Nhanbkvn 2024
Chào Mừng Các Bạn Tham Gia Và Chia Sẽ Tại Diễn Đàn Nhanbkvn
Nhanbkvn 2024
Chào Mừng Các Bạn Tham Gia Và Chia Sẽ Tại Diễn Đàn Nhanbkvn
Nhanbkvn 2024
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Nhanbkvn 2024

Chia Sẽ Không Giới Hạn
 
Trang ChínhTrang Chính  Sự kiệnSự kiện  Latest imagesLatest images  PublicationsPublications  Tìm kiếmTìm kiếm  Đăng kýĐăng ký  Đăng NhậpĐăng Nhập  

 

 Tây Ban Nha 200 Tấn Vàng Đẫm Máu - Người Thứ Tám

Go down 
Tác giảThông điệp
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Tây Ban Nha 200 Tấn Vàng Đẫm Máu - Người Thứ Tám Empty
Bài gửiTiêu đề: Tây Ban Nha 200 Tấn Vàng Đẫm Máu - Người Thứ Tám   Tây Ban Nha 200 Tấn Vàng Đẫm Máu - Người Thứ Tám Icon_minitimeSun Dec 10, 2017 8:22 am

Tây Ban Nha 200 Tấn Vàng Đẫm Máu - Người Thứ Tám Cover13

I. Tráng sĩ đấu bò

Tất cả đều do cặp mắt.

Trên phương diện y học, mắt Văn Bình không khác mắt thiên hạ bao nhiêu, kích thước khối mắt nhỏ hơn trái bóng ping pong, với những bắp thịt li ti mỗi ngày cử động khoảng một trăm ngàn lần, võng mạc chứa đựng 130 triệu tế bào hình que để nhìn đen trắng, và 7 triệu tế bào hình nón để nhìn màu sắc. Mỗi khi nhìn, một luồng điện nhẹ độ một phần triệu vôn chuyển hình vật vào óc với tốc độ 480 cây số một giờ. Nói cách khác, khi Văn Bình - hoặc bất cứ ai - gặp một giai nhân núi lửa trên lề đường, chỉ cần hai phần ngàn giây đồng hồ là những đường cong tuyệt mỹ được chụp hiện rõ ràng, khêu gợi trên màn ảnh đại vĩ tuyến của óc.

Tuy nhiên, gia đình và bè bạn gần gũi chàng hồi bé đều nhìn nhận mắt chàng chứa những đặc tính kỳ lạ. Trong những tháng đầu tiên sau ngày oe oe chào đời, mắt chàng không bị viễn thị như mắt hài nhi bình thường. Từ 6 đến 8 tuổi, nhỡn lực mới sáng, nhưng về phần chàng, chàng được Trời phú cho cái nhìn "đèn pha xe hơi" ngay từ thuở chập chững tập đi[1].

Lớn lên, cái nhìn của Văn Bình mang khả năng xuyên phá những trái tim được phòng thủ kiên cố. Chàng nhìn ai, người ấy phải bủn rủn. Nhiều cô gái lì lợm, kinh nghiệm yêu đương đầy mình, tâm tư được đúc trong bê tông đã phải đỏ mặt, tay chân bủn rủn trước khi ngả vào lòng chàng như trái cây chín tới. Nếu là phụ nữ giàu tình cảm, chàng khỏi cần nhìn giữa mắt, chàng chỉ nhìn trũng gáy. Trong vòng một phút, đương sự nóng ran châu thân, trũng gáy nhột nhạt và quay lại.

Hôm ấy, Văn Bình đang nhẩn nha hút thuốc Salem chờ ăn heo sữa quay thì bắt gặp trũng gáy đẹp như nặn của Nàng. Heo sữa quay là món ăn bất hủ của nhà hàng Bôtin, thủ đô Mađờrít. Nó được dọn nguyên con trên cái mâm đất nung cổ xưa, lên nước đen sì, láng bóng. Vị thơm ngon của nó bỏ xa nhiều tiệm ăn ở Hồng kông.

Bôtin là nhà hàng đượm màu sắc bản xứ -cũng như những nhà hàng bò 7 món, chạo tôm, phở gà hoặc nai đồng quê của Sàigòn- Văn Bình thường đến đó mỗi chuyến tạt qua Mađờrít. Chẳng phải vì chàng thèm thuồng cái món đầy mỡ nặng nề, dễ làm tăng vòng bụng ấy. Chàng thường đến đó vì du khách thường đến đó. Nữ phái thuộc nhiều quốc tịch khác nhau, sự chọn lựa dễ dàng hơn.

Văn Bình từ Ba lê tới hồi sáng. Chàng lên phòng khách sạn, rửa ráy và làm nửa chai huýt ky. Chàng dặn bồi treo tấm bảng chữ đỏ ngoài cửa "Yêu cầu giữ im lặng" rồi kéo một giấc ngủ trưa đã đời, đúng theo truyền thống Tây ban nha.

Tiếng là ngủ trưa, kỳ thật là ngủ chiều. Người Sàigòn mang tiếng ngủ trưa , nhưng 2, 3 giờ đã dậy. Và đó là người rủng rỉnh tiền bạc, người nghèo thì đừng hòng phục vụ thần mắt. Còn ở đây, giàu hay nghèo đều ngủ trưa, bữa ăn sớm nhất là 2 giờ. Ba giờ hoặc ba rưỡi cũng chưa muộn vì bữa tối suýt soát nửa đêm, cùng với giờ chiếu xi nê.

Đúng 3 rưỡi, Văn Bình mới khua chân xuống giường tìm giép vào phòng tắm. 15 phút sau, chàng lững thững bước vào tiệm Bôtin trên đường Thợ Rèn dao, ở sau công trường Thị sảnh, một khu phố nên thơ. Tiệm heo sữa quay cũng nên thơ trong một tòa nhà cũ rích của thế kỷ 17.

Các bàn ăn đã chật ních. Bàn của Văn Bình bị dồn vào tận trong cùng, chàng nhìn ra chỉ thấy lưng là lưng, và lưng đàn ông thì chẳng có gì đáng cho chàng "rửa mắt". Đùng một cái, hai gã to xác án ngữ luồng mắt của chàng ra quầy trả tiền, để lại một khoảng bàn trống. Đùng một cái, chàng thấy lưng nàng. Và thấy cổ nàng.

Trời ơi, ngắm phía sau nàng có cái lưng và cái cổ giống hệt một nữ hoàng Pháp thật đẹp và thật lẳng, Diane de Poitiers. Người đàn bà này toát ra hấp lực khác thường mặc dầu không hề dùng son phấn trang điểm. Về già vẫn quyến rũ như thời xuân sắc. Tuổi gần ngũ tuần mà ai cũng lầm tưởng chưa đến 30[2].

Văn Bình ngây người chiêm ngưỡng. Tuần trước, đến xem danh họa tại viện bảo tàng Quốc gia Mỹ, Hoa thịnh đốn, chàng đứng trước bức tranh Diane de Poitiers gần nửa giờ đồng hồ, bất động như thể bị thôi miên. Chàng thầm cầu nguyện để dung mạo của cô gái trong nhà hàng không quá thua sút dung mạo của Diane trong tranh.

Thì nàng xây lại. Chàng vội ngậm miệng ngăn chặn tiếng ủa sửng sốt tán tụng bật khỏi họng. Nàng là Diane bằng xương bằng thịt. Đẹp. Trẻ. Lôi cuốn.

Bồi trịnh trọng bưng khay heo sữa quay lại. Văn Bình quên đói. Bao tử trống rỗng của chàng đột nhiên đầy úp. Chàng nghiêng đầu chào nàng. Chàng áp dụng chiến thuật điện xẹt nhằm chinh phục nàng. Nhưng không chinh phục bằng cử chỉ hoặc ngôn ngữ "nịnh đầm" cố hữu của nam giới bản xứ. Tây ban nha có một danh từ hẳn hoi chỉ sự tán gái: pirôpốt. Gặp gái đẹp ngoài đường, buông lời ong bướm công khai gọi là pirôpốt. Trong số đàn ông thế giới, đàn ông ở đây ga lăng nhất. Đàn ông lẽo đẽo theo sau với điệp khúc lải nhải "cô đẹp lắm, tôi thương cô lắm" không sợ bị mắng là mất dậy. Văn Bình dư bản lãnh tấn công bằng pirôpốt ồn ào, song chàng quyết tấn công bằng cặp mắt thầm lặng[3].

Mỗi dân tộc, mỗi thị trấn có một lối nhìn riêng. Nữ du khách trên đường phố Tel Aviv , thủ đô Do thái, không thể đỏ mặt tía tai trước cái nhìn "bóc trần" của đàn ông. Sở dĩ đàn ông Do thái nhìn gái sống sượng vì nam nữ ở đó bình đẳng tột đỉnh, gái cũng vác súng đi lính như trai. Trai nước Anh cũng nhìn trân trân nhưng có vẻ nghiêm trang hơn nhiều. Họ bộc lộ sở thích bằng nhỡn tuyến rồi ngó lơ. Đàn ông Á đông ưa liếc trộm hơn nhìn thẳng. Đừng tưởng đàn ông Mỹ sành sỏi, họ là bậc thầy về mọi địa hạt trừ địa hạt tán gái. Họ chỉ dám nhìn giữa mặt người đẹp trong một tích tắc. Trong khoảng cách hai thước, họ cúi đầu[4]. Họ còn cù lần ở chỗ không biết tấn công ái tình bằng kỹ thuật nhướng mày và chớp mắt[5].

Đòn mắt của Văn Bình không giáng mạnh như quả đìa rét mà nàng vẫn xửng vửng. Da nàng hồng hồng, dấu hiệu của một nhan sắc quí phái và vô bệnh. Miệng nàng đẹp hơn miệng Diane, rộng, dầy, và đài các. Văn Bình nói:

- Haga[6]... xin phép được mời cô một ly rượu khai vị.

Mời xong chàng mới biết lố. Ngu ôi là ngu, trước khi mời lẽ ra chàng phải quan sát xem nàng đang uống gì. Trước mặt nàng chềnh ềnh cái ly cối, loại nửa lít, đựng đầy chất nước đỏ với đá cục, kèm theo cái ống hút xinh xắn. Đó là Anđaluza, món giải khát thịnh hành số một trong mùa nóng bức. Nó gồm phân nửa rượu nho bản xứ, phân nửa nước cam ép pha lẫn sô đa và đá. Người đẹp ưa Anđaluza mà chàng mời rượu huýt ky đốt cháy cuống họng. Ngu ôi là ngu!

Lắm lúc vụng về, quê mùa lại tốt vì nàng đáp liền:

- Hân hạnh.

Chàng xách luôn chai huýt ky lại bàn nàng:

- Tôi là Văn Bình. Xin cô tha lỗi cho sự đường đột. Tôi vừa được coi tranh Diane de Poitiers ở Hoa thịnh đốn. Cô giống Diane quá. Diane là người đàn bà nổi tiếng trong lịch sử. Cô còn vượt xa Diane nên tôi liều mạng làm quen với cô[7].

- Mặc dầu tôi chưa nói tên ông đã biết tên tôi rồi đó. Tôi như đúc khuôn với bà Diane, gia đình tôi mới gọi tôi là Diane. Ông hơi quá lời. Tôi chưa bằng cái móng tay của bà Diane.

- Ngược lại.

- Ông khéo nói hơn cả đàn ông Tây ban nha từng được khen là khéo nói nhất châu Âu. Tôi xin chịu thua ông. Ô kìa, ông chưa ăn gì, dĩa heo của ông đã nguội.

- Cám ơn cô. Tôi no rồi.

- Chúa ôi, nếu Manêlitô cũng biết no như thế này thì hạnh phúc cho con biết mấy.

Nghe nhắc đến tên Manêlitô, Văn Bình cụt hứng. Té ra nàng đã có ý trung nhân. Chàng phát ghen với hắn. Hắn thiếu đức tính ga lăng cần thiết. Nàng vẫn yêu, thế mới lạ. Manêlitô là cái thá gì? Hừm, trừ phi hắn là ông trời con...

Thấy chàng đờ đẫn, Diane vội hỏi:

- Ông đã nghe danh Manêlitô?

Văn Bình tức muốn nghẹt thở:

- Chưa.

- Vì ông là du khách. Chắc là du khách từ xa tới. Du khách các nước Bắc Âu, hoặc Hoa Kỳ, thậm chí từ Liên sô tới đều biết. Manê là ngôi sao trẻ matađo[8] đang lên. Chàng mới xuất hiện từ hơn năm nay. Tiếng tăm của chàng nổi như cồn. Trận đấu nào chàng cũng thắng vẻ vang.

A, tình địch của Z.28 làm nghề tráng sĩ đấu bò. Chưa nghề nào được đàn bà yêu thương bằng, tôn thờ bằng nghề matađo ở Tây ban nha. Tráng sĩ đấu bò có hàng trăm, hàng ngàn người đẹp sẵn sàng quỳ mọp dưới chân là thường. Minh tinh màn bạc, đại danh ca như Bít tơn đi tới đâu được công chúng ái mộ bao vây tới đó. Đàn bà, con gái chen nhau, xô nhau, dẫm nhau, đánh nhau loạn xạ để được xán lại gần, rờ mó da thịt, ôm hôn, hoặc giựt xé một mẩu quần áo. So sánh với các tráng sĩ đấu bò thì sự ái mộ này vẫn chưa thấm vào đâu.

Vì cuộc đấu bò hội đủ tất cả những gì nữ phái lãng mạn và sự hùng tráng. Nó là thiên trường ca về vũ nhạc. Mọi cử chỉ của matađo được cân nhắc, tính toán từng vi phân tích tắc, từng milimét. Chậm là chết. Nhanh cũng chết. Gần thêm một vài milimét cũng chết. Nếu đẩy xa một vài milimét thì tránh được cái sừng nhọn hoắt của con bò rừng nặng hơn nửa tấn, tượng trưng cho Tử thần, nhưng lại bị khán giả la ó là kém nghệ thuật, kém can đảm.

Tráng sĩ đấu bò được khán giả coi như thần tượng là đúng. Từng giây, từng sao đồng hồ họ phải thách thức Tử thần. Họ còn sống là do họ khôn hơn, lẹ hơn khối thịt hung hãn, bùng sôi thù hận phóng lại với sức nặng của chiếc xe tăng, và sức nhanh của mũi tên bắn.

Văn Bình vẫn ngồi im. Cô gái say sưa nói tiếp:

- Lát nữa có trận đấu của Manê.

No mất ngon, giận (ghen) mất khôn, Văn Bình phun ra một câu lãng nhách:

- Cô đi coi?

Nàng bật cười:

- Tôi không đi thì ai đi, thưa ông? Manê có lối đấu kỳ lạ, các apôđếrađô đều tiên liệu[9] nếu chàng không gặp nạn thì chỉ trong ba, bốn năm nữa chàng sẽ ăm đứt El Cordobès và Dominguin[10]... Vả lại tiền lương mỗi trận đấu của chàng hiện nay là 3 triệu rưỡi pêsêta[11], có thua lương bậc thầy El Cordobès bao nhiêu đâu[12]! Ông đi coi với tôi, ông Văn Bình nhé!

Nàng nhớ được tên chàng, giọng nàng lơ lớ nhưng khá rõ. Điều này chứng tỏ nàng có cảm tình khá sâu đậm với chàng. Nàng rủ chàng xuống đáy biển Địa trung hải chàng cũng không từ nan, huống hồ coi đấu bò. Phiền một nỗi cái đinh của trận đấu là anh chàng tốt số đáng ghét Manêlitô.

Chàng lại lặng thinh. Diane liếc đồng hồ tay:

- Nguy to. Gần bốn rưỡi. Một giờ nữa bắt đầu. Làm sao mua vé bây giờ?

Ở Tây ban nha quan niệm giờ giấc dường như không có. Cái gì cũng chậm rề rề, bất chấp thời khắc. Hẹn nhau thì luôn luôn đến muộn. Không đến cũng không sao. Việc làm hôm nay chưa xong thì gác đến mai. Mai chưa xong chuyển qua mốt. Mốt này đến mốt khác. Liên tu bất tận. Riêng món đấu bò là y hẹn. Cuộc đấu bò thường mở từ 4 rưỡi, kéo dài đến 6 giờ chiều, và chỉ diễn ra trong mùa khô. Tùy theo thời tiết có thể khai mạc chậm hơn, song giờ giấc được ban tổ chức loan báo trước và tôn trọng đúng ngắc.

Vấn đề điên đầu nhất là nạn vé chợ đen. Cảnh đầu cơ vé bóng tròn trước sân vận động Cộng hòa ở Sàigòn từng làm khách mộ điệu kêu trời như bọng vẫn chưa ăn thua gì đối với... truyền thống vé chợ đen đấu bò ở Mađờrít. Bất cứ chuyến nào ghé Mađờrít, đến đấu trường Monumental[13], Văn Bình cũng đụng tấm bảng to tổ bố "No quedan localidade" nghĩa là "Hết vé rồi". Lắm bữa người ta còn chơi chua, No quedan localidade ni entrade nữa, nghĩa là hết vé ngồi, hết luôn cả vé đứng. Muốn mua vé ư? Dễ ợt. Chịu chi gấp 2, gấp 5, gấp 10, hoặc gấp 50 lần; tùy theo trận đấu là bao nhiêu vé cũng có.

Cô gái vẫy tên bồi lảng vảng gần đó:

- Còn vé không?

Tên bồi gãi tai:

- Dạ còn.

Nàng ngó Văn Bình:

- Chiều nay, nắng hơi gắt. Ông lấy sombra nhé?

Rồi ra lệnh cho bồi:

- Một vé. Không được cứa cổ nghe.

Tên bồi nhăn nhó:

- Thưa cô, đông người hỏi mua nên...

- Hiểu rồi. Chú muốn cứa cổ. Được, tôi sẽ mách ông chủ.

- Tôi đâu dám bán đắt cho cô.

- Vậy đưa đây. Còn rềnh rang gì nữa?

- Thưa cô, sombra vừa hết.

- Khổ ghê, thì lấy sol y sombra tạm.

- Cũng hết.

- Chắc sol cũng hết nốt.

- Dạ, sol thì còn. Cô đừng mắng mỏ tôi, tội nghiệp. Vé bán chạy vì cuộc đấu có Manêlitô. Khán giả đông đúc tất cô vui, tại sao cô lại trù ếm?

- Ừ, tôi lỡ lời, chú đứng giận. Trời nắng muốn sôi nước biển, ngồi sol sao được. Chú nài thử xem, bao nhiêu tôi cũng trả, tôi rất cần một vé sombra biếu khách[14].

- Chịu. Giờ này chỉ có Manê đích thân can thiệp mới có nổi.

Cô gái Tây ban nha liếm mép ra chiều suy tư. Một phút sau, nàng thở dài:

- Vắng ông có lẽ tôi buồn lắm.

Văn Bình nói:

- Nếu tôi đi coi, tôi còn buồn hơn.

- Buồn hơn? Ông ghét tôi? Ông ghét đấu bò?

- Tôi mê đấu bò kinh khủng. Không những mê làm khán giả tôi còn mê làm matađo nữa. Sở dĩ tôi buồn vì nếu mua được vé, tôi đi coi, tôi phải ngồi xa cô.

- Manê tặng tôi hai vé, nhưng...

- Cô sợ Manê mè nheo?

- Còn hơn mè nheo một bậc. Hai vé là để cho tôi và mẹ tôi. Hôm nay mẹ tôi bận, tôi phải đi một mình. Thôi được, tôi vừa tìm ra kế. Ông chờ tôi điều đình với lão chủ nhà hàng. Tôi giả vờ bán cái vé của mẹ tôi cho ông. Khi Manê căn vặn, hậm họe có lão chủ làm chứng.

Diane hấp tấp bước lại quầy két, líu lo bàn bạc người đàn ông trung niên trán hói. Văn Bình thấy gã trán hói cười toe toét rồi gật đầu chí chạp. Miệng tươi tắn hơn bao giờ hết. Diane móc ví da lấy cái vé đặt gọn giữa lòng bàn tay của Văn Bình. Giọng nàng long trọng như giọng ông chánh thẩm tuyên án trước tòa:

- Ông hên lắm đấy. Từ thuở lớn lên đến giờ tôi rất khó tính. Nhất là đối với đàn ông mới quen. Cái may mắn của ông là kết bạn với tôi giữa mùa rômêria. Quê hương của tôi ở Anđaluzi thuộc miền nam. Phong tục quê tôi rất cởi mở trong tuần lễ có rômêria.

Văn Bình từng sống ở miền nam. Anđaluzi được coi là vườn hoa, kể cả hoa không biết nói và hoa biết nói. Gái ở đây rất lẳng, đàn ông dính vào là chết mê chết mệt. Rượu nho ở đây cũng tuyệt ngon gọi là xérès. Nó ngon đến nỗi không món nhắm nào đủ ngon để tương xứng với nó. Rốt cuộc dân nhậu phải uống xuông.

Người ta đồn nơi nào rượu nho tuyệt ngon nơi ấy đàn bà thường hấp dẫn. Gái Anđaluzi làm đàn ông mê tít cung Thang là vì thế. Nhưng còn một nguyên nhân khác ; eo họ khá nhỏ, mình mẩy họ vừa vặn không bèo nhèo mỡ nước. Họ có co phần nào do ăn uống. Khí trời nóng bức, những món làm nặng bụng đều bị loại khỏi nền gia chính địa phuơng. Mọi người chỉ ăn rau dưa và cá. Chất đạm của cá biển có hai cái lợi ; thân thể cứng cát, thon mảnh, đồng thời gia tăng sức mạnh ái tình.

Gái Anđaluzi là những trái bom có thể nổ tung bất cứ lúc nào, cho nên theo định luật thừa trừ phụ huynh có con em mặn mòi, nẩy nở, rất khắt khe, ít khi cho phép đi chơi một mình, ngoại trừ dịp rômêria.

Rômêria là một hình thức hành hương những nơi chốn thiêng liêng. Hàng năm, trước lễ Pentecôt[15], dân chúng miền nam lũ lượt kéo nhau trẩy hội Đức Mẹ Đồng trinh[16]. Đường sá đông nghẹt, xe ngựa chăng hoa, kết lá sặc sỡ, chở đầy đàn bà con gái mặc quần áo nhiều màu chói lọi. Từng đoàn, từng đoàn nô nức truyện trò, ca hát, nhảy múa, cười đùa giữa tiếng đàn ghi ta, tiếng xênh phách nhịp nhàng qua những vườn cây ô liu xanh ngắt. Riêng trong cuộc hành hương này, sự kiểm soát của cha mẹ đối với con gái họ được nới lỏng tối đa. Các thiếu nữ dậy thì được dịp bay bướm thả cửa...

- Cô vừa dự lễ hành hương Đức Mẹ?

- Vâng. Tôi mới về Mađờrít hôm qua. Năm nay vui hơn năm ngoái nhiều.

- Cô vui là phải. Vì cô sung sướng nhất đời.

- Sung sướng nhất đời? Ông Văn Bình ơi, ông lầm to. Tôi là kẻ đau khổ. Nhất đời hay không, điều đó chưa rõ, nhưng chắc chắn là đau khổ hơn nhiều người.

Nàng chép miệng chua chát:

- Bậy quá, lẽ ra tôi không được phép nói với ông.

Nàng cúi gằm xuống ly rượu nho pha nước ấm. Nơi nàng ngồi hơi tối, ánh mắt sáng rực của nàng long lanh trên những cục nước đá sủi bọt lăn tăn, tạo cho nàng một vẻ diễm lệ và quyến rũ khác thường. Văn Bình nôn nao, chàng muốn đứng dậy choàng tay ôm nàng, và hôn lên cặp mắt to, đen và đẹp ấy. Không hiểu sao chàng vốn dạn dĩ -đôi khi dạn dĩ biến thành chướng tai, gai mắt- giây phút ấy chàng lại rụt rè, nhút nhát như cậu trai gà tồ mới lớn.

Sau cùng, chàng quyết hôn nàng. Hỡi ôi, chàng chưa kịp đứng dậy thì nàng đã đứng dậy trước. Nàng nói vội vã:

- Nhớ đi coi với em, anh nhé!

Nàng xưng em, và gọi chàng bằng anh. Văn Bình ngơ ngẩn, đến khi chàng hoàn hồn thì nàng đã bước rảo như chạy ra cửa nhà hàng hòa trộn vào đám đông không biết từ đâu hiện ra, ồn ào, hỗn độn.

Chàng rượt theo nàng. Quãng đường trước tiệm bị kẹt cứng. Nam, nữ, già, trẻ đặc nghẹt vỉa hè, trên bao lơn và sau các cửa sổ trên lầu. Giữa đường, một đoàn kỵ sĩ diễn qua. Một đoàn ngựa trắng như tuyết, yên cương đỏ chói. Kỵ sĩ mặc đồ đấu bò, gọi là y phục ánh sáng, hoặc quang y vì nó chói lòa ánh sáng. Nó gồm cái áo ngắn kiểu bờ lu dông ngang rốn, vai vuông, tay dài, may thật khít, quần cũng may thật khít đến đầu gối, phía dưới là tất dài và đôi giày ban. Áo và quần được may bằng hàng đặc biệt, đính gắn kim tuyến. Xí trai đến mấy diện quang y vào cũng biến thành khôi ngô, lẫm liệt.

Cả thảy có 8 con ngựa bạch, 8 kỵ sĩ. Kỵ sĩ đều mặc quang y màu đen. Riêng kỵ sĩ thứ tư mặc quang y màu hồng. Y còn trẻ. Độ 25, 26. Không cao, đối với đàn ông địa phương. Mảnh dẻ, mặt xương xương, tạng người thích hợp với nghề tráng sĩ đấu bò rừng. Y không đẹp. Diện mạo còn có vẻ tàn nhẫn nữa là khác. Chàng thấy rõ những nét sở khanh trên môi và miệng y.

Y là người thích chơi bời vung vít, ưa lang chạ với bất cứ ai. Y khác chàng một vực một trời. Sự mê đắm của chàng phảng phất nhiều nét thanh tao hơn tục tĩu.

Tuy nhiên khi nhìn hắn, người ta khó thể khinh ghét. Tội nghiệp có lẽ đúng hơn. Rõ ràng y là hiện thân của sự trắc ẩn.

Tất cả đều do cặp mắt.

Mắt y thật sâu. Thật dài. Và buồn thì thật buồn. Buồn có thể làm thiên hạ chết được. Các tráng sĩ đấu bò thường có cặp mắt thật buồn. Dư luận cho rằng họ cọ sát với thần Chết nên mắt họ buồn. Như cặp mắt của matađo cự phách Manolete[17] chẳng hạn. Trong 8 năm tung hoành trên đấu trường từ 1939 đến 1947, năm gục chết dưới sức húc của bò rừng, tráng sĩ Manolete dự 500 trận đấu, lãnh trên một trăm triệu peseta, từng được tôn sùng là "thiên thần". Càng lên cao trên đài danh vọng, mắt tráng sĩ càng buồn. Để một chiều mùa thu đìu hiu kia, trước mười ngàn khán giả nín thở, tráng sĩ chết giữa đấu trường. Giữa tuổi ba mươi. Khi chết, mắt tráng sĩ không chịu nhắm. Buồn ôi là buồn.

Mắt của tráng sĩ mặc quang y màu hồng cưỡi ngựa bạch lộp cộp qua nhà hàng Bôtin còn buồn hơn mắt của tráng sĩ "tử ư nghệ" năm xưa. Văn Bình muốn thét lớn:

- Đừng, đừng ra đấu trường nữa. Hôm nay anh bị sui... Không khéo anh gặp nạn...

Dẫu chàng thét lớn cũng chẳng ai nghe tiếng vì tiếng thét của hàng trăm miệng lớn hơn nhiều:

- Manêlitô. Manêlitô! Hoan hô, hoan hô Manêlitô!

Y là Manêlitô, thần tuợng của cô gái chàng gặp trong tiệm ăn. Tại sao nàng buồn? Tại sao nàng nói là nàng đau khổ? Mối tình của nàng chắc bị trục trặc. Chàng phải tìm cho ra. Tự ái của chàng vốn cao như đỉnh núi Hy mã lạp sơn. Chàng ganh đua với Manê, chàng không thể thua y. Mặc dầu y là vua matađo đang say men chiến thắng.

Diane bị chìm lấp trong biển người. Văn Bình nhìn mãi không thấy nàng đâu. Trong khoảnh khắc, đám đông khổng lồ tan biến ở khúc rẽ. Chỉ còn lại âm thanh hỗn độn của nhạc khí, kèn xe và tiếng reo hò cuồng nhiệt.

Lão trán hói chủ tiệm ngó Văn Bình bằng cặp mắt thông cảm. Hắn hỏi chàng:

- Manê hùng ghê. Ông mê Manê không?

Chàng đáp cộc lốc:

- Không.

- Ông ghen .

- Gần đúng.

- Không riêng gì ông, nhiều người đều ghen như ông. Manê chẳng có gì khôi ngô mà đàn bà con gái chạy theo nườm nượp. Như cô Diane chẳng hạn.

- Nàng là ý trung nhân của Manê?

- Chữ "ý trung nhân" không đúng. Manê có vợ con đùm đề. Vợ cả rồi vợ lẽ. Về khoản phòng nhì thì y đa mang cả đống. Con số đàn bà con gái sẵn sàng dâng hiến thân xác cho y có thể chất đầy chuyến tàu cỡ lớn.

- Trong số có cô Diane?

- Gái đẹp Anđaluzi nào cũng mê tráng sĩ đấu bò, cứ gì cô ta... Tôi biết gia đình nàng. Rất quý phái. Rất giàu có. Đẹp. Ngoan. Học thức. Đủ điều kiện. Thế mà chẳng chịu lấy chồng. Ngày này qua tháng khác bám sát Manê. Này, tôi hỏi thật ông, ông mê Diane không?

- Tôi không cải chính.

- Nên cải chính gấp, ông ơi. Ông không phải là người trồng cây si thứ nhất. Mỗi tuần hai lần, thứ năm và chủ nhật, ngày có cuộc đấu bò, Diane ngồi đây chờ Manê diễu qua. Biết bao chàng trai đĩnh ngộ, khỏe mạnh, khả ái tán tỉnh nàng, nàng đều từ chối. Nàng chưa hề yêu ai. Ông có lẽ là người hên nhất. Đừng ai hòng được nàng mời coi đấu bò. Trừ ông. Nhưng tôi biết, tôi biết. Gái Anđaluzi chỉ yêu một hạng đàn ông.

- Tráng sĩ đấu bò?

- Dĩ nhiên. Và người tráng sĩ ấy không phải là ông.

- Ai bảo với ông tôi không biết đấu bò?

Ồ, biết thì ai chẳng biết. Nôvilờrô cũng biết. Chalôtađa cũng biết. Và mozo...[18]

Lối nói ví von, so sánh chàng với bọn miệng còn hôi sữa, bọn chọc cười rẻ tiền và bọn phụ tá kiêm tài xế, hầu cận, em út của bậc thầy matađo làm Văn Bình nổi sùng. Lão lùi lại; cười tỉnh bơ:

- Ông đánh tôi hả? Ông trẻ khỏe, tôi già yếu. Trẻ khỏe đánh già yếu là điều tối kị. Tôi đâu dám nhục mạ ông. Tôi chỉ trình bầy sự thật. Sự thật là ông thua Manê quá nhiều. Không thể trong một ngày, sau một cơn tức giận người ta biến thành tráng sĩ cừ khôi. Phải luyện tập mướt bồ hôi. Phải có khả năng thiên bẩm. Và phải luôn luôn được ơn trên phò hộ. Dầu sao phản ứng của ông cũng làm tôi cảm phục. Tôi từng khích bác nhiều người. Họ không dám sửng cồ như ông. Thứ nhất, họ biết tôi giỏi võ, nhân viên của tôi đông như kiến và đều giỏi võ. Thứ hai, họ tự biết không bằng Manê, thà ngậm miệng chịu thua mà hơn. Tôi có một trại nuôi bò ở ngoại ô, tối nay tôi tổ chức một tentađêrô[19], mời ông đến dự, nếu ông có tài thì biết đâu...

Lão trán hói đánh trúng yếu điểm của điệp viên Z.28. Chàng hết cáu ngay. Hơn nữa, chàng lại có thiện cảm tràn trề đối với lão. Chàng cười trả lời:

- Khỏi cần thử. Tôi muốn đấu lập tức. Quang y ở đâu bán, ông mua giùm tôi một bộ. Bao nhiêu tiền cũng được.

- Ồ, quang y tôi luôn luôn có sẵn. Nhưng ông ơi, nên coi chừng... Ông muốn biểu diễn thành tích 15 ngày tù ở và 250 peseta tiền phạt của danh tài El Cordobes hả? Làm étpontanêốt[20] khó lắm, hàng trăm người đã chết uổng mạng. Mới tháng trước, hai chàng trai hào hoa cũng yêu Diane, cũng ghen với Manê, hùng hục mặc quang y nhảy xuống sân cát thì một bị thương nặng phải cưa tay trái, một bị húc chết không kịp ngáp.

- Cám ơn. Ông bán hay cho thuê?

- Ông là con người hơi kỳ khôi, dường như hơi tàng tàng nên tôi không bán cũng không cho thuê như thường lệ. Tôi biếu ông một bộ. Bộ oai nhất. Màu trắng óng ánh. Mời ông vào trong nhà.

Lão trán hói dẫn Văn Bình qua cánh cửa treo riềm đến căn phòng hẹp kê một giẫy tủ đựng quần áo. Lão mở cái tủ ở góc lấy ra một bộ đồ đấu bò tuyệt đẹp. Lão ướm vào vai chàng rồi gật gù:

- Vừa khít.

Văn Bình mặc quần tây và sơ mi dài trùm ngoài. Tay chân chàng hơi bị vướng và cộm. Lão trán hói nói:

- Không sao. Không ai để ý đến ông đâu. Vả lại, từ trước đến nay thiếu gì người mặc quang y giấu bên trong như ông. Họ chờ dịp may ngàn vàng để làm tráng sĩ erantê[21] mà...

Gần 5 giờ chiều mà trời vẫn nắng như chính ngọ ở Sàigòn. Văn Bình tần ngần trên vỉa hè, chưa định rẽ phía nào. Con đường Thợ Rèn dao bé tí teo[22] này được nhiều người biết tiếng nhờ ba tiệm ăn ngon rẻ và kỳ cục. Đây là tiệm El Bôtin, nơi cố văn hào Eminuây[23] thường ghé, ở số 17. Số nhà 9 là tiệm nghêu sò. Tít đầu đường mang số 1, sát những bậc đá mòn vẹt vì năm tháng dẫn lên công trường Thị Sảnh phía trên là một nhà hàng mang bảng tên dài lê thê, bồi bếp phục sức quái gở như kẻ cướp. Nghe đâu ngày xưa, một trùm đạo tặc lập sào huyệt ở đó.

Công trường Thị Sảnh[24] là trung tâm của khu cổ thành, nhiều lần bị đốt cháy và tái thiết, chính giữa chễm chệ pho tượng ông vua cưỡi ngựa. Công trường hình chữ nhật, khá rộng, chung quanh có 68 ngôi nhà 5 tầng, và 9 cổng ra vào từng chứng kiến hàng trăm biến cố lịch sử, lễ lạc đấu bò, duyệt binh, thậm chí cả những việc hành quyết tử tội.

Văn Bình nhún vai tiến sâu vào bên trong. Từ đây trở đi, toàn ngõ hẻm ngang dọc chằng chịt, không được ghi trong bản đồ thành phố. Ngay người sinh trưởng ở địa phương cũng lạc đường, chứ đừng nói tới du khách lạ nước lạ cái. Văn Bình ghé mê hồn trận này nhiều lần, lần nào chàng cũng tắc tị. Đi mãi đi hoài đột nhiên nghe tiếng xe cộ chạy ầm ầm, ấy là ra đến đường cái. Không hiểu sao Văn Bình lại thích. Chàng thích có lẽ vì nó đượm mùi quê hương, những đêm mưa phùn gió bấc ở Hà nội, xuyên qua đường phố mê hồn trận đến quán cóc cà phê phin sau lưng Cầu Gỗ hoặc những chiều cô quạnh tạt vào hông đường Pasteur ở Sàigòn và làm bạn với phở bò và cháo vịt.

Tản bộ được một quãng, Văn Bình đứng lại. Chết rồi... chàng buột miệng. Chàng đến Mađờ rít không phải để du hí, những trận du hí kinh khủng giữa hai điệp vụ kinh hoàng. Chàng đến đây vì công việc. Theo lệnh riêng của ông Hoàng. Chàng có một cuộc tiếp xúc quan trọng. Lát nữa. Vào buổi tối. Chàng lại lẩm bẩm một mình "hừm, mới hơn 5 giờ, còn sớm chán, không lẽ mình về ô ten nằm khàn đợi đến giờ hẹn. Vả lại, mình còn cái hẹn với giai nhân. Mình mặc sẵn bộ quang y để thi thố tài năng. Mình cần cho nàng biết Z.28 không đến nỗi cà mèng. Z.28 cũng biết đấu bò như ai..."

Tiếng tàu điện leng keng, tiếng kèn xe hơi pin pin điếc tai. Ánh sáng đại lộ đập vào mắt chàng. Chàng vẫy một chiếc tắc xi "con cóc". Chàng chưa kịp an vị thì từ ngõ hẻm một người đàn ông mặc sơ mi trắng cháo lòng vụt ra. Hắn kêu lớn bằng tiếng Tây ban nha:

- Cứu tôi, cứu tôi với!

Hắn chỉ thốt được mấy tiếng ngắn rồi gục ngã. Hai thanh niên đèo nhau trên xe gắn máy vọt qua, tên ngồi sau xô nạn nhân té xuống rãnh nước kèm theo mũi dao đâm xuyên qua ngực trái. Trúng tim, nạn nhân giẫy tê tê rồi chết.

Văn Bình toan nhảy xuống rưọt theo chiếc xe gắn máy sát nhân nhưng đành bỏ ý muốn. Chiếc tắc xi này do hãng Seat sản xuất trong xứ thuộc loại hai cửa, phải xô băng trước mới mở được cửa. Gã tài xế xua tay, can ngăn rối rít:

- Chớ dính vào, senor... Bọn anh chị thanh toán nhau, ngày nào cũng có.

- Phải xuống coi nạn nhân còn sống hay chết để chở đi nhà thương.

- Càng không nên, ông à. Bót cảnh sát ở gần đây, ông lởn vởn ở đó họ tưởng ông là hung thủ thì mệt.

- Ừ thì đi.

Nếu Văn Bình tiếp tục cuốc bộ, hoặc xuống xe kịp thời thì mọi việc đã đổi khác. Đáng tiếc chàng đến gần mục đích thì lại vô tình thoái lui. Vì chàng không ngờ được rằng nạn nhân bị giết cách chàng 3 thước có liên hệ mật thiết với điệp vụ của chàng tại Tây ban nha.

Tài xế rú ga:

- Ông đi xem đấu bò?

Văn Bình giựt bắn:

- Ừ, anh tài thật. Tại sao anh biết tôi đi xem đấu bò?

- Ông là người ngoại quốc, tuy ông nói tiếng bản xứ trôi chảy. Chiều chủ nhật, hầu hết du khách đều đi coi coriđa. Vả lại, nơi túi áo ông có miếng vải màu đỏ. Cái muleta.

Muleta là miếng vải nhỏ màu đỏ được người matađo dùng để mê hoặc, điều khiển con bò rừng theo ý muốn của mình cho đến lúc nó mệt nhoài rồi đâm chết.

Văn Bình cảm thấy nghẹt thở. Muleta là danh từ được ông tổng giám đốc Hoàng lặp lại nhiều lần trong cuộn băng ghi âm chàng vừa nghe và học thuộc lòng.

Muleta là điệp vụ chàng được lệnh thực hiện tại Mađờrít.

Điệp vụ Muleta.


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Tây Ban Nha 200 Tấn Vàng Đẫm Máu - Người Thứ Tám Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tây Ban Nha 200 Tấn Vàng Đẫm Máu - Người Thứ Tám   Tây Ban Nha 200 Tấn Vàng Đẫm Máu - Người Thứ Tám Icon_minitimeSun Dec 10, 2017 8:23 am

II. 725 tấn vàng

Những cuộc nghiên cứu về dụng cụ viễn thông dành cho phi hành gia không gian đã mang lại nhiều kết quả không ngờ. Một trong các kết quả này là bộ máy SITS[25].

SITS là hệ thống điện thoại vô tuyến có thể liên lạc từ đầu này này đến đầu kia trái đất. Điệp viên hoạt động ở xa đất mẹ hàng chục ngàn cây số chỉ cần cắm điện, bấm nút là nói chuyện được ngay với cấp chỉ huy ở trung ương. Nói tha hồ, nói bao lâu cũng được, đối phương không thể hiểu rõ nội dung, dẫu họ ghi âm và đưa cho rôbô điện tử tối tân khám phá ý nghĩa.

