên gặp Túy Ngọc ông mê liền. Nàng theo chỉ thị của tôi, gắn bó với ông. Và sau khi ông thoát khỏi nhà giam, sửa soạn tái sinh Quốc Tế Đặc Vụ, nàng thuyết phục ông di chuyển trụ sở chỉ huy về Nam Việt. Bây giờ ông biết tại sao tôi biết ông tung hoành trên đất của tôi mà không tìm cách ngăn chận. Vì ngăn chận làm gì, thưa ông ? Biết ông có liên lạc với Quốc Tế Tình Báo sở của Trung Cộng, tôi đã ra lệnh cho Túy Ngọc đi sâu vào tổ chức của ông, đợi chờ cơ hội lợi dụng, ông bắt cóc, giết người theo kế hoạch của Tình Báo Sở, và họ đã trả tiền rất hậu hĩ. Chúng tôi đang thiếu tiền nên án binh bất động, chờ ông gom góp thật nhiều tiền mới ra tay làm một mẻ. Nghe nói trong va-li của ông có cái hộp đựng hột soàn, trị gìá gần 50 triệu đô la, kết quả của hai năm hoạt động trung thành với Tình Báo sở. Với 50 triệu ấy, chúng tôi có thể làm Tình Báo Sở điêu đứng.... Tôi nhân danh sở Mật Vụ Nam Việt, thành thật cám ơn ông... Nào... ông còn tiếc nuối gì nữa, ông hãy đưa cái va-li hạt soàn ấy cho tôi.

Sulivông thở dài, nhấc cái va-li đặt lên bàn. ông Hoàng thản nhiên ngồi xuống ghế, chậm rãi châm điếu xì-gà mới:

- Lẽ ra tôi còn làm thinh để ông tung hoành một thời gian nữa vì tôi muốn vơ vét một lúc 100 triệu đô la chứ 50 triệu đang còn ít quá. Nhưng vì ông đã bắt cóc Phạm Thiên, các cơ quan điệp báo Tây phương thúc giục tôi phải tìm ra manh mối nên bất đắc dĩ tôi phải xuất đầu lộ diện. Nếu không gặp trở ngại bất ngờ, tôi đã có thể hạ ông dễ dàng như lấy đồ trong túi. Túy Ngọc thường liên lạc với tôi mỗi tuần bằng một điện đài đặc biệt, nhưng từ ít lâu nay, nhất là từ sau vụ Phạm Thiên, ông đặt máy tầm-đài tối tân trong trụ sở nên Túy Ngọc đành phải gián đoạn liên lạc. Tôi ra công tìm kiếm mà không khám phá ra nàng ở đâu. Tôi đành phải áp dụng chiến thuật xưa như trái đất: lừa cho cọp dữ ra khỏi động. Tôi bố trí cho Uyên-sơn trở lại Sàigòn rồi chận hắn trên phi trường Tân Sơn Nhứt, đe dọa. cảm thấy bại lộ, hắn phải liên lạc với thượng cấp. Và từ hắn, tôi biết Nguyễn Chấn. Từ Nguyễn Chấn, tôi biết câu lạc bộ Ngũ Nhật Hội. Và tại câu lạc bộ này, tôi đã trương bẫy đợi ông. Túy Vân là nhân viên trung thành của ông, ông cho nàng đi theo tôi để cho tôi vào xiếc. Trong thời gian lưu lại ngôi nhà Ngô Đức Kế, nàng đã dùng điện đài giấu trong thỏi son để báo cáo mọi việc với ông. Tôi đã ghi âm được đầy đủ. Nàng bảo đảm với ông rằng tôi thành thật muốn chuộc Phạm Thiên nên ông mới chịu gặp tôi. ông đã rơi vào kế hoạch Luân Vũ của tôi... Tôi đặt tên kế hoạch triệt hạ ông là kế hoạch Luân Vũ để ghi nhớ tài luân vũ của ông; nếu tôi không lầm, ông khiêu vũ rất giỏi, từng chiếm nhiều giải thưởng quốc tế, và giải thưởng được biết nhiều nhất là giải thưởng luân vũ tại Ba Lê... ông Sulivông ơi, điện đài ông giao cho Túy Vân thuộc loại điện đài tân tiến nhất và dùng làn sóng lên-thẳng, song ông quên rằng cao nhân tắc hữu cao nhân trị. Sở Mật Vụ Nam Việt đã phát minh ra phương pháp ghi âm làn sóng lên-thẳng...