Nó chỉ hơi bất lợi ở chỗ cồng kềnh. Nó lớn bằng cái mặt ti vi 9 inch xách tay, và khá nặng, nên điệp viên không tiện mang theo bên mình những khi thâm nhập vùng địch. Sở Mật vụ của ông Hoàng được trang bị rất nhiều máy SITS, đặt rải rác ở khắp nơi trên thế giới. Liên lạc bằng SITS đạt mức an toàn gần trăm phần trăm vượt xa mọi hình thức liên lạc khác: địch tịch thu được máy cũng vô ích vì địch không thể giả giọng nói -bộ máy chính ở Trung ương được nối liền với máy an bài điện tử phân tích giọng nói của mỗi điệp viên, và phăng ra sự giả mạo trong chớp mắt- mỗi điệp viên lại có một số công thức mật mã riêng. Ngoài ra -và đây là phát minh kỳ diệu nhất của kỹ nghệ điệp báo hiện đại- máy SITS được gắn bộ phận tự hủy: nếu người lạ sớ rớ tới nó, hoặc táy máy các nút bấm, hoặc nói vào mi cờ rô, lập tức một trái tạc đạn tí hon giấu trong hộp tự động nổ tung, toàn thể các bộ phận sẽ tan nát.

Ông Hoàng lập ở Ba lê riêng cho Văn Bình một trạm SITS. Đến châu Âu, chàng chỉ cần ghé Ba lê tạt qua trạm là có thể tiếp xúc bằng giọng nói với ông tổng giám đốc.

Hoàn thành tốt đẹp điệp vụ Hoa Sen ở Bhutan và Nepal, Văn Bình không có thời giờ nán lại Kátmanđu để khóc cái chết đáng kính của Mahan, và an ủi cô Tuyết Lê. Chàng cũng không có thời giờ cáo biệt thái tử Bôkha sau khi phe soán đoạt ngai vàng của tướng Khẩu Cầm bị thảm hại. Chàng tất tưởi lên máy bay đi Pháp. Tại dó, chàng được lệnh của ông Hoàng bay thẳng qua Hoa thịnh đốn để gặp đại tá Pít và ông tổng giám đốc CIA Sì mít. Lại một chuyến làm thuê mới.

Điệp vụ Muleta.

Cho đến năm 1931, Tân ban nha theo thể chế quân chủ. Nền cộng hòa ra đời giữa sự kèn cựa ác liệt của hai phe tả và hữu khuynh, phe này lên thì phe kia bị khủng bố. Những cuộc đàn áp trả thù kéo dài liên miên. Giữa năm 1936, cuộc nội chiến nổ bùng. Phe hữu do tướng Franco cầm đầu với sự hỗ trợ của Đức quốc xã, nước Ý phát xít và Bồ đào nha, Anh Pháp đứng trung lập, Liên sô công khai ủng hộ phe tả, Cộng sản quốc tế tung "chí nguyện quân" vào chiến trường.

Cuộc nội chiến chấm dứt vào năm 1939, tướng Franco đoạt phần thắng lợi, phe thân cộng tháo chạy và bị tan rã.

Điệp vụ Muleta liên quan đến những tháng đầu tiên của cuộc nội chiến. Tháng 9-1935, tướng mật vụ Ótlốp[26] được NKVD sô viết biệt phái tới Mađờrít điều khiển sứ bộ chuyên viên điệp báo, phản gián và du kích chiến giúp quân đội tả khuynh.

Tháng 10 năm ấy, Yétzốp[27], tổng giám đốc NKVD[28] ra lệnh bằng mật điện cho Ótlốp tạm ngưng mọi việc để dồn nỗ lực vào chiến dịch "chở vàng". Nhà độc tài Síttalin đích thân gửi cho Ótlốp bức mật điện như sau: "Thu xếp với Thủ tướng Lácgô[29] để chở số vàng dự trữ của Tây về Liên sô. Nếu người Tây đòi giấy biên nhận, phải từ chối -tôi lặp lại, phải từ chối - Trả lời là giấy biên nhận chính thức sẽ do Ngân hàng Nhà nước Sô viết cấp phát tại Mạc tư khoa. Tôi giao toàn bộ trách nhiệm về vụ này cho đồng chí.

Ivan[30]."

Phe hữu đang thắt chặt vòng vây quanh thủ đô, có thể tiến chiếm bất cứ lúc nào. Tổng thống Arana và tổng trường Tài chính, bác sĩ Negrin quyết định di tản số vàng dự trữ ra khỏi thủ đô. Số vàng được cất giấu tại thị trấn bờ biển Cartagena, gồm khoảng mười ngàn thùng, mỗi thùng đựng 145 cân Anh vàng nén, tổng cộng 725 tấn. Thời giá năm 1936 là 600 trăm triệu mỹ kim.

Thủy binh Nga âm thầm đổ bộ lên Cartagena, mặc quân phục Tây ban nha, khiêng các thùng vàng trong hầm núi ra cảng rồi chất xuống tàu liên tiếp trong ba đêm. Do sự hộ tống của hải quân sô viết, đoàn tàu chở vàng về đến Ođétsa an toàn, bốc lên xe hỏa, đưa thẳng về Mạc tư khoa với sự đón tiếp nồng hậu và hoan hỉ của Síttalin và toàn thể bộ Chính trị Trung ương Đảng.

Tướng Franco sau đó được báo cáo về vụ chở vàng song không dám hé môi vì nền tài chính trong nước bị kiệt quệ, đồng tiền Tây có thể biến thành giấy lộn đầu hôm sớm mai nếu công chúng biết là dự trữ vàng bị mất hết. Mãi đến tháng 12-1956, sau khi bác sĩ Negrin tạ thế, sự thật mới được tiết lộ. Bộ ngoại giao Tây tìm được trong số giấy tờ riêng của ông một tờ biên nhận số vàng mang chữ ký của bộ trưởng Tài chính và thứ trưởng Ngoại giao Liên sô.

Biết chối không xong, tờ báo Sự Thật, cơ quan ngôn luận sô viết, bèn viết bài nhìn nhận năm 1936 có chở về nước 500 tấn vàng. Tuy nhiên, đó không phải là vàng gửi nhờ mà là vàng để thanh toán những hóa đơn cung cấp chiến cụ và mọi hàng hóa khác do phe "cộng hòa Tây ban nha". Tờ Sự Thật còn nói thêm là số vàng 500 tấn kia chưa đủ trả nợ, và hiện người Tây còn thiếu 50 triệu mỹ kim nữa.[31]

Trên đây là một đoạn trong tập hồ sơ Muleta, đại tá Pít, phụ tá tin cậy của ông Sì mít, đang mở rộng trước mặt Văn Bình trong căn phòng rộng được điều hòa khí hậu gần Hoa thịnh đốn.

Văn Bình chỉ bức hình bán thân của cựu thủ tướng Nga Ótlốp đặt trên bàn:

- Anh đã gặp?

Pít đáp:

- Đã. Tôi nói chuyện nhiều lần với ông ta. Ông ta trọng tuổi song còn rất sáng suốt. Theo lời ông ta thì 4 viên chức trung cấp của ngân hàng Tây có mặt trên đoàn tàu chở vàng về Liên sô. Họ bị giam lỏng tại Mạc tư khoa vì Síttalin âm mưu cướp đoạt số vàng. Sau khi nội chiến kết thúc một thời gian, họ mới được phép hồi hương. Họ đã chết. Chết già. Hoặc chết bệnh. Một trong 4 người này tiết lộ với cựu mật vụ Ótlốp rằng ngoài số vàng chở đi, còn một số được cất lại. Nghe đâu khoảng hai trăm tấn.

- Ótlốp biết địa điểm?

- Nếu ông ta biết thì ngày nay làm gì có chuyện. Như anh rõ, Ótlốp bỏ Síttalin trốn sang Tây phương đúng 21 tháng sau vụ chở vàng. Vì an ninh cá nhân, ông phải ngậm miệng. Mấy chục năm sau, ông ta có hoàn cảnh phanh phui sự thật, nhưng ông ta chỉ có thể nói những gì được bằng chứng cụ thể xác nhận. Câu chuyện 200 tấn vàng vì thế bị nhòa chìm vào quên lãng. Cách đây một năm, tình cờ nó được khai quật. Nhân vụ một nhân viên gián điệp GRU sô viết "chọn tự do". Y là trung tá, đặc trách ước định tin tức tây nam châu Âu tại tổng hành doanh GRU. Tất cả tin tức do điệp viên Nga hoạt động ở tây nam châu Âu, trong số có Tây ban nha, gửi về trung ương, đều được tập trung tại văn phòng của y. Y phụ trách nghiên cứu, phối kiểm và làm công tác "ước định" mực độ chính xác. Xong xuôi y mới trình cấp trên.

Tin tức được cấp trên của y chiếu cố đặc biệt liên hệ tới sự hiện hữu của kho vàng 200 tấn ở Tây ban nha. Trong gần ba tháng trường, viên tướng chỉ huy GRU đích thân theo dõi nội vụ. Điện Cẩm linh đích thân gửi chỉ thị tới. Xuyên qua những tiết lộ của viên trung tá "chọn tự do", chúng tôi có thể kết luận một cách quả quyết rằng nguồn tin 200 tấn vàng là có thật, và Liên sô đang tìm cách xử dụng số vàng ấy vào mục đích khuynh đảo chính phủ Tây đồng thời làm tan rã khối Minh ước Bắc Đại tây dương.

Văn Bình hừm một tiếng ra vẻ nghi hoặc. Đại tá Pít lấy từ phía dưới tập hồ sơ ra một tờ giấy lớn gập tư, trải rộng rồi nói tiếp:

- Đây là bản đúc kết tin tức từ Gibờranta. Hòn đảo nhỏ xíu ở cực nam Tây ban nha này hiện là vị trí phòng thủ số một của khối Bắc Đại tây dương[32]. Nước Anh và Tây đang tranh chấp về chủ quyền. Với tiền của một phần 200 tấn vàng kia, điệp viên sô viết có thể đổ thêm dầu vào lửa.

- Tóm lại ông Sì mít muốn tôi thu hồi 200 tấn vàng?

- Phải phản gián Tây yêu cầu ông Sì mít. Họ không tiện ra mặt vì tổ chức của họ còn lỏng lẻo. Một công đôi việc, nhân cơ hội này xin anh quét luôn màng lưới GRU ở Tây xuống biển.

- Đồng ý. Trong hồ sơ có một người mang tên Luliô.

- Tối chủ nhật này anh giáp mặt Luliô tại Mađờrít. Y là đầu mối duy nhất giúp anh tìm ra kho vàng. Dưới cuộc nội chiến, Luliô mới 20 tuổi, học năm đầu đại học, có tư tưởng mác xít, và đứng hẳn về phe tả. Tướng Franco toàn thắng, Luliô trốn ra nước ngoài. Sau 15 năm sống lưu vong ở châu Âu, y hồi hương trong dịp chính phủ đại ân xá. Y về nước được một thời gian thì làm việc cho GRU.

- Y được GRU kết nạp trong thời gian ở hải ngoại?

- Tin này do viên trung tá "chọn tự do" cung cấp. Ông ta không biết rõ Luliô gia nhập cơ quan gián điệp sô viết năm nào, và tại đâu. Ông ta chỉ biết Luliô bắt đầu gửi tin về từ ngày Luliô nằm trong một tiểu tổ đặc biệt phụ trách vấn đề 200 tấn vàng. Khai thác tin trên, ông Sì mít sai một nhân viên CIA sở tại tiếp xúc với Luliô, yêu cầu y gặp một đặc phái viên của ông Sì mít.

- Tôi?

- Phải.

- Đa tạ hảo ý của ông tổng giám đốc Sì mít, hảo ý đưa tôi vào chỗ chết.

- Chỗ chết? Đừng nghi oan ông Sì mít tội nghiệp. Ông già không ác độc đến thế đâu.

- Vấn đề đặt ra không phải là hiền với ác mà là trong hoàn cảnh hiện tại, tôi có hy vọng nào thoát ra cuộc phục kích của địch tại Mađờrít.

- Anh chưa lên đường mà đã biết bị địch phục kích? Nếu là người khác thì tôi cười mũi. Anh thì tôi tin. Tuy nhiên, tôi chưa...

- Chưa hết thắc mắc phải không? Anh trả lời những câu hỏi của tôi rồi thắc mắc tự nó sẽ tan biến. Giả sử anh giữ chức tổng giám đốc GRU, anh phản ứng ra sao sau khi viên trung tá phụ trách ước định tin tức Tây ban nha đào ngũ theo CIA?

- Tức thời thay đổi guồng máy gián điệp sô viết tại Tây ban nha.

- Tức thời nghĩa là trong bao lâu?

- Tức thời là làm ngay. Trong vài ba ngày. Vài ba tuần là chậm nhất .

- Tính đến nay viên trung tá GRU bỏ đi được mấy tuần?

- Mấy tuần sao được. Đúng 50 tuần. Gần một năm tròn.

- Luliô phục vụ cho GRU trước ngày viên trung tá "chọn tự do "?

- Dĩ nhiên.

- Và sau ngày ấy, Luliô vẫn tiếp tục phục vụ?

- Ờ, ờ...

- Còn ờ, ờ gì nữa? Người ta không kéo Luliô vào bóng tối tức là người ta chờ đợi. Chờ đợi CIA khái thác những tiết lộ của viên trung tá GRU rồi lao đầu tới kho vàng Tây. Anh hiểu chưa? Điệp vụ Muleta chỉ là cuộc phục kích, không hơn không kém.

- Anh từ chối?

- Không. Tôi nhận lời.

Đại tá Pít mừng rối rít:

- May quá, tôi cứ sợ tháng này nóng bức anh không khoái hoạt động tại Mađờrít.

Văn Bình chép miệng, nửa chế riễu nửa nghiêm trang:

- Anh là thằng con trai bệt nhất của hậu bán thế kỷ hai mươi. Ai bảo anh là mùa hè cấm kỵ với tôi? Ngu ôi là ngu, từ ngày anh có trên nửa tá tí nhau, bà xã của anh giựt giải quán quân về ghen ngược thì anh quên phứt xã hội bên ngoài.

Mở hết tai ra, trời nắng gắt mới nhận chân được giá trị của cái máy lạnh giai nhân. Chọn người đẹp ở đâu thì khó, chứ ở Tây rất dễ. Dân Tây, đặc biệt là dân phía bắc giáp giới nước Pháp, ghiền tỏi như ta ghiền... nước mắm. Người Mạcxây ở Pháp là vua ăn tỏi mà còn thua họ. Họ trồng được thứ tỏi độc nhất vô nhị gọi là ai ô li, cay và hăng hết cỡ. Ăn tỏi có cái lợi là thúc đẩy tiêu hóa, và gia tăng năng lực tình yêu. Có cái bất lợi là hôi miệng, và dưới nắng bồ hôi sực nức một mùi khó tả. Không thứ thuốc nào át được mùi lợm giọng này. Rốt cuộc là gái Tây trong những tháng nắng có một mùi da thịt không lấy gì làm thơm. Nhưng hễ đã thơm thì thơm siêu đẳng. Dường như tạo hóa trang bị riêng cho thiểu số giai nhân ấy một bộ máy lọc hơi thở và bồ hôi. Đại tá Pít cù lần ơi, đại tá đã hiểu tại sao tôi nhận lời.

- Hiểu rồi...bộ máy lọc...

- Còn lý do nữa, anh không được quyền quên. Tháng này dân Mađờrít mừng lễ thánh Isiđờrô[33] là tháng hội hè, tiệc tùng, nhảy múa, đốt pháo bông líp ba ga. Nào, dặn dò gì nữa, để tôi ra phi trường.

Đại tá Pít há hốc miệng nhìn bạn. Chơi thân với Z.28 từ lâu, Pít vẫn chưa hiểu nổi bạn. Văn Bình lao đầu vào chỗ chết để kiếm tiền cho sở Mật vụ hay để thỏa mãn nếp sống hải hồ, pha trộn hiểm nguy với núi lửa giai nhân?

Từ Mỹ, Văn Bình vù qua Pháp. Chàng vứt đồ đoàn ở hãng máy bay vì không có thời giờ lấy phòng khách sạn. Chân ướt chân ráo đến Ba lê chàng ghé trạm SITS, liên lạc với ông Hoàng xin chỉ thị.

Chỉ thị: chỉ được lưu lại một đêm ở kinh đô ánh sáng.

Chàng nổi hứng, không ăn ở Tháp Bạc, nhà hàng đắt nhất, cũng không coi vũ thoát y ở Li đô để tái diễn tấn trò lập dị uống hàng mấy chai huýt ky trong khi dạ khách tỉ tê sâm banh[34]. Chàng tạt vào hộp đêm trung bình, đeo cái tên thi vị "Ánh Trăng" xem những cô gái nõn nà phô diễn thân thể suốt đêm. 5 giờ sáng, hộp đêm đóng cửa, Văn Bình là khách sau cùng leo lên tắc xi.

Thiên hạ về nhà ngủ. Còn chàng, chàng lại ra phi trường. Thẳng một lèo đi Mađờrít.

Để rồi bị lôi cuốn vào sự mời mọc của người đẹp Diane, và cuộc đấu bò rừng không được ghi trong chương trình Điệp vụ Muleta.

......

Như một vở tuồng, cuộc đấu bò được chia làm nhiều hồi, mỗi hồi chia làm nhiều cảnh với những quy tắc rõ rệt.

Cả thảy 3 hồi: mở đầu là cuộc "diễn hành" quan trọng vòng quanh đấu trường của toàn thể "tài tử" chính và phụ.

Hồi nhất, tráng sĩ đấu bò xuất hiện, chơi trò mèo vờn chuột với bò một lát[35], đoạn những phụ tá cưỡi ngựa dùng giáo nhọn đâm vào bướu bò để chọc giận nó. Rồi tráng sĩ lại xuất hiện, dùng miếng vải đỏ ve vẩy trước mắt bò nhằm khiêu khích nó.

Hồi nhì, một toán phụ tá khác lần lượt cắm những dùi sắt nhỏ, đầu quấn vải vào cổ bò. Ba lần cắm. Mỗi lần cắm một cặp. Máu đổ. Con vật trở nên hung dữ.

Hồi ba: hiệp quyết định thắng bại giữa tráng sĩ và bò rừng. Tráng sĩ chỉ có mảnh muleta, trong khi con vật có sừng nhọn hoắt và sức húc nửa tấn. Sau chót, tráng sĩ giết chết con vật bằng gươm. Bằng một mũi độc nhất.

Mỗi cuộc đấu bò thường gồm 3 trận, với 3 tráng sĩ và 6 con bò. Văn Bình đến nơi khi trận thứ nhất sắp kết thúc. Các khán đài đông nghẹt, không dư một chỗ trống. Mọi người vỗ tay, reo hò vang dậy. Tráng sĩ, một thanh niên trạc 23, 24 tuổi, mặc bộ quang y xanh biếc, gỡ nón, cầm nơi tay, dạo một vòng quanh đấu trường. Theo truyền thống, tráng sĩ trình diện khán giả trước khi hạ thủ con vật.

Đến khán đài, tráng sĩ khom lưng thật thấp giữa những tiếng hoan hô cuồng nhiệt. Một cô gái trẻ măng, gương mặt kiều diễm, ném tặng tráng sĩ một bó hoa hồng thắt nơ bằng cái mù soa lụa thơm phưng phức nàng rút từ sau áo lót mình.

Giờ quyết liệt đã điểm. Tráng sĩ không thể ỡm ờ như hồi nãy. Mỗi lúc con vật xẹt gần thêm. Mỗi tích tắc đồng hồ trôi qua, tráng sĩ phải tạo thêm một ấn tượng là tráng sĩ suýt chết. Tráng sĩ không được phép trốn tránh. Phải gia tăng sự táo bạo. Hoặc con vật chết. Hoặc tráng sĩ chết.

Văn Bình rợn tóc gáy. Tráng sĩ áo xanh vừa thi thố một pha tuyệt vời. Y đứng thẳng như pho tượng, vuông vải đỏ buông lơi sau lưng, con bò lao tới, bụi cát mù trời. Ai cũng tưởng tráng sĩ bị trọng thương, không ngờ tráng sĩ vẫn còn nguyên vẹn, miếng muleta dưới bàn tay điều khiển phi phàm đã mê hoặc được con bò đen sì hung hãn.

Đấu trường rung chuyển những tràng pháo tay ròn rã. Tráng sĩ vừa thành công vẻ vang. Hươi muleta ra phía sau, dán chặt lấy người, gọi là arusina dễ chết như chơi.

Nhà matađo giỏi bắt buộc phải có 3 đức tính: thứ nhất, papar, nghĩa là mình tráng sĩ luôn luôn thẳng ro, sử dụng muleta thiên biến vạn hóa để điều khiển con vật theo ý mình, không bao giờ tỏ ra yếu kém để nó lấn át, và không bao giờ có cử chỉ thô tháp, vụng về. Thứ hai, mandar, nghĩa là hiểu rõ đối phương, hiểu rõ trăm phần trăm, biến nó thành cái rô bô bảo gì làm nấy, không được cưỡng lệnh. Thứ ba, templar, là nghệ thuật vờn bằng muleta, vờn một cách khoan thai, không hối hả, vờn một cách chính xác tuyệt đối. Chỉ cần vuông vải đỏ nhỏ xíu tráng sĩ có thể bắt con bò dừng, chạy, lao đầu theo phương hướng mình muốn. Dần dà, con bò bị "say đòn", mệt lử khi ấy tráng sĩ vung gươm giải thoát. Coi chừng... tráng sĩ hớ hênh, hoặc nhu nhược, mất quyền kiểm soát là hết. Lấy lại sự sáng suốt, con vật sẽ không ngu xuẩn húc vào muleta nữa. Mà là húc thẳng vào thân thẻ tráng sĩ...

Tráng sĩ áo xanh xoay một vòng, cái muleta quay tròn theo như chong chóng. Đó là một kiểu vờn ngoạn mục từng được nhiều bậc thầy áp dụng. Con bò phóng tới và khựng lại. Lưỡi gươm của tráng sĩ loang loáng vút ra.

Lệ thường công chúng đánh dấu màn cuối của trận đấu bằng những tiếng ôlê, ôlê nhiệt liệt. Song Văn Bình chỉ nghe tiếng hoan hô lẻ tẻ, rời rạc. Tiếp theo là tiếng huýt sáo, tiếng ồ ồ phản đối. Thì ra con bò không bị chết lập tức. Nó chỉ khuỵu xuống và còn sống nhăn. Nó thu tàn lực sửa soạn nhào về phía tráng sĩ. Giết bò bằng nhiều mũi gươm là điều cấm kị. Một phụ tá của tráng sĩ từ chỗ núp chạy ra, bồi thêm một loạt nhát chí tử.

Con bò gục chết nhưng tráng sĩ của trận đấu mở màn bị khán giả la ó. Tùy theo tài nghệ, tráng sĩ được thưởng cái tai của con vật, hoặc hai tai, hoặc cả đuôi nếu là thành tích khác thường. Trên mức thường một bậc, tráng sĩ có thể được ban chủ tọa thưởng thêm cẳng chân hoặc trọn con bò[36]. Tội nghiệp, tráng sĩ của trận đấu này chẳng được thưởng gì hết. Trước đó mấy phút y hiên ngang chừng nào, giờ đây y khiêm tốn chừng nấy. Y ôm đầu lủi thủi biến sau hàng rào gỗ sơn trắng, ngăn bãi đấu với nơi nhốt bò và cửa ra vào của nhân viên.

Văn Bình đến chậm, chỗ ngồi ghi số hẳn hòi của chàng bị choán. Chàng lui cui tìm mãi mới thấy. Người dẫn chỗ bị cuộc đấu thu hút, không buồn quan tâm đến khán giả nữa. Văn Bình không lấy làm giận, chàng đã quá quen lối sống của người bản xứ. Vả lại, giận vô ích, dân chúng coi việc ngồi ẩu trong rạp chiếu bóng, trong đấu trường, lái ẩu trên công lộ... là chuyện rất thường, cũng thường như lẽo đẽo tán gái ở ngã tư đèn đỏ xe cộ đông đúc.

Đặc điểm của họ là sự ẩu. Không phải ẩu ngược ngạo, ẩu lưu manh. Mà là ẩu ngây thơ, ẩu thi vị. Chuyến đầu tới Tây, lò dò lái xe hơi, Văn Bình bị quẹt tróc sơn, móp vè mặc dầu chàng chạy chậm như rùa, hai mắt luôn luôn mở rộng. Tài xế bất chấp kèn bóp, bất chấp trái phải. Họ áp dụng đúng phương châm vàng ngọc "đường ta ta cứ đi".

Kẻ choán chỗ ngồi của Văn Bình phì phèo điếu xì gà gộc lớn bằng ngón chân cái, dài gần hai gang tay. Hắn đội mũ rơm sùm sụp, đeo kiếng mát ốp a đen ngòm, ăn diện khá sang, cổ lòng thòng cái ống nhòm đắt tiền. Hắn trạc ba mươi, bắp thịt cuồn cuộn, cân nặng trên dưới 90 kí.

Diane ngồi bên, mặt nhăn như bị. Gã mập cố tình lấn nàng, không nhưng lấn bằng cánh tay khuỳnh khuỳnh chọc mạng sườn nàng, lại còn lấn bằng vành mũ rộng. Thấy Văn Bình, nàng gọi như mếu:

- Anh.

Văn Bình chỉ gã mập:

- Bạn?

Nàng lắc đầu. Gã mập lôi điếu xì gà ra khỏi cặp môi dầy nứt nẻ:

- Xin lỗi. Chỗ của ông hả?

Văn Bình cười nửa miệng:

- Phải. Nếu không có gì trở ngại phiền ông trả lại chỗ.

- Không được.

- Yêu cầu ông trình vé.

- À, ông là nhân viên soát vé... Vé tôi đây, ông thỏa mãn chưa?

- Vé ông thuộc khán đài sol. Không phải ở đây.

- Trên đó nắng quá. Tôi nhường chỗ tôi cho ông.

Văn Bình nghiêm mặt:

- Này, bảo thật ông, ông đừng có lộn xộn. Tôi sẽ xách ông lên cao như con nhái bén, quăng xuống bãi đấu cho bò rừng dẫm bẹp bây giờ.

Gã mập hơi ngạc nhiên. Chắc gã chuyên môn ngồi ẩu, chuyên môn lấy thịt đè người, và từ nhiều năm nay chưa hề gặp đối thủ đốp chát. Hắn lừ lừ đứng dậy. Đánh hơi thấy mùi ẩu đả, khán giả chung quanh rủ nhau ngồi nép lại, chừa một khoảng trống khá lớn. Diane nắm tay Văn Bình, năn nỉ:

- Thôi anh, ngồi chung với em cũng được.

Hỡi ôi, được ngồi chung với giai nhân thì còn gì bằng. Văn Bình đâu dám mong ước hơn. Khốn nỗi chàng phải từ khước vì hàng chục cặp mắt -tất cả đều do cặp mắt- đang dán lấy chàng, chờ đợi phản ứng của chàng trước sự khiêu khích của gã mập. Nhất là cặp mắt của nàng.

Gã mập nhổm đít, thách thức:

- Xách đi, quăng đi?

Chẳng nói chẳng rằng, Văn Bình a tới. Chàng chộp vai hắn đẩy nhẹ. Thân thể cối xay của hắn trở thành nhẹ tâng. Hắn nhào qua bậc tam cấp, lăn lông lốc xuống phía dưới. Nếu không bị hàng ràơ khán giả chặn lại, chắc chắn hắn đã nằm tênh hênh trên bãi đấu phủ cát. Nước bọt đầy mép, mắt đục ngầu, gã mập khệnh khạng xấn lại. Trái đấm kếch sù của hắn giơ lên, chưa kịp bổ xuống thì chạm cánh tay cứng như bê tông của chàng. Hắn ngã mọp xuống nền khán đài. Văn Bình quét theo ngọn hoành cước, một đống răng vàng bê bết máu từ cái miệng ống nhổ thầy đề của gã mập tuôn ra.

Mọi người cứng đơ trong sự sửng sốt và bái phục. Văn Bình dựng gã mập dậy, rút mù soa lau miệng cho hắn, sau khi lượm hết răng bỏ vào túi hắn rồi yêu cầu đám đông giãn rộng để hắn chuồn êm. Xong xuôi chàng ung dung ngồi bên Diane.

Nàng suýt soa:

- Anh giỏi võ quá.

Chàng trề môi:

- Còn thua em xa.

- Bậy nè, em chỉ giỏi vũ, giỏi ca, giỏi nhiều thứ khác, về võ nghệ thì em chưa học miếng nào.

- Em vẫn đánh tôi đại bại.

- Đánh anh? Đánh anh hồi nào?

- Tại tiệm ăn. Phút này tôi còn xửng vửng.

Nàng toan cười rồi mím miệng. Trên mặt nàng thoáng hiện vẻ buồn xa xăm. Chàng nghe nàng thì thầm:

- Lạy Đức Mẹ, xin Mẹ giúp con.

Văn Bình không tiện hỏi tại sao nàng đột ngột cầu nguyện Đức Mẹ. Nàng có cảm tình sâu đậm với chàng chăng? Có lẽ nàng muốn quên Manêlitô mà không được vì y là tráng sĩ đấu bò lỗi lạc.

Toàn thể đấu trường rầm rầm trở lại khi trận thứ nhì bắt đầu. Trên cánh cửa dẫn vào chuồng nhốt bò vừa được trưng bảng lớn, ghi sức nặng của con vật sắp dự đấu: 562 kí. 562 kí là sức nặng đáng sợ, chỉ những tráng sĩ đàn anh mới dám giao chiến.

Tráng sĩ trận này là Manê. Diane thu mình trong góc, hồi hộp theo dõi. Văn Bình không ngăn được ghen tuông: tất cả các cô gái có mặt đều vỗ tay, ném khăn mặt hoặc hoa tươi để chào mừng Manê. Y đến trước khán đài của Diane. Y ngó nàng, cười tủm tỉm. Những tia nắng của mặt trời sắp lặn chiếu thẳng vào bộ quang y màu hồng chói lọi. Khác với lúc y ruổi ngựa qua nhà hàng Bôtin, Manê có vẻ khả ái, tuy là khả ái lươn lẹo và phũ phàng. Mắt y sâu hơn, buồn hơn bao giờ hết. Tình trắc ẩn dâng lên ngùn ngụt trong lòng Văn Bình. Manê bước qua khán đài kế tiếp. Văn Bình ghé tai Diane:

- Yêu cầu em điều đình để tôi đấu thay Manê.

Nàng trợn tròn mắt:

- Đâu được. Con bò này thuộc loại lớn nhất và dữ nhất trong trại nuôi Vacát[37]. Nó còn là loại nặng nhất. Manê còn ngán nó, huống hồ người tập sự như anh. Em biết anh muốn chứng tỏ sự gan dạ hầu làm đẹp lòng em, nhưng anh Văn Bình ơi, anh chỉ vờn được một cái là bị nó chém chết.

- Anh không đùa với sự sống. Cuộc đấu chưa khai diễn, em quen Manê, em hãy thương lượng Manê nhường con bò 562 kí này cho anh. Bồi thường bao nhiêu tiền anh cũng chịu.

- 5 triệu peseta một trận.

- Trả Manê 6 triệu.

- Anh điên?

- Vì em, anh sẵn sàng điên gấp chục lần hơn thế.

- Ai cho phép anh gọi em bằng em?

- Nếu không có công chúng và Manê, anh còn ôm hôn em nữa.

- Hừ, đừng tưởng, em tát cháy má.

- Thách không?

- Không... Manê khó tính lắm, anh chớ làm gì ở đây.

- Vậy thì... 6 triệu peseta hoặc 7 triệu.

- Anh nói thật?

- Không đùa. Anh ký chi phiếu ngay.

- Về phần Manê chắc không xong. Nhưng em quen ban chủ tọa, em có thể dàn xếp để anh dự trận thứ ba. Tráng sĩ trận thứ ba chưa nổi tiếng bằng Manê. Anh chờ em nhé.

Nàng biến vào đám đông.

Dưới bãi đấu, Manêlitô vừa thôi miên mười mấy ngàn khán giả mộ điệu bằng kiểu vờn vêrôníc[38] bay bướm và toát bồ hôi lạnh. Trận đấu nào cũng khai mào bằng vêrôníc, duy khác ở tài nghệ từng người. Vêrôníc là cách đứng nghiêng, giơ thẳng hai tay cầm vuông vải đỏ ra phía trước, xa hay gần tùy theo sự tính toán của tráng sĩ. Con bò phóng lại, tráng sĩ ve vẩy vuông vải trước mũi nó, nó bị bàng hoàng rồi như cái máy nó chui dưới vuông vải, phóng thẳng một mạch.

Kiểu vêrôníc của Manê làm công chúng nổi vẩy ốc: y chờ con vật xán lại gần, lẹ làng kéo muleta về, áp sát ngực, con bò mất tinh thần vội dừng lại. Manê nhếch mép cười khinh bỉ. Ngay trong lúc thử sức đầu tiên, Manê đã khuất phục được con vật. Thường lệ phải mất tối thiểu 5 phút để dọ dẫm ưu khuyết điểm của đối phương. Chiếu nay Manê lập được thành tích phi thường. Y quay lưng về con bò, không thèm đếm xỉa đến nó. Nó chỉ cách Manê một mét, rướn lên là cặp sừng nhọn hoắt gây ra chết chóc, vậy mà nó rùn cẳng, bất động, mũi thở phì phì. Trông nó, ai cũng tưởng nó được nuôi từ lọt lòng mẹ trong sự chăm sóc của Manê. Nó ngoan ngoãn, hiền hậu đến nỗi ít ai dám nghĩ nó là bò hoang nặng 562 kí, vừa chẵn 8 tuổi, tuổi sung sức, tuổi bất kham không hề biết sợ người.

Đấu trường sôi sục. Những tràng pháo tay nối đuôi nhau không ngớt. Manê rút về phía khán đài, nhường chỗ cho toán thương sĩ[39] cưỡi ngựa, bốn con ngựa bạch được bảo vệ bằng lớp petô[40] dầy do những phụ tá của Manê nai nịt gọn ghẽ cầm thương dài, đầu bịt sắt, điều khiển, nhởn nhơ chung quanh con bò chưa hết ngơ ngẩn vì tài mê hoặc của tráng sĩ.

Một thương sĩ thọc ngọn giáo vào đám lông cứng trên cổ bò. Bị đau, nó kêu rống rồi xồ vào hông ngựa. Bộ giáp trụ kiên cố giúp ngựa khỏi bị thương nặng, nhưng nếu bò quá khỏe và thương sĩ cầm cương còn non thì ngựa có thể bị húc ngã.

Và đó là điều xảy ra. Một con ngựa té xụm, đè chặn lên người cưỡi. Thương sĩ mặc petô nên chân tay bị vướng. Con bò ào tới, suýt nữa dẫm nát ngực thương sĩ. Khán giả thở phào, trút được gánh nặng ưu tư khi nhiều mũi giáo cứu nguy tới tấp can thiệp, kết thành hàng rào cản bước tiến của con bò chiến thắng và đẩy nó ra xa.

Cöng chúng hô to:

- Manê, Manêlitô?

Công chúng đòi sự hiện diện của tráng sĩ Manê. Họ thất vọng trước sự yếu kém của đám thương sĩ. Tráng sĩ Manê chỉ vờn nhẹ muleta, vờn ung dung, lơ đãng như thể đùa rỡn với đứa trẻ mà con vật chịu quy hàng, trong khi 4 thương sĩ lực lưỡng, 4 cỗ ngựa trắng hùng dũng, 4 cây giáo dài nguy hiểm lại tỏ ra bất lực.

Khán giả hâm mộ Manê, tin tưởng ở Manê. Khán giả nài nỉ sự có mặt của y là phải.

Văn Bình cảm thấy nóng mặt. Chàng chưa chính thức dự những trận đấu bò vĩ đại có hàng vạn khán giả, có ban chủ tọa chấm điểm trịnh trọng như Manê. Chàng chưa được mang danh matađo như Manê. Nhưng chàng đâu đến nỗi dở. Người Tây ban nha mang chất đấu bò trong huyết quản, từ 6, 7 tuổi chơi trò matađo, đứa giả làm bò, tay thủ hai cái sừng, đứa đóng vai tráng sĩ, rượt đuổi nhau thình thịch dưới trăng, thì hồi 6, 7 tuổi Văn Bình cũng học chộp bắt, học né tránh trong võ đường. Thầy võ ra lệnh cho hai trẻ đấu với nhau, đứa dùng kiếm gỗ, đứa tay không -cãu bé Văn Bình luôn luôn là đứa trẻ tay không- giống hệt trò matađo.

Những tráng sĩ hàng đầu của đấu trường thường vào nghề bằng đêm đêm lẻn vào chuồng bò, lừa người gác ngủ gục dụ bò ra bãi, vờn muleta với nó. Rồi lang thang từ nơi này đến nơi khác, nơi nào có trận đấu thì mầy mò, lạy lục xin dự không dám lấy tiền thưởng. Về phần Văn Bình, chàng cũng từng quần thảo tay không với dã thú trong rừng rậm. Chàng lê gót thế giới, nhảy lên võ đài từ đông sang tây, không biết bao nhiêu lần bị đánh bươu đầu sứt trán, ngất xỉu, trước khi trèo lên tước hiệu vô địch. Chàng không thể thua Manê. Phương chi trọng tài và phần thưởng của cuộc tranh giành này lại là hoa khôi đa tình...

Lại vỗ tay. Lại hoan hô. Trên bãi cát, tráng sĩ Manê vừa ghi thêm một điểm son rạng rỡ. Vuông vải đỏ thần bí tung lộn quanh mình y, lúc nâng ngang ngực, khi tuột sát mông, hai chân y mềm mại, lẹ làng như đang trình diễn một vũ điệu thời thượng. Con bò lộn tới lộn lui, mệt bở hơi tai, mõm phụt khói vẫn không làm gì được y. Kiểu vờn bay bướm này được gọi là rebolera.

Và đây... một chicu elina cực kỳ diễm ảo. Manê rung rung vuông vải cho con vật nhìn thấy. Khi nó co chân, sửa soạn phi tới thì Manê đứng rón trên mũi giày, toàn thân quay tròn, quay tròn, miếng muleta huyền diệu cũng quay tròn, một màu đỏ chói bao bọc y kín mít. Nếu là tráng sĩ bậc trung thì khi vuông vải đỏ đổi vị trí, con bò sẽ húc đại vào người. Đằng này, Manê quả là đàn anh trong nghề, chiếc muleta như buông tỏa ma lực siêu phàm, con bò loạng choạng...

Rồi như hồi nãy, nó khựng lại.

Lại vỗ tay. Lại hoan hô. Những tiếng vỗ tay ròn hơn, dài hơn. Tiếng hoan hô lớn hơn, cuồng nhiệt hơn.

Văn Bình bặm miệng, tức tối. Kìa, Diane trở lại. Nàng lách đám đông vẫy chàng. Chàng bước theo nàng đến khán đài kế cận. Giữa bầu không khí ồn ào -như bầu không khí một cuộc biểu diễn phi cơ siêu thanh từng giây đồng hồ gây ra những tiếng bằng bằng xé nát nhĩ tai làm tường nhà rung chuyển, kiếng cửa vỡ tan. Diane giới thiệu chàng với một nhân vật bụng bự, râu mép chải dầu thơm, ngón tay mập ú, đeo nhẫn kim cương to tướng.

Văn Bình mới bắt tay, chào hỏi qua loa, chưa kịp bàn luận với gã bụng bự thì Diane rối rít chỉ xuống bãi đấu, miệng nói không ra hơi:

- Lạ quá, giỏi quá... kiểu vờn gaenera...

Gaenera là biến thể tinh vi của verôníc. Trên lý thuyết, tráng sĩ dụ con vật tới gần, rồi bất thần căng rộng tấm muleta trước mặt nó. Nó sợ hãi rùn thấp, chạy luồn phía dưới. Trên thực tế, nhiều kẻ đấu bò mất mạng vì gaenera. Nó rất giản dị mà rất khó. Tuy vậy, nó chưa khó bằng thế manoletina.

Người ta đặt tên là manoletina để kỷ niệm vị anh tài phát minh ra kiểu vờn ấy: đại tráng sĩ Manolete.

Trên cát lấp lánh ánh nắng hoàng hôn, chàng thanh niên mặc quang y màu hồng, tia mắt buồn sâu thẳm, đang tái biểu diễn lối vờn nghẹt thở của đại tráng sĩ Manolete. Y hoành muleta ra sau lưng. Căn cứ vào hướng tấn công của con bò, nó phải xẹt ngang mặt y. Kiểu vờn manoletina bắt buộc nó từ phía trước quẹo ra sau lưng tráng sĩ. Mất trớn, nó có thể trượt té trên cát.

Từ 20 năm nay, nhiều tráng sĩ bắt chước Manolete. Kẻ bị sừng bò chém nát mông phải nằm bó bột trong bệnh viện để rồi giải nghệ trong cảnh túng thiếu, cô đơn. Kẻ gẫy xương sống, bán thân bất toại, chuỗi ngày còn lại phải ngồi xe lăn có người đun đẩy. Chết đau đớn. Chết thê thảm...

Tiếng tăm của Manolete lên như diều gặp gió vì kiểu vờn độc đáo ấy. Rồi xẹp xuống. Cũng vì kiểu vờn độc đáo ấy. Sinh ư nghệ, tử ư nghệ, ông chết yểu do một con bò gan góc không chịu quẹo ra sau lưng khi ông áp dụng kiểu vờn manoletina.

Giờ đây...

Đấu trường nín thở. Diane bỗng níu áo Văn Bình:

- Anh ơi, dường như...

Nàng nhìn thấy tai nạn trước khi nó xảy ra. Nàng nhìn thấy bằng linh tính đàn bà. Văn Bình cũng nhìn thấy bằng giác quan thứ sáu bén nhạy. Chàng giằng tay nàng, nhảy qua đầu khán giả. Chàng hụt chân lộn nhào qua lan can xuống sân cát.

Không kịp.

Định mạng đã an bài.

Cách Văn Bình một quãng ngắn, tráng sĩ Manê vừa bị con bò đen húc ngã ngồi, vuông vải đỏ rách bươm bị mắc trong sừng trái của nó.

Hàng trăm, hàng ngàn tiếng "Chúa ơi "được cất lên.


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Tây Ban Nha 200 Tấn Vàng Đẫm Máu - Người Thứ Tám Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tây Ban Nha 200 Tấn Vàng Đẫm Máu - Người Thứ Tám   Tây Ban Nha 200 Tấn Vàng Đẫm Máu - Người Thứ Tám Icon_minitimeSun Dec 10, 2017 8:23 am

III. Trâu chậm, nước đục

Văn Bình bật tung áo ngoài để lộ bộ quang y màu trắng tuyết óng ánh. Chàng không còn là điệp viên Z.28 nữa. Chàng hóa thành tráng sĩ đấu bò. Bộ quang y của lão trán hói làm tăng vẻ khôi ngô vạm vỡ của Văn Bình. Lão trán hói nói đúng: bộ đồ vía này xuất phát từ Côbốt, tiệm bán dụng cụ tôrêô số một của thành phố, số một của Âu châu. Mặc vào, Văn Bình đâm ra oai phong, hiên ngang, khinh thường tất cả.

Manê ôm vết thương đỏ lòm trên vai. Áo y màu hồng nên vùng máu đỏ lòm hiện ra rõ rệt. Y lắc lư nhè nhẹ rồi ngã vẹo sang bên trái. Bên có những tia mặt trời sắp tắt vàng vọt, yếu ớt chiếu xuống. Mắt y -cặp mắt sâu và buồn- nhắm lại. Manê đã chết.

Cuộc hấp hối của Manê chỉ kéo dài một tích tắc đồng hồ. Từ khán đài, những ống viễn kính chĩa xuống đều nhìn thấy gương mặt méo mó và sám ngoẹt của Manê.

Văn Bình biết Manê đã chết. Chàng không thể xốc y lên vì con bò hăng giết vừa xấn lại.Toán thương sĩ cưỡi ngựa rầm rộ từ sau hàng rào túa ra. Thấy đám đông hùng hổ, con bò không dám tấn công thi thể Manê. Cùng với toán thương sĩ cầm giáo là một số cảnh lại có nhiệm vụ đảm bảo trật tự và an ninh tại bãi đấu. Văn Bình là étpontanêốt mặc dầu chàng mặc quang y đắt tiền chính hiệu. Cảnh lại phải chặn giữ chàng để cứu chàng -như họ đã cứu cơ man người khác- khỏi sự chết uổng. Làm tráng sĩ đấu bò không dễ đâu. Trong số một triệu may ra gạn lọc được một người. Và trong số một chục tráng sĩ nổi danh của Tây ban nha mới có được một vài Manê. Tài giỏi như Manê còn bị con bò chém gục. Gã étpontanêốt này trốn sao thoát!

Một cảnh lại lực lưỡng ôm ngang lưng Văn Bình. Chàng vung tay, hắn bị văng ra xa. Bạn hắn chộp tay chàng, lập tức chàng dùng một thế nhu đạo búng hắn lùi 3 thước. Hắn ngã chặn lên bụng bạn hắn. Trong khi đó, Manê được khiêng ra khỏi bãi, và đám thương sĩ lành nghề đã vây hãm con bò giết người giữa một diện tích nhỏ, sửa soạn giãn ra, mở cho nó lối thoát dẫn vào chuồng nhốt.

Văn Bình luồn giữa hai con ngựa, miệng kêu lớn:

- Lùi lại, để con bò cho tôi!

Một thương sĩ hươi cây giáo nhọn, mặt đằng đằng sát khí. Hắn đã mục kích cảnh Văn Bình xô té hai cảnh lại. Việc hành hung cảnh lại là việc ít thấy vì cảnh lại thường am tường võ thuật. Văn Bình quát gã thương sĩ:

- Có chịu thúc ngựa không?

Thay vì thúc ngựa, thương sĩ nhằm đùi chàng đâm một giáo. Hắn cầm thương bằng hai tay, mũi hơi chúc, đâm xiên và mạnh, hao hao giống thế Phục hổ trong thương pháp Lục phong Trung hoa. Rõ ràng hắn chủ tâm làm Văn Bình trọng thương chứ không phải hăm dọa xuông.

Miễn cưỡng chàng phải đón bắt ngọn thương, giựt hắn văng qua mình ngựa, lăn chiêng trên bãi cát. Chàng kề cây thương ngang đùi bẻ đôi, vận kình ném hai khúc xuống đất. Chàng phóng mạnh đến nỗi hai khúc thương chui lọt qua lớp cát, chỉ còn nhô non nửa.

Con bò thấy gã thương sĩ té ngựa bèn phá vòng vây. Đám thương sĩ hoảng hốt chạy tứ tán. Một thương sĩ chậm chân bị con vật điên cuồng húc ngã cả người lẫn ngựa. Quang cảnh trên bãi đấu hỗn độn khác thường. Quang cảnh trên các khán đài vòng quanh cũng hỗn độn không kém. Một tốp kỵ sĩ khác quất ngựa đến tiếp cứu.

Nếu muốn lật ngược tình thế, cưỡng chiếm cảm tình của khán giả, Văn Bình phải lợi dụng triệt để tích tắc đồng hồ gay cấn này. Chàng xẹt tới, ngáng đường con bò rừng.

Bộ lông đen và bóng của nó nổi bật trên nền cát. Sừng nó cong, dài và nhọn. Đuôi nó vểnh cao. Nó chạy thình thịch như xe tăng đổ giốc. Văn Bình tung cái muleta lên khỏi đầu rồi quỳ một chân xuống bãi. Quỳ là cử chỉ dễ gây thảm họa vì người matađo ở tư thế quỳ khó lùi hay tiến như ở tư thế đứng. Tính sai phản ứng của bò là thiệt mạng.

Con bò quay lại. Văn Bình quỳ cả hai gối. Lần này đầu sừng nhọn của địch áp gần hơn. Gần hơn nữa. Khoảng nửa gang tay.

Những lần trước, chàng quỳ nghiêng. Giờ đây chàng đối diện con bò. Chàng căng muleta ngay trước ngực. Các khán đài đang ầm ầm chuyển động bỗng im bặt. Im bặt như thể tuân theo mệnh lệnh kỳ bí.

Bồ hôi vã đầy trán Văn Bình. Chàng chưa hề được khán giả hoan hô đông đảo và si mê đến thế. Đây đâu phải sân đấu tầm thường. Nó đứng hạng nhất trong số 312 bãi đấu trên toàn cõi Tây ban nha. Về thứ hạng quốc tế nó chỉ chịu thua bãi Plaza của nước Mễ tây cơ[41].

Được vờn muleta ở đây đâu phải là việc tráng sĩ nào cũng làm nổi. Chưa đầy 50 người được hưởng quyền ấy[42] và muốn thế phải trải qua cả chục, cả trăm phen chết hụt. Nghề tráng sĩ đấu bò còn yểu hơn nghể điệp viên hành động nhiều lần. Làm điệp viên hành động, xông pha đất địch, cọ sát tử thần mỗi giờ, mỗi phút nhưng vẫn còn hy vọng sống sót. Tỉ lệ sống sót của giới matađo hầu như zê rô. Tỉ lệ bị thương trong mỗi trận đấu: một phần tư. Tỉ lệ chết: một phần mười[43].

Văn Bình sợ. Chàng sợ kể cũng lạ. Ai cũng tưởng con người coi cái chết là một phần cuộc sống thì không biết sợ. Tưởng vậy là lầm. Người can đảm luôn luôn là người biết sợ. Vì biết sợ nên những tráng sĩ vô địch chỉ giao đấu khi nào cảm thấy sung sức, và khôn ngoan rút lui trước khi đến giai đoạn xế chiều của tài nghệ. Juan sống 70 tuổi, sau 29 mùa đấu lẫy lừng, có mùa hạ hơn 200 con bò. Molina cũng sống được 60 với thành tích 4.867 con. Họ không chết non vì họ vừa biết sợ họ vừa thận trọng[44].

Văn Bình mắc phải bệnh ẩu tả không phương thuốc nào chữa khỏi. Nếu chàng có tí ti thận trọng như Juan, như Molina, chàng đã không bốc đồng thót xuống bãi đấu, chỉ với mục đích thiển cận làm đẹp lòng giai nhân.

Bồ hôi vã đầy áo, đầy trán Văn Bình. Thành thật mà nói nếu có cách nào vù khỏi đấu trường chàng đã bỏ cuộc không ngần ngại. Tự ái con người... Trời ơi, tự ái của người Việt... tự ái của Z.28... Chàng tập trung sự gan lì, tập trung tinh hoa của quyề thuật, và chờ đợi.

Chàng đã nắm được sở trường và sở đoản của địch. Con bò thuộc loại nhìn xa. Nhìn xa nghĩa là từ xa nó đã nhìn thấy vuông vải muleta. Có loại bò "cận thị", đến sát tráng sĩ mới nhìn thấy mục phiêu. Loại bò nhìn xa đáng ngại hơn loại bò nhìn gần. Phản ứng của nó thường lẹ hơn.

Về phản ứng, có thể phân biệt ba hạng khác nhau. Hạng thứ nhất ầm ĩ, phi nước đại vào bãi đấu, làm cát bụi tung bay mù mắt, vụt tới và đâm sầm, thẳng và mạnh. Hạng thứ hai bê bối, hèn hạ, chưa đánh đã lùi mặc dầu bị kỵ sĩ thúc mũi giáo đau điếng. Hạng này rất ít.

Hạng thứ ba, ngoan ngoãn như chú cừu non. Đừng tưởng nó ngoan ngoãn mà xem thường. Nó chính là đối thủ số một của các tráng sĩ. Sự ngoan ngoãn của nó là màn kịch. Tráng sĩ dẫn nó đi đâu, nó đi đấy, bảo nó làm gì, nó làm nấy. Làm ngay, không rụt rè, không suy nghĩ, không phản kháng. Thật ra nó là con vật tinh khôn và lưu manh. Bằng thủ đoạn ngoan ngoãn, nó ru ngủ tráng sĩ. Nó rình rập một tích tắc đồng hồ sơ hở. Tráng sĩ lơ đễnh, dại dột say men chiến thắng là nó đánh rơi mặt nạ. Con bò đang quần thảo với chàng là sự phối hợp giữa loại ầm ỹ và loại ngoan ngoãn giả vờ. Nghĩa là nó nguy hiểm hơn một bậc. Nó vừa phóng rần rần đột nhiên chậm bước, nện móng nhẹ nhàng...

5 mét....

3 mét...

Nó chậm bước. Con bò có vẻ bối rối vì cái muleta được căng trước ngực Văn Bình. Còn cách chàng 3 mét, nếu nó tiếp tục chạy, Văn Bình phải chuyển thế. Nhưng nó tốp lại. Rồi thẳng ro, hai cẳng trước chụm lại, đầu và sừng cúi gằm.

Con vật đã chịu thua. Ít ra trong lúc này. Theo chương trình, các chùy sĩ sẽ cắm dùi nhọn vào vai nó, chuẩn bị hồi kết thúc. Hồi faena: tráng sĩ hạ thủ con bò bằng mũi kiếm sắc bén.

Trong khi chờ đợi, tất cả những gì hậu hĩ nhất mà một tráng sĩ đấu bò có thể có đều được giành cho Văn Bình. Thiên hạ vỗ tay như điên, kêu ôlê, ôlê như điên, nhảy nhót như điên. Nhiều người bỏ chỗ ngồi, vọt như điên xuống bãi cát để được gần Văn Bình. Nhân viên trật tự phải vất vả lắm mới tái lập được tình trạng bình thường.

Văn Bình thoáng thấy Diane mặt mày ủ dột. Bên cạnh nàng là gã bụng bự, ngón tay đeo nhẫn hạt soàn. Nàng ngồi yên giữa cảnh chộn rộn. Chàng vẫy nàng. Nàng mỉm cười. Sự chiếu cố thân mật của chàng giúp nàng khắc phục được buồn bã. Chàng trèo băng qua hàng rào gỗ. Diane sà vào vòng tay chàng. Nàng ôm chàng khóc như mưa như gió.

Nàng nói trong nước mắt:

- Manê bị rách phổi anh ơi!

Văn Bình nhìn nàng:

- Đến giờ rồi, để anh xuống.

Nàng cuống quýt:

- Đừng, đừng, anh đừng xuống. Con bò này dữ lắm.

- Em muốn công chúng cười chê anh?

- Không bao giờ, nhưng...

- Vậy em buông anh ra. Anh không chết đâu. Em cầu nguyện cho anh.

Màn faena là màn dễ nhất, và cũng là màn khó nhất. Dễ vì tráng sĩ đã quen con vật, nó bị mệt lử, chỉ vung gươm là hóa kiếp được nó. Nhưng cũng rất khó vì con vật cũng đã quen tráng sĩ, nó mệt lử thì tráng sĩ cũng mệt lử. Trong thời khắc sau cùng này giữa người và vật ai khôn thì sống. Rất khó, phần nào vì khán giả đã quen các kiểu vờn của tráng sĩ. Họ bỏ tiền mua vé để thưởng thức sự mới lạ, mỗi lúc một mới lạ. Diễn lại những kiểu vờn cũ khác nào nhục mạ công chúng. Họ sẽ tỏ sự bất bình. Họ la ó tùm lum. Lắm khi họ còn ném đá vào bãi. Trận đấu bò từ hồi một đến hồi ba bắt buộc phải gồm những lớp lang toát bồ hôi lạnh của cuốn phim "xuýt pen" thượng thặng. Cái chết của con bò, chưa đủ. Tráng sĩ phải làm cách nào thể hiện được mức tột đỉnh của nghệ thuật. Tráng sĩ bị thương hoặc thiệt mạng là chuyện đáng buồn thật đấy, song đó chỉ là rủi ro nghề nghiệp. Chẳng ai thương. Chẳng ai khóc. Ngoại trừ thiểu số tri kỷ. Người này ngã gục đến phiên người khác. Liên tục. Sống động. Tàn nhẫn.

Văn Bình đã được công chúng tán thưởng, tuy nhiên chàng có được họ tôn trọng làm tráng sĩ đấu bò cự phách hay không còn tùy các thành tích của chàng trong hồi ba, hồi faena. Chàng dự định phô trương những kiểu vờn thật sát, thật lì và thật độc đáo.

Chàng nhận thấy nơi địch một điểm đặc biệt: dầu chàng đứng thẳng hay nghiêng, chàng rón một chân hay quỳ gối, chàng xây lưng về phía nó hay xoay tít như chong chóng với cái muleta trên tay, con bò đều tấn công từ một hướng nhất định: hướng đông bắc. Mặt khác, nó luôn luôn lùi về một vị trí chính giữa bãi cát trước khi mở cuộc tấn công tiếp.

Theo các bậc thầy tôrêô, bò rừng giống như võ sĩ, mỗi võ sĩ có lối đánh riêng, kẻ giỏi đìa rét, người cừ khôi về su-inh. Muốn thắng phải hóa giải đòn ruột của đối thủ. Đối với con bò rừng này cũng vậy, Văn Bình phải hóa giải sở trường cố định của nó. Tương truyền bò rừng có một giác quan thứ sáu lạ lùng, trên bãi cát rộng, nó có khả năng đánh hơi thấy vị trí nào an toàn, nếu nó không bị đuổi ra chỗ khác thì chắc chắn nó đánh bại tráng sĩ.

Một tiếng kêu từ sau lưng Văn Bình vọng tới:

- Kỳ cục quá... chuyển thế ngay kẻo chết bây giờ!

Từ giẫy khán đài sol đối diện cũng có những tiếng nhắn nhủ lác đác:

- Chyển thế, chuyển thế!

Văn Bình tỉnh bơ, hươi ngang tay phải, cái muleta của chàng nâng lên hụp xuống trong một kiểu natural cổ điển. Natural là cầm muleta bằng một tay rung rung miệt thị trước mũi bò. Natural bằng một tay được coi là kiểu vờn chứa nhiều triển vọng dẫn đến nhà thương hoặc nhà xác.

Con bò tức tối ào qua. Đụng vuông vải, biết hụt, nó vùng quay lại. Thay vì đẩy muleta ra xa, chàng lại thu về, và trong cơn sửng sốt pha lẫn kinh hoàng của cử tọa, chàng kiễng một chân, thả vuông vải đỏ tòng teng trên đùi chàng. Đó là kiểu vờn peđulô. Nghĩa là như kiểu đồng hồ quả lắc.

Bị hụt 4 đòn liên tiếp, con bò rừng mất tinh thần. Đầu nó rúc xuống cát, nó đứng lặng, nó tự biết thua trận. Giờ sự thật, hora de la verdad, sắp điểm.

Đấu trường Monumental tràn ngập tiếng ồn. Con bò nghênh ngang từng hạ danh thủ Manê bằng đòn độc đang thở dốc nhọc mệt. Nó thu mình trên sân cát nóng đợi Văn Bình giết. Chàng đã thủ sẵn cây gươm. Chàng đã chọn trước nơi đâm. Khỏi cần sự tiếp sức của puntillero, chàng ấn nhẹ mũi kiếm là con bò đen tuyền 562 kí kia lăn đùng ra chết như thể bị sét đánh.

Chàng nhìn nó. Chàng bỗng động lòng trắc ẩn. Địch là người, chàng còn tha chết nếu địch xây lưng, huống hồ con vật. Mũi nó đang dính sát bãi cát. Nó không nhìn thấy chàng.

Không, không, chàng không thể giết nó. Sự tha giết của chàng chẳng có gì là lập dị. Ở nước láng giềng Bồ đào nha cũng có đấu bò song máu người và máu vật có chảy bao giờ đâu. Một kỵ sĩ phục sức sang trọng và hùng dũng múa ngọn giáo dài, quần thảo trên bãi với con bò. Cuộc đấu đòi hỏi nơi kỵ sĩ sự nhanh nhẹn và sự khôn ngoan tối đa. Cũng có thắng, có thua, có cảnh tượng hoan hô vang trời rậy đất ngày chủ nhật và các hội lễ linh đình nhưng thần kinh mọi người được thảnh thơi chứ không căng thẳng muốn đứt, mọi người cười nhiều hơn, vui nhiều hơn.

Không, không, chàng không thể giết con bò vô tội bại trận đang chờ hành hình! Tàn bạo, dã man quá! Chàng biết trước thái độ của công chúng, họ sẽ không tha thứ vì tha giết là phạm luật đấu bò, bộ luật không viết thành bản văn[45] mà được in sâu trong truyền thống Tây ban nha.

Chàng bước về phía tử tội. Nó tiếp tục cúi đầu. Tay cầm gươm của chàng giơ lên rồi hạ xuống. Chàng nhún vai ném lưỡi gươm ra xa đoạn rời khỏi bãi đấu.

Chàng vừa làm một việc từ trước đến nay chưa tráng sĩ nào dám làm. Vì đó là hành động khờ dại. Chàng mất một món tiền thưởng khổng lồ. Chàng không được hưởng phần thưởng tinh thần do mấy chục ngàn khán giả ban phát. Căn cứ vào tài nghệ của chàng, phần thưởng này có thể là hai tai, cái đuôi và 4 chân con vật. Nghĩa là tất cả[46]. Nghĩa là chàng được công kênh lên tột đỉnh của đài danh vọng đấu bò. Chàng sẽ được Diane. Không những Diane, chàng sẽ được tất cả những giai nhân bản xứ. Tên chàng, hình chàng được đăng lớn trên trang nhất báo chí Tây và thế giới. Mỗi bước đi của chàng được lót đầy hoa thơm và da thịt yêu thương.

Đấu trường nín lặng theo dõi. Rồi bùng lên phản đối. Tiếng kêu thét, tiếng huýt sáo lan rộng khắp nơi. Văn Bình vẫn cắm cúi bước. Như con bò hồi nãy, chàng cúi đầu, không dám ngẩng lên. Chàng sợ bắt gặp cái nhìn của công chúng. Nhất là cái nhìn đầy trách móc của Diane.

Chàng đã đến gần khán đài của nàng. Chàng không sao cúi đầu trốn tránh được mãi vì nàng chạy đến hàng ghế cuối chờ sẵn chàng. Nàng gọi chàng. Chàng nghe rõ tiếng nói của nàng ướt nhèm nước mắt giữa hàng trăm âm thanh hỗn độn.

Bỗng một tiếng kêu xé nhĩ tai:

- Anh Văn Bình!

Trong đám khán giả ngưỡng mộ chỉ có mình nàng biết tên thật của chàng. Và trong đám khán giả chỉ có nàng thốt được tiếng kêu thất thanh như vậy.

Đây không phải là tiếng kêu hờn mát hoặc yêu thương. Mà là tiếng kêu báo hiệu mối nguy gần kề. Không kịp suy nghĩ, Văn Bình phóng mình rạp xuống nền cát. Thì ra con bò tót không hoàn toàn bại trận như chàng lầm tưởng. Nó không diện đấu được với chàng vì nắm chắc cái chết. Nó bèn đóng kịch. Đóng vai hèn hạ, xin xỏ. Văn Bình giàu lòng khoan ái, đã bị con vật đưa vào xiếc.

Nó canh đòn rất chính xác. Bản tâm của nó là thọc sừng giữa lưng Văn Bình. May chàng được Diane báo tin. May chàng băng ra xa trước đó một sao đồng hồ.

Tiếng phản đối của công chúng im thin thít. Khán giả choáng váng vì sự trở cờ của con bò và tài nghệ cừ khôi của Văn Bình.

Sau khi chém hụt Văn Bình, con bò rừng mới để lộ chân tướng. Nó không lừng khừng và khiêm nhượng như trước. Không trúng đòn, nó dậm chân dừng lại như thể nó là chiếc xe hơi lắp thắng đĩa tối tân, rồi quay ngoắt 180 độ, Văn Bình đang sóng soài trên bãi. Con bò vút tới. Văn Bình không có thời giờ lượm cái muleta rơi rớt cách nơi chàng ngã 3 thước. Cây gươm còn ở xa hơn.

Con bò hạ thấp sừng với chủ tâm húc chàng. Chàng lăn thật lẹ sang bên. Sừng bò kéo rách cầu vai bộ quang y màu trắng chói lọi. Tuy vậy, chàng chỉ trớt da chứ không bị thương. Hai cẳng sau của nó dẫm trên sườn trái của chàng. Sức nặng hơn nửa tấn của con bò dư gây thương tích trầm trọng. Đối với võ sĩ lỗi lạc về nội ngoại công như Văn Bình nó chỉ làm chàng đau điếng.

Không bỏ lỡ cơ hội, chàng chộp một cẳng sau của nó. Trớn chạy cộng thêm sức nặng lôi chàng sền sệt trên đất một quãng. Trên khán đài, nhiều người hoảng sợ phải lấy tay che mắt. Nhiều phụ nữ bị ngất xỉu. Ai cũng nghĩ Văn Bình sẽ bị tan xương nát thịt dưới sức kéo vũ bão của con vật say men chiến thắng.

Tất cả đều lầm.

Con bò phi thân được một quãng ngắn rồi đứng khựng. Dường như một bức tường kiên cố vô hình vừa mọc lên trước mặt nó. Kình lực tuyệt vời của Văn Bình đã tốp được nó. Nó vùng vẫy, tìm cách thoát khỏi gọng kềm của chàng. Chàng vặn tréo. Rắc một tiếng khô khan, xương ống chân của con bò đứt lìa. Chàng hất nhẹ.

Con bò nằm ngửa tênh hênh. Nhuệ khí ngùn ngụt của nó vụt tan biến. Với một chân gẫy, nó trở thành tàn phế.

Văn Bình lồm cồm đứng dậy. Nửa áo trên của chàng rách bay tơi tả. Mặt mày chàng lấm cát và máu bê bết. Các thương sĩ thúc ngựa ùa ra, lập hàng rào quanh con bò bất lực. Văn Bình xuống đòn quá mạnh nên nó vừa gẫy xương chậu vừa bị dập nát bụng dưới. Thương sĩ khỏi cần giết nó vì nó đang hấp hối.

Khán giả ào xuống đấu trường như thác lũ. Khán đài sol. Khán đài sombra. Khán đài sol y sombra. Khán đài danh dự. Đàn ông, đàn bà, thanh niên, già trẻ lớn bé, kể cả nhân viên trong ban chủ tọa. Không mãnh lực nào ngăn cản được họ. Họ phản đối thái độ khoan dung của Văn Bình. Song họ bái phục võ thuật phi thường của chàng. Từ xưa đến nay chưa tráng sĩ nào giết bò bằng cách nắm cẳng nó quật ngã. Cách hạ thủ này chỉ có thể là huyền thoại.

Công chúng muốn nhìn huyền thoại Văn Bình tận mắt, sờ chàng tận tay. Những trận đấu lớn với sự tham dự của matađo thượng thặng luôn luôn được kết thúc bằng làn sóng người tràn ngập bãi cát. Nhưng chưa bao giờ sân Monumental giành một cuộc hoan hô tương tự cho một étpontaneốt không biết tên họ là gì, không biết từ đâu tới, thậm chí không biết đến cả những nguyên tắc và quy luật tối thiểu của nghệ thuật đấu bò rừng.

Một góc đấu trường bị kẹt cứng, tầng tầng lớp lớp khán giả ngưỡng mộ dồn cục tại đó. Văn Bình là trung tâm điểm của vũ trụ. Hàng chục cánh tay nhấc bổng chàng lên, kết thành cái kiệu. Chàng cưỡng lại không nổi, chàng đành ngồi trên vai của rừng người, mặc họ muốn chở đi đâu thì đi, muốn làm gì chàng thì làm.

Nếu chỉ có công kênh, lượn quanh bãi đấu rồi chạy ra đường có lẽ tình trạng không mấy hỗn độn. Đằng này một phần khán giả, đặc biệt là giới trẻ, lại quá cuồng nhiệt. Một đám tóc dài che kín mặt, áo chật ních, quần rộng phơ phất, giày cao lêu nghêu -không rõ là gái hay trai - bất thần chặn ngang đám rước kiệu, xông lại cướp Văn Bình. Họ thi nhau đoạt lấy tất cả những gì mang hơi hướng của chàng tráng sĩ vừa thắng trận vẻ vang mà độc đáo.

Áo quang y của chàng rách bươm, họ liền xé toạc và chiếm hết làm vật sở hữu trong loáng mắt. Sau áo đấu bò, chàng mặc áo thun mỏng họ cũng xé toạc luôn làm nhiều mảnh. Trong loáng mắt, Văn Bình ở trần trùng trục.

Văn Bình chưa kịp hiểu ất giáp ra sao thì đôi giày của chàng bị lột mất. Những kẻ chậm chân chặn họ lại. Hai phe vật lộn nhau huỳnh huỵch để giành giật những mẩu vải còn sót lại trên thân thể Văn Bình. Khốn nỗi tráng sĩ đấu bò bất đắc dĩ của chúng ta chỉ còn sót lại cái quần bó mông. Nó là phòng tuyến cuối cùng của con người văn minh. Cơn bốc đồng làm khán giả thanh niên quên phắt luật lệ và đạo đức. Một người. Rồi hai người. Rồi ba người kéo ống quần

Cực chẳng đã, chàng phải phản ứng. Thật ra chàng không ngán bị thoát y mặc dầu cảnh sát sở tại rất khó tính, chỉ mặc quần sọt ra đường cũng đủ bị phạt vạ, chứ đừng nói là biểu diễn một màn tô hô nữa[47]. Sở dĩ chàng phản ứng vì chàng không chịu nổi sự nhột nhạt, ngoài ra bọn thanh niên tóc dài lại ôm chàng đến nghẹt thở.

Chàng vung tay, thiên hạ ngã lăn như rạ. Chàng không chủ tâm làm mạnh, khốn nỗi sự gượng nhẹ của chàng thường tương đương với những cú đòn sấm sét của võ sĩ trung đẳng. Bởi vậy những kẻ phải buông chàng ra đều bị thương tích đầy mình.

Cũng như sự hoan hô đột ngột, cảnh tượng ẩu đả vô cớ và vô lý đột ngột diễn ra. Khán giả ôm nhau, đấm đá, thúc nhau, đạp nhau, cắn nhau, móc mắt nhau, bóp cổ nhau. Người này hành hung người kia một cách tự nhiên như lá phổi cần dưỡng khí.

Văn Bình cũng phải thoi đông đá tây một hồi mới rẽ được con đường máu ra khỏi khối người hùng hổ. Đúng là con đường máu vì máu bắt đầu chảy. Nhưng chàng thoát khỏi đám đông này chỉ để rơi vào đám đông khác.

Chàng vấp phải một khối thịt phì nộn đang nằm thở phù phù trên sân cát. Nạn nhân cùng khổ người như chàng. Lợi dụng tình hình, chàng tặng nạn nhân một atémi đoạn lột áo của y để mặc. Không ai để ý, Văn Bình mượn luôn cái quần và đôi giày.

Cái gì đàn ông Tây có thể tiết kiệm chứ về đồ chưng diện thì không. Đôi giày của gã phì nộn được đóng bằng da cá sấu, mang tên một hiệu lớn ở đường Antoniô, con đường hẹn hò của du khách thèm giày tốt và đẹp. Văn Bình khoan khoái bước về phía khán đài sombra nơi Diane ngồi hồi nãy. Khán đài này đã vợi quá nửa. Những người còn ở lại thuộc hạng chúa lì. Họ hy vọng cuộc lộn xộn được chấm dứt nhanh chóng hầu trận đấu thứ ba và là trận cuối cùng có thể tiến hành theo chương trình đã định.

Tuy nhiên cuộc lộn xộn chỉ tăng không giảm. Là vì cánh cửa chuồng bò bị mở toang, không rõ do sự nghịch tinh hay một nguyên nhân tai hại nào khác. Trong đó nhốt 3 chú bò rừng. Được thả lỏng, chúng xông ra. Thấy đám đông lúc nhúc, thất kinh, mỗi con cắm đầu cắm cổ chạy về một hướng. Ba con vật hoảng sợ một thì công chúng hoảng sợ mười. Họ không ẩu đả lẫn nhau nữa. Họ xô nhau, đè chặn lên nhau mà chạy.

Thương sĩ, chùy sĩ, phụ tá viên, cảnh lại, tất cả những ai xa gần liên hệ đến nghề điều khiển bò rừng lũ lượt kéo ra, người cưỡi ngựa, kẻ lội bộ, mỗi người mang theo một khí giới riêng, đấu trường chói lòa quang y và hàng trăm muleta đỏ rực. Từ ngoài cổng đấu trường đơn vị cảnh sát dã chiến được báo động khẩn cấp đã rẽ làn sóng người tiến vào, nai nịt gọn ghẽ, trang bị đầy đủ dùi cui, khiên mây và mặt nạ phòng hơi cay như thể họ đến để đàn áp một cuộc biểu tình bất hợp pháp, điều gần như không hề xảy ra trong thủ đô thanh bình Mađờrít dưới thời quốc trưởng Franco.

Văn Bình không tìm thấy Diane ở chỗ cũ. Chàng lục soát giẫy khán đài bằng mắt. Vẫn không tìm thấy. Tình cờ chàng lượm được một cặp ống nhòm. Chàng dựa cột bê tông, kiên nhẫn quan sát bãi cát. Thân hình nàng cao dong dỏng, tóc nàng dài, gương mặt kiều diễm, lối phục sức của nàng kín đáo mà quý phái, nếu nàng dạo gót trên đường phố hoặc len lỏi trong chợ thì chàng còn có thể phăng ra. Khốn nỗi đây là rừng người, phụ nữ địa phương lại có truyền thống ăn mặc lộng lẫy như nàng những khi coi đấu bò. Mò mẫm một cây kim nhỏ bé rớt trên bãi cát còn dễ hơn.

Mặc, Văn Bình vẫn không nản. Chàng chia đấu trường làm nhiều ô vuông bằng nhau, và chàng soi kỹ từng ô một.

Do sự can thiệp hữu hiệu của nhân viên đấu bò và lực lượng cảnh sát, một phần trật tự được vãn hồi. Khán giả được dồn tới một mé sân và lần lượt rút ra cổng. Ba con bò phiến loạn bị đẩy lùi vào chuồng.

Nàng vẫn tuyêt vô âm tín. Văn Bình buông ống viễn kính, thở dài sườn sượt:

- Em đi đâu rồi, Diane ơi! Anh nhớ em muốn chết đi được.

Từ sau lưng chàng có tiếng đàn bà thánh thót:

- Anh chết thử cho em coi nào!

Diane, Diane ngó chàng cười ngặt nghẽo. Chàng ngây người, ôm chầm lấy nàng.

Chàng chưa kịp hôn thì nàng lách khỏi vòng tay chàng rồi nhìn xuống bãi đấu, rưng rưng nước mắt. Cười đó, khóc đó, nàng đúng là mẫu mực điển hình của gái bản xứ. Nàng cười vì yêu Văn Bình. Nàng khóc vì nhớ tráng sĩ đấu bò vừa tử nạn. Cuộc đời của gái Tây là sự pha trộn nên thơ giữa nhiều mối tình bồng bột.

Chàng khoác vai nàng:

- Tối rồi, chúng mình đi về.

Trời bắt đầu nhá nhem. Nàng ngoan ngoãn để chàng ôm eo, thả bộ ra con đường rộng trước đấu trường. Như có phép quỷ thuật, sự hỗn loạn đã tắt ngúm. Đến nơi đậu xe, Văn Bình gọi tắc xi. Nàng dúi vào tay chàng một xâu chìa khóa:

- Xe của em kia kìa...

Tài xế Tây thường được năm châu nghe danh nhờ sự lái ẩu và đậu ẩu. Đèn đỏ, đèn vàng bất chấp, khoái thì vượt dẫu phú lít thổi còi toe toe, cương quyết chặn lại, bắt nộp phạt tại chỗ[48]. Phụ nữ luôn luôn ẩu trên nam giới một bậc.

Tinh thần ẩu cố hữu này hiện rõ trong cách đậu xe của Diane. Hai chiếc xe đậu hai bên cũng không thua kém gì bao nhiêu về truyền thống ẩu. Xe của nàng khá mới, thời gian xử dụng độ một, hai năm là cùng vậy mà vè, hông và cốp méo xẹo gần hết, chưa kể nhiều lớp sơn dậm vá lung tung, loang lổ và tróc rụng từng đám lớn.

Văn Bình tra công tắc, bật cười:

- Tên đúng ghê!

Diane ngơ ngác:

-Tên ai, tên em ấy à?

- Tên em đúng là dĩ nhiên. Vì em đúng là hậu duệ của người đẹp Diane de Poitiers. Anh nói đây là nói tên xe. Tên nó là "Điên tàng", anh thấy thật đúng. Cái gì cũng bất bình thường, vô lăng hơi lấn vào giữa, đề ma rơ ở dưới chân, ổ khóa công tắc bị nhét cạnh cái radô[49].

- Em sợ ăn trộm nên thuê thợ ráp lại.

- Nhưng cái tên "Điên tàng" là của hãng sản xuất.

- Anh thích không?

Nàng áp má vào môi chàng. Tích tắc đồng hồ này nàng không còn nhớ đến anh chàng matađo bất hạnh Manê nữa. Văn Bình sửa soạn hôn nàng thật đắm đuối, thật mê ly.

Nhưng...

Một nòng súng lục chĩa qua cửa xe kèm theo tiếng quát nhỏ mà sắc như lưỡi kiếm giết bò rừng:

- Thích. Với điều kiện hai ông bà ngồi yên. Ngồi yên, không được cục cựa.

"Điên tàng" là loại xe đua hai chỗ ngồi chật ních, Văn Bình không có cách nào đối phó hữu hiệu với tên cầm súng vì từ đầu xuống chân chàng bị kẹt cứng. Cái vô lăng nằm chềnh ềnh trước ngực không cho phép chàng xoay sở. Lại còn các bàn đạp ga, thắng và ăm ba da níu chặt đôi giày mượn của chàng.

Địch quả là "dân trong nghề".Hắn chờ hai người tự giam hãm trong chiếc xe tí teo, hết lối kháng cự, mới ra mặt dí súng bắt chàng.

Phía Văn Bình ngồi có súng đã đành, phía Diane cũng có một tên lực lưỡng hườm sẵn khẩu côn 9, nòng thép xanh biếc lấp lánh dưới ánh hoàng hôn.

Diane sẵng giọng:

- Tiền và nữ trang hả? Có mấy chục ngàn peseta và cái đồng hồ nhận hạt soàn, mời các chú tự tiện.

Tên đứng gần Văn Bình nói:

- Gờra xiát[50], anh em tôi không cần tiền và kim cương.

Văn Bình nghiêm mặt:

- Các anh đừng hòng làm hỗn. Tôi thà chết chứ không...

Địch ngắt lời chàng:

- Yên tâm. Anh em tôi là người đàng hoàng. Vả lại, việc chúng tôi không dính dấp đến anh.

Té ra bọn gian này không phải là nhân viên gián điệp KGB hoặc Tình báo Sở. Chàng bị chúng chặn giữ do sự tình cờ. Mục phiêu của chúng là Diane. Tại sao chúng bắt Diane? Tuy chàng mới quen nàng, chàng có bổn phận giải cứu nàng.

Một tên hỏi nàng:

- Cô là Diane?

Nàng đáp:

- Phải.

- Mời cô xuống.

- Các ông không có quyền ra lệnh cho tôi.

- Cô dám chống lại lực lượng an ninh... Không nên, cô Diane ơi.

Văn Bình xen vào:

- Yêu cầu các anh xuất trình giấy tờ.

Một tên cười mũi:

- A ha, ông ngoại kiều này muốn kiếm chuyện. Giấy tờ hả, coi đi...

Một bá súng nện giữa gáy Văn Bình. Địch gồm cả thảy 3 tên. Tên phòng hờ núp sau cốp xe vừa rướn lên đớp trộm chàng. Chàng đau nhói, mắt xì đom đóm. Chàng toan xông cửa vọt ra ngoài thì địch bồi thêm đòn thứ hai, vẫn ở trũng gáy khiến chàng tê tái, dính chặt lấy ghế.

Tên địch bên phải nắm tay Diane. Nàng vùng vẫy, không chịu ra khỏi xe. Một tên bịt miệng nàng bằng cái khăn tay nhỏ. Chắc là mù soa tẩm thuốc mê. Nàng giẫy giụa:

- Báo tin giùm cha tôi, Luli...

Nàng không thể nói hết vì một cái tát cháy bỏng bắt nàng ngậm miệng. Bất tỉnh, nàng bị khiêng qua chiếc xe Authi đồ sộ đậu sát một bên.

Hai tên khiêng nàng, tên thứ ba mở cửa xe làm tài xế. Văn Bình bị rơi vào tình trạng nửa mê nửa tỉnh. Chàng vẫn theo dõi được những việc xảy ra chung quanh song thân thể chàng không thể cử động theo ý muốn của chàng. Chàng ráng sức nắm chìa khóa công tắc vì chàng nghe loáng thoáng:

- Mày quay lại đẹt nó một phát để trừ hậu họa.