Sulivông quay mặt ra cửa sổ. Phía sau cửa sổ là đêm tối mênh mông, vẳng lại tiếng sóng vỗ rì-rầm. Bỗng hắn đập mạnh tay xuống bàn :

- Tôi nhục lắm rồi. Lần thua ở Vạn Tượng, tôi chưa đến nỗi nhục như lần này. Nếu còn thương tôi, xin cụ cho tôi một viên đạn vào tim...

Ông hoàng không đáp. Vì ông vừa bắt gặp tia mắt của Kong-Fô. Ông giả vờ cúi xuống điếu xì-gà. Ngay khi ấy, Kong- Fô trườn người sang bên trái, vung tay định đoạt khẩu súng của Tuy Ngọc. Tên gia nhân của Sulivông cũng nhoài theo, dùng chân trái đá vào cườm tay cầm súng. Bị hai gã đàn ông phản công bất thần, Túy Ngọc rớt súng.

Song ông Hoàng vẫn tiếp tục nắm giữ tình thế. Vì hai tiếng bộp bộp nho nhỏ nổi lên. Một thiếu phụ đẹp tuyệt vời từ ngoài cửa bước vào, mỗi tay cầm một khẩu súng nhỏ bốc khói nghi ngút. Thiếu phụ này là Thu Thu, trưởng ban Biệt Vụ. Bị trúng đạn vào giữa mặt, hai gả đàn ông ngã nhào xuống đất.

Ông Hoàng thản nhiên giới thiệu

- Chắc ông đã biết đây là cô Thu Thu. Cô ấy đã lái trực thăng cho chúng tôi đi từ Sàigòn ra cấp. Xe hơi của ông chạy dưới đường thì chúng tôi bay trên trời. Như vậy đủ chứng tỏ tôi đã bố trí cặn kẽ, cả việc bắn hại tên thuộc viên của ông cũng được tôi trù liệu trước, ông hiểu chưa ? Tôi tạo cơ hội cho họ đoạt súng để có thể bắn họ không thương tiếc. Họ còn sống sẽ bất lợi cho ông. Họ chết, ông và tôi sẽ nói chuyện dễ dàng...

Sulivông liếm mép ra vẻ suy tư :

- Nghĩa là cụ muốn dùng tôi, không giết ?

Ông Hoàng cười:

- Giết để làm gì ? Chẳng gì ông và tôi cũng là chỗ biết nhau, quen nhau từ nhiều năm nay. Tôi chỉ cần lấy tiền bạc và kim cương của ông thôi. Còn ông... từ phút này, ông sẽ hợp tác mật thiết với tôi.

- Hợp tác ? Thưa cụ... hợp tác như thế nào ?

- Giản dị lắm. số tiền 50 triệu đô la của ông là tiển thưởng của gần 50 vụ bắt cóc xảy ra trong vòng 12 tháng qua, mà điển hình là vụ bác sĩ Tôni ở Ba Lê. Vụ Lêô ở Bá Linh trị giá 400 triệu đô la, rồi hai vụ phá hoại ở Liên Sô làm hệ thống vệ tinh phòng thủ bị rối loạn, và một hỏa tiễn FOBS trệch đường bay, gây ra thiệt hại 1.300 triệu đô la. Tổng cộng, ông đã mang về cho Tình Báo sở 1.700 triệu và được thưởng 50 triệu... Trong tương lai, tôi tin rằng Tình Báo Sở vẫn tiếp tục trả nhiều tiền thưởng như thế. ông sẽ có tiền, thật nhiều tiền, nếu chịu hợp tác chân thành với tôi.

- Thưa cụ... hợp tác như thế nào ?

- Thứ nhất, cho tôi biết các chi tiết về 50 vụ bắt cóc đã qua. Riêng về Tôni và Lêô...

- Thưa cụ....

- Không, tôi không đòi hỏi ông phải trả họ. Vì hiện nay họ đang sống ở Hoa Lục hoặc đã chết. Tôi chỉ cần biết các chi tiết liên quan đến tồ chức.

Sulivông nhìn đăm đăm vào khoảng không :

- Thưa cụ... tôi phải nộp Phạm Thiên cho Tình Báo Sở. Tầu buôn của họ đang chờ ngoài khơi. Nếu tôi không nộp, họ sẽ nghi ngờ...

Ông Hoàng khoác tay :

- Không sao. Lát nữa ông cứ việc xuống tầu, nộp Phạm Thiên cho họ. Nhưng là Phạm Thiên giả.

- Phạm Thiên giả ? Nộp Kong-Fô phải không ?

- Kong-Fô đã chết rồi, còn nộp sao được. Phạm Thiên còn sống thì mới hữu ích. Vì vậy, tôi đã kiếm sẵn một người thật giống Phạm Thiên cho ông. Người này là nhân viên của tôi.

- Trời ơi, cụ mượn tay của tôi để thâm nhập Hoa Lục !

- Đó là cái giá để chuộc lại sự tự do. Ông đang ham sống, ham hưởng thụ, cho nên như vậy cũng vẫn còn quá rẻ.

- Vâng, tôi đành phải theo cụ. Nhưng cụ ơi, Tình Báo Sở khám phá ra thì khốn !

- Họ sẽ khám phá ra bằng cách nào ? Ít ra cũng phải đợi cho nhân viên của tôi hoàn thành công việc. Nghĩa là từ 5 đến 10 năm. Nói trước để ông mừng : trong 5 năm đầu tiên, nhân viên của tôi đội lốt Phạm Thiên sẽ không làm gì hết.

Sulivông liếc nhìn Túy Vân, giọng ngập ngừng :

- Nhưng....

Ông Hoàng ngắt lời:

- Tôi giết Kong-Fô và tên gia nhân chắc ông đã hiểu rõ lý do.

- Hiểu rồi. Cụ dùng Túy Vân để bắt chẹt tôi.

- Phải, trong thời gian 5 năm sắp tới, hễ bất cứ lúc nào ông định thay đồi ý định hợp tác là tôi sẽ trả Túy Vân cho Quốc Tế Tình Báo Sở.

- Cụ ơi, cụ nham hiểm quá !

- Cám ơn ông, ông chỉ phải trung thành với tôi trong 5 năm. Sau đó, ông hoàn toàn tự do. Khi ấy, ông muốn coi tôi là kẻ thù nham hiểm bất cộng đái thiên cũng được. Bây giờ, mời ông ra xe. Nhân viên của tôi đội lốt Phạm Thiên đang chờ sẵn ngoài đường, ông gặp đại diện Tình Báo Sở xong rồi phải về Sàigòn. Sáng mai, đúng 8 giờ sáng, tôi đợi ông tại văn phòng đại lộ Nguyễn Huệ. Thôi, chào ông...

Nữ trưởng ban Biệt Vụ Thu Thu mở cửa. Sulivông thất thểu bước ra. Thu Thu mỉm cười đi theo, tay khoác nách Túy Vân.

Trong phòng chỉ còn lại ông Hoàng và cặp vợ chồng cũ, Phạm Thiên, Túy ngọc. Phạm Thiên nắm vạt áo ông Hoàng

- Thưa cụ... tôi muốn trình với cụ một việc.

Ông Hoàng hỏi:

- Ông muốn được về Mỹ nội đêm nay phải không ?

- Thưa cụ không. Tôi xin cụ được ở lại.

- Không được. DIA trả tôi một số tiền khổng lồ, gần bằng phân nửa ngân sách Nam Việt, để thu hồi ông. Tôi rất mến cá nhân ông, và rất trọng tài ông, nhưng nếu ông ở lại thì chúng tôi phải mang công mắc nợ.

Phạm Thiên bức tóc, than thở :

- Khổ quá, bây giờ biết tính sao đây ?

- Chỉ sợ anh không còn yêu em, chứ nếu anh còn yêu như ngày xưa thì việc khó hơn nữa cũng có thể giải quyết được.

- Anh yêu em gấp chục, gấp trăm lần ngày trước.

- Dầu sao thân thể của em đã bị ô uế. Em đã là nhân tình của Sulivông. Em là người tổ chức "Đoàn vũ khỏa thân" chuyên dùng đàn bà đẹp để mồi chài các nhân vật quan trọng. Em không xứng đáng với tình yêu của anh nữa.

- Trăm sự cũng do anh mà ra cả. Anh ghen tuông mù quáng nên chú Phạm Thanh mới chết. Anh xử sự ngu xuẩn nên em mới phải lưu lạc giang hồ, con chúng ta mới ra người thiên cổ. Anh phải sống những ngày cuối cùng của đời anh bên em để chuộc lại tội lỗi. Anh phải mang tài anh ra để phụng sự đất nước. Túy Ngọc em... em đã nghĩ ra mưu kế nào chưa ?

- Đêm nay, anh cứ lên phi cơ trở về Mỹ. Nội trong một tháng, em sẽ sang tận nơi đón anh.