Thoạt tiên địch không chủ ý giết chàng. Địch thay đổi ý định vì nàng buột miệng tuôn ra một bí mật "báo tin giùm cha tôi, Luli...". Chìa khóa quay nửa vòng, máy xe nổ ròn, Văn Bình giứt chiếc "Điên tàng" xinh xẻo ra lề đường. Chàng chỉ còn đủ minh mẫn lái xe đến đó rồi bóp kèn ầm ỹ. Chiếc Điên tàng được gắn kèn đặc biệt khả dĩ đánh thức một thành phố gồm toàn bệnh nhân điếc.

Pum pum... pum pum...

Ba tên địch chui vào chiếc Authi. Trong nháy mắt chúng biến mất vào bóng tối.

Nhân viên cảnh sát tất tưởi chạy đến bên Văn Bình.


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Tây Ban Nha 200 Tấn Vàng Đẫm Máu - Người Thứ Tám Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tây Ban Nha 200 Tấn Vàng Đẫm Máu - Người Thứ Tám   Tây Ban Nha 200 Tấn Vàng Đẫm Máu - Người Thứ Tám Icon_minitimeSun Dec 10, 2017 8:24 am

IV. Mắt xích cuối cùng

Mađờrít là một trong những thủ đô có nhiều cảnh sát viên nhất thế giới. Tiếng kèm pum pum như khối nam châm cực mạnh, trong chốc lát họ đã có mặt, kèm theo xe díp gắn ăn ten vô tuyến điện dài thòng.

Một cảnh sát viên thấp béo, râu mép xoắn cong như ghi đông xe đạp cuốc, lon đeo ngang dọc đầy vai và ngực, chắc là thầy đội, sốt sắng hỏi Văn Bình:

- Ông bị cướp đồ?

Văn Bình lắc đầu:

- Vậy tại sao ông bóp kèn?

Văn Bình cười "cầu tài ":

- Xin lỗi.

- 5 peseta.

- Vô lý. Lái xe mà cấm dùng kèn.

- À, à, ông là du khách. Đối với du khách chúng tôi thông cảm. Dầu sao, để giúp ông có thêm kinh nghiệm, xin ông nhớ ở quãng đường này, tài xế không được nhận kèn. Nếu cả trăm xe hơi đều đua nhau nhận kèn thì chắc dân chúng quanh vùng phải chết vì bệnh loạn óc. Du khách được cảnh sát nhân nhượng tối đa. Chứ còn tài xế Tây thì 5 peseta tiền phạt. Chào ông, chúc ông nghỉ hè vui vẻ và yêu đời[51]...Ông vừa đến?

- Vâng, vừa đến.

- Xe hơi này của ông?

- Vâng, của tôi.

- Chà, chiếc Điên tàng này đẹp quá. Lái chầm chậm thôi, nghe ông. Tốc lực tối đa của nó gần 180 cây số giờ đó.

- Tôi sẽ thận trọng.

Thầy đội tần ngần một phút rất chắt lưỡi:

- Tôi hỏi điều này, ông khách đừng phiền lòng nhé. Ông lái xe này qua biên giới, hay là...

Nguy to. Thầy đội cảnh sát đang lừa chàng sập bẫy. Nếu là xe riêng của chàng được chàng lái qua biên giới thì bảng số phải mang những dấu hiệu ngoại nhập. Chàng sơ ý, không coi số xe của Diane nên không biết được xuất xứ.

Văn Bình rồ máy, thầy đội cảnh sát bèn chặn lại, dáng điệu lễ độ nhưng cương quyết:

- Số đăng ký của xe ông bao nhiêu?

Chàng đáp:

- Tôi quên.

Thầy đội tì cùi chỏ vào cửa xe, bộ râu vểnh gần chạm da mặt chàng:

- Giản dị lắm, ông quên vì xe hơi này không phải của ông.

- Bạn tôi cho mượn.

- Tên người bạn là gì?

- Tôi không nghĩ rằng nhân viên cảnh sát được quyền đi sâu vào đời tư của dân chúng, nhất là đời tư của du khách. Nhân viên cảnh sát chỉ được quyền kiểm soát an ninh trên công lộ.

- Trên phương diện kiểm soát an ninh, tôi cần biết tên người bạn cho ông mượn xe.

- Diane.

- Diane gì?

- Chịu. Chúng tôi mới quen nhau trong đấu trường.

- Địa chỉ của cô Diane?

- Không biết.

- Về địa chỉ của ông, chắc ông phải biết.

- Tôi không ưa châm biếm.

- Với tư cách trung sĩ cảnh sát, phụ trách an ninh trên chặng đường này, tôi cũng không ưa những du khách thiếu lương thiện.

- Cấm ông nhục mạ tôi.

- Đừng cà kê dê ngỗng vô ích. Giấy tờ đâu?

Văn Bình xì trước mặt thầy đội và bọn lính quây quần chung quanh một xấp giấy tờ còn thơm mùi mực đóng dấu.

- Ông là người Nhật bản!

Văn Bình làm thinh không đáp. Thầy đội nhún vai, cử chỉ khinh bạc, đoạn tiến lại chiếc xe díp vô tuyến điện đậu xịch một bên. Hắn liến thoắng báo cáo số xe và các chi tiết được ghi trong giấy thông hành của Văn Bình. Vể khoản giấy tờ chàng có thể ăn no ngủ kỹ mặc dầu nó là của giả trăm phần trăm, nó có thể đánh lừa được những bậc tổ sư của nghề làm giấy tờ giả. Vì nó được ban kỹ thuật của CIA làm ra. Với thông hành này, Văn Bình chỉ phải chịu đựng một hạn chế nhỏ: ấy là đừng ghé xuống Nhật. Còn muốn đi đâu thì tha hồ, ngay cả các tòa đại sứ Nhật ở ngoại quốc cũng tưởng là đồ thật.

Thầy độ cảnh sát cúp điện đàm với trụ sở trung ương. Văn Bình chưa hết choáng váng nên không hiểu được cuộc trình báo. Thấy hắn ném xấp giấy tờ của chàng lên băng trước xe díp, chàng đoán biết có chuyện trục trặc. Đồ giả bị khám phá ư? Chàng không tin. Thủ tục nhập cảnh ở đây rất đơn giản, không phiền hà, rắc rối như ở nhiều nước Á đông. Không cần dấu chiếu khán cũng được, đằng này Văn Bình đã cẩn thận xin sẵn một lô dấu đỏ và xanh, nghĩa là về khía cạnh hợp pháp chẳng có gì chê trách. Hay là gián điệp địch toa rập với an ninh địa phương để "chơi" chàng?

Thầy đội chỉ Văn Bình:

- Ông để chìa khóa lại, nhân viên của tôi sẽ lái theo.

Văn Bình hỏi:

- Tôi về Sở?

- Vâng. Ông sang xe díp với tôi.

- Vì chuyện gì?

- Thượng cấp của tôi sẽ nói sau?

- Tôi có công việc gấp, hẹn ông sáng mai, hoặc lát nữa.

- Không được. Sự nhã nhặn của tôi chỉ có hạn. Nếu ông rềnh rang, miễn cưỡng tôi phải...

Văn Bình nóng mắt, tay chân run run. Phe thầy đội gồm đúng nửa tá, súng ống đàng hoàng. Nếu sức khỏe của chàng không bị suy giảm vì hai đòn bất thần vào trũng gáy, chàng không ngần ngại quật ngã luôn 6 viên cảnh sát. Hiện giờ chàng cảm thấy cơ thể chàng chưa được bình thường. Cổ và vai chàng mỏi rừ, bồ hôi lạnh tiếp tục vội vã ra. Thầy đội cảnh sát lại rút súng cốt cho chàng thấy.

Văn Bình đành trèo lên băng sau xe díp.

Qua những con đường sáng rực rồi những hẻm tối quanh co, 15 phút sau xe díp chạy vào cổng hậu một tòa biệt thự có tường cao và khuôn viên rộng thênh thang.

Ruột Văn Bình rối bời. Chàng nhìn chiếc đồng hồ quả lắc treo ngoài hành lang mà có cảm giác như thành phố Mađờrít đang lên cơn động đất. Cây kim dài ngấp nghé số 10. Còn cây kim ngắn chỉ giờ sắp đến số 8. Còn 10 phút đến 8 giờ.

8 giờ tối.

Giờ hẹn với Luliô, con người sẽ dẫn chàng đến nơi cất giấu 200 tấn vàng. Cuộc hẹn phải được tiến hành đúng phong phóc. Trong trường hợp Văn Bình lỡ hẹn, hai người sẽ gặp lại nhau 1 giờ sau. Tức là 9 giờ. Trong trường hợp lỡ luôn hai buổi hẹn 8 và 9 giờ tối thì 24 giờ sau làm lại. Đại tá Pít nhấn mạnh là không nên đình hoãn. Vì địch có thể phăng ra. Tính mạng những người trong cuộc bị đe dọa trầm trọng...

Văn Bình được hướng dẫn vào phòng đợi. Thầy đội và hai cảnh sát viên bám sát chàng từng bước. Chàng không có hy vọng triệt hạ họ vì trong phòng đang có một lô cảnh sát viên khác mặc đồng phục, dường như đến trình diện xếp để làm "ca"đêm.

Xếp là ai? Chẳng thấy bóng dáng xếp đâu. Trước mặt chàng là cánh cửa thông sang phòng bên. Nó được đóng kín, bên trên thắp đèn đỏ, treo lủng lẳng tấm bảng gỗ "chỉ được phép vào khi đèn tắt". Chắc là xếp đang bận. Tiếp khách, hoặc nghiên cứu hồ sơ quan trọng chẳng hạn. Đôi khi xếp vặn đèn mặc dầu nhàn rỗi, không có việc làm. Văn Bình còn biết cả những ông chỉ huy dùng mánh khóe đèn đỏ hầu "du dương" hợp pháp với em bé trong phòng giấy. Đàn ông Tây thường đa tình nên chàng phát lo.

10 phút rồi 20 phút. Rồi nửa giờ trôi qua. Mỗi phút đối với Văn Bình khi ấy dài lê thê nếu không có chiếc đồng hồ đeo tay để so sánh, chàng đã tưởng quá nửa đêm.

Thầy đội vuốt râu ghi đông, rung đùi hát i ỉ một điệu nhạc sạtđana 2 , loại dân ca miền bắc, sống động, nhí nhảnh thường đi kèm với cuộc vũ tập thể trai gái trong ngày hội.

Văn Bình lớn tiếng hắn mới choàng khỏi cơn mơ trữ tình:

- Quá 8 rưỡi rồi. Tôi phải về.

Thầy đội xua tay quầy quậy:

- Đại úy còn kẹt. Còn sớm chán. Dầu sao ông cũng nên hiểu nếu có sự phiền phức, chậm trễ là tại ông. Hoàn toàn tại ông. Chúng tôi chỉ hành động theo luật.

- Tôi phạm pháp?

- Có lẽ thế.

- Thầy đội lầm to. Tôi chỉ là du khách tuyệt đối lương thiện.

- Ông sẽ chứng tỏ sự lương thiện này với đại úy trưởng cuộc.

Văn Bình thở dài. Nguyên tắc là nguyên tắc, không riêng ông cò Tây ban nha, mọi ông cò trên thế giới đều tôn trọng nguyên tắc đến mức tối đa. Trừ phi chàng đấm hắn bẹp mũi, chàng không có hy vọng vù khỏi trụ sở cảnh sát an toàn.

9 giờ.

Giờ hẹn với Luliô trôi qua. 15 phút sau, khi đồng hồ gõ 9 tiếng dõng dạc, ngọn đèn đỏ ác ôn trên cửa mới chịu ngưng cháy. Thầy đội thót xuống, ra hiệu cho Văn Bình. Chàng theo hắn vào phòng ông đại úy trưỏng cuộc. Chàng đinh ninh vìên đại úy cũng mập tròn, cũng lớn tuổi, cũng có máu 35, cũng nuôi râu mép cong veo như thầy đội. Té ra xếp còn trẻ măng. Chưa đến 27, 28. Mặt mày nhẵn nhụi, không một sợi râu. Thân thể vạm vỡ mà cân đối, có bộ ngực nở tròn và vòng bụng thon nhỏ đàng hoàng. Viên đại úy cầm xấp giấy tờ của Văn Bình trong tay, liếc nhìn tấm hình trong thông hành rồi ngẩng đầu quan sát chàng kỹ lưỡng từ đầu xuống chân rồi từ chân lên đầu. Chưa hết, hắn còn vòng ra sau lưng chàng, nhìn lưng, ngắm hông. Tóm lại hắn chẳng nói một tiếng, hắn chẳng nhã nhặn mời chàng ngồi xuống một trong hai cái ghế gỗ trước bàn buya rô, hoặc hùng hổ quát chàng đứng thẳng. Hắn chỉ giải phẫu chàng bằng mắt.

Thầy đội cộp hai mắt cá chân vào nhau:

- Trình đại úy, đây là nghi can.

Viên đại úy trưởng cuộc lầm bầm trong miệng:

- Nghi can, nghi can... Căn cứ vào bảng phúc trình của toán 14 người lại là đàn bà.

- Dạ.

- Tại sao người này là đàn ông?

- Dạ... vì lời khai tiền hậu bất nhất, có vẻ muốn giấu một chuyện phi pháp.

Viên đại úy vẫn không ngừng quan sát Văn Bình. Y sĩ quan sát con bệnh, hoặc đứa trẻ tò mò quan sát hùm beo trong vườn bách thú thiết tưởng tỉ mỉ đến thế là cùng. Hắn chỉ còn thiếu điều lột áo quần của chàng để kiểm soát các vết thẹo và nốt ruồi, đồng thời gang miệng chàng ra đếm răng giống như cảnh mua nộ lệ da đen bên Mỹ mấy thế kỷ trước.

Chàng tỏ vẻ khó chịu:

- Ông muốn tìm gì?

Viên đại úy đáp, gương mặt trịnh trọng:

- Tìm xem giống không.

Hắn chạy lại bàn giấy, lấy ra xấp hình màu chụp rửa liền bằng máy Polaroid, trải thành hàng dài. Giọng hắn xúc động rõ rệt:

- Ông vừa từ đấu trường Monumental ra?

Văn Bình nhún vai:

- Thì bị thầy đội đa sự của ông chặn bắt về tội bóp kèn rồi dùng võ lực giải tôi về dây. Tôi sẽ khiếu nại với tòa đại sứ nước tôi. Với tinh thần trọng đãi du khách, tôi không nghĩ chính phủ Tây sẽ gắn mề đay cho thầy đội và cho cả chính ông nữa.

Viên đại úy không thèm quan tâm đến lời nói mát mẻ sặc mùi khiêu khích của chàng. Dường như hắn không nghe rõ cũng nên. Hắn mân mê hết tấm ảnh này đến tấm ảnh khác.

- Ông trả lời đi... Ông làm gì ở đấu trường?

Văn Bình sẵng tiếng:

- Không lẽ tôi vào đó để làm tình.

- Khổ quá... ông đi coi hay là...

Văn Bình bắt gặp luồng mắt khác thường của viên đại úy. Hắn chưa nói thành lời song Văn Bình đã hiểu. Hắn chạy ào đến bên chàng, nắm bàn tay chàng rua lấy rua để, giọng run run muốn khóc:

- Ông ơi, ông là thần tượng của tôi.

Hắn quay về phía thầy đội:

- Kêu hết, kêu hết chúng nó vào đây.

Thầy đội chưa kịp kêu, toàn thể nhân viên ở phòng ngoài đã tập hợp trước buya rô. Viên đại úy chỉ Văn Bình:

- Chúng mày biết ai đây không? Đồ ngu, chúng mày đều là đồ ngu. Tráng sĩ vừa trổ tài ở Monumental sau khi Manêlitô bị con bò 562 kí chém nát ngực đây... Ha, ha... thằng trung sĩ làm bậy mà hay, anh em mình có cơ hội giáp mặt thần tượng.

Văn Bình hỏi viên đại úy:

- Thầy đội đưa tôi về Sở về chuyện gì?

Viên đại úy cười hinh hích:

- Chẳng có gì quan trọng. Hồi chiều một người đàn bà lái chiếc xe hiệu Điên tàng phóng như bay trên đại lộ Alcala, con đường dẫn đến ngã tư đèn đỏ, cảnh sát công lộ thổi xíp lê bắt dừng thì xe hơi cứ tiếp tục xả thêm tốc độ. Cảnh sát ghi được số xe và chia nhau lùng bắt. Tại Mađờrít, các cơ quan an ninh rất nghiêm khắc đối với tài xế lái ẩu. Thầy đội của tôi tình cờ vớ được ông. Tôi ra lệnh cho hắn hộ tống ông về Sở. Hắn chỉ là thuộc cấp, không có trách nhiệm. Thành thật xin lỗi ông. Nếu biết ông là tráng sĩ đấu bò hồi nãy, tôi đã sai nhân viên công kênh ông lên vai, đốt pháo bông, khui rượu ăn mừng. Ông biết không, tôi cũng là étpotaneốt, nhưng lần nào xông vào bãi đấu tôi đều mang thẹo. Trên thân thể tôi cả thảy có 15 vết thẹo lớn nhỏ, 6 lần nằm bệnh viện, 2 lần ngồi nhà đá. Thôi câu chuyện ngộ nhận chúng mình bỏ qua, hân hạnh được mời ông lưu lại cụng ly với anh em chúng tôi.

Văn Bình nhăn nhó:

- Xin đại úy tha cho. Tôi đã lỡ hẹn gần nửa giờ.

- Ồ, tưởng gì chứ lỡ hẹn thì quá thường. Đồng bào của tôi luôn luôn lỡ hẹn. Ông có hẹn với một cô nàng sắc nước hương trời phải không? Ông yên tâm, nàng sẽ đến sau ông cả buổi. Nàng quên rồi cũng nên.

- Không, đây là cuộc hẹn làm ăn.

- Được. Ta chỉ nhậu lai rai rồi tôi đích thân chở ông đi. Tôi mở đèn đỏ, và rú còi inh ỏi thì ông trời con cũng phải nép tránh. Nơi hẹn của ông ở tận đâu?

Vì lý do dễ hiểu, Văn Bình không thể cho viên đại úy biết nơi chàng sẽ gặp Luliô. Chàng bèn ngồi xuống ghế, đỡ ly rượu đầy ắp do hắn tự tay rót và cung kính bưng tận miệng chàng:

- Gần đây thôi. Uống xong ly này, tôi xin kiếu. Làm phiền các ông quá...

Văn Bình không cáo lui sau ly thứ nhất như chàng nói vì viên đại úy chực sẵn với ly thứ hai. Đám cảnh sát viên uống như hũ chìm, trong chớp mắt họ khui đến chai thứ ba. Văn Bình ít có cảm tình với bất cứ loại rượu nào ngoài rượu huýt ky, không hiểu sao chuyến đi này chàng lại khoái rượu nho xérès quốc hồn quốc túy của xứ Tây ban nha. Chàng làm luôn ba ly cối. Ngon thật là ngon. Thứ xérès này được gọi là oloroso chỉ nặng 20 độ mà rất say. Đặc điểm của nó là vị thơm làm tinh thần lâng lâng như muốn bay bổng lên tầng cao.

Viên đại úy khề khà giải thích:

- Rượu oloroso do gia đình tôi ủ cất lấy, chứ không mua của người ta đâu. Lệ thường mất đúng 3 năm mới làm được một lứa xérès. Thứ ngon thượng hạng thì 20 năm. Loại oloroso này là kết quả của 35 năm. Bảo đảm với ông, đêm nay và ngày mai, và liên tiếp trong một tuần lễ ông sẽ có sức chịu đựng vô địch, không nữ tướng nào đánh bại được ông. Rượu tình đây, ông biết không?

Viên đại úy trưởng cuộc lại cười hinh hích và lại chuốc rượu cho Văn Bình. Rượu oloroso được xưng tụng làm rượu tình kể cũng không ngoa. Nó là thứ xérès đậm đà và hấp dẫn, được ép từ nho tươi trồng ở miến nam. Có chừng 50 triệu cây trên diện tích mươi ngàn éc ta, nghĩa là không lấy gì làm nhiều, ở xa các trục lộ giao thông. Mỗi cây sống được 20 năm rồi chết, bởi vậy phải ươm cây mới hoài. Trong số mươi ngàn éc ta này, khoảng một phần trăm có loại nho độc đáo. Nhà sản xuất cất lại, không bán. Nó là rượu tình. Uống vào, nó chữa dứt bệnh lãnh cảm của phụ nữ và gia tăng cường lực của nam giới.

Điều làm Văn Bình ngạc nhiên là đám cảnh sát viên chỉ đỏ mặt mà không say mặc dầu họ nốc hết ly này đến ly khác. Về phần viên đại úy, hắn không thua chàng nghĩa là sắc diện không biến đổi, giọng nói chưa hề lè nhè, cử chỉ vẫn nhanh nhẹn như thể từ nãy đến giờ hắn uống nước suối vô thưởng vô phạt.

Bản tâm của chàng là chờ mọi người say mèm rồi lặng lẽ rút lui. Chàng không dè càng uống họ càng khỏe. Với đà Lưu linh này, họ có thể chén chú chén anh luôn một lèo đến sáng hôm sau vẫn tỉnh khô.

Hồi nãy, kim đồng hồ chạy chậm rì rì. Giờ đây, chàng có cảm tưởng nó di chuyển nhanh như ngựa phi. Mới đó đã 10 giờ. 10 giờ đêm đối với người bản xứ còn quá sớm, rạp xi nê chưa chiếu xuất tối, lắm thực khách chưa ăn cơm. Đối với chàng thì quá khuya. Lẽ ra chàng phải đến gặp Luliô đúng 8 giờ. Hoặc 9 giờ. Đằng này...

Chàng nghĩ mãi chưa tìm ra lối thoát. Võ lực là điều vạn bất đắc dĩ. Tuy nhiên, chàng nhận thấy có lẽ không còn giải pháp ổn thỏa nào khác. Chàng tự đặt cho mình một kỳ hạn mới. Kỳ hạn cuối cùng. Chàng sẽ đợi thêm 15 phút. Chai oloroso thứ hai giành riêng cho chàng sắp cạn. Hết ngụm rượu này là... a lê hấp, chàng sẽ tặng cho viên đại úy trưởng cuộc đo ván bằng một atémi bả vai. Chàng khỏi cần nặng tay, bọn võ sĩ của viên đại úy mới là võ sinh nhập môn nhu đạo.

Phút "tối hậu thư" đã đến. Văn Bình đặt cái ly xuống bàn, đảo mắt quanh phòng. Đám cảnh sát viên đang nắm tay nhau, kết thành vòng tròn nhảy điệu sạtđana. Điệu vũ này lừng khừng, khệnh khạng một cách thi vị, gần như điệu sì lô của những cặp trai gái núp sau chiêu bài đăng xinh hợp pháp để mùi mẫn với nhau.

Viên đại úy đánh nhịp bằng tay và chân. Vẻ mặt hắn thật hiền. Chàng không nỡ phụ lòng tốt của hắn. Nhưng nếu chàng không đánh hắn bất tỉnh, chàng phải ở lì trong bót đến mai. Biết đâu, hắn sẽ giữ chàng luôn đến mốt. Dân Tây thường bốc đồng. Khoái là làm. Hễ làm là bất chấp hậu quả. Chàng là thần tượng matađo của hắn.

Văn Bình sửa soạn thi hành kế hoạch. Bỗng cửa phòng mở toang, một cảnh sát viên mặc đồng phục chạy vào, hớt hơ hớt hải, suýt đâm sầm phải đống vỏ chai không vứt lỏng chỏng trên nền gạch.

- Đại úy, thưa đại úy!

Viên đại úy trố mắt:

-Gì vậy, thằng quỷ? Mày có mắt hay mù? Hừ... nếu mày còn sáng mắt, mày phải nhìn thấy ngọn đèn đỏ trên cửa. Đèn đỏ nghĩa là đại úy trưởng cuộc đang bận. Bận công vụ. Không tiếp ai. Kể cả thuộc cấp.Thằng quỷ kia, ai cho phép mày phá đám tao?

Gã cảnh sát mới vào khúm núm:

- Thưa đại úy, em đâu dám phá đám. Là vì... là vì ông giám đốc đích thân kêu điện thoại tới.

Danh từ "ông tổng giám đốc" như trái đấm nện trúng quai hàm làm viên đại úy xửng vửng:

- Thằng quỷ, mày nói sao? Ông giám đốc gọi mà mãi đến giờ này mới báo cáo. Chết tao, mày giết tao. Mày lè lẹ một chút thì sung sướng cho tao biết bao. Ông giám đốc hỏi, mày bảo tao ở đâu?

- Dạ, dạ, em trình ông đi tuần sát chưa về.

- Giỏi. Lần này tao tha. Lần sau mày còn ngâm tôm, tao vả gẫy răng.

- Oan em lắm, đại úy ơi. Ngay sau khi ông giám đốc kêu, em ba chân bốn cẳng tức tốc đến phòng đại úy. Thấy đèn đỏ, em toan xô cửa thì thằng Ba cận vệ cản lại.

- Gạt nó ra. Mày ngu quá đi mất.

- Thưa đại úy, thằng Ba thắt đai đen nhu đạo, em chạm nó là vào nhà thương sớm. Dẫu em giỏi hơn thằng Ba, em cũng phải chờ. Tuần trước, bạn em vượt đèn đỏ đã bị đại úy tát mấy cái nên thân và sai nhốt một đêm trong xà lim với muỗi.

- Ừ nhỉ, tao mắng mày oan. Thôi cho mày ra. Thèm chất cay thì làm một ly. Ông giám đốc hỏi thêm gì nữa?

- Dạ, không. Ông chỉ dặn chừng nào đại úy trưởng cuộc về thì kêu lại. Ông ngồi chờ.

- Thằng quỷ, ông tổng giám đốc đang ngồi chờ... Sao mày chưa thèm nói? Có thêm vài ba thằng em út xuẩn ngốc như mày, chắc chắn tao sẽ về hưu sớm.

Đám cảnh sát viên ngưng vũ, len lén chuồn ra phòng ngoài. Viên đại úy nhấc điện thoại, quay số, quên bẵng sự hiện diện của Văn Bình. Hắn xây lưng lại nên không nhìn thấy chàng. Cuối đường giây có tiếng ho khan. Ông giám đốc Cảnh sát Đô thành. Văn Bình nghe rõ mồn một cuộc điện đàm giữa đại úy trưởng cuộc và ông tổng giám đốc:

- Bẩm đại tá tổng giám đốc, tôi vừa về phòng giấy thì được tin đại tá kêu...

- Tốt lắm. Đêm nay, anh bận không?

- Bẩm, trên nguyên tắc, tôi chỉ túc trực ở đây đến nửa đêm, rồi về nhà riêng.

- Tốt lắm. Tôi có việc muốn nhờ anh. Một vụ án mạng xảy ra ở quận khác, không thuộc thẩm quyền của anh. Vì anh là cộng sự viên được tôi tin cậy, và có khả năng chuyên môn nên tôi muốn ủy thác cho anh.

- Dạ, tôi xin lấy xe đi liền.

- Thong thả. Nếu không phải là việc ưu tiên, tôi không nỡ quấy rầy anh đêm nay, đêm chủ nhật thiêng liêng của đàn ông chưa vợ. Trót hẹn với ai thì năn nỉ người ta, nghe chưa? Nơi xảy ra án mạng rất quen với anh vì nó ở trong khu chợ trời Rát trô.

Địa chỉ vừa được nói trong điện thoại và được viên đại úy ghi trên giấy làm Văn Bình tái mặt. Chàng không ngờ. Thật chàng không ngờ. Gần như "nhất ẩm nhất trác" trong Điệp vụ Muleta đều "giai do tiền định".

Vì địa chỉ này là nơi chàng có hẹn với Luliô.

Giờ xảy ra án mạng là 8 tối. Giờ chàng có hẹn tại đó với Luliô.

Và nạn nhân là Luliô.

Nếu chàng không la cà đến nhà hàng heo sữa quay sau công trường Thị sảnh chàng không gặp Diane. Nếu chàng không gặp Diane, chàng không ghé đấu trường và nhảy xuống bãi, trổ tài đấu bò để chiếm trái tim người đẹp. Nếu chàng không ghé đấu trường và lăng nhăng với người đẹp, chàng không bị kẹt trong vụ xe hơi và bị giải về quận cảnh sát. Nếu chàng không bị giải về quận, chàng đã có mặt tại chỗ hẹn.

Và giờ này, chàng đã chết.

Chết tức tưởi như Luliô, mắt xích cuối cùng của vụ cất giấu 200 tấn vàng.

Được vờn muleta ở đây đâu phải là việc tráng sĩ nào cũng làm nổi. Chưa đầy 50 người được hưởng quyền ấy[52], và muốn thế phải trải qua cả chục, cả trăm phen chết hụt.


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Tây Ban Nha 200 Tấn Vàng Đẫm Máu - Người Thứ Tám Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tây Ban Nha 200 Tấn Vàng Đẫm Máu - Người Thứ Tám   Tây Ban Nha 200 Tấn Vàng Đẫm Máu - Người Thứ Tám Icon_minitimeSun Dec 10, 2017 8:25 am

V. Bí mật chợ trời

Mỗi thị trấn trên thế giới đều khoác một bản sắc riêng. Bản sắc đầy thi vị của Mađờrít là chợ trời lộ thiên Rát tờ rô[53].

Nó nằm chềnh ềnh trong khu thành cổ, gần công trường Thị sảnh, nghĩa là giữa trung tâm thành phố, bất chấp xã hội văn minh với những bin đinh tân tiến cao ngất, những căn phòng điều hòa khí hậu, những đại lộ rộng thẳng xe cộ chạy nườm nượp. Nó choán gần trọn những hẻm ngang dọc, gập ghềnh chung quanh đường Ribero. Đông nhất là ngày chủ nhật, từ sáng sớm tinh sương các lều vải mọc lên như nấm sau cơn mưa rào, hàng hóa được bầy la liệt, lưu thông kẹt cứng. Thượng vàng hạ cám, tất cả những gì có mặt đều hiện diện, đặc biệt là đồ xưa, xưa thật cũng như xưa giả, hàng năm số thương vụ trong chợ được ước lượng khoảng 300 triệu peseta.

Bận đến mấy Văn Bình cũng không quên tạt qua chợ trời nếu công vụ hoặc việc tư cho phép chàng ghé thủ đô Tây ban nha.

Lý do thứ nhất: ông Hoàng yêu cầu. Một bạn thân của ông thừa hưởng một tủ đồ sứ Tàu giá trị, và giữ gìn cẩn thận làm gia bảo, nhất định không bán tuy nhiều nhà sưu tập quốc tế trả giá rất cao. Không dè một thằng con phá gia chi tử được sự súi giục của bọn con buôn gian manh lén lút đã khuân những món đẹp nhất đem bán tống bán táng. Đến khi người cha đau khổ phăng ra thì thằng con đã điên loạn vì ma túy, các đồ mất cắp chuồn ra khỏi biên giới từ lâu. Người cha than thở với ông Hoàng, cậy ông tìm kiếm để mua lại. Do đó nơi nào có chợ trời đều in dấu chân lãng tử của điệp viên Z.28.

Lý do thứ hai ; chàng không ham lợi, không cần tiền song chàng không cưỡng lại được cơn ghiền... đồ cổ. Chợ trời Rát tờ rô được chàng chiếu cố đặc biệt vì nó là nơi có nhiều món hời. Một nhiếp ảnh viên xỉa 175 peseta -nghĩa là trên 2 mỹ kim- mua chơi một bức tranh lem luốc với hai thiếu phụ già ăn củ cải. Khi về nhà, rửa ráy lại sạch sẽ thì trời đất ơi, bên dưới là một họa phẩm của Rubens. Mà danh họa nước Bỉ này có rẻ cho cam! Xêm xêm từ 5 đến 10 triệu peseta một bức.

Của đáng tội, trong số ba chục ngàn du khách mỗi ngày chủ nhật thả bộ vào chợ trời thì kẻ mua được món hời rất ít, người bị bịp luôn luôn rất nhiều. Và Văn Bình từng bị dân bán đồ xưa Rát tờ rô bịp một vố đau hơn hoạn. Chàng ưa quay lại đó hệt như hung thủ ưa quay lại phạm trường. Thật ra chàng muốn gặp lại tên bịp láu liến hồi nọ để tặng một chầu... húp cháo loãng. Số là chàng mua tặng Quỳnh Loan -người vợ có con với chàng mặc dầu chàng không bao giờ cưới- một đôi bông tai nói là của một nữ hoàng Tây thuộc hậu bán thế kỷ 15. Bông tai này bằng bạc, trạm trổ tinh vi. Nó quý ở chỗ nó là vật sở hữu của một giai nhân lịch sử. Văn Bình trả gần 3.000 mỹ kim. Đó là chàng mặc cả ráo riết, đi đi lại lại nhiều lần. Nếu chàng hấp tấp, chàng phải trả gấp đôi, hoặc gấp ba vì người bán nói thách một tấc đến trời. Chàng hí hửng mang về Sàigòn, chắc mẩm Quỳnh Loan sẽ mừng rỡ và sẵn sàng bỏ quên những xì căn đan ái tình của chàng từng làm nàng buồn bực từ năm này qua tháng khác.

Nàng mừng rỡ, đúng. Chỉ phiền là nàng mừng rỡ không lâu. Một chủ tiệm kim hoàn cho biết đôi bông tai lịch sử này là đồ giả trăm phần trăm. Thực giá của nó chưa đến 10 đô. Úi chao, 10 đô mà điệp viên hào hoa của chúng ta trả những 3.000 đô... Tức muốn thổ huyết như đô đốc Châu Du. Chàng thót lên phi cơ, ăn dầm ở dề cả tuần ở Mađờrít, ngày nào cũng đóng đô ở chợ trời từ sáng đến tối mà tên bịp có lối chào hàng giẻo như kẹo kéo tuyệt vô âm tín.

Văn Bình đến khu chợ trời quá nhiều lần, riết thành quen các cửa hàng, quen luôn các đường nhỏ nhằng nhịt. Tuy nhiên, chàng vẫn bối rối khi được yêu cầu tới gặp Luliô trong khi chợ trời. Thiếu gì nơi gặp an toàn lại léo hánh đến đó?

Bị rơi vào ổ phục kích là hết đường sống. Địch có thể núp rình ở bất cứ chỗ nào. Phương chi nơi hẹn lại là một lữ quán hạng nhì, vô danh và khả nghi không kém.

Lữ quán này mang tên "Lưỡi Dao". Một cái tên tiền định. Vì năm 1655, năm khu Rát tờ rô được ghi vào bản đồ thành phố thì nó là nơi giết heo bò. Một lò sát sinh bình dân. Lò sát sinh tất có nhiều lưỡi dao[54].

Hơn 3 thế kỷ sau, do một trớ trêu của định mạng, nó trở thành lò sát sinh của điệp vụ tìm vàng.

Với Lulio là nạn nhân.

-----

Tuổi thật của Lulio là 52. Song nhìn bề ngoài đố ai dám đoán trên 45 tuổi. Nếu ông không pha phí một phần tuổi trẻ trong các cuộc đấu tranh đẫm máu do phe tả điều khiển, để rồi ông phải trốn qua Pháp, sống lưu vog, cô đơn, phiền muộn, Lulio còn trẻ hơn nhiều.

Lulio theo phe thân cộng dưới thời nội chiến kể cũng lạ. Vì ông xuất thân từ một gia đình quyền quý, giàu có ở miền nam, trong một tỉnh có khí hậu quanh năm ấm áp, cây cỏ xanh tươi, sát bờ biển. Có lẽ đó là sự động cỡn thông thường của tuổi thanh niên. Lớn lên Lulio cần sự đổi mới và ông vô tình rơi vào sự tuyên truyền hấp dẫn của phe tả. Lulio bỏ nhà, bỏ trường, bỏ nếp sống vật chất thừa thãi, cầm súng theo họ, lăn lộn từ đồng quê ra thành thị dưới chiêu bài "làm cách mạng".

Trong những năm lưu vong ở Pháp, giấc mộng canh tân của Lulio không còn đỏ rực hy vọng như xưa nữa. Lulio chín chắn hơn, khôn ngoan hơn. Nhưng chỉ là con muỗi bé nhỏ bị lọt giữa lưới nhện khổng lồ. Phe tả tiếp tục giữ liên lạc với ông. Dần dà, đến những cán bộ từ Liên sô vèo qua đất Pháp như trận gió không lưu lại dấu vết.

Những cán bộ kín tiếng này là nhân viên tổ chức quốc ngoại của mật vụ NKVD sô viết, sau này đổi tên thành KGB.

Lulio hoạt động cho KGB. Ông vẫn được gia đình gửi tiền đều đặn nên vấn đề tài chính không đến nỗi eo hẹp. Còn dư dả là khác. Mật vụ sô viết núp sau chiêu bài lực lượng cộng hòa yêu nước Tây ban nha buộc Lulio lãnh lương hàng tháng, và hàng tháng ký tên vào phiếu phát tiền.

Lulio chẳng phải làm gì, ngoại trừ cung cấp một số tin tức không quan hệ về những người đồng hương lưu vong. Tình trạng rỗi rãi gần như không có công việc này kéo dài đúng 10 năm.

Đột ngột một ngày kia Lulio được lệnh trở về nước. Lulio không muốn hồi hương. Phần vì tiêm nhiễm mối thù đối với chính quyền Franco. Phần vì sợ bị bắt mặc dầu đã có sự tổng ân xá. Lulio ngỏ ý với KGB thì được bảo đảm dứt khoát như sau:

- Anh cứ về, đừng thắc mắc hoặc ngại ngần. Hồ sơ của anh đã được bạch hóa.

- Tôi không tin, vì...

- Chúng tôi có tai mắt khắp nơi. Anh cứ về, không ai biết hoặc nhớ tới trưởng toán ám sát Luliô từng bắn chết gần một trăm viên chức hữu khuynh đâu.

- Hồ sơ cũ đã bị thiêu hủy?

- Ừ. Vì vậy tôi mới cho anh hồi hương để tiếp tục phục vụ cho tổ quốc và dân tộc Tây. Rất nhiều người khác cũng hồi hương mà không được chọn lựa vì lẽ hồ sơ của họ chưa được bạch hóa. Chính quyền Franco chỉ cam kết không bỏ tù họ. Nhưng chắc chắn công an sẽ bí mật theo dõi họ và khi muốn sẽ phịa ra tội trạng để bắt nhốt. Về phần anh, anh có thể yên tâm một trăm phần trăm.

- Tôi sẽ làm gì ở xứ sở?

- Như tôi đã nói, phục vụ cho tổ quốc và dân tộc.

- Từ ngữ này rộng rãi, tôi cần có sự thảo luận và phân định rõ rệt. Biết đâu công việc sắp giao cho tôi vượt quá khả năng của tôi. Hoặc giả tôi không mấy đồng ý.

- Anh lầm. Chúng tôi đã nghiên cứu kỹ lưỡng. Anh sẽ làm được. Và anh sẽ đồng ý. Tuy nhiên, anh là phần tử trung kiên của đoàn thể, đoàn thể bảo gì, anh phải làm nấy, không có sự đồng ý hay không đồng ý.

Thế là Lulio đáp máy bay về Mađờrít.

Quả như cấp trên trù liệu, Lulio không hề bị làm khó dễ. Ông được tự do đi lại khắp nơi. Mọi giấy tờ hộ tịch ông xin đều được cấp phát nhanh chóng, không câu hỏi nào được an ninh nêu ra. Ông về nơi chôn rau cắt rốn dọc bờ biển miền nam một thời gian rồi cưới vợ. Vợ ông là cựu hoa hậu, trước kia kết hôn với một bá tước, sinh được một con gái sau đó ly dị. Hai vợ chồng mở một cửa hàng ở Mađờrít chuyên xuất cảng rượu xérès. Công việc kinh doanh khá phát đạt. Luliô chẳng hề lo lắng về tiền nong.

Khi ấy đặc phái viên KGB sô viết mới xuất hiện với một chỉ thị của điện Cẩm linh: Lulio được chỉ định tham dự toán 33, một tổ chức đặc nhiệm KGB. Dựa vào những tin tức sẵn có, toán 33 phải chiếm hữu và chở về địa điểm an toàn số vàng 200 tấn mà tướng mật vụ Ótlốp chưa chuyển kịp xuống tàu thủy tháng 10 năm 1936.

Sự thật số vàng được phe tả tẩu tán sang Liên sô chỉ gồm 725 tấn, và số vàng này đã được Ótlốp di tản toàn bộ. Số 200 tấn không nằm trong kế hoạch tẩu tán. Vì lẽ giản dị các yếu nhân tả khuynh hồi ấy không biết đến nó. Họ đinh ninh tổng số vàng dự trữ của Ngân hàng Quốc gia Tây ban nha là 725 tấn. Trên thực tế tổng số là gần một ngàn tấn. Sự sai biệt này là hậu quả của tình thế rối ren hồi ấy. Một tình thế bi thảm khởi đầu từ sau thế chiến thứ nhất...

Năm 1923, Tây bị cai trị bởi một nhà độc tài. Năm 1931 nền cộng hòa được thành lập, quốc gia bị xâu xé trầm trọng giữa nhiều khuynh hướng đối nghịch, điển hình là phe quốc gia và phe thân cộng. Sự chia rẽ của phe quốc gia dẫn đến Mặt trận Bình dân quy tụ các phần tử xã hội, cộng sản, cộng hòa và vô chính phủ.

Ngày 18-7 năm 1936, giới quân nhân phát động cuộc khởi nghĩa dưới quyền lãnh đạo của tướng Franco. Phe Franco, tiêu biểu cho lực lượng quốc gia, lập chính phủ lâm thời, rồi tiến quân như chẻ tre về thủ đô Mađờrít, nơi phe thân cộng kiểm soát và có chính phủ hẳn hòi.

Tháng 9-1936, phe quốc gia bao vây thủ đô. Phe thân cộng ở thủ đôi xúc tiến công cuộc di tản vàng. Ngày 13 cùng tháng, một sắc lệnh tối mật được tổng thống và bộ trưởng Tài chính của phe thân cộng ký. Theo sắc lệnh này, công cuộc di tản dự tính phải được Nghị viện phê chuẩn.

Nhưng không một nghị viên nào được hỏi ý kiến, vấn đề được giữ kín giữa tổng thống và bộ trưởng Tài chính. Bộ trưởng Tài chính Negrin liên lạc với "tùy viên thương mãi sô viết", và nhà độc tài Síttalin giao cho tướng mật vụ Ótlốp điều khiển chiến dịch di tản.

Một viên chức cao cấp của Ngân hàng Quốc gia trung thành với phe quốc gia tìm cách bôi sửa sổ sách khiến tổng số vàng từ một ngàn tấn bị rút xuống còn 725 tấn. Viên chức này lại bố trí để 200 tấn vàng còn lại được giấu nhẹm, cả phe Negrin lẫn mật vụ sô viết đều không hay biết. Viên chức này là phó trưởng đoàn Thanh tra của Ngân hàng Quốc gia. Tên ông ta là Cabêra. Dường như Cabêra đã ghi lại rõ ràng bằng một bản phúc trình viết tay về các chi tiết liên quan đến sự hiện hữu của 200 tấn vàng. "Dường như" là vì sau đó Cabêra bị thiệt mạng trong một trận giao tranh gần thủ đô.

Trong số 4 viên chức Ngân hàng Quốc gia cùng tháp tùng chuyến tàu vàng qua Liên sô, có một bằng hữu thân tín của Cabêra tên Zimoro. Zimoro vốn đồng hương và học cùng trường với Cabera, nên mặc dầu lập trường chính trị của họ không hoàn toàn giống nhau -Zimoro có thiện cảm với phe tả nhiều hơn - họ vẫn gắn bó với nhau chặt chẽ và không giấu diếm nhau điều gì. Bởi vậy, Zimoro được Cabêra tiết lộ về vụ 200 tấn vàng.

Rượu vào lời ra, trong một bữa ăn quá chén tại Mạc tư khoa, kỷ niệm Cách mạng tháng 10 sô viết, Zimoro vô tình "bật mí". Tướng Ótlốp nâng ly mừng tình hữu nghị Sô-Tây hoàn toàn bền vững và nói:

- Sở dĩ 725 tấn vàng đến được Liên sô an toàn là do tinh thần yêu nước và trung thành với Quốc tế Vô sản của các companero[55].

Mặt đỏ như phẩm hường, khoa chân múa tay, Zimoro cười sằng sặc rồi buột miệng:

- Đồng chí ơi, đồng chí còn quên 200 tấn kia nữa!

Khi ấy ai cũng ngà ngà say, không tửu khách nào quan tâm đến câu nói của Zimoro. Tướng Ótlốp nghe rất rõ, ông nhìn Zimoro bằng vẻ sửng sốt nhưng ông không hỏi gì, ông cũng không trình báo sự tiết lộ kỳ lạ này lên tổng giám đốc mật vụ Yezhov, có lẽ khi ấy ông đã chớm có tư tưởng rời bỏ chế độ sô viết, ông không muốn mang thêm gánh nặng vào thân.

Ngoài Ótlốp ra, còn một sĩ quan cao cấp khác nghe được câu nói "bật mí".Đại tá hải quân Kudơnétzốp[56], bạn cố tri của Ótlốp nhưng là thành phần cộng sản trung kiên, giữ chức tùy viên hải quân tại hải cảng miền đông Cartagena, nơi các thùng đựng vàng được khuân xuống tàu biển.

Kudơnétzốp có một trí nhớ phi thường. Mấy năm sau trở thành bộ trưởng, ông yêu cầu mật vụ sô viết phối kiểm câu nói của Zimoro. Tây ban nha đứng ngoài đại chiến thứ hai, thủ đô Mađờrít trở thành trạm nghỉ ngơi và hò hẹn của các điệp viên đồng minh và phe Trục nên cuộc điều tra của mật vụ sô viết không bị cản trở bao nhiêu. Zimoro còn sống song ông ta ngậm miệng, và chỉ giải thích là trong cơn chếnh choáng, ông phát ngôn ẩu. Số vàng 200 tấn kia chỉ hiện hữu trong trí tưởng tượng sặc sụa rượu vốt ka của ông. Zimoro không chối quanh được lâu vì vợ ông cũng được nghe ông tâm sự nhiều lần như vậy.

Sau cùng Zimoro đành thú thật là do Cabêra dặn lại. Cabêra đã chết, không còn ai để xác định sự thật này nữa. Bằng hứa hẹn tiền bạc và bằng hăm dọa khủng bố, điệp viên sô viết áp đảo tinh thần, Zimoro trong nhiều tuần, nhiều tháng liên tiếp. Zimoro vẫn một mực đáp không biết. Cuộc điều tra bị khựng lại vì đến lượt Zimoro chết.

Mật vụ sô viết[57] KGB lái cuộc điều tra theo một hướng khác ngay sau khi đại chiến chấm dứt. Đó là năm 1946. Cuộc điều tra mới này nhằm liệt kê và truy nguyên tông tích những người gần xa liên hệ đến vụ chở vàng và còn sống.

Đầu năm 1947, một bản đúc kết của trung gương KGB được đệ trình lên Síttalin. Theo bản đúc kết này, về phía Tây ban nha, số người liên hệ là 84 người, không kể các yếu nhân như tổng thống cộng hòa Azana, thủ tướng Caballero, bộ trưởng Tài chính (sau là thủ tướng) bác sỉ Negrin và bộ trưởng Hải và Không lực Prieto vì họ chỉ dựa vào con số 725 tấn vàng do Ngân hàng Quốc gia kiểm kê để tổ chức cuộc di tản.

Phó trưởng đoàn Thanh tra Cabera được coi là thành phần chủ mưu. Zimoro được Cabera báo tin chứ không biết chi tiết. Tham dự cuộc khuân chuyển mười ngàn thùng vàng, tổng cộng 725 tấn xuống tàu ở Cartagena có 60 thủy thủ Tây, 20 tài xế Tây lái 20 chiếc cam nhông trọng tải 5 tấn từ Cartagena đến một kho đạn cũ của hải quân cách cảng này 8 cây số về một phía trên một ngọn đồi, và sau hết là 4 viên chức Ngân hàng Tây trong đó có Zimoro đi theo công voa vàng sang Liên sô.

Nghĩa là 84 người cả thảy.

Phân nửa con số 84 người này đã thiệt mạng. Còn lại gần 40 người thì phân nửa của số 40 người bị thất lạc ở nước ngoài hoặc nếu sống trong xứ thì đã thay họ đổi tên để tránh sự theo dõi khủng bố của chính quyền Franco.

Nhân viên KGB thu thập đầy đủ tin tức về số 18 người còn sống. Họ nhận thấy chỉ có một người có thể nắm được những dữ kiện chính xác.

Người này là Luliô.

Đêm 22-10-1936, tướng Ótlốp cầm đầu đoàn cam nhông gồm 20 chiếc đến kho đạn Cartagena thì Cabêra cũng có mặt tại chỗ. Ông ta đôn đốc các thủy thủ liên tiếp trong ba đêm. Công việc bốc xuống tàu xong xuôi, ông mới lên xe quay về thủ đô. Cabêra luôn luôn đi kèm với một thanh niên khôi ngô, vạm vỡ, miệng hay cười, dáng dấp học thức, thượng lưu. Thanh niên này là Lulio. Lulio, tuy mới 20, đã lập được nhiều thành tích vẻ vang cho phe cộng hòa. Lulio gia nhập quân đội cộng hòa với tư cách trung sĩ tiểu đội trưởng. Gan dạ, bắn gíỏi trung liên, Lulio được tuyển chọn vào ban ám sát. Do sự tình cờ cấp trên cử Lulio đến cảng Cartagena giữa lúc có vụ chở vàng.

Lulio gặp Cabêra. Cũng do sư tình cờ, Cabêra là chú ruột của Lulio.

Một trong các nhược điểm của dân tộc Tây ban nha là sự trung thành với huyết thống, sự trung thành hầu như vô điều kiện, nhiều khi vượt qua mọi trở ngại chính trị và tôn giáo. Cabêra không mấy thiết tha của phe cộng hòa tả khuynh như cháu trai Lulio, nhưng đó không phải là lý do để hai chú cháu nghi ngờ nhau. Cabêra kéo Lulio vào vụ chở vàng. Cabêra đã nói với Lulio những gì, phải chờ tiếp xúc với Lulio mới biết được.

Giữa năm 1947, cuộc tiếp xúc được diễn ra trên đất Pháp giữa Lulio và một điệp viên KGB đội lốt cán bộ cao cấp của phe lưu vong Tây ban nha. Từ đó, Lulio bị xô vào lưới nhện do thám sô viết. Năm 1956, Lulio được KGB sắp xếp cho hồi hương. Lý do khién KGB có hành động này được gói ghém trong phiếu trình tối mật mang mã FR-230 cất trong "hồ sơ theo dõi" của tổng giám đốc sở KGB. Phiếu trình FR-230 tóm lược lại những điều KGB và Lulio biết về vụ 200 tấn vàng.

Phiếu trình có đoạn như sau:

"Việc kết nạp Lulio vào tổ chức và sử dụng y trong tương lai cần chiếu cố tới yếu tố căn bản:

1/ Lulio không phải là đảng viên cộng sản, y có quá nhiều cá tính, không ưa bất cứ sự gò bó nào, cho dẫu mai đây y được tuyên thệ gia nhập thì sự trung thành với Đảng cũng khó thể vô điều kiện.

2/ Theo lời Lulio, y chỉ biết lờ mờ về vụ 200 tấn vàng. Số vàng này được đóng thùng gỗ tương tự như những thùng chở về Liên sô, nghĩa là kích thước 30cm, 20cm và 48cm. Mỗi thùng đựng 65 kí vàng. Tất cả số vàng được di tản bằng đường bộ về miền đông nam, quê hương của Lulio cũng như của chú y là Cabêra và của Zimoro.

Cabêra phụ trách việc vào sổ và kiểm hàng nên vấn đề gian lận không mấy khó khăn, nhất là tình hình hồi ấy rất khẩn trương.

Chúng tôi đã hỏi Lulio nhiều lần, lần nào y cũng tỏ ra không mấy thiết tha tới vụ vàng. Chúng tôi có cảm tưởng Lulio biết khá nhiều mà cố tình giấu diếm. Có thể Cabêra đã chỉ cho Lulio biết nơi cất vàng. Hoặc cho biết nơi Cabêra giữ bản đồ kho vàng. Thái độ của Lulio không có gì khó hiểu: y không trung thành với chúng ta, hoặc giả y cũng trung thành song số vàng khổng lồ làm y tối mắt, y đóng kịch ngu si để rồi thời gian qua, mọi người sẽ quên đi, y sẽ một mình chiếm hữu 200 tấn vàng.

Vì vậy chúng tôi trân trọng đề nghị thượng cấp bố trí cho Lulio hồi hương rồi kín đáo theo dõi y. Khi có hoàn cảnh thuận tiện, ta sẽ giao cho Lulio nhiệm vụ tìm kiếm kho vàng. Tùy theo thái độ của y, sau này ta sẽ quyết định."

Năm 1964, Lulio trở về Tây ban nha.

Cuối năm 1965, một phiếu trình mới được đặt trên bàn giấy của tổng giám đốc mật vụ KGB sô viết. Nội dung của phiếu trình liên quan đến những chuyến đi chơi dọc bờ biển của Lulio:

"Chỉ trong vòng 3 tháng, Lulio về quê 4 lần. Chuyến nào y cũng lang thang nhiều ngày trên những mỏm núi nhìn xuống biển. Lắm đêm y không về nhà ngủ.

Điều đáng nói nhất trong 4 chuyến về quê này là Lulio đến thăm bà vợ của Zimoro. Như đã trình Zimoro là viên chức Ngân hàng Quốc gia thân cận với Cabêra.

Với sự cho phép của trú sứ, chúng tôi phái một điệp viên kinh nghiệm đột nhập nhà riêng của vợ Zimoro. Y thị đã già, tai điếc, mắt gần lòa, phải ngồi xe đẩy mặc dầu thân thể còn tráng kiện. Điệp viên này lục soát khắp các phòng và không tìm thấy một giấy tờ gì đáng lưu ý. Một tháng sau ngày Lulio ghé thì bà vợ già của Zimoro tạ thế về bệnh tim. Lulio không có mặt trong đám táng."

Tháng 1-1966, một tin tức làm dư luận năm châu chấn động: hai phi cơ Mỹ, một pháo đài bay B-52 và một phản lực cơ khổng lồ KC-135 chở xăng, đụng nhau vỡ tan tành trên không phận Tây ban nha.

Tai nạn bất thường này thu hút một số đông điệp viên quốc tế đến Tây ban nha. Điệp viên sô viết gửi về Mạc tư khoa gần 50 bức điện liên quan đến nội vụ.

Đây là tai nạn bất thường vì trong vòng 15 năm qua, pháo đài bay chiến lược B52 được tiếp tế nhiên liệu trong khi bay, và trong tổng số một triệu lần tiếp tế như vậy chỉ xảy ra 10 tai nạn. Năm 1965, cứ mỗi 6 phút rưỡi là có một vụ tiếp tế xăng trên trời thế mà không có một tai nạn.

7 nhân viên phi hành đoàn thiệt mạng, 3 sống sót, 200 tấn kim khí vỡ vụn hoặc thiêu cháy: đó là kết quả của tai nạn. Tuy nhiên, đó không phải là nguyên nhân khiến Quốc phòng Mỹ phải báo động đỏ cùng với các trú sứ CIA trong vùng Địa trung hải. Nguyên nhân này là chiếc B-52 lâm nạn chở bom nguyên tử, và những trái bom kinh khủng kia bị thất lạc ở miền nam Tây ban nha dọc bờ biển Anđaluzi, gần cảng Cartagena nơi bốc dỡ vàng 30 năm về trước.

Ông tổng giám đốc CIA thức trắng nhiều đêm liên tiếp để nghiên cứu hồ sơ "Mũi tên gẫy" . Mũi tên gẫy[58] là mật ngữ ám chỉ "tai nạn nguyên tử".

Ông tổng giám đốc KGB sô viết cũng thức trắng nhiều đêm liên tiếp. Vụ rớt bom nguyên tử không dính dấp nhiều đến ông vì loại bom này được trang bị một số bộ phận an toàn trăm phần trăm. Nó không thể nổ bất tử, nó cũng không gây ra nạn nhiễm xạ nguy hiểm đến sinh mạng. Theo thông lệ, ông chỉ ra lệnh cho thuộc viên thu thập tin tức.

Sở dĩ ông tổng giám đốc KGB mất ngủ vì trú sứ của ông ở Mađờrít gửi về một phiếu trình giật gân:

"Theo một nguồn tin xác đáng, lực lượng đặc nhiệm Mỹ đã tìm thấy 3 trái bom trên đất liền. Trái thứ tư, trái cuối cùng, nghe đâu bị chìm dưới biển.

"Chúng tôi nghi ngờ CIA lợi dụng cuộc tìm bom để tiến hành cuộc tìm vàng với ý định phỗng tay trên của ta. Họ mở rộng hoạt động trên một vùng biển Địa trung hải rộng 120 dặm vuông, ngay phía nam cảng Cartagena, với 4 diệt lôi hạm, 130 người nhái, gần 3.000 binh sĩ hải không quân Mỹ, họp thành biệt đoàn 65 dưới quyền chỉ huy của phó đô đốc Gét[59].

Biệt đoàn 65 gồm một số tàu gián điệp. Đơn cử:

-tàu Miza có máy chụp hình màu dưới đáy biển sâu, và máy an bài điện tử tối tân, tàu ngầm bỏ túi, tàu ngầm thí nghiệm Alvin và Aluminaut.

Người nhái lặn sâu đến 25m. Từ độ sâu này xuống đến 40m là nhiệm vụ của diệt lôi hạm. Đến 60m là nhiệm vụ của tàu ngầm bỏ túi Sealab II.

Sâu dưới 100m, họ sử dụng hai tàu ngầm thí nghiệm Alvin và Aluminaut với đầy đủ máy móc hải học.

Chúng tôi cho một "tàu đánh cá "trang bị dụng cụ nghe lén đến gần vùng lặn của tàu Alvin, họ bèn đưa hai diệt lôi hạm ra chặn.

Được tin gì thêm, chúng tôi xin trình tiếp theo thể thức hỏa tốc."

Ngày 7-4-1966, cuộc tìm bom chấm dứt. Trái bom thứ tư được tàu Alvin câu lên. Đúng 79 ngày, 22 giờ, 23 phút sau khi tai nạn xảy ra.

Cùng ngày 12-8, lại một mật điện khác: hai chiếc tàu đáng ngại này dường như được mang đến một vùng ở phía bắc Cartagena, cách nơi giấu vàng năm 1936 có một dặm.

Hoản hồn, ông tổng giám đốc KGB kêu điện thoại cho phụ tá chuyên môn. Nửa giờ sau một kỹ sư hải quân đến trình diện ông với hình ảnh và chi tiết về tàu Alvin và Aluminaut.

Alvin dài hơn 6m, là một kỳ công cơ khí[60]. Nó có thể nhìn rõ mọi vật ở độ sâu 2.100m. Tàu Aluminaut còn có thành tích kinh hoàng hơn[61], nó nặng 75 tấn, dài 15m, có thể xuống sâu 4.500m.

Theo họa đồ dưới biển thì khu vực chung quanh Cartagena được coi là sâu nhất Địa trung hải, từ 2.000 đến 3.500m. Hai con tàu lặn sâu kỷ lục này được giữ lại vùng này làm gì? Nếu không để lục lọi đáy sâu tìm những thùng vàng được Cabera và đồng bọn lén lút ném xuống?

Ông tổng giám đốc KGB nghĩ nát óc suốt đêm. Sáng hôm sau, tóc ông bạc phơ. Ông chỉ cất được tiếng cười thoải mái khi trú sứ KGB ở Mađờrít gửi về một phiếu trình ngắn ngủi mà súc tích:

"Hai tàu do thám Alvin và Aluminaut cùng các phương tiện cơ khí, điện tử do thám khác đã được đưa khỏi nam bộ Tây ban nha ngày hôm nay."

Ông tổng giám đốc KGB thở phào. Ông vừa báo động hoảng. Phe địch đang còn gà mờ về vụ kho vàng.

Ông bấm chuông gọi đại tá Navarô. Navarô là người Nga, lai Tây ban nha.

Navarô được ông sai đi Mađờrít.

Vòng vây gián điệp sô viết xiết chặt quanh cổ Lulio.

- ---

Trong danh sách gián điệp sô viết, Navarô là thành phần ưu tú. Chả thế mà y đeo lon đại tá từ hồi chưa đến 30 tuổi. Đại tá KGB, hơn xa đại tá quân lực, ngay cả những binh chủng cừ khôi như không quân và dù cũng thua kém rõ rệt. Muốn được cấp bậc đại tá KGB, như Navarô, phải chết hụt chừng chục lần. Mỗi lần thoát chết trong điệp vụ hành động đương nhiên được thăng một cấp.

Navarô gia nhập quân đội năm 17 tuổi với cấp bậc trung sĩ. Ra trường được năm rưỡi, y vọt ngay lên thiếu úy, rồi được xung vào KGB. Y tham dự một khóa huấn luyện đặc biệt 24 tháng. Năm 21 tuổi, thiếu úy Navarô được cử ra nước ngoài. Y thành công đều đều. Y được ban khen đều đều. Y lên cấp đều đều. Y là một trong những đại tá mật vụ nhiệm chức trẻ tuổi nhất.

Giữa năm 1966, Navarô qua Mađờrít làm phụ tá giám đốc trú sứ. Phụ tá vì y quen hành động, quen đấm đá, bắn súng, giết chóc. Y không quen suy nghĩ như các điệp viên văn phòng. Y đinh ninh đến nơi là có những cuộc rượt đuổi tóe khói, những xen đấu nhu đạo toát bồ hôi lạnh.

Té ra chẳng có gì hết.

Phẳng lặng như tờ.

Việc của y là việc bàn giấy buồn tẻ. Y ngứa ngáy tay chân xin được thuyên chuyển thì được ông tổng giám đốc bảo đảm bằng một chỉ thị rõ rệt "đừng nôn nóng, rồi sẽ có chuyện".

N 1966 nặng nề trôi qua.

N 1967 cũng nặng nề trôi qua.

Vẫn chẳng có gì hết.

Vẫn phẳng lặng như tờ.

Rầu thối ruột, Navarô năn nỉ ông tổng giám đốc cho về Liên sô nghỉ xả hơi một thời gian. Y xin hoài xin hủy Mạc tư khoa vẫn không cho phép. Đột nhiên y được triệu hồi. Không phải để nghỉ xả hơi. Mà để giáp mặt ông tổng giám đốc KGB tại trụ sở trung ương. Cùng hiện diện trong phòng ông tổng có một sĩ quan cấp tướng lạ mặt: một chánh sở của cơ quan gián điệp hải ngoại GRU.

Ông tổng giám đốc nói, vẻ mặt nghiêm trọng:

- Như anh đã biết, sở KGB ta chỉ phụ trách tình hình trong nước và ở một số nước bạn Đông Âu, các quốc gia thuộc phe tư bản và phi liên kết thì giao cho các đồng chí bên GRU. Riêng tại Tây ban nha, ta đặt cả hai hệ thống KGB và GRU, đề phòng bị địch phá vỡ cái này thì còn cái khác vì địch ở đó cực kỳ đông đảo, mạnh mẽ và hữu hiệu.

Một nhân viên trung cấp GRU vừa đào ngũ trốn theo CIA. Một trung tá. Hắn làm việc tại trung ương Mạc tư khoa. Hắn biết rất nhiều về Tây ban nha. Nói rõ hơn, tất cả những gì dính dấp đến GRU ở đó đều bị hắn biết tường tận. Hắn có thể biết một phần tổ chức của ta, KGB nữa. Chắc chắn hắn bán những tin tức này cho địch và địch sẽ khai thác triệt để. Vấn đề đặt ra chỉ là vấn đề thời gian.

Một số hoạt động của Sở ta về vàng đã được thông báo cho bên GRU. Tên nhân viên phản bội khốn nạn này không thể mù tịt về chuyện ấy. Thế tất CIA biết ta theo dõi vụ vàng. Địch cũng biết Lulio là người của ta.

- Thưa ông tổng, địch biết được sự hiện diện của tôi không?

- Lẽ nào địch không biết. Địch có thể biết tên anh nhưng không thể biết nội bộ của ta ở đó. Về GRU thì hoàn toàn nát bấy. Các đồng chí bên đó rút phần lớn bộ phận ra khỏi Tây. Về phần ta, ta cứ ở lì. Địch biết tên anh càng tốt. Họ phải cử điệp viên hạng nhất tới.

Chỉ tập hồ sơ đề chữ "33" ngoài bìa đặt ở góc bàn, ông tổng giám đốc KGB nói:

- Từ ngày toán 33 được thành lập để theo dõi vụ vàng đến giờ, ta chưa tiến được bao nhiêu. Ta mới nắm vững được hai điều: thứ nhất, chắc chắn số vàng là 200 tấn vàng hiện nằm tại một nơi an toàn nào đó trên lãnh thổ Tây. Thứ hai, ngoài ta ra ít nhất một cơ quan khác xía vào, đó là CIA Hoa Kỳ, như vậy nghĩa là ta sẽ đụng đầu với nhiều đối thủ hóc búa. Thứ ba, Lulio chưa hề thật tình với ta, hắn cố ý giấu ta nhiều điều quan trọng. Tôi đã đọc kỹ những báo cáo về hắn từ hơn 20 năm nay. Hắn có trí nhớ bền bỉ, những lời hắn nói năm 1947 tại Pháp hắn đã lặp lại gần giống mươi mười lăm năm sau đó tại Tây ban nha. Tuy nhiên, trên một số chi tiết vẫn có sự tiền hậu bất nhất. Các cuộn băng ghi âm đều cho thấy giọng hắn rụt rè, sặc mùi giả dối, xảo quyệt, mỗi khi vụ vàng được nhắc tới.

Dầu muốn dầu không, Lulio là con bài tẩy định đoạt cho điệp vụ của ta. Ta chuẩn bị 20 năm nay với bao tâm cơ, ta không thể để nó vuột vào tay người khác.

Ông tổng giám đốc lấy từ hộc bàn ra cái chai bằng pha lê trắng muốt đựng một chất nước cũng trắng muốt, từ tốn rót đầy ly cho Navarô:

- Tôi mến anh vì anh giống tôi ở điểm, nhất là điểm uống nước suối, quanh năm uống nước suối, không màng đến rượu. Bót zom[62] anh uống hôm nay được đóng chai riêng cho đồng chí thủ tướng. Tôi trình báo về vụ vàng, đồng chí thủ tướng truyền tặng anh một két với lời cầu chúc thành công.

Về phần tôi, tôi nghĩ rằng con người sắt thép, thông minh, tài ba tuyệt vời như anh, rượu không thèm uống, thuốc lá không thèm hút, tất cả sinh lực đều dồn vào nhiệm vụ, con người ấy luôn luôn thành công. Nào, ta cùng uống bót zom để mừng sự thành công sắp tới của đại tá Navarô.

Tối chủ nhật ấy, cái đinh của tấn tuồng tranh chấp điệp báo giữa Nga và Mỹ, Lulio ngồi uống nước suối một mình trong tiệm cà phê trong khu chợ trời.

Chẳng hiểu sao Lulio sinh trưởng ở vùng sản xuất rượu nho thượng hạng, và hiện kiếm sống bằng nghề bán rượu nho ra ngoại quốc lại kị hơi men. Kị ở đây không có nghĩa là uống rượu thì mặt đỏ như gấc chín hoặc say bí tỉ. Ngược lại, càng uống thì mặt Lulio càng xanh. Xanh đến độ trắng bệch như tờ giấy. Ông không hề say. Ông không uống rượu vì ông không thích, chỉ có thế thôi.

Lulio thờ thẫn hồi lâu trước ly insalút[63].

Tuy mê nước suối, ông chỉ uống mỗi hiệu này. Không phải vì nước suối insalút có lợi cho sự tiêu hóa, hoặc phát xuất từ một rặng núi gần quê ông. Mà vì bản tính ông mơ mộng, ly nước trắng xóa, nổi bọt lăn tăn, nhìn xuyên qua pha lê ông luôn luôn có cảm tưởng đó là trái cầu được nhà chiêm tinh sử dụng để nhìn số mạng con người.

Tuy con nhà giòng dõi, ông lại long đong từ thuở hoa niên. Long đong vì ông muốn làm một cái gì cho đất nước. Bị thua thiệt, phỉnh phờ, ông muốn thoát khỏi vòng lưới nhưng nó cứ quấn lấy ông, ngày này qua tháng khác. Gần 20 năm trời, ông ôm trong lòng một bí mật ghê gớm. Nhiều lần, ông tưởng có thể nói ra được hết. Rốt cuộc ông phải ngậm miệng.

Lần này, liệu ông có nói ra được không?

Lulio rời mắt khỏi ly nước suối và quan sát chung quanh. Mađờrít là nơi làm ăn lý tưởng của các quán cóc. Dân chúng địa phương dường như mắc một bệnh bất trị, bệnh khát. Họ khát cả ngày. Họ uống từ sáng đến tối, từ tối đến sáng. Quán uống được mở nhan nhản, những khu phố càng cổ xưa, càng quanh co, càng thiếu ánh sáng, càng có nhiều tiệm giải khát.

Bàn nào cũng đầy người. Thiên hạ ngồi sát nhau như cá mòi đóng hộp. Lề đường bị choán phân nửa. Đối diện cũng là một quán cóc chuyên bán hótsata, sữa hạnh nhân ướp lạnh, khách còn đông đúc và hỗn độn hơn. Lòng đường chỉ còn vừa đủ cho một tắc xi nhỏ chạy qua. Khốn nỗi các yêng hùng xe hai bánh lại ưa tụ họp trên quãng đường này nên tuy là đường hai chiều, nó đã biến thành ngõ cụt.

Cuối ngõ cụt, cách nơi Lulio uống nước suối 20 mét là khách sạn Lưỡi Dao. Cái tên sắc bén này không do ngẫu nhiên mà có. Xưa kia khu chợ trời còn là nơi hạ thịt thì khách sạn Lưỡi Dao được giới anh chị dùng làm sào huyệt. Các cuộc thanh toán bằng dao thường diễn ra, lâu dần danh từ "lưỡi dao "được đi vào lịch sử.

Gọi nó là khách sạn có vẻ lạm dụng. Hệ thống khách sạn ở Mađờrít được định lượng bằng sao. Sang trọng bậc nhất mang 5 sao như Ritz, từ 2 sao trở xuống là hạng tồi. Lữ quán Lưỡi Dao này còn tồi hơn hạng tồi nhiều nấc. Nó chỉ được cái đồ sộ vì nó là tòa nhà bốn tầng duy nhất trong hẻm, mặt tiền bề thế không kém bề cao. Từ thời ông bành tổ còn sống đến giờ có lẽ người ta quên quét vôi thành thử màu vàng của tường và cửa biến ra một lô màu khác nhau. Phòng ốc và đồ đạc bên trong ít xập xệ hơn vì nghe đâu chủ nhân mới cho sửa chữa và thay thế một phần. Nhưng tóm lại, nó chỉ có thể được gọi là "nhà ngủ". Loại nhà ngủ thường thấy tại các thị trấn lớn, giá phòng rẻ mạt, chuyên cho gái giang hồ thuê.

Nó chỉ có một cửa ra vào ọp ẹp. Sau cửa là giẫy bàn của nhân viên lữ quán. Họ không cần hỏi tên khách. Họ chỉ cần khách trả tiền, rồi họ quăng cho chiếc chìa khóa có miếng bìa cứng ghi số phòng buộc tòng teng bằng sợi giây kẽm. Một gã bồi cười toe toét dẫn khách lên phòng.

Lầu nhất và nhì cho thuê buổi, thuê giờ. Hai phòng còn lại giành cho khách thuê thường trực. Khách thuê đều là những ông hoặc bà muốn giấu "phòng nhì". Thỉnh thoảng họ lén tới, xong xuôi, ai về nhà nấy. Bởi vậy, tiếng là có người thuê mà trên thực tế nhiều phòng ở lầu ba và lầu tư trống trơn.

Lulio có phòng ở lầu tư. Có phòng ở đó mặc dầu ông không lập "phòng nhì". Ông đang chơi trò đi dây cực kỳ nguy hiểm. Hớ hênh, vụng về một phần trăm tích tắc đồng hồ là rớt. Tài tử đi dây trong rạp xiếc có thể rớt xuống lưới bên dưới. Trong nghề này thì không. Bên dưới là vực thẳm. Là nghĩa địa. Là tử thần.

Lulio sắp có hẹn với một nhân viên cao cấp CIA. Hẹn đúng 8 giờ. Lát nữa. Trong nhà ngủ Lưỡi Dao.

Lulio xỉa tiền trên mặt bàn. Ông sửa soạn đứng dậy. Còn 30 phút nữa đến giờ hẹn.

Đột nhiên toàn thân ông ớn lạnh. Vực thẳm không đáy. Nghĩa địa âm u. Tử thần tàn bạo... Từ nhiều năm, nhiều tháng, nhiều ngày đi dây với mật vụ sô viết, lần đầu Lulio cảm thấy gần cận cái chết hơn bao giờ hết.

Cái chết đang nhìn ông bằng cặp mắt ốc lồi đầy tia máu đỏ ngang dọc.


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Tây Ban Nha 200 Tấn Vàng Đẫm Máu - Người Thứ Tám Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tây Ban Nha 200 Tấn Vàng Đẫm Máu - Người Thứ Tám   Tây Ban Nha 200 Tấn Vàng Đẫm Máu - Người Thứ Tám Icon_minitimeSun Dec 10, 2017 8:26 am

VI. Lá rụng về cội

Cột gã đàn ông trạc 30, ngực nở, bắp thịt nổi cuồn cuộn muốn giật tung đường chỉ may của chiếc áo thun chật, ngồi ở bàn bên đang liếc trộm ông.

Con ngươi của hắn lồi ra khỏi hốc mắt, tròn trạnh, đen sì như hai hòn bi. Mắt hắn sần sùi như vò cam sành, chi chít mụn và thẹo. Thấy Lulio quay sang, hắn vội cúi xuống đĩa chorizo, giả vờ rón một khoanh đút vào miệng. Chorizo là xúc xích thịt heo với ớt bằm, ngậm một lát cho thấm nước bọt thì cơ thể nóng ran. Lulio vốn khoái chorizo, lần nào nhìn thấy nó ông đều cảm thấy bao tử ấp áp. Khi ấy ông lại run rét.

Lulio không thể lầm. Gã đàn ông mắt ốc lồi này sắp sửa giết ông. Quang cảnh tiệm giải khát ồn ào như họp chợ . Người Tây giống người Trung hoa ở chỗ dùng quán nước làm nơi hẹn hò công việc hoặc trò truyện tầm phào. Hàng ngày, họ đóng đô độ 3, 4 giờ ở đó là chuyện thường. Mỗi thành phần xã hội có một quán nước riêng. Tiệm cà phê này không đến trình độ nổi tiếng như Lêon hoặc Riron[64], những bảng hiệu quốc tế bất cứ ai cũng biết.

Tuy nhiên, nó cũng mang một sắc thái rõ rệt: nó là nơi gặp gỡ bàn bạc của cuộc chê chợ trời.

Dân chợ trời không mấy hiền lành, bằng chứng nhiều khách ngoại quốc đã bị bịp cả ngàn đô la đau điếng. Tuy nhiên, họ không sặc mùi đâm thuê chém mướn như gã đàn ông mắt lồi vừa liếc trộm Lulio.

Ông cố moi trí nhớ để tìm một mấu chốt quen thuộc. Dường như ông đã đụng hắn nhiều lần, không phải một lần. Phải rồi … phải rồi … cách đây một tuần, ông đi xem trọi gà. Vừa đậu xe thì hắn tạt qua. Ông không để ý tới hắn mặc dầu hai hôm sau ông lại thoáng thấy bóng hắn trên kiếng xe chiếu hậu của ông.

Té ra hắn đi theo ông. Đi theo từ bao giờ? Chắc là mới đây. Hắn khó thể là nhân viên KGB. Mật vụ sô viết kiểm soát ông kín đáo hơn chứ không phơi mặt một cách lộ liễu, bất chấp thiên hạ. Phải chăng hắn là nhân viên Phản gián Tây?

Lulio xô ghế. Ông cần thử lại đáp số bài toán. Nếu hắn giết ông, hắn phải xuống tay ở giữa đường, sau đó hắn trà trộn vào đám đông, lẩn trốn dễ dàng.

Ông liếm mép, cố trấn áp sự lo sợ. Trừ phi hung thủ dùng súng, kỳ dư ông không ngán. Hồi trẻ, hoạt động trong quân đội cộng hòa, ông từng là tinh hoa của ám sát đoàn. Tuy tuổi đời đã lớn, thân thể ông còn tráng kiện, với sức nặng hơn 70 kí, ông có thể quần thảo tay đôi với gã mắt lồi trong khi chờ đợi sự can thiệp của nhân viên an ninh.

Gã mắt lồi đứng yên, bít chặt lối đi duy nhất còn lại giữa hai giẫy bàn ghế. Lối đi chật chội này men theo chân tường, từ bếp ra quầy tiền, sát cánh cửa giành cho bồi. Lulio không thể lùi. Ông đưa tay toan gạt gã mắt lồi sang bên. Gã cười nhã nhặn với ông rồi ngúc đầu thi lễ.

Như vậy gã là người quen. Gã cắm điếu thuốc lá giữa hai làn môi dầy và thâm, cúi gần mặt Lulio tỏ ý xin lửa. Lulio rút quẹt máy. Gã mắt lồi hít một hơi dài rồi nói:

- Chào ông Lulio. Tôi là bạn. Chúng tôi giúp ông chứ không quấy rầy như ông tưởng. Ông cứ giả vờ như không quen tôi và bước ra đường.

- Dĩ nhiên tôi không quen ông.

- Trước lạ sau quen. Cấp trên đang chờ ông.

- Cấp trên nào?

- Ông đừng hỏi nữa. Họ nghe được thì khốn.

- Tôi chẳng hiểu gì sất. Cấp trên là ai? Họ là ai?

- Khổ quá, ông Lulio. Dường như « họ" đang lởn vởn quanh đây. Họ không nương nhẹ đâu. Giết tôi, tôi không cần. Vả lại giết được tôi chẳng phải dễ nào. Chỉ sợ « họ" giết ông. Nè ông Lulio, ra ngoài, ông rẽ sang phải, tôi đợi ông trên vỉa hè nhà trọ Lưỡi Dao. Cấp trên đợi ông trên lầu …

- Trong lữ quán Lưỡi Dao?

- Phải.

- Lầu mấy?

- Đừng hỏi nữa.

Gã mắt lồi thở phì phì, giả vờ dụi mắt để quan sát khắp quán. Hắn phì nộn nhưng phản ứng khá lẹ làng. Mới đó gã đã chui vào một kẽ hở, nhường lối cho Lulio. Lulio có vẻ yên tâm hơn. Cấp trên của gã mắt lồi chắc là cán bộ CIA. Còn "họ" đây là … Kho vàng 200 tấn như đĩa mật thơm ngọt, ruồi nhặng từ bốn phương tám hướng trên khắp trái đất rủ nhau bay tới hàng đoàn, hàng lũ. Nhiều đến nỗi không còn biết "họ" là ai nữa. Họ là những cơ quan điệp báo chính quyền hoặc tư nhân thèm vàng. Biết đâu họ còn là KGB sô viết, những người dùng ông mà không hề tin ông.

Niềm lo sợ vừa giảm bớt lại gia tăng. Để trống ngực đập nhẹ, Lulio châm thuốc hút. Khách uống vẫn đông nghìn nghịt, người này ra người khác vào, cái bàn trống của gã mắt lồi đã bị chiếm.

Gã mắt lồi biến sau đống bàn ghế trên lề đường. Lulio tần ngần. Chung quanh ông toàn người là người vậy mà ông cảm thấy cô đơn như trên sa mạc mông mênh. Một thiếu nữ 15, 16 lanh lảnh rao bán dưa hấu. Quê ông sản xuất một giống dưa hấu độc đáo, ruột mềm như lụa, màu hồng dễ thương như đôi má con gái dậy thì. Những đêm nóng bức, người ta thường chiêu dưa hấu với ly rượu manzanilla thơm vị hoa cúc. Rượu nho manzanilla cũng là sản phẩm của quê ông. Bỗng dưng tiếng rao của cô bé tóc buông lơi và hình ảnh những trái dưa hấu xẻ đôi nằm ngửa trên cái bàn lót kẽm trắng giục ông nhớ đến quê hương miền nam. Nó không xa bao nhiêu, ông lại có ấn tượng rất xa, xa hàng vạn, hàng chục vạn cây số, xa đến nỗi ông muốn về cũng không về được nữa.

Vẩy ốc sần sùi mọc đầy lưng Lulio. Trong lòng ông, sự lo sợ vừa được thay thế bằng sự kinh hoảng. Ông thoáng thấy gã mắt lồi lởn vởn bên cái xe đẩy bán nước súc cô la pha quế. Mùi quế thơm ngát là mùi của quá khứ đầy nhựa sống và hy vọng.

Lulio muốn dừng lại kêu một ly. Ông không khát. Ông uống súc cô la để sống lại dĩ vãng. May ra dĩ vãng vàng son bồi thêm can đảm cho ông. Nhưng hai chân cứ bắt ông cất bước. Mặt tiền trơ trẽn của lữ quán Lưỡi Dao hiện ra. Bồ hôi dầm dề, ông đặt gót lên bậc cấp. Trên kia là phòng tiếp tân, cầu thang lên lầu, và những căn phòng gắn ổ khóa kiên cố. Vào lọt trong nhà, ông có thể an tâm được rồi.