- DIA sẽ ngăn cản, không cho chúng mình tái hợp.

- Anh đừng ngại. DIA giỏi thật nhưng vẫn chưa giỏi bằng Sở Mật Vụ Nam Việt. Họ chỉ hơn ông Hoàng về tiền bạc mà thôi. Ông Hoàng sẽ bố trí cho anh trốn khỏi trung tâm thí nghiệm.

- Họ sẽ làm ầm lên và sẽ nghi ngờ ông Hoàng.

- Không sao đâu. Em tin là ông Hoàng sẽ cho DIA biết là ông đã bán Phạm Thiên giả cho Tình Báo Sở. Do đó, anh phải sống tuyệt đối bí mật. Một ngày nào đó, anh sẽ tự tử vì không kham nổi cuộc sống gò bó... và chúng mình sẽ quay về Sàigòn, chung sống bên nhau cho đến mãn chiều xế bóng...

Phạm Thiên run run ôm lấy người vợ, nước mắt chan hòa. Hai người hôn nhau thật lâu. Chợt nhớ ra, Phạm Thiên vội buông vợ, quay nhìn phía sau :

- Chết chửa, chúng mình đã già rồi đâu còn là thanh niên đôi tám mà ôm nhau tình tự như thế này... ông Hoàng cười chết....

- ông cụ đi rồi. Đi từ nãy. Vì ông cụ sợ anh ngượng, sợ chúng mình ngượng. Chúng mình xa nhau 20 năm rồi, phải không anh ? Anh không muốn sống lại cái thời âu yêm ấy nữa sao ?

Túy Ngọc tắt đèn trong phòng. Ban đêm Vũng Tàu đẹp như bài thơ. Bác sĩ Phạm Thiên lẩm bẩm :

- Ông Hoàng...ông Hoàng tài thật.... ông Hoàng quả là thiên thần...

NGƯỜI THỨ TÁM

Chú thích:

1. Thúy Liểu đã xuất hiện ít nhất 2 lần trong bộ tiểu thuyết gián điệp trường thiên z.28; lần đầu tiên trong cuốn "Z.28 vượt tuyến", lần thứ nhì trong "Phù Tang nổi sóng".

2. OHB là oxygénation hyperbare, kỹ thụật tăng giảm dưỡng khí ôcxy để ảnh hưởng tới cơ thể được giải phẩu. Thùng giải phẩu siêu-áp của bệnh viện Bốt-tơn gần giống với thùng giải phảu siêu-áp của Sở Mật Vụ với đường kính 5m30, và giá tiền 339.500 đô la.

3. Phòng giải phẩu siêu-áp của trung tâm y khoa thiếu nhi Boston được khánh thành năm 1965; tại Luân Đôn có bệnh viện Saint Paul, tại Amsterdam (Hòa Lan) có bệnh viện VVilhelmine, hiện nay Pháp đang xây cất một thùng sắt OHB tương tự tại Nancy, nặng 42 tấn, đường kính 4m80, dài 7 mét sẽ hoàn thành vào năm 1971

4. Hoạt động thâm nhập (penetration) này, từ ngữ chuyên môn điệp báo gọi là Magic, nghĩa là Mắt Thần.

5. Katy xuất hiện lần đầu trong Núi Đá Tiên Tri, của Người Thứ Tám, được in thành sách năm 1965. Hiện nay tác giả đang sửa soạn tái bản bộ truyện này, và như thường lệ do Nhà Sách Văn Quang, 5- Lê Văn Duyệt, Chợ Đủi, tổng phát hành.

6. Một số xe hơi của các yếu nhân chính quyền trên thế giới đã được trang bị loại kiếng có hóa chất đổi màu này. Hiện một công ty sản xuất xe hơi ở Hoa Kỳ đang thí nghiệm một loại xe hơi, mui bằng kiếng, khi ra nắng chỉ cần bấm nút là thành màu xanh, lọc ánh sáng mặt trời.

Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Sponsored content





Đoàn Vũ Khỏa Thân - Người Thứ Tám Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Đoàn Vũ Khỏa Thân - Người Thứ Tám   Đoàn Vũ Khỏa Thân - Người Thứ Tám Icon_minitime

Về Đầu Trang Go down
 
Đoàn Vũ Khỏa Thân - Người Thứ Tám
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
Nhanbkvn 2024 :: THƯ VIỆN SÁCH TRUYỆN :: Truyện Z 28-
Chuyển đến