Gã mắt lồi đằng hắng ra hiệu cho Lulio. Hắn vào trước. Lulio nhún vai chào ông thư ký già, đầu rụng gần hết tóc, cặp kiếng cận thị dầy bằng nửa đốt ngón tay. Ông thư ký đang lui cui tính sổ sau quầy. Ngọn đèn nê ông sau lưng ông lù mù như đèn dầu hỏa dưới thời Viễn Tây. Ông sửa mục kỉnh đến lần thứ ba mới nhận ra Lulio. Ông nhe hàm răng khủa chào trả rồi cúi xuống cuốn sổ vãng lai vàng khè như cũ.

Trong phòng khách lữ quán, ngoài ông thư ký già ra còn có hai cô gái phục sức gần như lõa lồ, son phấn trét đầy mặt. Loại gái chơi này bố ráp cả năm không hết, đường hẻm nào cũng nhan nhản. Vì thế, Nhà nước đâm chán, lính kiểm tục chẳng buồn mang xe cây đến hốt. Họ kiếm ăn, rao bán công khai trong lữ quán. Vì họ có số phòng và tên của từng khách trọ. Tùy mặt, tùy người, họ cung cấp món hàng thích hợp. Giờ đây, họ ngủ gà ngủ gật. 8 giờ tối còn quá sớm. Họ chỉ hành nghề từ nửa đêm.

Thần Bạch mi thật ác, nếu hai ả giang hồ xông tới, ăn vạ Lulio thì có lẽ Điệp vụ Muleta với sự đối đầu của những tổ chức kình chống quốc tế sẽ rẽ theo chiều hướng khác.

Bầu không khí vắng vẻ của tầng dưới lữ quán tạo điều kiện lý tưởng cho hung thủ hành động. Gã mắt lồi gặp biến sau khi vượt qua quầy thư ký sắp đến cầu thang xi măng. Một người đàn ông cao nhẳng, núp sẵn không biết từ khi nào xồ ra, nơi tay sáng loáng lưỡi dao nhọn.

Nhìn sơ lưỡi dao, gã mắt lồi biết ngay nó được rèn bằng thép Tôlét[65].

Bất cứ kiếm sĩ nào ở châu Âu đều phải nghe danh thép tôlét. Không rõ thợ kiếm luyện với chất gì, chỉ biết những cây kiếm Đức hoặc Á rập, nghĩa là bằng thép tốt nổi tiếng, chỉ đủ sức chơi với kiếm tôlét một hiệp là gẫy nát.

Kiếm Tây ban nha tốt là do …đàn bà. Thời xưa, vương tôn công tử Tây chuyên đấu gươm mỗi khi tranh chấp về tình yêu. Giỏi thì thắng, không giỏi thì bại. Nhan sắc giai nhân được đo lường bằng con số kiếm sĩ bị giết. Để bảo đảm chiến thắng cho kiếm sĩ, giới thợ đúc kiếm bèn mầy mò tìm học một công thức chế thép tốt. Thợ đúc tôlét còn có một đặc tài không nơi nào có: ấy là cẩn vàng trên thép.

Gã mắt lồi cũng là kiếm sĩ có hạng nên nhát dao của địch bị trượt ra ngoài. Tên cao nhẳng xoay mình nửa vòng, đâm ngược mũi dao sắc như nước vào yết hầu gã mắt lồi. Gã lạng sang bên để tránh song vẫn mang thương tích ở bả vai, một mảng áo bị kéo toạc, máu tuôn xối xả.

Lulio sững sờ trước cuộc đấu dao "ngoài chương trình" giữa hai người đàn ông lạ. Tuy tay không, gã mắt lồi còn giữ được quyền chủ động. Vết thưong khá sâu không làm gã mất tinh thần và suy yếu kỹ thuật chiến đấu. Gã xấn lên, chặn bắt một đường dao vụng về của địch, và trong chớp mắt gã ngáng địch ngã chổng kềnh trên nền nhà, lưỡi dao tôlét văng ra gần quầy ông thư ký già.

Hai ả giang hồ bật dậy. Một ả la lớn như tiếng chuông đồng:

- Bớ cảnh sát, họ đâm chém nhau!

Ông thư ký già chạy được mấy bước thì vấp té, mặt mày sưng húp. Nguyên nhân khiến ông vấp té là do ông quên đeo mục kỉnh.

Gã mắt lồi hất mạnh mũi giày, tên cao nhẳng đang lồm cồm bò dậy bị trúng độc cước nhào ra sau, đụng chân tường kêu rộp một tiếng khô khan.

Phút sững sờ, đã qua, Lulio co chân chạy ra cửa. Gã mắt lồi gọi giật:

- Lulio, Lulio, ông chạy đi đâu?

Lulio cắm đầu cắm cổ chạy ra giữa đường. Gã mắt lồi tất tưởi rượt theo.

Đoàng …

Một phát súng nổ. nạn nhân là gã mắt lồi. Viên đạn từ vỉa hè bay vào. Té ra tên cao nhẳng đang còn đồng lõa túc trực bên ngoài. Tên cao nhẳng dùng dao hạ thủ gã mắt lồi để hạn chế sự kinh động. Hắn thất bại, đồng lõa của hắn miễn cưỡng phải nổ súng.

Gã mắt lồi bị trúng đạn ngang ruột. Gã khuỵu xuống nhưng chưa chết. Tích tắc đồng hồ ấy gã mạnh hẳn lên. Con dao bằng thép tôlét nằm tênh hênh trong tầm tay gã. Gã lượm lấy, nâng cao. Lulio vẫn chạy. Ông cách gã mắt lồi 3 mét. Khoảng xa này không nghĩa lý gì đối với kẻ chuyên học nghề phóng dao.

Vèo … Lưỡi dao loang loáng trong không khí nửa tối nửa sáng. Nó xuyên qua da thịt Lulio dễ dàng như cây đũa nhọn xuyên qua trái chuối chín. Do một trớ trêu của định mạng, lưỡi dao trổ từ sau lưng ra trước ngực, cắt đứt những động mạch quan yếu nhất trong thân thể.

Lulio bị giết chết. Ông khựng lại rồi vập mặt xuống rãnh nước bên đường.

Gã mắt lồi cũng bị giết chết ngay sau đó. Giết chết bằng viên đạn thứ hai, phá nát con mắt bên trái.

Quãng đường trước mặt lữ quán Lưỡi Dao đông nghẹt công chúng hiếu kỳ. Tiếng síp lê cảnh sát kêu the thé ở đầu đường. Xa hơn nữa là tiếng kèn rồn rập, hối hả của xe hơi tuần cảnh.

Cuộc phục kích chớp nhoáng giữa hai cơ quan gián điệp vô danh đã khiến hai người chết: Lulio và gã mắt lồi. Nạn nhân thứ ba là tên cao nhẳng. Bắn hạ xong gã mắt lồi, đồng lõa của tên cao nhẳng xồng xộc từ ngoài đường chạy vào cầu thang. Tên này nhỏ nhắn, trắng trẻo như sinh viên đại học. Hắn dìu tên cao nhẳng dậy. Nạn nhân rên đau:

- Không khéo xương cổ bị gẫy, anh hai ơi …

Người được gọi là "anh hai" gắt:

- Lẹ lên, cảnh sát sắp …

Hắn không thể nói dứt câu vì một viên đạn đã cắt đứt cuống họng hắn. Tên cao nhẳng ngó miệng súng côn bốc kh.ói khét lẹt bằng cặp mắt kinh hoàng. Đoàng … lại một viên đạn được bắn trúng chỗ. Hai thi thể nằm chặn lên nhau. Bình hoa giấy đặt trên quầy tiền bị tiếng động lớn giốc đổ, những đóa hồng rớt phủ lên lưng họ.

Hung thủ có vẻ mặt và dáng dấp khoan thai, chững chạc của cấp chỉ huy. Hắn trạc tứ tuần. Phục sức khiêm nhường mà sang trọng. Trên miệng chễm chệ cái ống tẩu hình thù kỳ lạ, mùi thuốc thơm ngát.

Đối với người già dặn trong nghệ thuật nuốt khói thì ống tẩu này là công trình đẽo gọt bằng tay của hãng làm điếu Charatan[66] nổi tiếng trên hoàn vũ. Một bộ luôn luôn gồm 7 cái, mỗi cái giành cho một ngày nhất định trong tuần.

Ống vố người lạ đang phì phèo là ống vố của ngày chủ nhật.

Hôm nay là chủ nhật. Một chủ nhật có quá nhiều xác chết.

***

Đêm chủ nhật có quá nhiều xác chết ấy nghiễm nhiên Văn Bình trở thành thượng khách của viên đại úy trưởng cuộc cảnh sát.

Gác đìện thoại, hắn thót ra sân, nhảy lên xe díp. Hắn thuộc thành phần trẻ, tếu, hăng, nên giật vô lăng đuổi tài xế xuống đất. Hắn lái xe một mình đến khu chợ trời Rát tờ rô. Không thuộc viên nào được đi theo. Trong cơn hấp tấp hắn quên phắt Văn Bình. Chàng có thể lợi dụng cơ hội chuồn thẳng một lèo. Song chàng chẳng dại gì. Chàng đang cần đến chợ trời và lữ quán Lưỡi Dao hiện bị lực lượng an ninh cô lập. Chàng bèn tỉnh khô, leo lên ngồi cạnh viên đại úy dễ tính.

Xe chạy một quãng xa hắn mới nhớ đến ông khách thần tượng đấu bò. Là người Tây ban nha thuần túy có khác, hắn không coi sự hiện diện của chàng là trở ngại nghề nghiệp. Hắn rú kèn, đạp lút ga, phóng băng băng trên con đường đột nhiên rộng thênh thang vì mọi loại xe đều nép sang bên.

Sự sợ hãi của dân chúng trước tiếng kèn cứu cấp trên xe làm viên đại úy khoái trí. Hắn ưỡn ngực, xả thêm ga xăng. Hắn chọn những đại lộ chạy qua trung tâm thành phố mặc dầu lộ trình này dài gấp đôi. Khu này đông người và xe, hắn cảm thấy oai hơn.

Trong chốc lát, xe díp đến Gran Via, Phố Lớn, con đường lớn hạng nhì, chỉ đứng sau Calle de Alcalà, có thể ví với đường Tự Do ở Sàigòn. Kể ra, Văn Bình cũng khoái không kém viên đại úy. Chưa bao giờ chàng được phép phóng với vận tốc trăm cây số giờ giữa sự hoảng hốt của hàng trăm tài xế và khách bộ hành sợ xanh máu mặt. Góc đường, ở dưới hầm một tiệm kim hoàn đồ sộ, là nơi Văn Bình thường ghé để chiêm ngưỡng viện bảo tàng tí hon đồng hồ xưa giá trị của một tư nhân[67]. Tuy nhiên, chàng không thích nó bằng viện bảo tàng cũng tí hon và cũng tư nhân[68] ở bên phải. Nó là viện bảo tàng độc nhất trên thế giới về … Lưu linh. Đủ loại rượu từ đông sang tây, từ cổ chí kim, đựng trong ve chính cống của nó, còn nguyên nhãn, đủ màu sắc, đủ hình thù, đủ kích nước …

Két, két … rột, rột … Viên đại úy dộng hết chân thắng. Một chiếc díp từ đường ngang vèo ra, phóng nhanh như tên bắn, và kéo kèn cứu cấp bi ba bi bô. Vỏ quýt dầy móng tay nhọn… Ban đêm ở Mađờrít, không riêng ông đại úy trưởng cuộc cảnh sát trẻ tuổi của Văn Bình thèm "hù" thiên hạ bằng kèn báo động.

Nhờ trời, viên đại úy còn cứng tay lái, phản ứng chưa đến nỗi bị ma men làm hư cùn nên tai nạn không xảy ra. Tổn thất gần như vô nghĩa: một xe mép vè, xe kia vỡ nát đèn lái. Cả hai đều không dừng lại để kiểm kê. Tiếng máy ầm ầm, tiếng thủy tinh loảng xoảng che lấp những tiếng chửi thề tục tĩu.

Viên đại úy quẹo vào đường Đại sứ[69], bắt đầu địa phận chợ trời.

Hắn rú còi điếc tai hơn trước nhưng không dám duy trì sức nhanh hồi nãy. Nền đường chật hẹp đã đành, công chúng trong khu chợ trời lại mắc chứng bệnh bất trị: bệnh tỉnh bơ.

Cách lữ quán Lưỡi Dao 50 mét, tình hình lưu thông được cải thiện rõ rệt nhờ sự hiện diện của vòng đai an ninh. Nhân viên điều tra lăng xăng chạy tới chạy lui với đủ đồ nghề chụp hình, đo đạc, lấy dấu tay, và thu thập lời khai chớp nhoáng của một số nhân chứng.

Ba thi thể phủ vải trắng được đặt thành hàng trên băng ca, sửa soạn được khiêng ra xe Hồng thập tự. Viên đại úy quen mặt hầu hết mọi người. Hắn bông rua, chào hỏi loạn xạ. Hắn đi đâu, Văn Bình đi đó. Hắn không giới thiệu chàng. Cũng chẳng ai quan tâm đến chàng.

Một người mặc thường phục vỗ vai hắn, vồn vã:

- Lẽ ra chúng tớ chuồn về từ nãy. Ông giám đốc kêu điện thoại ra lệnh cho chúng tớ chờ cậu. Được xếp cưng thật sướng. Chúng tớ phát ghen với cậu.

- Đừng lỡm nữa bồ. Chẳng qua thằng cha chánh sở điều tra bị bệnh, nằm bẹp trong nhà thương, chỉ còn tớ võ vẽ đôi chút chuyên môn, lại tốt nghiệp khóa điều tra hình cảnh tại Hoa Kỳ nên ông giám đốc gọi tớ.

- Sướng rồi.

- Sướng gì bồ. Đêm nay tớ có công chuyện làm ăn tối quan trọng, bị ông giám đốc triệu thỉnh bất thần là xôi hỏng bỏng không. Bồ ơi, tớ có cảm tưởng đời tớ sắp tàn đến nơi. Tớ nghi có thằng nào thối mồm mách lẻo với xếp.

- Mách lẻo?

- Ừ. Chắc bồ chẳng lạ gì tớ ngấm nghé cô cháu của ông giám đốc. Lát nữa, tớ có hẹn với nàng.

- Chết cha!

- Dĩ nhiên. Ông ấy bắt tớ đến đây, tớ sẽ bận tíu tít cả đêm, nàng đợi tớ cả đêm khóc hết nước mắt, nàng sẽ ngờ tớ lăng nhăng này nọ và cho tớ "de".

- Ông tổng giám đốc không thích cậu?

- Thích chớ. Nhưng ông chê tớ bay bướm. Ông ấy sợ cô cháu khổ. Tớ lại khoái đấu bò. Ông ấy sợ sớm muộn tớ bị bò chém chết, cô cháu trở thành góa bụa. Thôi, bồ ơi, càng nói càng làm tớ đau ruột. Nạn nhân là Lulio. Lulio nào? Bồ có đủ hồ sơ lý lịch của Lulio và hai xác chết kia chưa?

Gã mặc thường phục bước lại quầy két, nơi một nam thư ký gương mặt sáng sủa, thông minh, đang ngậm cán bút, hất hàm:

- Viết xong rồi chứ?

Người thư ký khúm núm:

- Dạ, thưa đại úy trưởng cuộc, xong rồi.

Gã mặc thường phục được gọi là "đại úy trưởng cuộc" củng đầu người thư ký:

- Một con kiến trong khu chợ trời cũng biết tao là đại úy trưởng cuộc cảnh sát, khỏi cần mày long trọng giới thiệu. Kêu tao bằng ông hoặc đại úy là đủ. Nghe chưa?

- Thưa vâng, đại úy trưởng cuộc.

- Mày vừa nói dạ vâng sao lại quên béng. Đưa tờ trình cho tao.

Tờ trình gồm 4 trang lớn được viết chữ nắn nót, ngay hàng. Nội vụ được tường thuật từ A đến Z bằng giọng văn khô khan hành chính. Văn Bình đọc qua vai hai người, chàng chỉ liếc thoáng là thuộc làu. Chàng nửa lo nửa mừng khi nghe hai viên đại úy trưởng cuộc thảo luận với nhau về một số chi tiết trong tờ trình.

- Theo lời khai của ông quản lý khách sạn thì chỉ có một tên gian trốn thoát. Tên gian này ngậm ống điếu Chratan. Hừ … loại píp Charatan những ngàn rưỡi mỹ kim một cái. Trên khắp Tây ban nha, người có tiền mua nó để hút có thể đếm được trên đầu ngón tay. Đây là một tiết lộ tối hệ. Ông quản lý bị cận thị nặng?

- Tớ cũng đặt nghi vấn như cậu. Nhưng ngay sau đó thắc mắc của tớ đã được giải tỏa. Đeo kiếng vào, ông ta nhìn rõ như mọi người.

- Còn cái ống điếu?

- Ông quản lý là tín đồ của ống điếu. Ông ta hút píp từ 40 năm nay, trong nhà có gần một trăm cái khác nhau. Ông ta chỉ mơ ước một điều trước khi nhắm mắt: mua ống điếu Charatan. Vì vậy ông ta khó thể nhìn lầm.

- Vấn đề khám phá thủ phạm đã được gỡ rối phân nửa. Ta chỉ cần tập trung cuộc điều tra vào giới hút ống điếu Charatan. Hiện giờ có một điểm lý lịch tớ cần hỏi cậu. Hai xác chết kia không có giấy tờ chứng minh trong mình?

- Không. Ban giảo nghiệm cho biết trừ phi họ là ngoại nhân, nếu họ là công dân Tây thì chậm lắm đến sáng ta có kết quả.Tên. Địa chỉ. Nghề nghiệp. Quá khứ. Vợ con …

- A, về khoản vợ con, bồ liên lạc được với gia đình Lulio chưa?

- Gọi điện thoại thì chuông reo mà không có người nhấc lên nghe, tớ sai nhân viên đến tận nơi. Té ra nhà đóng cửa im ỉm. Trong nhà không có ai.

- Bà vợ?

- Không thấy ở nhà.

- Cô con gái?

- Tên là Diane. Nàng là con riêng của bà. Nàng không ở chung với cha ghẻ Lulio.

- Thật kỳ quặc: cả Diane cũng biệt tích.

Viên đại úy cùng đi với Văn Bình chỉ tờ giấy màu vàng đánh máy chi chít chữ được chặn bằng cái đĩa gạt tàn thuốc trên mặt bàn để khỏi bị quạt máy thổi bay.

- Cái gì đây cậu?

Đồng nghiệp « trưởng cuộc" của hắn chắt lưỡi, hít hà:

- Á à, suýt nữa tớ quên. Bản tóm lược một vụ án mạng xảy ra hồi chiều trong khu Thị sảnh. Tớ nhận thấy nó liên hệ phần nào đến Lulio nên rút cho cậu đọc.

- Án mạng, lại án mạng …Thiếu gì ngày, chúng nó lại chờ đúng ngày chủ nhật để giết nhau, bắt mình bỏ hết thú vui hò hẹn … Tớ mỏi mắt, đọc không nổi, bồ kể vắn tắt cũng đủ.

- Đại khái án mạng xảy ra hồi 5 giờ chiều. Sanchez vừa ra khỏi nhà thì bị đâm chết bằng dao.

- Sanchez và Lulio liên hệ với nhau như thế nào?

- Khá thân. Bạn đồng hương. Vợ Lulio có họ với Sanchez. Cũng như Lulio, Sanchez buôn rượu nho. Và thích trọi gà.

- Tại sao Sanshez bị giết?

- Bí mật. hung thủ gồm hai tên trạc 19, 20, chở nhau trên xe máy dầu.

Đứng sau, Văn Bình tái mặt. Sanchez là người đàn ông mặc sơ mi trắng bẩn bị xô ngã xuống rãnh nước đen sì khi chàng từ nhà hàng Botin bước ra, trên đường tới đấu trường. Nếu chàng chặn bắt hai tên hung thủ thì chắc tình hình đã đổi khác.

Vì Sanchez là điệp viên CIA.

Vâng lệnh ông tổng giám đốc Sì mít, hắn tiếp xúc với Lulio, dọn đường cho Văn Bình đến Mađờrít. Theo chương trình, chàng sẽ gặp Sanchez sau khi gặp Lulio. Chương trình này hoàn toàn bị đảo lộn. Cả Lulio lẫn Sanchez đều chết. Những vai chính trong vụ 200 tấn vàng đều chết. Chỉ còn lại một tia hy vọng: Diane. Tình cờ chàng quen nàng. Trước khi bị lôi đi, nàng giẫy giụa, yêu cầu chàng báo tin cho cha nàng là Luli … Trời ơi, Luli là Lulio. Chàng đã bỏ lỡ cơ hội không biết bao nhiêu dịp may.

Dịp cứu sống điệp viên CIA Sanchez, bắt giữ hai tên địch. Dịp giải thoát Diane ở nơi đậu xe. Dịp bảo vệ Lulio trước lữ quán Lưỡi Dao … Những cơ hội bằng vàng ấy không thể nào trở lại nữa. Trong những giờ, những phút khẩn trương sắp tới Văn Bình phải hoạt động một mình, không ai hướng dẫn giúp đỡ. Như người mù lạc giữa đường phố đông đúc. Như kẻ tìm vàng đói khát lang thang trên sa mạc nóng bỏng bao la …

Viên đại úy quay lại và nhìn thấy Văn Bình. Mặt hắn răn rúm như cái bị ăn mày. Hắn sực nhớ chàng là người lạ. Hắn nổ lớn:

- Ơ kìa, ông tới đây làm gì?

Chàng đáp:

- Đại úy mời tôi. Nể quá tôi phải đi theo. Như đại úy đã rõ, tôi có hẹn.

Nhìn cặp mắt soi mói và băn khoăn của viên đại úy, Văn Bình chột dạ. Chàng vừa phạm một lỗi lầm tai hại. Hồi nãy, ở văn phòng trưởng cuộc với đống chai rượu oloroso thơm gon và bọn thuộc viên nhảy nhót tưng bừng, hắn coi chàng là thần tượng. Hắn không còn nghĩ đến nhiệm vụ chuyên môn là điều tra, truy tầmn bao vệ an ninh. Hắn chỉ nghĩ đến nghệ thuật điều khiển con bò rừng bất kham hung hãng bằng vuông vải đỏ muleta giữa tiếng reo hò cuồng nhiệt của muôn ngàn khán giả. Giờ đây, hơi men tàn nhạt, giác quan thứ sáu của nhà điều tra cảnh sát thức dậy trong lòng hắn mãnh liệt và bén nhậy.

Hắn nắm cánh tay Văn Bình:

- Suýt nữa tôi quên. Thầy đội của tôi bắt giữ ông vì thấy ông lái chiếc xe vi phạm luật.

Văn Bình hoảng hồn. Tuy vậy chàng vẫn trả lời bình tĩnh:

- Vâng. Thầy đội đã tỏ ra sốt sắng đến độ phi lý.

- Xe của ông là kiểu Crazy Điên tàng, lòng máy 1.300 phân khối.

- Tôi mượn tạm của người ta nên không để ý mác xe là Điên tàng hay không Điên tàng, tôi cũng mít đặc về kích thước của mô tơ.

- Ông mượn của ai?

- Tôi đã nói hết với thầy đội.

- Nếu tôi không lầm, tên chủ xe là Diane. Cô Diane. Con gái của Lulio. Cháu của Sanchez. Nghĩa là có tương quan ruột thịt với hai người bị giết đang nằm ở đây.

- Tôi không hiểu.

- Hừ, ông không hiểu, nhưng tôi, tôi hiểu. Tôi chưa được hân hạnh biết tên ông.

Nguy rồi, Văn Bình bị dồn vào thế kẹt. Chàng không thể tiếp tục cuộc đối thoại vì nó đang biến thành cuộc thẩm vấn. Thượng sách là đào tẩu. Nhưng đào tẩu cách nào? Toàn khu bị cô lập. Nhân viên cảnh sát nhan nhản khắp nơi. Trong nhà. Trên vỉa hè. Ngoài đường. Trong hoàn cảnh này chàng chỉ chạy được mươi bước là bị bắn ngã.

Viên đại úy lặp lại câu hỏi. Hắn bắt đầu ngờ vực chàng. Bằng chứng hắn buông thõng một tay ngang hông trong tư thế sẵn sàng rút súng. Văn Bình nhún vai:

- Thầy đội chưa trả sổ thông hành cho tôi.

Viên đại úy giọng hơi dấm dẳn:

- Tôi hỏi tên ông chứ không hỏi thông hành mang số mấy. Không lẽ tên ông, ông không nhớ.

- Có thể.

- Đây là trưởng cuộc Cảnh sát ra lệnh, ông không được phép nói đùa.

- Tráng sĩ đấu bò không thể tuân theo bất cứ ai.

- Trên bãi đấu, tráng sĩ là ông vua, là ông thần được công chúng hoan hô, sùng bái. Tôi cần nhắc nhở ông, đây không phải là đấu trường Monumental.

Viên đại úy trưởng cuộc đã sẵng giọng. Văn Bình cười nhạt, không đáp. Giây phút sự thật -hora de la verdad theo ngôn ngữ đấu bò- sắp đìểm. Chàng chờ hắn móc súng để lật ngược tình thế, dùng hắn làm con tin đảm bảo cho chàng thoát khỏi lữ quán Lưỡi Dao an toàn.

May thay, một biến chuyển chàng không bao giờ ngờ tới đã xảy ra.

Ngoài cửa lữ quán có tiếng hô lớn:

- Đứng lại, đứng lại.

Tiếp theo tiếng hô là một bóng người từ lề đường xồng xộc vào nhà. Một loạt tiếng nổ chíu chíu xé tan bầu không khí nặng nề. Những tiếng nổ này từ khẩu tiểu liên trên tay người lạ phát ra, hướng về phía Văn Bình và hai viên đại úy trưởng cuộc cảnh sát.

Trước đó một phần mười tích tắc đồng hồ Văn Bình phóng rạp xuống đất. Nhiều tiếng đoàng, đoàng, đoàng rồi tacata, tacata vang rền. Lực lượng an ninh phản công đồng loạt, ác liệt và chính xác. Người đàn ông lạ cầm tiểu liên bị bắn chết ngay.

Quang cảnh hỗn loạn diễn ra. Trước mặt, sau lưng Văn Bình toàn máu là máu. Chàng không bị trúng đạn. Chàng không có thời giờ soát xem viên đại úy cùng đi với chàng còn sống hay chết. Chàng chỉ thấy hắn ngã khuỵu.

Thừa cơ lộn xộn, chàng vọt tới cầu thang. Nhảy từng ba bậc một lên tầng trên. Trong khoảnh khắc chàng tới lầu chót. Tầng thứ tư có một cầu thang trôn ốc nhỏ xíu dẫn lên sân thượng lộ thiên. Nơi này không cao lắm, nhưng vì phía trước không bị bin đinh chọc trời che khuất nên chàng có thể nhìn thấy vùng sáng rực rỡ của trung tâm thành phố với siêu đại lộ Castellana đầy ắp trai gái thanh lịch, 6 hàng xe cộ chạy song song giữa những dinh thự nguy nga xây bằng cẩm thạch, những cửa hàng thượng lưu thơm mùi da thịt quốc tế gần bóng mát của rặng cây trinh nữ mimosa.

Văn Bình tuột ống máng xuống một ngõ tối. Những tiếng động do lực llượng an ninh gây ra để tiếp cứu người bị đạn và rượt đuổi hung thủ đã lùi nhạt sau lưng. Từ đây trở đi, chàngcó thể tự coi là an toàn. Không hiểu sao, chàng lại buồn rười rượi.

Có lẽ hình ảnh những cây trinh nữ hoa vàng ở con đường đẹp nhất Mađờrít vừa gợi dậy trong tâm tư chàng hình ảnh những mối tình thơ mộng nhất và cũng sầu khổ nhất. Tây ban nha là xứ có rất nhiều bô hê miêng, bộ lạc du mục lai giống Âu Ấn. Gái bô hê miêng khá tình, khá đẹp, vũ khá giẻo. Bộ lạc này sống lang thang, nay đây mai đó. Họ chuyên nghề bói toán hoặc bán hàng rong. Đặc điểm của họ là lường gạt. Họ gạt bán nhẫn vàng cho du khách với giá cắt cổ, kỳ thật là nhẫn giả bằng đồng. Họ còn một diệu thủ khác: móc túi. Kỹ thuật lắt hầu bao của họ đáng được liệt vào bậc thầy.

Năm xưa, khi Văn Bình về ngủ tại một khách sạn đờ luých trên đại lộ Catellana thì nghe tiếng gõ cửa phòng. Khách là một thiếu nữ phục sức cực kỳ sang trọng. Trông nàng không khác con gái ông vua dầu hỏa. Sự sang trọng này không làm chàng chóa mắt. Trái lại, chàng càng thận trọng. Người Tây là dân tộc chuộng bề ngoài. Nhà tỉ phú tiền rừng bạc biển sẽ bị quản lý khách sạn từ chối cho thuê phòng nếu áo quần ông ta kém tươm tất. Con nít mặc quần đùi chớ hòng vào nhà thờ. Đừng tưởng chàng trai diện com lê phẳng nếp, sơ mi và cà vạt lụa nhân tạo kia là con nhà lành … Có nhiều triển vọng y vừa mãn hạn tù về tội bịp.

Vì vậy Văn Bình giữ bộ mặt lạnh như tiền trước sự phô trương lộng lẫy của cô gái lạ. Nàng chẳng nói gì, chỉ đưa cho chàng cái bót phơi. Chàng hết hồn. Bót phơi này của chàng. Nó đựng gần 5.000 mỹ kim. Chưa kể một số chi phiếu du hành. Tổng cộng 13.000 đô la. Một món tiền kếch sù. Tuy nhiên, mất 13.000 đô la không phải là điều nguy hại đối với chàng. Nguy hại là mảnh giấy bé tí teo bằng nửa đầu ngón tay, giấu ở góc ví, ghi bằng mật ngữ địa chỉ một tiếp xúc nghề nghiệp ở Mađờrít. Mất mảnh giấy này, chàng sẽ phải lộn về Sàigòn.

Điệp viên già dặn như chàng bị móc bót phơi mà không biết kể cũng xấu hổ thật. Chàng đã vứt quần áo và thay đồ ngủ, lẽ ra chàng phải nhớ đến nó. Bữa ăn thịnh soạn, rượu huýt ky tê mê, và giai nhân hấp dẫn làm chàng quên tuốt luốt.

Khi ấy chàng mới nhớ. Cô gái chưng diện đúng thời trang Ba lê này chàng gặp trước độ 10 phút. Dưới bóng một cây trinh nữ. Loại cây biết xấu hổ như con người. Cô gái cùng đi với một bà già. Bà già chỉ hơi chạm nhẹ chàng. Có thế thôi.

Té ra họ là bô hê miêng. Nữ hoàng không ngai về khoa móc túi.

Cô gái trả cái bót phơi còn nguyên tiền bạc và giấy tờ cho Văn Bình rồi ù chạy ra cửa. Chàng rượt theo giữ lại. Nàng òa khóc. Dỗ dành mãi nàng mới nói. Hai mẹ con nàng chuyên hành nghề ở những đô thị lớn châu Âu. Nàng ưa Mađờrít vì khí hậu ở đây hợp với nàng. Mẹ nàng rón được cái ví dầy cộm của chàng trong lúc nàng quay ra chỗ khác. Nàng phản đối mẹ. Mở ra thấy có quá nhiều tiền, bà mẹ không muốn trả. Nàng dùng đến nước mắt bà mẹ mới chịu. Mẹ nàng đã hiểu lý do khiến nàng chê hơn chục ngàn mỹ kim, số tiền khả dĩ giúp gia đình nàng tậu một căn nhà, chấm dứt nếp sống cầu sương điếm cỏ. Lý do này là ái tình.

Tiếng sét ái tình đã thay đổi hoàn toàn. Văn Bình cũng cảm động không kém. Chàng gác hết công việc, chung sống với nàng, hòa trộn cùng sinh hoạt bô hê miêng. Có lúc chàng tưởng như chàng trở thành người bô hê miêng chính cống, chàng không còn là người Việt con cháu vua Hùng nữa.

Đùng một cái, nàng bỏ chàng. Sau một dêm sánh vai tình tự trên đại lộ Castellana có nhiều cây trinh nữ. Nàng bỏ chàng mặc dầu nàng vẫn còn yêu. Nàng mang máu hồ hải trong người, nàng không thể dừng chân ở đây được lâu. Nàng không đòi hỏi gì ở chàng. Không tơ hào một xu, tuy nàng nghèo mạt rệp, nàng phải tiếp tục hành nghề lắt túi. Thậm chí nàng giống chàng ở nhiều khía cạnh. Yêu bất thần. Yêu vũ bão. Yêu trọn vẹn. Yêu toàn diện như thể ngày mai mình chết, mình không còn dịp yêu nữa. Thế rồi bất thần chia tay mà không phản bội. Chia tay mà không ai giận ai …

Từ bấy đến nay, chàng không hề gặp lại nàng. Mặc dầu mỗi lần ghé Mađờrít, chàng đều lui tới những nơi gia đình nàng và các nữ quái bô hê miêng khác hành nghề … móc túi.

Ánh đèn sáng quắc và giòng xe cộ lưu thông ồn ào lôi kéo Văn Bình ra khỏi cơn mơ dĩ vãng. Mới đó chàng đã ra đến Puerta del Sol, Nhật môn, công trường rộng nhất của thị trấn, 9 con đường phát xuất từ Nhật môn. Hầu hết lộ trình vận chuyển công cộng đều chạy qua đó.

Chàng đã hoàn toàn ra khỏi khu chợ trời và vòng vây của cảnh sát. Chàng có thể nhẩn nha cười duyên với các cô gái bản xứ phục sức sặc sỡ đang uốn éo trên vỉa hè. Và trước hết, chàng cần một gói Salem.

Cách chàng mấy thước là một ki ốt bán báo, bánh kẹo và đồ vặt vãnh. Người bán có khuôn mặt trẻ, miệng cười lẳng lơ và cặp mắt lá răm ướt át. Không đẹp song dễ thương. Dẫu nàng xấu như ma mút, chàng vẫn phải tạt vào mua thuốc lá bạc hà. Huống hồ nàng thuộc loại sạch nước cản. Con số éttăncô[70] dọc đường phố lên đến hàng trăm, nhưng năm thì mười họa mới vớ được một nhan sắc mặn mòi. Nàng cười với Văn Bình. Cười thân mật như thể quen chàng từ … khuya.

Các tờ báo mới ra lò treo lủng lẳng hai bên ki ốt. Chẳng hiểu Mađờrít có độc giả … cọp hay không, Văn Bình chỉ thấy một đống người cúi đầu, dí mắt sát đống báo đọc tin tức sốt dẻo.

Chàng xỉa tiền mua Salem, cô gái xinh xắn ngồi giữa ki ốt, không nghĩ đến việc lượm tờ bạc để thối lại tiền lẻ. Nàng cũng không mở nắp tủ kiếng lấy cho khách gói thuốc. Nàng cứ ngó chàng trân trân. Ngó rồi nàng so sánh với xấp hình đen trắng đặt trước mặt nàng.

Văn Bình liếc xấp hình, nước da của chàng bỗng xanh mét như bệnh nhân thiếu hồng huyết cầu. Thật là đại nạn đối với chàng. Xấp hình đen trắng lớn bằng hai bàn tay là hình của chàng. Phải, hình của chàng được một nhật báo lớn in thành phụ bản phát không. Bên trên có hàng chữ đậm nét « Thiên thần matađo vô danh». Bức ảnh được chụp tại đấu trường, nhiếp ảnh viên dùng ống viễn kính và chụp toàn thân với vận tốc nhanh, sau đó đem phóng lớn và in ốp sết. Dầu vậy, nó khá giống. Sở dĩ cô gái éttăncô ngó chàng trân trân, quên hết mọi việc là vì ông khách mua thuốc lá giống « Thiên thần matađo vô danh" như đúc cùng khuôn.

Điệp vụ bí mật của Z.28 tại Tây ban nha đã bị bật mí hoàn toàn. Hồi tối, viên đại úy trưởng cuộc cảnh sát đã nhận diện được chàng. Giờ đây đến lượt một cô gái bán hàng ngoài phố. Dân chúng ở đây sùng bái tráng sĩ đấu bò hơn chục lần thanh niên đợt sống mới sùng thượng tứ quái bít tơn. Chàng chưa đi được một bước là bị họ vây bọc, níu kéo. Người dân … nhà lành còn biết mặt chàng, không lẽ các điệp viên KGB, GRU, Quốc tế Tình báo Sở khôn như ranh lại mù tịt?

Tam thập lục kế dĩ đào vi thượng. Trong hoàn cảnh trớ trêu này, chàng phải rút dù cấp tốc. Chàng bỏ luôn tờ bạc, không chịu lấy gói thuốc lá, quay mặt ra đường, sửa soạn phóc qua công trường rộng thênh thang đầy nghẹt xe cộ.

Chậm rồi.

Bên trái có người. Trước mặt có người. Sự đời oái oăm thay: thiên hạ yêu mình té ra vô tình giết mình. Cô gái bán hàng chồm dậy, nắm áo Văn Bình, kêu lớn:

- Tráng sĩ đấu bò vô danh hồi chiều, bớ bà con ơi!

Liền khi ấy, đoàn xe cảnh sát từ khu chợ trời, nơi vừa xảy ra loạt án mạng thê thảm, chạy xẹt qua công trường Nhật môn.

Văn Bình chết chẹt.


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Tây Ban Nha 200 Tấn Vàng Đẫm Máu - Người Thứ Tám Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tây Ban Nha 200 Tấn Vàng Đẫm Máu - Người Thứ Tám   Tây Ban Nha 200 Tấn Vàng Đẫm Máu - Người Thứ Tám Icon_minitimeSun Dec 10, 2017 8:26 am

VII. Z.28 hết thời…

Công trường Nhật môn là ranh giới giữa hai khu tân tạo và cổ xưa của thành phố Mađờrít. Bên phải mở rộng đại lộ Alcalà, dài như vô tận, với rừng đèn nê ông muôn màu, tất cả những gì tráng lệ nhất, cửa hàng lớn, trụ sở công ty, ngân hàng, công thự, giáo đường và... đàn bà lượn lên lượn xuống như đèn kéo quân. Bên trái, đường Arênal nhỏ hơn, và đâu đây là đường Thị sảnh, đầu giây mối nhợ bất đắc dĩ của Điệp vụ Muleta.

Muốn thoát khỏi sự níu kéo của công chúng hâm mộ và sự bắt bớ của cảnh sát, Văn Bình phải chạy về hướng đường Thị sảnh. Dầu muốn dầu không, chàng cũng hãnh diện: từ xưa đến nay mọi biến cố lịch sử đều phát xuất từ Nhật môn, khởi nghĩa cũng như biến động, các tay giang hồ hảo hán và chính trị gia mưu đồ đại sự thường gặp nhau tại đó để tính chuyện đội đá vá trời...

Đêm nay, Z.28 cũng làm một chuyện chưa từng thấy: "đơn thương độc mã" phá tung vòng vây.

Chàng hất cánh tay. Một đống người đè chặn lên nhau. Cái éttăncô bằng gỗ bị xô nghiêng, sách báo văng vãi tung tóe. Đám đông gồm gần hai chục người. Một số ùa vào ôm chàng mà không hiểu lý do. Họ đinh ninh chàng phạm tội hành hung đàn bà con gái. Chàng quất cả bọn lăn chiêng xuống lòng đường.

Hai xe díp cảnh sát đậu lại. Nhân viên công lực túa xuống như đàn ong vỡ tổ. Trong loáng mắt, họ xán đến gần Văn Bình. Bắt buộc chàng phải dùng thăng thiên cước quét thành vòng tròn, mọi người lần lượt xẹp xuống như đụn rạ.

Văn Bình chọn con đường gần nhất: vắt giò lên cổ vọt như bay. Giòng xe cộ lưu thông bị tắc nghẽn bất thần, xe hơi tư nhân, xe gắn máy, xe buýt nhất là xe buýt to nghênh ngang - dồn cục chung quanh công trường. Tiếng máy nổ và tiếng kèn pin pin che lấp tiếng kêu la rượt đuổi đã giúp Văn Bình tàng hình dễ dàng.

Những con đường nhỏ không tên hoặc mang những tên dễ quên phía sau công trường Nhật môn họp thành một bát quái trận đồ nhằng nhịt bí hiểm. Vì vậy, Văn Bình chỉ chạy 200 mét là được an toàn. Bồ hôi đầm đìa, chàng mệt ứ hơi, phải dừng chân, dựa tường để thở. Chàng đang ở đoạn cuối một con hẻm nửa tối nửa sáng. Mùi rượu thơm ngào ngạt mơn man khứu vị của chàng. Ngay cuối hẻm là giẫy quán nhậu lộ thiên, dân nhậu xúm đông xúm đỏ quanh những cái bàn lót kẽm bầy la liệt jambón serrano, một món giồi bản xứ gọi là giồi núi vì nó được phơi nắng cho khô trên đỉnh núi phủ tuyết. Màu đỏ sậm, nó được cắt thành khoanh mỏng trong veo rồi chiên với xẹtvêza thì tất cả những ưu phiền của cõi đời này đều tiêu tan như có phép quỷ thuật.

Tuy rệu nước miếng, Văn Bình phải quay đi. Là vì những tờ báo in hình chàng, hình "thiên thần matađo vô danh" đang được lũ trẻ ong ỏng rao bán và nhiều tửu khách mua đọc, khề khà bình phẩm, Không riêng khu này, mọi xó xỉnh trong thành phố đều trở thành cấm địa đối với chàng. Và không riêng đêm nay, ngày mai, ngày mốt chàng đừng hòng chường mặt trên đường phố.

Không hẹn mà nên, hai chân của Văn Bình đưa chàng trở lại những bậc đá mòn vẹt từ công trường Thị sảnh dẫn xuống đường Thợ Rèn Dao. Chàng gặp Diane tại đó hồi chiều. Nàng là con riêng của vợ Lulio. Nàng là hy vọng cuối cùng của Văn Bình. Tuy nàng bị bắt cóc, chàng vẫn hy vọng tràn trề. Hy vọng này có thể được tìm thấy trong nhà hàng El Botin.

Tiếng đàn ghi ta xen lẫn tiếng phách và tiếng nhịp từ một hộp đêm bên đường vẳng ra, thúc hối, náo nhiệt, làm Văn Bình bồi hồi. Trong hộp đêm, thiên hạ đang mê man với bản fờlamencô[71].

Fờlamencô là điệu vũ dân tộc, bất cứ du khách nào cũng phải nghe ca và nhảy fờlamencô một lần. Con đường Thợ Rèn Dao bé tí và âm u này là nơi tập hợp của các nghệ sĩ fờlamencô nổi danh.

Lòng Văn Bình nao nao. Năm xưa, người đẹp móc túi bôhêmiêng từng rủ chàng đến đây nhiều lần để biểu diễn cho chàng thưởng thức. Lúc nàng đàn tây ban cầm, lúc nàng vũ và ca. Trời ơi, bài hát luôn luôn mở đầu bằng tiếng rên dài lên bổng xuống trầm tương tự như nhiều tiếng than thở của trai gái thất tình cô đọng lại rồi đâm xuyên da thịt vào tận tạng phủ và những đáy sâu thầm kín của tế bào thần kinh. Nó không còn là lời ca nữa. Mà là muôn ngàn tiếng nấc. Muôn ngàn tiếng thở dài. Những cái váy nhiều lớp vải màu sặc sỡ lòe xòe như bươm bướm. Những bắp chân thon đều. Những tấm thân nẩy nở tròn trịa. Trời ơi... Văn Bình cảm thấy tứ chi rời rã. Chàng bước không nổi nữa. Chàng muốn ghé ngay hộp đêm bên đường để hòa trộn với quá khứ đầy âm hưởng bôhêmiêng và nhạc fờlamencô.

Bỗng chàng rợn gáy.

Một chiếc xe gắn máy từ phía trong đường Thợ Rèn Dao quanh co, gập ghềnh, chạy tới, từ từ, chầm chậm, với hai gã đàn ông ngồi trên. Từ từ, chầm chậm như thể chờ đợi một cái gì.

Văn Bình rợn gáy vì chiếc xe gắn máy còn cách chàng đứng 10 thước là hiện thân của tử thần. Hai gã đàn ông ngồi trên xe không xa lạ đối với chàng. Chúng từng dí súng, bắt chàng giữ vị thế bất động tại nơi đậu xe gần đấu trường. Chúng từng bắt cóc Diane ngay trước mũi chàng. Khi ấy, chúng gồm ba tên. Giờ này còn hai. Nhận ra chúng không mấy khó khăn. Chúng thuộc thành phần độc đáo về khuôn mặt cũng như lề lối phục sức. Nhét chúng giữa đám đông nhung nhúc chúng vẫn không thể lẩn trốn thành công. Đặc điểm của chúng là thẹo và mụn. Tối thiểu mỗi tên mang hai vết thẹo trên mặt. Vết nào cũng dài và sâu. Thêm vào những chứng tích ghê tởm này là từng đám mụt cóc lổm ngổm đen sì. Áo quần chúng theo sát thời trang trong năm, áo đuôi bầu, quần ống rộng, dây lưng da to bản tuy nhiên sắc mặt vẻ dáng ngổ ngáo, hung hãn và đáng ghét. Chỉ trông diện mạo và kiểu ăn mặc câng câng ấy người hiền lành cũng nổi sùng, tát cho mỗi tên một cái.

Do đó, Văn Bình nổi sùng là chuyện dĩ nhiên. Hồi xẩm tối, chúng dám vuốt râu hùm. Không may chúng gặp lại chàng. Chàng quyết không nương tay.

Chiếc xe gắn máy tốp sát lề đường, đối diện nhà hàng Botin. Hai tên thót xuống, nhìn lơ láo tứ phía. Một tên dựng xe, móc thuốc lá hút phì phèo. Hắn giữ phận sự canh chừng bên ngoài. Bạn hắn xốc lại áo che khẩu súng cồm cộm dưới nách, đoạn xô cửa bước vào tiệm ăn.

Nếu là Sàigòn thì trời đã hơi khuya, nhưng ở đây lại còn quá sớm. Con đường Thợ Rèn Dao chứa đầy màu sắc bản xứ ; tiệm ăn ngon rẻ, fờlamencô được trình diễn mê say và quyến rũ từnng đêm nên khách dạ lạc rất đông.

Các cặp trai gái choàng vai bá cổ hoặc những chàng trai cô đơn, vượt qua nơi đậu chiếc xe gắn máy của địch, trò chuyện huyên thiên ầm ỹ hoặc lầm lũi, cúi đầu. Ai lo việc nấy, không quan tâm đến hai gã mặt thẹo mũi lõ mắt xanh.

Ngoại trừ Văn Bình.

Một trong hai tên khuất sau cửa nhà hàng Botin. Tuy không theo sát hắn, chàng vẫn đoán thấy sự việc sắp xảy ra. Hai tên mặt thẹo với bọn sát nhân tại lữ quán Lưỡi Dao chỉ là một. Chúng đều là thành viên của một cơ quan điệp báo quốc tế. Hiện thời Văn Bình chưa phăng ra xuất xứ của chúng. Song le chàng gần như chắc chắn chúng không phải là điệp viên KGB sô viết.

Rầy rà ghê! Chàng đinh ninh chỉ có một kẻ thù duy nhất, KGB sô viết. Té ra những hai. Đương đầu với hai kẽ thù trong tình trạng ẩn danh đã khó khăn, giờ đây chàng bị lộ diện hoàn toàn, sự khó khăn gia tăng gấp chục lần.

Cửa tiệm ăn mở hé, Văn Bình nhìn thấy lão quản lý trán hói khệnh khạng bước xuống vỉa hè. Mặc dầu tuổi lão chưa đến 50 nghĩa là còn lâu mới đáng tuổi ông lão.

Việc Văn Bình tiên liệu đã đến. Chóng vánh. Êm thấm. Như thể trò đùa. Bên này đường, gã mặt thẹo đứng gác cạnh chiếc xe gắn máy nâng cao bàn tay phải. Trong tay hắn lấp loáng nòng thép xanh biếc của khẩu súng trái khế. Khẩu HR.922[72].

Một trong các kiểu súng ngắn thông dụng trong làng điệp viên hành động vì kích thước gọn gàng, bá nhỏ mà không tuột, cối nó chứa được 9 viên đạn. Nó rất nhẹ, giới trong nghề gọi nó là "súng lông", ấy thế đường bắn lại chính xác tối đa.

Đầu khẩu "súng lông" được lắp ống hãm thanh bằng nhựa giẻo, tiếng bụp thật dịu dàng không thua âm thanh dịu dàng của chai sâm banh được khui đúng phương pháp. Hung thủ không phải tay mơ: khẩu súng giơ lên là nạn nhân loạng choạng rồi ngã ngồi, lưng dựa vào tường. Lão trán hói bị giết chết một cách lặng lẽ. Văn Bình không dám khinh địch vì trong khoảng xa 5 mét, hắn có thể bắn trúng tim không cần nhắm.

Bắn xong, hung thủ ung dung đạp cho xe gắn máy nổ. Bạn hắn cũng ung dung từ vỉa hè ra. Nếu không có sự phá đám đột ngột của một anh chàng say rượu thì cuộc hạ sát được kết thúc trơn tru như tấm ván thoa xà bông.

Phải, một anh chàng say rượu từ hẻm tối gần đó vèo tới như cơn gió, nhè đâm sầm vào ghi đông xe gắn máy. Nó đổ nghiêng, hai tên mặt thẹo đứng cùng một phía bị bánh xe đè chặn. Nhờ chúng giỏi võ nếu không ống chân khó tránh khỏi bó bột. Anh chàng say rượu lăn kềnh trên mặt đường. Từ xe hắn máy, ét xăng đổ ra lênh láng.

Hai tên mặt thẹo văng tục tùm lum rồi kéo nhau dậy dựng xe ngay ngắn.

Điều chúng không dè là anh chàng say rượu nghe rõ tiếng chửi. Chẳng thèm đáp lễ bằng miệng, hắn lục túi lấy quẹt máy. Xòe... ánh lửa bật cháy. Anh chàng say rượu quăng quẹt máy xuống vũng xăng. Trong nháy mắt, chiếc xe gắn máy vô tội chìm ngập trong đống lửa đỏ. Anh chàng say rượu vỗ tay reo hò thích thú. Hai tên mặt thẹo không dám lần khân để chữa cháy cũng như trừng trị anh chàng say rượu bạo ngược. Chúng vứt chiếc xe, kéo nhau tháo về phía công trường Thị sảnh.

Chưa bao giờ Văn Bình hên bằng khi ấy. Anh chàng say rượu là cứu tinh kỳ diệu của chàng. Giá không có hắn, Văn Bình chắc phải bó tay, bất lực nhìn hai tên mặt thẹo khơi khơi cưỡi xe thoát khỏi phạm trường, biến nhòa vào bóng đêm của khu phố cổ xưa.

Văn Bình không gặp trở ngại nào trên lộ trình rượt đuổi. Tắc xi ở đây hơn 4.000 chiếc, hệ thống chuyển vận công cộng khá bành trướng và tân tiến nên các bác tài rất chiều khách. Văn Bình ném tờ bạc trăm cho tài xế mặc dầu tiền trả tối thiểu mỗi lần lên xe chỉ 5 peseta. Tài xế hỏi đi đâu, chàng hất hàm về phía hai tên mặt thẹo đang vẫy tíu tít một chiếc tắc xi Seat chạy ngang.

Tài xế hiểu liền, miệng cười tủm tỉm, tắt đèn "cốt" thu mình chờ đợi. Khi chiếc tắc xi chở hai mặt thẹo giựt khỏi lề, bác tài mới nói ;

- Buenas noches[73], ngài yên tâm, tôi sẽ bám thật sát mà họ không thấy.

Chiếc Seat của địch tương đối nhỏ và gọn hơn chiếc tắc xi của Văn Bình, do đó nó luồn lỏi dễ dàng trong đám xe cộ ngược xuôi hai chiều. Bác tài của Văn Bình thuộc hạng cừ khôi nếu không đã bị bỏ rơi trên siêu đại lộ Alcalà.

Đến công trường Cibeles, bác tài bật tiếng cười khẩy ngạo mạn:

- A, nó kiểm soát!

Đúng, hai tên mặt thẹo rà rà tắc xi vòng quanh công trường để kiểm soát mặt hậu. Bác tài của Văn Bình khôn ngoan nhường hai chiếc xe hơi nhỏ làm trái độn. Giữa công trường là hồ nước phun với bức tượng nữ lưu mát da mát thịt, nữ thần Xiben[74], con gái của Trời theo thần thoại Hy lạp, được Trời giao nhiệm vụ cai quản tạo vật. Mỗi lần qua đây, Văn Bình đều hít hà... lo ngại. Nữ thần ngồi ngả trên xe, tấm thân đồ sộ của nàng dường như làm nền đất rung rinh.

Xe hơi vượt qua Bưu điện Trung ương, thẳng đại lộ Prađô về hướng nam, nơi có viện bảo tàng mang cùng tên, được coi là lớn nhất thế giới với những họa phẩm độc nhất vô nhị. Tình cờ Văn Bình thấy đại khách sạn Ritz nằm khuất bên trái. Tất cả những ai tự nhận là quyền quý và giàu có đều hẹn nhau tại lữ quán 5 ngôi sao này. Chàng cũng lấy phòng ở đó. Lấy phòng nhưng chỉ để gửi hành lý. Từ khi đặt chân xuống trường bay Baraját đến giờ, chàng vù thẳng một lèo, chưa hề có một phút rỗi rãi để buông mình trên nệm giường êm ái của lữ quán Ritz.

Ban đêm, viện bảo tàng đóng cửa, một lực lượng an ninh vô hình canh chừng tòa nhà màu hồng gồm hơn trăm phòng với hơn 7.000 siêu phẩm mỹ thuật cổ kim. Không hiểu sao Văn Bình lại có cảm giác nó còn mở. Tâm thần chàng xốn xang như hồi chàng đôi mươi, mới nếm hương vị yêu đương thật sự lần đầu. Niềm xốn xang này nhú dậy trong lòng khi chàng ghé thăm Prađô. Chàng dự định tạt qua một buổi vì chàng còn một lô việc chưa làm. Một buổi được kéo dài thành một tuần. Ngày chàng từ giã, chàng vẫn chưa hết bịn rịn. Trong nhiều đêm, chàng nhìn thấy trong mơ những bức tranh mỹ nhân khỏa thân của Ruyben, Titiên và Goya, các bậc thầy của nền hội họa thế giới.

Đàn bà lõa thể không còn là vật lạ đối với thanh niên 30, huống hồ Văn Bình là thanh niên 30 quá giàu kinh nghiệm. Vậy mà chàng say mê. Một phần vì bút pháp kỳ diệu của họa sư, phần khác có lẽ vì chàng giống họ. Cũng như họ, chàng mắc bệnh hào hoa, luôn luôn ham trái cấm, suýt bị mất đầu[75].

Cũng như họ, chàng bị một số người phẩm bình gay gắt. Nếu không có sự thông cảm của ông Hoàng thì Z.28 đã bị mai một ở nơi rừng xanh núi thẳm nào đó. Cũng như những bức họa khỏa thân tuyệt vời của viện bảo tàng Prađô kia đã tan tành tro than...[76] nếu không có sự bảo vệ quyết liệt của những tâm hồn phóng khoáng.

Như Văn Bình tiên đoán, tắc xi của hai tên mặt thẹo quẹo trái. Sau những con đường rộn rịp, chính giữa trung tâm thành phố là hai khu vườn nằm sát nhau, vườn bách thảo và Dật viên[77], địch phải chạy qua khu vực vắng vẻ này để dễ kiểm soát sau lưng. Văn Bình có thể vững tâm vì bác tài lái sát lề, nương theo những rặng cây lớn được bóng đêm che phủ an toàn.

So với vườn bách thảo này thì Sở thú Sàigòn chỉ là bóng mờ vô nghĩa. Phong cảnh ở đây nên thơ hơn. Hoa thơm cỏ lạ nhiều hơn. Nhưng đem so vườn bách thảo với Dật viên kế cận thì cũng như so Sở thú Sàigòn với nó. Trên một diện tích 350 mẫu đất bao la, Dật viên từng chứa đựng cung vàng điện ngọc và vườn hoa ngàn một đêm lẻ của vua chúa xa xưa. Giờ đây, những tráng lệ xa xưa không còn nữa, song du khách vẫn còn thấy cây cỏ dâm mát, những công trình điêu khắc mĩ miều, những hồ nước đẹp, một vườn hoa hồng rực rỡ, một cái hồ nhân tạo khá rộng có ca nô lướt sóng, và một hí viện lộ thiên, hai hộp đêm hấp dẫn. Ban đêm thú nhất là khi ôm ngang lưng người yêu tản bộ trên những lối đi thơm nức hương hoa, nhẩn nha ngắm hàng trăm con đom đóm lập lòe, tranh sáng với những cây đèn lờ mờ đặt trên bàn giải khát...

Đánh hơi được sự bứt rứt của Văn Bình, bác tài than thở:

- Trời thật đẹp. Uổng quá, phải không ông?

Văn Bình không tỏ thái độ. Bác tài nói tiếp:

- Chắc ông mới đến. Tôi có thể dẫn ông tới những chỗ thần tiên gấp chục lần. Tiếc là ông bân việc.

- Ừ. Mai hoặc mốt.

- Không sao, thưa ông. Bên tay trái của ông, cạnh cái hộp gạt tàn thuốc lá tôi để sẵn xấp danh thiếp. Mời ông lấy một cái. Trong đó có địa chỉ của tôi. Cả số điện thoại... cuatro... uno... cero... cinco[78]. Khi tôi đi vắng có người trả lời thay. Ông cần gì cũng có. Tốt thượng hạng. Giá biểu phải chăng.

Té ra bác tài có bộ mặt chân phương này là thành viên của "nghiệp đoàn ma cô" trong thành phố. Mađờrít có một tổ chức giắt gái đại quy mô, chỉ cung phụng giới thượng lưu và ngoại kiều. Tuy hành nghề ma cô, họ rất đứng đắn, không lừa khách hàng bao giờ. Những bông hoa lạ từ khắp nơi trên thế giới được họ mang về đây. Trò "nhất dạ đế vương" của họ còn giựt gân và sang trọng hơn nhiều lần những cảnh tương tự ở Hồng kông hoặc Tân gia ba.

Văn Bình ừ ào, rón một tờ bìa cứng màu trắng in chữ nổi, nhét vào túi.

Hết Dật viên, tắc xi lăn bánh lên phía đông bắc. Rõ ràng là hai tên mặt thẹo cố tình mua đường. Phía đông bắc của thủ đô Mađờrít là khu tân tạo, phố sá được chia cắt thành nhiều ô vuông vức đều đặn, đường chạy thẳng băng. Nơi này chan hòa ánh sáng, bác tài của Văn Bình lại phải áp dụng thủ đoạn "trái độn".

Hết đường Mola, thay vì chạy thẳng lên trường bay, tắc xi của địch quẹo vào một công trường xây cất rộng nhiều mẫu tây. Mađờrít có thể được ví đứa trẻ lớn nhanh như thổi, trong vòng mười năm nay, diện tích thành phố tăng gấp đôi, dân số tăng gấp ba và số xe cộ tăng gấp trăm lần. Đâu đâu cũng thấy nhà mới. Sườn sắt của những bin đinh chọc trời đâm tua tủa bên cạnh đoàn xe hủ lô và xe cần trục khổng lồ.

Công trường này được hoàn tất phân nửa, bên trái là những chung cư rẻ tiền, giành cho người thuê trung lưu, căn cứ vào lối kiến trúc đơn giản đến độ sơ sài. Giới trung lưu thường đi ngủ sớm nên nhiều căn tối om, căn nào còn thức thì cũng đóng cửa im lìm mặc dầu theo tiêu chuẩn Tây ban nha trời chưa lấy gì làm khuya. Bên phải, công tác đổ bê tông mới bắt đầu, những đống đá xanh, gạch gỗ, sắt tròn chất cao như núi.

Tắc xi của địch lượn loanh quanh một hồi giữa mê hồn trận của những đống vật liệu xây cất và giẫy máy trộn bê tông hình thù như cái trống kếch sù rồi tốp phía sau một tòa nhà 15 tầng chưa có người ở. Văn Bình chưa ra lệnh, bác tài khôn ngoan bẻ vô lăng vào một hẻm nhỏ chếch góc với tòa nhà, từ đó chàng có thể quan sát hai tên mặt thẹo dễ dàng.

Tắc xi của địch bon bon lái ra đường lớn. Hai tên mặt thẹo lần lượt khuất sau một cánh cửa mở sẵn của tầng trệt. Văn Bình móc túi lấy thêm tiền cho bác tài. Chàng không trao tờ bạc như dự tính. Bác tài xòe tay, miệng cười lộ cá hai hàm răng. Văn Bình hất ngược cùi trỏ. Chẩu quyền của chàng trúng cằm bác tài. Nạn nhân ngã ngửa xuống nệm. Chàng cẩn thận bồi thêm một atémi bằng đầu ngón tay. Bác tài sẽ mê man ít nhất nửa giờ. Chàng đánh bất tỉnh chẳng phải vì tiếc tiền mà vì chàng vừa bắt chợt một thoáng mắt của nạn nhân. Thoáng mắt có vẻ gian.

Văn Bình giật đứt dây đề ma rơ và dây kèn, nhét chìa khóa công tắc vào ví, đoạn men chân tường lại gần tòa nhà 15 tầng đồ sộ. Chàng không đột nhập cửa trước. Chàng đoán đây là sào huyệt tạm của địch, thế tất địch phải đặt nhân viên canh gác.

Chàng kiếm ra lối lên lầu không mấy khó khăn bằng cầu thang trôn ốc chữa lửa ở hông bin đinh. Chàng biết hai tên mặt thẹo đang ì ạch lên lầu 10. Vì từ một căn ở lầu 10 có tia sáng le lói. Nơi này chưa gắn điện. Chắc là ánh đèn cầy.

Thức ăn hồi chiều đã tiêu hóa hết, bao tử rỗng không, Văn Bình mệt rừ. Mệt rừ mà không dám nghỉ khỏe. Lên đến nơi, chàng cũng không dám thở mạnh. Chàng hít thật nhiều dưỡng khí rồi nhảy qua cửa sổ. Căn phòng có ánh đèn ở chính giữa lầu 10, cách nơi chàng núp gần hai chục căn. Chàng không thể dùng hành lang phía trước. Chàng phải bám song sắt của bao lơn phía sau bin đinh, quăng mình từ phòng này sang phòng khác như tài tử đu bay trong rạp xiếc.

Trăng sao không có, đèn đóm cũng không nhưng Văn Bình không tuột tay lần nào nhờ các chấn song mới sơn còn óng ánh màu sắc giúp chàng nhìn thấy rành rẽ trong bóng đêm bất khả xâm phạm.

Trong chốc lát, chàng đến sát căn phòng có ánh đèn khả nghi. Chàng mừng rơn: bên trong có tiếng người nói. Tiếng báo cáo của thuộc viên với thượng cấp.

- Đúng theo kế hoạch, tôi kêu hắn ra ngoài đường. Hắn đi ngay, không ngờ vực. Anh em tôi chỉ đét một phát.

- Chết liền?

- Vâng.

- Không ai nhìn thấy?

- Dĩ nhiên là không. Duy có một trục trặc nhỏ sau khi công tác được thi hành thông suốt. Chiếc xe gắn máy bị cháy, đành bỏ lại.

- Nguy to. Cảnh sát chận bắt?

- Không. Bình xăng bị chảy, gặp tia lửa bu gi phựt cháy, bọn tôi cứu không kịp. Vả lại, đây là xe bọn tôi "cầm nhầm" nên không sợ bị cảnh sát truy nguyên tông tích.

- Tưởng gì chứ như vậy thì chẳng sao. Chúng mày chịu khó ở lại đây.

- Canh giữ con nhỏ?

- Ừ. Có gì mà canh giữ. Con nhỏ bị trói và bit miệng bằng băng keo, cứng đét như khúc giồi ở căn bên, chúng mày khỏi lo. Một thằng ngủ, một thằng thức. Chia phiên nhau đến sáng mai.

- Tại sao chưa chở con nhỏ đi?

- Còn đợi lệnh xếp. Vả lại, lực lượng an ninh đã đặt nút chặn trên các đường vào thành phố. Thong thả mà làm, không có gì phải hấp tấp. À, từ đó lên đây, chúng mày có mở mắt thật rộng không?

- Rộng như biển Đại tây dương. Một con kiến rượt theo, bọn tôi cũng biết.

- Tao rất ghét tính nói ẩu.

- Thưa anh, em không ba hoa chích chòe. Em xin mang đầu ra bảo đảm. Bí mật trăm phần trăm.

- Giỏi, tao sẽ trình xếp lớn thưởng công cho chúng mày. Thôi tao về. Hátta manana...

Hátta manana nghĩa là "đến mai". Hai tên mặt thẹo sẽ ở lại trong tòa nhà 15 tầng bát ngát và vắng vẻ này cho đến mai. "Con nhỏ" tức là Diane. Văn Bình có thể giải thoát nàng dễ ợt như trở bàn tay.

Tiếng chào nhau rồi tiếng giày lệt sệt tiến về phía cầu thang. Thượng cấp của hai tên mặt thẹo bắt đầu trò chuyện.

- Mày sang bên kia ngủ. Lát nữa tao gọi dậy. Mỗi đứa được nghỉ 2 giờ.

- Hừ, 2 giờ ngủ chưa đã.

- Theo ý mày, phải ngủ suốt đêm mới đã?

- Đay nghiến nhau làm gì tội nghiệp. Thế này nhé, tao đề nghị: cả hai thằng cùng thức.

- Mày thích thức thì cứ thức một mình. Đừng rủ rê tao.

- Để yên tao nói nốt. Tao thèm ngủ thấy mồ. Sở dĩ tao nói đến vấn đề thức vì... vì trên bàn có mấy chai rượu chát và một núi đồ ăn.

- Của con nhỏ, không phải của mày. Đụng vào, anh hai đánh gẫy răng.

- Thì mình báo cáo là con nhỏ nó ăn. Pexebê[79] ngon có thể chết được, mày chê thì thôi.

Một xâu tiếng chửi tục tĩu văng ra. Tiếp theo là tiếng kéo ghế, tiếng chai cốc lanh tanh, tiếng khui nút, tiếng rượu rót vào ly. Văn Bình phát rệu nước miếng. Bao tử đang lép kẹp của chàng sẵn sàng đón nhận mọi thức ăn, huống hồ món pexebê từng được dân bản xứ coi là hấp dẫn số một.

Pexebê là loại nghêu độc đáo chỉ tìm thấy dọc bờ biển Tây ban nha, hình thuôn tròn, lớn bằng ngón tay út, vỏ mềm, người ta lượm gỡ nó trong các kẹt đá, đem luôc chín trong nước pha muối rồi ướp lạnh, nhậu rượu. Thịt nó thơm thơm, gần giống thịt cua.

Trên tầng thứ 10 này, ngoài hai tên mặt thẹo ra, không còn tên địch nào nữa. Chúng lại đang ngất ngưởng bên bàn rượu. Văn Bình có thể an toàn đột nhập phòng giam Diane.

Lùm sáng vàng vọt, yếu ớt chàng thấy hồi nãy là của một cây nến duy nhất. Văn Bình rón rén lại gần. Chàng đặt đế giày êm như lá rụng. Cho dẫu chàng vô ý gây tiếng động hai tên mặt thẹo cũng không quan tâm tới. Trong loáng mắt, chúng uống cạn chai rượu vang thứ nhất. Chúng ngồi xây lưng lại phía cửa. Qua khe gỗ, Văn Bình thấy cái bàn gỗ ọp ẹp và mấy cái ghế bằng nhựa giẻo. Một giẫy chai rượu được dựng dọc chân tường. Đồ ăn nguội gồm nhiều gói lớn bằng giấy dầu mở tung hê ngay trên nền gạch hoa. Với số lượng thực phẩm ấy, một tiểu đội đàn ông vạm vỡ ăn cũng chưa hết. Điều này cho thấy địch dùng căn phòng không người ở này làm trụ sở tạm trong nhiều ngày.

Phòng bên, nơi Diane bị nhốt, chìm trong màn đêm. Cửa đóng. Không phải đóng bằng ổ khóa mà bằng xích sắt. Nếu ổ khóa thì Văn Bình có thể khắc phục nhanh chóng. Nghệ thuật mở khóa không cần chìa của chàng từng làm nhiều bậc thầy trong làng đi ngang về tắt quốc tế khen ngợi. Đây lại là xích sắt to tướng, kèm theo cái khóa cũng to tướng không kém. Muốn mở nó phải mất nhiều thời giờ.

Chàng vòng ra bao lơn phía sau. Lẹ làng như có phép đằng vân chàng bám ống máng, chuyền sang cửa sổ phòng bên. Cửa sổ các bin đinh tân tiến thường gồm có một lớp kiếng trong, bên trong che riềm, không có cửa lá sách gỗ. Do đó, Văn Bình đã tháo bật kê môn trong vòng mấy giây đồng hồ.

Tiếng chè chén khề khà của hai tên mặt thẹo vẳng vào tai chàng rõ ràng, như thể chúng ngồi khít bên. Văn Bình nhảy vào trong phòng. Chàng ẩn trong góc, vận dạ nhỡn quan sát. Phòng này trống trơn. Giữa phòng kê tấm nệm dầy, bên trên có người nằm.

Văn Bình quỳ xuống, nhận ra Diane. Chàng thấy cặp mắt của nàng mở rộng. Trên thân thể nàng, đáng đồng tiền bát gạo nhất là cái cổ. Chỉ nhìn cái cổ không, người ta đã biết nàng đẹp. Thật vậy, đem chôn nàng xuống đất ngập đến vai và hỏi thân thể nàng đẹp hay xấu, bất cứ người đàn ông kinh nghiệm nào cũng trả lời không suy nghĩ "đẹp, rất đẹp". Nàng thấy chàng. Nàng cựa quậy muốn kêu tên chàng song không phát được thành tiếng. Văn Bình từ từ gỡ băng keo bịt miệng nàng, đồng thời đặt ngón tay trỏ lên môi nàng với dụng ý bảo nàng im lặng. Nàng hiểu ngay lệnh ngầm của chàng, và trả lời bằng cách gục gặc đầu nhiều lần.

Văn Bình đỡ nàng dậy. Tình cờ nàng ép ngực vào vai chàng. Và nàng hôn chàng. Đây không phải là cái hôn tình cờ. Nàng hôn thật sát, thật lâu và thật mùi mẫn. Chàng cảm thấy mằn mặn ở đầu lưỡi. Nàng khóc. Khóc vì sung sướng.

Chàng ghé tai nàng, thì thầm:

- Em đừng hỏi gì hết. Anh đến cứu em. Cứ đi theo anh.

Nàng thì thầm lại:

- Em sẵn sàng đi theo anh đến tận cùng trái đất. Nếu cần, đi theo anh sang bên kia thế giới.

- Sảng.

- Em không bỡn đâu. Nói thật đấy. Em yêu anh lắm. Yêu anh có thể chết được. Gặp anh trong nhà hàng Botin, em đã yêu anh. Khi ấy mới yêu anh ở mực độ trung bình. Khi biết anh là matađo thượng thặng, tình yêu của em đối với anh gia tăng gấp trăm lần. Giây phút này, nó gia tăng gấp ngàn lần, vạn lần, ngàn vạn lần.

- Tại sao?

- Vì em biết anh là Văn Bình.

- Anh từng nói với em anh là Văn Bình.

- Lúc đó em chưa để ý. Sau khi bị họ bắt cóc, em mới biết Văn Bình tức đại tá Z.28.

- Trời hỡi!

- Anh kêu trời nho nhỏ một tí kẻo chúng nó nghe tiếng. Ba em nhắc đến tên anh một cách trìu mến và kính nể. Ông ấy hằng mong mỏi được gặp người tài ba lỗi lạc như anh để bàn bạc. Lát nữa, em dẫn anh đến giới thiệu với ba.

- Lulio?

- Phải, ba em là Lulio.

Chàng thở dài, không nói gì nữa. Với trí thông minh tuyệt vời, nàng đọc thấu bề sâu của tiếng thở dài của chàng. Nàng nắm chặt tay chàng, giọng run run:

- Tai nạn?

Chàng đáp ngắn:

- Phải. Ba em đã chết.

- KGB sô viết hạ sát?

- Chưa rõ.

- Lạ thật. Còn mẹ em?

- Chắc được bình yên. Dường như em biết khá nhiều về những việc làm của ba em. Ông tổng giám đốc CIA phái anh đến đây tiếp xúc với ba em thì ba em bị chết bất thần. Bây giờ chỉ còn trông cậy vào em.

- Vâng, em biết khá nhiều. Ba em tính trước họ sẽ không để ba em yên nên hầu hết các bí mật đều cho em biết. Em xin tận tình giúp anh.

- Suỵt.

Ngoài hành lang có tiếng giày. Tiếng giày của một người. Một trong hai bợm nhậu, lương tâm cắn rứt sau khi uống hết mấy chai rượu nho, loạng choạng chân nam đá chân xiêu sang phòng nhốt Diane để kiểm soát. Nghe tiếng giày của hắn đủ đo lường mức say: chưa say mèm để ngã lăn xuống đất ngủ vùi như đụn rạ, nhưng cũng không còn tỉnh nữa. Có lẽ hắn còn tương đối tỉnh hơn bạn hắn. Bằng chứng hắn vừa thất thểu vừa lè nhè:

- Đồ tồi... hừ, mày là đồ tồi, mới khiệng một chai đã chết giấc... Mở banh con mắt ra, nom tao đây nè. Tao mần luôn hai chai vẫn khỏe ru.

Hắn cười sằng sặc rồi kêu tên Diane:

- Con nhỏ, con nhỏ đâu rồi.

Tiếng xích sắt rổn rẻng. Gã say loay hoay hoài không mở được khóa chữ. Hắn chửi thề một giây rồi lẩm bẩm:

- Quái, cái khóa này của tao, tự tao đặt chữ số, tự tay tao khóa. Tao sinh hồi 5 giờ, ngày 14 tháng 12... tao để số 51412 tại sao tao mở không được. Khổ quá, ngón tay tao lóng cóng, mắt tao mờ nhòa chẳng nhìn thấy gì cả. Hừm, không khéo tao say cũng nên. Hừm, tao say thế chó nào nổi...

-

Huỵch...

Gã say sụm xuống nền hành lang. Vài ba tiếng chửi rủa thô tục nữa rồi hắn cất tiếng ngáy ro ro.

Văn Bình mim cười ngó Diane. Giá tên mặt thẹo không say hắn cũng không mở được ổ khóa chữ vì ánh đèn cầy từ phòng bên không đủ sáng để hắn thấy rõ hàng chữ số khá nhỏ.

Cửa này là cửa bông sắt, loại cửa thông dụng của bin đinh. Nó chỉ còn chờ lắp kiếng và treo ri đô. Cái xích sắt lớn bằng ngón chân, loại kềm thông thường của dân đạo chích không thể bấm đứt. Thêm vào đó là sự kiên cố hầu như tuyệt đối của ổ khóa chữ do Đức chế tạo. 51412... một khi chàng biết con số thì việc mở nó thành trò trẻ con.

Văn Bình trao cái bật lửa của chàng cho Diane. Gió thổi quá mạnh, nàng lại khum tay một cách vụng về nên quẹt máy vừa cháy đã tắt phụt...Bốn, năm lần cháy, tắt như vậy. Nàng buột miệng than:

- Em đần độn, ngu ngốc quá, anh ơi!

Chàng an ủi nàng:

- Không sao. Anh sắp mở được rồi.

-

Chàng mở được thật. Mỗi lần cháy, tắt trong khoảng một phần trăm giây đồng hồ này tuy rất ngắn nhưng cộng lại với nhau đã tạm đủ để chàng đoán được vị trí của các con số, và giúp chàng mở mò trong tối sau khi cái quẹt máy cạn xăng nhiên liệu, không chịu đỏ nữa. Chàng xoay nhẹ 5 vòng của ổ khóa rồi giật nhẹ.

Chàng kéo cửa, ló đầu ra ngoài xem động tĩnh. Gã say tiếp tục ngáy như bò rống. Chàng đạp hắn ra xa, tiếng ngáy vẫn không giảm cường độ. Ở phòng bên, bạn hắn gục mặt xuống bàn giữa đống pexebê và vỏ chai không.

Văn Bình chìa tay cho Diane nắm vì chàng nhận thấy bước đi của nàng luýnh quýnh, kết quả của nhiều giờ đồng hồ bị trói còng queo, tứ chi đọng máu.

Chàng âu yếm hỏi:

- Em còn đi nổi không?

Nàng mếu máo:

- Mệt và đau lắm.

- Để anh bế em trên tay.

- Em rất muốn làm nũng, nhưng... em sợ. Hai tay anh bận bịu, anh sẽ khó thể ứng phó trong trường hợp bị địch phục kích. Em vịn vai anh, đi cà nhót một quãng ngắn là hồi phục như cũ.

- Địch tra tấn em?

- Không. Chúng đối xử khá tử tế. Sau khi bắt cóc, chúng chở em thẳng về đây. Em bị bịt mắt kín mít nên không rõ đây là đâu. Thoạt tiên tên chỉ huy mời em ngồi ghế đàng hoàng. Hắn giải thích sở dĩ giữ em là để gây áp lực với ba em. Tuy không phải con đẻ, em rất được cưng chiều. Theo lời hắn, nhân viên của hắn đang đi "mời" ba em tới gặp em. Một lát sau, tên chỉ huy bỗng thay đổi thái độ. Hắn có vẻ lo lắng và bối rối khác thường. Hắn ra ngoài hồi lâu, dường như để liên lạc vô tuyến điện thoại với trung ương. Em thấy hắn cầm nơi tay cái walkie - talkie cỡ nhỏ, nghĩ là thượng cấp của hắn không ở xa, tầm hoạt động của máyđiện thoại này là 3 cây số.

- Hắn nói tiếng Nga?

- Cả bọn dùng tiếng Tây ban nha. Tuy nhiên giọng chúng hơi lơ lớ, cho thấy chúng không sinh trưởng trong xứ. Hai tên thuộc viên mặt thẹo có vóc dáng, nước da và diện mạo của người châu Âu, về phần tên chỉ huy hắn có nhiều nét Á đông. Khi trở vào, tên chỉ huy kéo ghế lại đối diện em, bắt đầu thẩm vấn em về 200 tấn vàng cất giấu trong cuộc nội chiến. Hắn chỉ nhai đi nhai lại mỗi một câu độc nhất: "yêu cầu cô cho biết địa điểm của kho vàng". Em lắc đầu đáp "không biết". Hắn dỗ dành rồi đe dọa. Đe dọa rồi dỗ dành. Sau cùng hắn đề nghị phân chia tứ lục. Em được 40 phần trăm nghĩa là khoảng 80 tấn vàng. Em tiếp tục lắc đầu. Không hiểu sao hắn chỉ giơ tay mà không dám làm dữ, em có cảm tưởng thượng cấp của hắn đã ban chỉ thị minh bạch về em. Cuộc thẩm vấn đang kéo dài trong cảnh cù nhầy thì trong walkie -talkie có tiếng người kêu. Tên chỉ huy xách máy walkie -talkie ra ngoài như hồi nãy. Mấy phút sau hắn cùng hai tên mặt thẹo trói cứng em lại như khúc xúc xích, đem quẳng sang phòng này. Cả ba tên kéo nhau đi đâu không biết. Tên chỉ huy ngồi lại. Hai tên mặt thẹo xuống tầng dưới. Chúng trở lên được một lát thì anh xuất hiện.

Nàng ngưng nói. Tròng mắt của Văn Bình nặng trĩu. Chàng bỗng linh tính thấy một cái gì khác lạ không ăn khớp với khung cảnh của sự việc. Một cái gì thiếu trơn tru. Một cái gì khúc mắc. Một cái gì trật trẹo. Nó mang mang, bàng bạc, chưa có hình thù rõ rệt nên chàng chỉ có thể đánh hơi từ xa chứ chưa nhìn thấy.

Dầu sao, chàng vẫn chột dạ. Chàng dặn:

- Em hãy đi sát anh, vạn nhất bị địch tấn công em đừng hoảng hốt bỏ chạy, cứ đứng yên tại chỗ mặc anh đối phó. Em phải xuống 10 tầng lầu cả thảy. Khá vất vả đối với em. Em ráng đi...

Sực nhớ chuyện gì, Văn Bình ra hiệu cho Diane dừng lại đợi chàng. Chàng quay về căn phòng có ngọn nến leo lét. Tên mặt thẹo gục đầu xuống bàn vẫn giữ nguyên tư thế cũ. Không ngần ngại, Văn Bình chém atémi bằng cạnh bàn tay ngang trũng gáy nạn nhân. Miếng đòn ác liệt của chàng làm xương cổ nạn nhân gẫy nát. Hắn ngã ngửa trên đất chết ngay, mắt mở trừng trừng.

Tên thứ nhì nằm chỏng queo ngoài hành lang cũng bị chàng giết tàn nhẫn. Kể ra , chàng không muốn giết. Hai tên mặt thẹo chỉ là tép riu, tuân lệnh cấp trên của chúng một cách mù quáng. Miễn cưỡng chàng phải xuống tay. Chàng hành động thật lẹ, chàng lại không cho Diane chứng kiến sợ nàng động lòng trắc ẩn và chàng phải buông tha.

Nàng hỏi chàng:

- Anh lên phòng ấy làm gì?

Chàng nói dối:

- Để lấy một món đồ bỏ quên.

Thang gác tối om. Văn Bình đã tính lầm sức chịu đựng của Diane. Nàng không ngừng chân để lấy hơi. Nàng bước xuống thẳng một lèo. Thấy nàng bền bỉ và giẻo dai, chàng nửa mừng nửa lo. Mừng vì chàng được gặp một bạn tình đồng cân đồng lạng. Nhưng lại lo vì loại phụ nữ không biết mệt như nàng thường ảnh hưởng xấu tới công việc.

Từ lầu 10 xuống đến tầng trệt, Văn Bình không đụng ai. Con đường chạy ngang qua chung cư chìm trong đêm khuya đìu hiu, quạnh vắng. Chàng thoáng thấy chiếc tắc xi đen sì đậu trong hẻm cụt gần đó.

Bác tài của chàng đang nằm bất tỉnh trên nệm. Chàng tin là vậy. Cho dẫu hắn có số vốn quyền thuật cao đẳng...

Chàng kéo tay nàng:

- Em chờ anh ở đây.

Nàng chỉ chiếc tắc xi:

- Xe của anh?

Chàng đáp:

- Ừ. Anh vừa nghe một tiếng động nhỏ. Em núp sau đống đá này an toàn hơn. Một mình anh thì bị đánh lén không đáng sợ.

-

Chiếc tắc xi nhô cái "cốp" về phía Văn Bình. Nó là kiểu Rờ nô 4 của Pháp, vuông vức như cái hộp, bánh nó cao lòng khòng. Nó được hãng Fasa sản xuất tại Tây ban nha, vuông vức và lòng không hơn. Vì thế Văn Bình phải tiến lại gần xe mới thấy nổi người nằm bên trong.

Chàng khom lưng, tinh thần khẩn trương tột độ. Giác quan thứ sáu của chàng khó thể trật đường rầy. Chàng vịn "cốp" xe, từ từ đứng dậy. Đột ngột có người bên hông nắm chặt lưng áo chàng. Rồi một lưỡi dao sáng loáng kề cổ, kèm theo giọng nói sắc lẻm:

- Cựa quậy là đứt đầu, im lặng thì sống.

Quả như chàng đánh hơi thấy từ trước, chàng bị địch phục kích.


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Tây Ban Nha 200 Tấn Vàng Đẫm Máu - Người Thứ Tám Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tây Ban Nha 200 Tấn Vàng Đẫm Máu - Người Thứ Tám   Tây Ban Nha 200 Tấn Vàng Đẫm Máu - Người Thứ Tám Icon_minitimeSun Dec 10, 2017 8:27 am

VIII. Giấc ngủ quá đắt …

Văn Bình nhận ra giọng nói quen thuộc của bác tài tắc xi. Hắn bị chàng đánh bất tỉnh, giờ đây hắn đợi chàng để dí dao vào cổ. Đó chỉ là một hình thức ăn miếng trả miếng quá thông thường. Gieo gió tất nhiên chàng phải gặt bão.

Chàng giả vờ sửng sốt:

- Tôi đây mà, bác tài!

Bác tài nói như nghiến:

- Phải, tôi biết ông rồi. Vô phước ông đêm nay gặp tôi, nhân viên đặc cảnh. Đừng lộn xộn, nghe bồ... Không ai dám chống lại nhân viên đặc cảnh trừ phi muốn biến thành đống fiambờrét[80].

Đặc cảnh là một lực lượng an ninh tân lập, gồm một số cảnh sát viên chọn lọc được huấn luyện thuần thục về cận chiến, với nhiệm vụ trá hình làm tài xế tắc xi, khách chơi đêm để trừ khử nạn cướp giật, chặn đường đoạt tiền hoặc cưỡng hiếp, những tệ đoan xã hội gia tăng mạnh mẽ sau khi phong trào du lịch thu hút hàng triệu du khách vào trong xứ. Sự nhập cuộc của toán đặc cảnh góp phần lành mạnh hóa tình hình thị trấn Mađờrít. Dân trộm cắp, côn đồ quốc tế sợ đặc cảnh còn hơn con nít sợ ông kẹ.

Bác tài kiêm nhiệm vụ đặc cảnh có đầy đủ lý do để vững tin vào khả năng của mình. Vì lưỡi dao của bác là lưỡi dao bấm, được điều khiển bằng nút. Xẹt một tiếng, lưỡi dao nhọn hoắt có thể xuyên từ gáy ra yết hầu, cắt đứt các động mạch và thần kinh cổ, gây ra cái chết trong chớp mắt.

Văn Bình không lạ gì sự hiện diện của toán đặc cảnh. Hồi ở Sàigòn, chàng từng nghe nói nhiều đến họ. Tuy vậy, chàng không ngán. Tài nghệ dao bấm của bác tài đặc cảnh thấm tháp gì với tài nghệ liễu đao của các cao thủ lục địa Trung hoa. Hơn một lần, chàng đã chuyển chết thành sống mặc dầu mũi dao của các cao thủ liễu đao hườm ngay cổ chàng.

Văn Bình chỉ hơi bực mình. Thiếu gì tắc xi trong thành phố sao chàng lại chui vào tắc xi của đặc cảnh? Những hậu quả điên đầu đang chờ chàng vì bắt buộc chàng phải hạ sát bác tài.

Bác tài ra lệnh cho Văn Bình:

- Giờ đây bồ đã rõ tôi là ai, vậy bồ nên ngoan ngoãn mở cửa xe chui vào...

Văn Bình vui như mở hội trong lòng. Bác tài ra lệnh cho chàng chui vào xe, điều này có nghĩa là Diane chưa bị bại lộ. Cơn vui của chàng bị tắt ngấm ngay vì Diane tiêu biểu cho người đàn bà đa sự muôn thuở cất tiếng:

- Pofavo[81].

Bác tài đặc cảnh khựng lại. Hắn không dè chàng đi cùng một nữ lưu. Nàng cứ núp trong tối, mặc chàng xử trí thì mọi việc sẽ kết thúc êm ru và thắng lợi. Nàng tưởng ló mặt với lời xin lỗi pofavo sẽ có tác dụng đổi ngược tình thế. Nàng làm chàng kẹt thêm thì có.

Bác tài đập mạnh cửa xe, Văn Bình đã bị nhốt gọn bên trong. Diane ngỡ bác tài đặc cảnh chưa nghe tiếng nên lặp lại rành mạch, và dõng dạc. Bác tài hất hàm:

- Cô muốn nói gì lại đây.

Bác tài đặc cảnh khôn ngoan đứng hơi xa cửa xe. Văn Bình không thể luồn đầu ra đoạt lưỡi dao trên tay hắn. Chàng đành gác bỏ kế hoạch trấn áp bác tài vì Diane đã dại dột chường mặt ra giữa đường. Ngoài lưỡi dao, bác tài còn đeo súng dưới nách. Chàng thấy hắn mở túi áo sơ mi. Hắn đã cẩn thận đề phòng trường hợp bị mất dao. Khẩu súng của hắn còn nguy hại hơn lưỡi dao nhiều...

Đàn bà muôn thuở Từ bao ngàn năm nay, đàn bà luôn luôn là đồng nghĩa của phiền phức, sầu muộn và rắc rối.

- Chào ông, tôi muốn điều đình.

Ngồi trong xe, Văn Bình suýt phì cười. Điều đình, chè lá là vốn tệ đoan xưa như trái đất. Không riêng gì châu Á chậm tiến của chàng, những quốc gia Tây phương chói lòa văn minh cũng khoái sự đút lót.

Bác tài cười khẩy:

- Người này là... gì của cô?

- Chồng. Phải, chồng tôi.

- Vợ chồng cô vừa làm gì trong tòa nhà mới cất này?

- Làm gì, kệ chúng tôi. Ông và tôi là người Tây ban nha, hẳn ông phải biết người Tây không có tính tò mo, xía mũi vào công chuyện người khác.

- Tôi là nhân viên đặc cảnh.

- Vì vậy tôi mới điều đình.

- Chồng cô làm nghề gì?

- Câu hỏi ngô nghê của ông không xứng đáng được đặt ra với người Tây ban nha. Người Tây chỉ ưa rong chơi nhàn nhã, ưa cười đùa và ưa trò chuyện. Kẻ nghèo khó mới có công việc làm. Người quý phái thì ở nhà. Hoặc đi tìm thú vui tiêu khiển. Chồng tôi là bá tước.

- Bá tước... ăn sương.

- Chớ hỗn. Chồng tôi lỡ tay đánh ông, tôi sẵn sàng bồi thường thiệt hại. Bao nhiêu? Ông đòi bao nhiêu tiền ,

- Viên chức Nhà nước không được cầm tiền của dân.

- Nhưng đây không là tội tham nhũng vì đây không phải là tiền hối lộ mà là tiền bồi thường. Ông suýt bị thương oan uổng. Ông cần có tiền uống thuốc và tẩm bổ. Mộng của người Mađờrít là ăn nhậu ở nhà hàng Hóckê[82] mỗi năm một lần là oai lắm. Tôi xin biếu ông đủ số tiền ăn tại Hóckê ngày hai bữa, trong một tháng liên tiếp.

- Cám ơn cô. Một tháng nghĩa là ngần nào?

- Mỗi bữa 500 peseta, một ngày 1.000, vị chi một tháng 30.000.

- Cô ơi, cô là phụ nữ, cô ưa hay ghét đàn ông ga lăng?

- Hiểu rồi, ông muốn mời thêm bạn gái. Hơi nhiều ông ơi. Chồng tôi nóng nẩy, trong một giây đồng hồ tôi đã phải trả 30.000 peseta, ông đòi thêm tôi sợ không biết đào đâu ra.

- Tùy cô. Nếu cô biển lận, chồng cô sẽ phải ngồi tù. Hành hung nhân viên đặc cảnh không phải chuyện thường. 5 năm tù ở là bản án khoan hồng. Chưa kể tới những năm biệt xứ.

- Hừ, vòi vĩnh leo lẻo như ông mà nói không dám tham nhũng. Bốn chục, chịu chưa?

- Sáu chục, không bớt một centimốt. Sáu chục ngàn đổi ra mỹ kim mới được hơn 850 đồng.

- Bốn lăm ngàn. Giá chót. Không chịu thì thôi.

- Để tỏ thiện chí, tôi giám xuống năm ngàn peseta. 55 ngàn là giá chót.

Nhịn không nổi, Văn Bình phát cười sằng sặc. Hai bên đều đưa ra giá chót. Đút lót mà được mặc cả sát sạt như mua bán ngoài chợ.

Bộ dạng nghiêm nghị, bác tài đặc cảnh suỵt chàng im. Diane cũng nói:

- Anh để em mặc cả. Làm ồn lên, người khác nghe tiếng thì tốn tiền lắm.

Bác tài hùa theo:

- Người khác nghe tiếng thì số tiếng sẽ nhân lên gấp đôi, gấp ba. Bây giờ cô tính sao?

- Giá chót. Không lên thêm đồng nào nữa.

- Đòn phép nhau làm gì, cô ơi. Người Tây ban nha như cô và tôi đều mang truyền thống mặc cả trong máu. Tỏ thiện chí, tôi bớt thêm năm ngàn. Giá chót.

Lần này, Văn Bình phải bịt miệng bằng hai tay để khỏi cười sặc sụa. Cả Diane lẫn bác đặc cảnh đều không quan tâm đến thái độ nghịch đời của chàng như trước. Không khí mất hẳn sự căng thẳng, họ trở nên vui vẻ, thân thiết như bạn lâu năm. Diane dốc hết tiền trong xắc da của nàng xuống mui xe Fasa. Đếm đi đếm lại vẫn chưa đủ năm chục ngàn.

Bác tài đặc cảnh nhăn nhó:

- Thế này không được.

Diane năn nỉ:

- Sáng mai tôi mang nốt chỗ thiếu lại tận nhà ông.

Bác tài thở dài, gương mặt rầu rĩ:

- Cô đến nhà tôi để con vợ tôi nó ăn gỏi tôi ấy à... Chẳng giấu gì cô, tôi có hai phòng, bổng lểnh bất thường tôi chia cho phòng nhì...

Hắn tần ngần giây lâu, chưa chịu nhét đống bạc vào túi. Có lẽ hắn đang hồi tưởng những cảnh ghen tuông đay nghiến của sư tử Hà đông.

Sự rềnh rang ấy dẫn đến hậu quả tai hại không ngờ. Một chùm đèn pha mô tô hiện ra ở ngã ba cách nơi tắc xi đậu 10 mét. Trong loáng mắt, một cảnh sát viên tuần lưu đội nón sắt sơn trắng, mặc đồng phục, tốp chiếc bình bịch cạnh hông xe hơi.

Bác tài không kịp quơ giấu xấp peseta nằm chềnh ềnh trên mui xe Fasa. Cặp mắt cú vọ của gã cảnh sát tuần lưu đã nhìn thấy. Hắn ngồi yên trên mô tô, giọng hách dịch ;

- Làm gì ở đây, hở các ông các bà?

Bác tài đáp:

- Tôi là nhân viên đặc cảnh. Thấy hai ông bà này đi trong tối, tôi tưởng lầm quân gian nên chặn lại xét giấy tờ. Họ là người hoàn toàn lương thiện, tôi sửa soạn hoàn trả giấy tờ thì anh tới.

- Tắc xi này của anh?

- Của sở Đặc cảnh. Anh không có quyền cật vấn nhân viên đặc cảnh.

- Cật vấn còn ít. Tôi còn đòi anh xuất trình chứng minh thư nữa kia.

- Đối với đặc cảnh thì cảnh sát tuần lưu là cấp dưới. Tôi có quyền xét giấy anh, anh không có quyền xét giấy tôi.

- Đúng. Nhưng đặc cảnh bị bắt quả tang nhận hối lộ không còn quyền gì nữa. Đống bạc trên mui xe khoảng bốn, năm chục ngàn peseta... Hai ông bà kia, tại sao phải đút lót?

Văn Bình và Diane nín thinh. Nếu bác tài đặc cảnh không quá tham tiền thì lộn xộn đáng tiếc đã không xảy ra. Dầu muốn dầu không, Văn Bình bị du vào tình trạng chẳng đặng đừng. Chàng 'làm thịt" bác tài hồi nãy mà hơn. Bây giờ chàng phải "làm thịt"" cả hai.

Bác tài nhún vai lượm tiền, chia làm hai phần đều nhau, đưa cho gã cảnh sát tuần lưu một phần. Gã cảnh sát nhíu mày:

- Gì vậy?

- A, a, anh không thể chơi trò ấy với tôi.

- Cả thảy gần năm chục. Nhường anh ba, tôi chỉ lấy hai. Như thế đã là thông cảm tuyệt đối. Không lẽ ba chục ngàn peseta, anh còn chê ít.

- Cất đi. Anh đừng bắt tôi nổi giận.

- Úi chao, anh bạn khó tính quá... Những ba chục ngàn mà lắc đầu... Thôi, tôi đành hy sinh tối đa. Anh lấy bốn chục, tôi chi xin lại một, lấy thơm lấy thảo.

Kiếm được một cảnh sát viên cương quyết chê tiền cũng khó như kiếm được hớp nước trên sa mạc nóng bỏng. Ấy thế, gã cảnh sát tuần lưu này lại là hớp nước thần diệu. Gã rút nhanh khẩu súng đeo ở thắt lưng, chĩa giữa mặt bác tài đặc cảnh:

- Giơ tay lên, quay lưng lại.

Bác tài hoảng hồn:

- Anh nỡ xử tệ với tôi ư? Dầu sao chúng ta cũng là đồng nghiệp.

- Tôi không thèm đồng nghiệp với thằng tham nhũng. Ê, giơ tay lên, quay lưng lại... Súng nạp đạn đàng hoàng, đừng vớ vỉn mà chết uổng mạng.

- Yêu cầu anh nghĩ lại. Tôi mới ăn tiền lần đầu. Từ nay tôi xin chừa.

- Cái mặt lì lợm như anh mà mới ăn tiền lần đầu? Đừng hòng lừa tôi. Nhanh lên... tôi đã biết rõ thủ đoạn của anh. Anh giả vờ xin xỏ, kéo dài thời giờ để rình tôi sơ hở hòng đoạt súng. A lê, còn cô ả này, mở cửa xe trèo lên, anh đàn ông ngồi sẵn trong xe cứ giữ nguyên vị trí. A lê, a lê, nhanh lên...

Bác tài mếu máo:

- Còn tôi, tôi được lên xe với họ không?

Gã cảnh sát tuần lưu đáp ngắn:

- Được.

Chiếc mô tô của gã đậu cách cửa xe hơi gần 2 mét. Trong khoảng cách này, gã cảnh sát tuần lưu có thể bắn trúng người ngồi bên trong khỏi cần nhắm. Diane an vị ở băng trước. Bác tài đặc cảnh đang đặt bàn tay lên nắm cửa, sửa soạn mở. Vô hình chung hắn biến thành lá chắn giữa Văn Bình và gã cảnh sát võ trang.

Dường như Diane đoán thấy ý định phản công của chàng, bằng chứng nàng không nói gì mặc dầu vẫn theo dõi chàng bằng mắt. Chàng nín thở vận công, bắp thịt chùng giãn trong sự chờ đợi.

Cửa tắc xi mở bung. Bác tài đặc cảnh khom lưng sắp sửa bước lên. Ụp... Văn Bình lao đầu ra ngoài. Trán chàng húc vào ngực bác tài đặc cảnh. Nạn nhân ngã ngửa, chạm gã cảnh sát tuần lưu khiến gã loạng choạng.

Tuy vậy, gã cũng bắn được đoàng, đoàng, hai phát liên tiếp trước khi bị Văn Bình luôn trớn xô té vào xe bình bịch đang nổ máy ròn rã. Chiếc mô tô nặng gần hai trăm kí được dựng ngay ngắn trên chạc sắt kiên cố bị đổ nghiêng. Bàn tay trái của gã cảnh sát gẫy lìa vì đút xuyên qua bánh xe quay tròn. Gã kêu lên một tiếng đau đớn, khẩu súng văng khỏi bàn tay.

Văn Bình đứng thẳng, sức nặng toàn thân dồn xuống chân trái, tung mạnh chân phải. Ngọn cước của chàng móc ngang nách nạn nhân, nơi tọa lạc nhiều yếu huyệt. Chàng chủ tâm đánh chết nên tất cả công lực đều được vận dụng. Đồng thời hai cánh tay của chàng xòe rộng ra thành hình chữ nhất, bác tài đặc cảnh vừa lồm cồm bò dậy thì trúng song chưởng. Cũng như gã cảnh sát, bác tài chết tức khắc. Lối phóng độc cước kèm song chưởng gọi là quật tử cước trong bộ Lục hợp quyền của Thiếu lâm tự. Nó có tác dụng đánh đá nhiều người cùng lúc trong cuộc quần đấu. Bất cứ võ sĩ Thiếu lâm nào cũng phải học qua căn bản quật tử cước, nhưng phải là võ sĩ thượng đẳng dầy công luyện tập mới lĩnh hội được bí quyết để có thể triệt hạ hai, ba đối thủ trong chớp mắt với tay và chân cùng giang ra một lượt như con chim vỗ cánh tung bay.

Diane bàng hoàng lấy tay chếtmặt:

- Anh giết họ?

Văn Bình lượm một hòn đá bên đường đập mạnh vào máy vô tuyến đìện thoại Motorola gắn trên xe bình bịch cảnh sát. Tiếng rè rè của máy câm bặt. Chàng chỉ cái máy, giải thích:

- Không còn cách nào khác. Gã cảnh sát tuần lưu gọi về bót báo cáo.

Văn Bình vòng đầu xe, mở cửa tắc xi phía tay lái, chui vào. Chưa hết thắc mắc, nàng hỏi chàng:

- Hai tên mặt thẹo trên lầu cũng vậy?

Chàng vừa đề ma rơ vừa đáp:

- Cũng vậy.

- Công an sẽ bắt giam anh.

- Trường hợp này chỉ xảy ra nếu có người nhìn thấy và tố cáo.

- Có người nhìn thấy?

- Có.

- Chết rồi.

- Chẳng sao. Người ấy nhìn thấy tường tận mà không tố cáo, không bao giờ tố cáo.

Diane cúi xuống cái đồng hồ tính tiền, lặng thinh không đáp trong khi Văn Bình lái chiếu Fasa sộc sệch ra khỏi công trường xây cất, nàng mới ngẩng đầu mặt, giọng đầy bối rối:

- Nghề gián điệp của anh thích giết người, thích đổ máu đến thế kia ư!

Chàng chắt lưỡi:

- Không thích giết rồi cũng phải thích giết. Vả lại, nếu mình không giết họ, họ cũng giết mình. Như họ giết ba em. Như họ giết Sanchez.

- Trời ơi, Sanchez chú em bị giết! Sanchez là chú bên ngoại. Em hiểu rồi. Họ loại trừ tất cả những ai dính dấp đến vụ kho vàng. Nghĩa là... Nghĩa là họ đang tìm cách giết em.

- Em thì chưa, ít ra trong lúc này.

- Tại sao?

- Vì em là người cuối cùng trong vụ kho vàng còn sống. Giết em thì hết. Do đó, em phải sống. Sống để dẫn họ đến nơi cất giấu.

- Về phần em, em cũng không biết địa điểm. Em chỉ biết nơi ba em để họa đồ và giấy tờ quan trọng.

- Như vậy quá đủ. Em không lạ gì việc làm của anh. Giờ này tương đối chưa muộn, em còn từ chối hay chấp thuận. Thảng hoặc em từ chối, anh sẽ không ép buộc em, anh sẽ lái en đến nơi nào em muốn...

- Rồi sau đó?

- Chúng mình chia tay.

- Anh nói thật?

- Không lẽ một chuyện tối hệ anh lại nói đùa.

- Anh bỏ rơi vụ vàng?

- Chắc thế. Anh làm công cho người ta, không phải cho anh. Anh sẽ báo với họ là anh bất lực. Dẫu làm riêng, anh cũng bỏ rơi luôn. Trong đời có nhiều cái đắt hơn, quý hơn kho vàng 200 tấn.

- Thái độ của anh rất khó hiểu.

- Rất dễ hiểu. Em chấp thuận giúp anh nghĩa là chấp thuận những nguy hiểm sẽ tới. Nghĩa là cầm chắc cái chết trong tay. Thà em đi xa, thà em từ chối, lương tâm anh đỡ cắn rứt.

- Anh yêu em?

- Câu hỏi này rất khó trả lời. Có thì không đúng, không cũng không đúng...

Xe hơi về đến khu đông đúc phía bắc thành phố. Không hẹn mà nên, Văn Bình lái vào đường Gátxê[83].

Người được lấy tên đặt cho đường này là nhà văn có ngòi bút sâu sắc đào sâu những thầm kín nhất của tâm tư để nghiên cứu, tìm hiểu mọi khắc khoải giữa trai gái. Công trình của Gátxê đã được Văn Bình phân tích và học hỏi vì lẽ nó chứa đựng những nguyên tắc cơ bản của tín hiệu học[84], khoa học tìm hiểu ý nghĩa của cử chỉ con người. Không riêng chàng, mọi điệp viên cự phách từ đông sang tây đều phải nghiền ngẫm Gátxê. Các sở do thám trên thế giới đều ghi Gátxê vào chuơng trình đào tạo khóa sinh.

Gátxê đã viết nhiều về "tiếng nói "của cặp mắt. Theo ông, có không biết cơ man lối nhìn khác nhau, nhưng đại để có lối nhìn thoáng qua, lối nhìn dây dưa, lối nhìn lướt nhẹ như pa tanh trượt tuyết, lối nhìn bấu chặt như lưỡi câu sắc nhọn, lối nhìn gíán tiếp, lối nhìn trực tiếp... Mỗi lối nhìn bao hàm một ngụ ý rõ rệt.

Chàng bắt gặp cái nhìn của nàng khi ấy. Bắt chợt cái nhìn của nàng, chàng mới thấu đáo được lời nói cảnh cáo của Gátxê: coi chừng, coi chừng những luồng nhỡn tuyến phóng thẳng như viên đạn.

Tất cả đều do cặp mắt.

Văn Bình bàng hoàng. Cặp mắt đèn pha xe hơi, cặp mắt xuyên thủng những trái tim đúc bê tông của chàng đã bị luồng nhỡn tuyến dịu dàng mà ác liệt của Diane chế ngự.

Nàng ôm chầm lấy chàng, vô lăng lạng sang bên suýt đâm một xe chở hàng cồng kềnh chạy ngược chiều:

- Anh Z.28, dẫu thế nào nữa, em vẫn theo anh. Nếu cần em theo anh qua bên kia thế giới.

Một tay lái xe, tay kia Văn Bình bịt miệng nàng:

- Nói bậy không nên.

Nàng cười:

- Ha ha, anh mê tính dị đoan như người Tây ban nha chúng em.

Tắc xi vượt qua đại lộ Seranô. Lưu thông bắt đầu thưa thớt. Tuy vậy, đèn đường và cửa hiệu vẫn sáng như sao sa. Diane chỉ con đường trước mặt:

- Chạy thẳng, chừng nào quẹo em ra hiệu.

Chàng hỏi:

- Đi đâu?

- Trên đường tới đại học xá.

Khu này bị phá hủy toàn diện trong cuộc nội chiến và được tái thiết, bề thế và tráng lệ. Muốn tới đường Công chúa, lộ trình dẫn tới đại học xá, phải đi hết chiều ngang của thành phố.

- Nhà em ở đó?

- Không. Ba em thuê sẵn một biệt thự nhỏ, đề phòng trường hợp phải sống ẩn náu. Rồi em sẽ có nhiều chuyện nói với anh.

- Địch biết địa chỉ này không?

- Chắc không. Ngay đối với mẹ, ba em cũng không nói sợ địch hành hạ tra khảo bà. Em gan lì nên ba em tiết lộ bí mật. Ngoài ba và em, không còn ai biết.

- Vậy mình nên đề cao cảnh giác hơn. Địch lặng lẽ rượt theo xe mình thì mệt.

- Em nhìn kiếng chiếu hậu nhiều lần. Tuyệt đối không thấy bóng xe nào khả nghi. Đường rộng mà vắng nếu địch bám sau lưng mình không thể không thấy.

- Cũng như em, anh không thấy ai. Cũng không xe hơi hoặc xe gắn máy. Nhưng anh vẫn có linh tính địch đang lởn vởn đâu đây.

Sừng sững trong kiếng chắn gió là tòa nhà chọc trời cao ngất thành phố gồm 32 tầng, báo hiệu cho du khách sắp đến công trường Tây ban nha[85].

Đường Công chúa ở bên phải nhưng Văn Bình không rẽ, chàng tiếp tục tống ga xăng về hướng sông. Bên kia bờ sông Manzanarét chạy dài một công viên rộng bao la, khi xưa là của vua chúa hiện thời được mở cho công chúng. Hàng năm, các cuộc đấu xảo được tổ chức tại đây, với những đoạn đường giành để đua ngựa, đua xe hơi, lại thêm cái hồ nhân tạo khá rộng để bơi thuyền. Bò rừng được nuôi ở đó trước khi ra đấu trường. Trai thanh gái lịch thường hẹn nhau ở đó nhiều hơn ở nơi nào khác. Có lẽ ở đó họ học được tinh thần chiến đấu hùng hục của bò rừng...

Văn Bình loanh quanh một hồi giữa những khu phố chật chội đoạn lái lộn về đường Công chúa.

- Vẫn chạy thẳng?

- Thưa anh, vâng. Đến ngã tư thứ ba thì anh quẹo trái.

Lulio quả là con người khôn ngoan. Ông bị chết vì thân cô thế, ông không thể đương đầu thắng lợi với một cơ quan điệp báo hùng hậu là KGB sô viết. Sự khôn ngoan của ông được thể hiện trong cách lựa chọn một ngõ hẻm đìu hiu gồm toàn biệt thự trệt riêng rẽ, nhà này được ngăn cách nhà kia bằng những bức tường gạch bên trên gắn thêm lưới sắt kiên cố. Dường như ngõ hẻm này do một chủ xây cất vì các ngôi nhà đều cùng kiểu.

- Số nhà mấy hả em?

- Cuối hẻm. Số chẵn.

Số chẵn ở bên tay mặt. Một cây đại thụ um tùm che kín cửa cổng, trên nền lá đen sì dầy đặc nổi bật những bông hoa trắng lớn bằng cái bát sới cơm. Hầu hết nhà trong hẻm đều tắt đèn. Nếu trong nhà còn thức, người ở ngoài đường cũng khó biết vì mọi khung cửa sổ đều buông rèm kín mít. Diane nhảy xuống, mở khóa đoạn đẩy cánh cổng gỗ, vừa đủ cho chiếc Fasa vào lọt. Văn Bình lái luồn qua giàn cây leo, tắt máy, lục cốp xe lấy tấm vải bạt khá rộng, buộc thành cái màn che khuất tắc xi.

Chàng quỳ gối, xem xét kỹ lưỡng dưới sàn xe hơi. Diane tỏ dấu băn khoăn:

- Anh tìm gì?

- Máy phát tín hiệu.

- Những dụng cụ điện tử nhỏ như cái quẹt máy bíp bíp hoặc tu tu người ta dính vào xe để theo dõi vị trí trong thành phố?

- Phải. Kỳ lạ. Anh không thấy gì hết.

- Nghĩa là anh quá lo xa.

Văn Bình nhíu mày, dáng dấp ưu tư. Vào đến trong nhà, đèn bật sáng, chàng cười lại ngay. Biệt thự gồm nhiều phòng, sự trang trí có vẻ nhũn nhặn mặc dầu đắt tiền. Đồ gỗ đều mang nhãn hiệu một công ty lớn.

Chàng suýt la lên tiếng sửng sốt khi nàng mở cửa phòng ngủ. Tường sơn trắng xóa treo đầy vỏ sò, đủ màu, đủ hình thù lớn nhỏ, tròn, thuôn, dài, ngắn khác nhau. Đèn điện màu đỏ chói lọi. Dưới ánh sáng màu đỏ, nét mặt con người trở nên huyền bí và ma quái. Giữa phòng là cái giường hình tròn. Cái đi văng kê ở góc hơi cong cong. Cong cong như làn môi nổi danh từ nửa thế kỷ qua của siêu minh tinh màn bạc Ma Oét[86]. Chưa hết, cái đìện thoại đặt trên bàn đêm trông hao hao như giò thủy tiên chưa nở hoa được làm bằng vỏ tôm hùm đỏ quạch.

Diane ưỡn ngực nhìn chàng:

- Anh nghĩ sao? Em tự trang trí lấy, có giống thầy vẽ của em không?

Có gặp những lúc bị giai nhân vặn hỏi về kiến thức tổng quát, Văn Bình mới hiểu được những vất vả của nghề gián điệp. Học võ, học mưu mẹo, học đâm dao, bắn súng, học sử dụng bom đạn và các hóa chất chiến tranh, học lái máy bay, học ăn, học uống, học... tán gái và học làm tình vẫn còn thiếu. Điệp viên là người biết hết. Là người biết cả những điều thiên hạ không biết. Do đó, Văn Bình phải tìm hiểu về những lãnh vực ai cũng tưởng là xa lạ đối với nghề do thám hành động. Chẳng hạn văn chương, âm nhạc, hội họa.

Nhờ am tường hội họa, chàng không đến nỗi bị cứng họng trước câu hỏi đột ngột của Diane. Tường trắng, vỏ sò, dèn đỏ, đi văng hình môi Ma Oét, đìện thoại vỏ tôm hùm... là những đặc điểm độc nhất vô nhị trong ngôi nhà mát của Đali[87], một trong hai họa sư Tân ban nha lừng lẫy khắp thế giới.

Tài năng phi thường biến ông thành con người lập dị số một, râu mép ông vặn ngược như cặp sừng trâu, dài đúng 7 centimét. Ông luôn luôn gài một bông hoa thủy tiên ở vành tai. Đời ông đầy rẫy sáng tạo kỳ quặc, và đắt giá kinh khủng. Có những món nữ trang được bán tới 250.000 đô la. Người ta chế móng tay giả cho phụ nữ bằng nhựa, còn ông, ông làm bằng những cái gương soi tí hon chồng chận lên nhau. Hình nộm trong tiệm may thường được tiện bằng gỗ, hoặc đúc lát tích, ông bèn nghĩ ra loại hình nộm pha lê trong suốt đựng nước với hàng trăm con cá vàng, cá bạc, cá đỏ tung tăng bơi lội...

Văn Bình hỏi ngược lại nàng:

- Đali dạy em vẽ?

Nàng đáp:

- Vâng. Cách đây 15 năm, em còn bé tí xíu, em đang chơi trên bờ biển gặp Đali đặt giá vẽ, chờ nước thủy triều dâng lên. Khi mực nước đến nửa đầu gối mới vẽ. Thủy triều dâng ngang bụng thì hạ. Nước rút hết là ông hoàn thành bức họa. Ông vẽ một mình giữa bãi cát rộng, chung quanh không có ai. Em xán lại, chê tranh ông xấu. Đali từng được coi là nghệ sĩ điên, đệ nhất kiêu căng, dám tự ví là thiên tài độc nhất trên trái đất, hậu duệ của thượng đế, ai cũng ca ngợi, sùng thượng, em là kẻ đầu tiên chê bai. Ông cười hà, hà "con nhỏ điên, mày chê tao. Hà, hà, tao cũng điên như mày".Ông trò chuyện thân mật với em, hỏi em con cái của ai, nhà ở đâu. Hôm sau, ông đến tận nhà, dạy em vẽ. Hồi đó, mẹ em là một bá tước tỉ phú. Sau này, mẹ em ly dị, và bá tước thân phụ của em từ trần, mẹ em chắp nối với Lulio. Lý do khiến em gần cha ghẻ và đối xử như cha ruột phần nào là những tương đồng về nghệ thuật. Em thích hội họa, cha ghẻ Lulio của em cũng thích hội họa. Hai bố con đều có thiện cảm mặn nồng với Đali.

- Em vẫn tiếp tục thụ giáo Đali?

- Ông ta điên, lúc thế này, lúc thế khác. Mùa rét, ông qua Mỹ, thuê một tòa nhà cực kỳ tráng lệ để... ngủ. Vâng, ông chỉ ăn với ngủ. Ông khoái Nữu ước vì trong mùa rét, thành phố này nhuộm một màu trắng bẩn thỉu pha những vết teng đồng xanh sám trông như cái bánh phó mát rocơfo[88] khổng lồ.

Ông khoái ăn rocơfo nên ông khoái Nữu ước. Điên chưa! Còn 6 tháng hè, ông trở về quê hương, làm việc như mọi người. Em gặp ông một lần trong một dịp hè. Hè năm sau, ông quên em luôn. Đúng ra, ông vẫn nhớ. Song ông ghét em. Ông bảo "trên quả địa cầu có hơn hai ngàn triệu người, toàn thể đều tôn thờ ông, riêng em hỗn xược phê bình bậy bạ". Em xin lỗi, mẹ em xin lỗi, ông không tha. Trong vòng mười mấy năm nay, em bắt chước Đali chế được nhiều đồ vật. Em mang hết cả về đây. Anh Văn Bình, em điên không?

- Nhiều người cũng nói anh điên. Em và anh đều điên. Em điên, em ngồi xuống với anh.

Chàng ôm nàng hôn rồi bắt nàng nghiêng người cho chàng ngắm. Chàng nhấc chân nàng đặt lên giường, lần lượt tháo từng chiếc giày. Nàng tưởng chàng sửa soạn cho cuộc tỏ tình âu yếm nên đỏ mặt xấu hổ. Tuy nhiên nàng ngồi im, không phác cử chỉ phản đối. Thái độ của nàng là thái độ sẵn sàng, thái độ chấp thuận vô điều kiện. Nàng khá đẹp, đẹp về khuôn mặt, đẹp cả về thân hình, khung cảnh căn phòng lại hoàn toàn thích hợp với sự hẹn hò ân ái. Nhưng Văn Bình chỉ banh rộng rồi tra lại vào chân nàng. Chàng không làm gì thêm. Ý thức nghề nghiệp của điệp viên Z.28 tỏ ra mạnh hơn thèm muốn xác thịt.

- Lại máy phát tín hiệu?

- Ừ. Trong giày của em không thấy gì.

Chàng gỡ đóa hoa thủy tiên bằng nhựa giẻo nhuộm màu ra khỏi tai nàng. Cũng không thấy gì. Quái lạ... ấn tượng bị địch theo dõi bằng vô tuyến điện vẫn chưa rời giác quan chàng. Chàng không nhìn thấy song chàng tin là có. Địch giấu dụng cụ điện tử này ở đâu?

Chàng đành lắc đầu chào thua. Diane hơi bất mãn:

- Anh thì bất cứ lúc nào cũng nghĩ đến công việc. Anh không dành 5, 10 phút nghĩ đến mình một chút được ư?

Văn Bình mở cửa buồng tắm:

- Anh rất muốn nghĩ đến mình. Không phải chỉ nghĩ 5, 10 phút mà nghĩ những 5, 10 giờ, nghĩ 5, 10 ngày, chĩ 5, 10 tháng. Khốn nỗi, mình có sống thì mới nghĩ đến mình được. Địch biết anh và em ở đây thì họ không tha. Nếu mình ngủ đêm nay ở đây, giấc ngủ sẽ rất đắt. Đắt ngoài mức tưởng tượng vì nó được mua bằng tính mạng của chúng mình.

- Chung quanh anh, cái gì cũng đen tối.

Buồng tắm được sắp xếp khá ngộ nghĩnh. Tường trắng toát. Đồ sứ, hồ tắm, đỏ máu. Vòi nước, khăn mặt xanh màu chàm. Kiểu trang trí trắng, đỏ, xanh chàm lẫn lộn này sặc mùi lập dị của Đali. Lại nữa, trong hồ tắm được đặt một cái ghế. Phải, một cái ghế. Đối diện cái ghế là giá vẽ.

Văn Bình quay sang Diane:

- Đali?

Nàng giẩu mỏ:

- Vâng. Kỷ niệm thời thơ ấu của Đali. Hồi ông lên 10 tuổi, gia đình ông nghèo, thân phụ ông làm chưởng khế tiền kiếm không đủ ăn, cậu bé Đali không có chỗ vẽ nên đặt bừa giá vẽ trong hồ tắm. Gọi là giá vẽ thật ra là miếng gỗ mà mẹ cậu bé dùng giặt đồ. Cậu bé mở nước, vừa ngâm nước vừa bết màu nguệch ngoạc, nham nhở lên cái hộp đựng nón của bà dì mà cậu bé ăn cắp được[89].

- Em sắp xếp như thế để kỷ niệm Đali?

- Không phải em. Ba ghẻ của em Lulio. Ba em cũng có thói quen vẽ trong nước.

Văn Bình mở vòi nước. Tiếng nước lanh tanh nghe êm tai. Diane mơn trớn vai chàng:

- Anh tắm.

- Lát nữa. Em xích lại đây.

Thì ra chàng mượn âm thanh của nước để che lấp cuộc nói chuyện "nghề nghiệp" với nàng:

- Anh vặn nước vì sợ địch nghe tiếng. Ba em cất bản đồ ở đâu?

- Trong nhà này.

- Em đã nói rồi. Trong nhà này, nhưng là ở đâu? Diện tích xây cất gần ba trăm mét vuông, cộng thêm vườn khoảng gấp đôi. Với sáu trăm mét vuông anh lục soát, tìm kiếm cả năm cũng không ra.

- Em không biết vị trí.

- Trời ơi! Nửa giờ trước , chính em xác nhận là em biết "nơi ba em để họa đồ và giấy tờ quan trọng".

- Vâng. Sự thật hơi rắc rối, em xin kể hầu anh. Ba em sống chung với mẹ em từ lâu; mãi đến những tháng gần đây mới tâm sự với em về sự hiện hữu của 200 tấn vàng do chú ruột của ba em là phó trưởng đoàn thanh tra Ngân hàng Quốc gia Cabera lén mang đi. Ba em cùng ông chú Cabera có mặt trong cuộc vận chuyển 725 tấn vàng từ trên đất liền xuống tàu thủy sô viết năm 1936. 200 tấn vàng kia chẳng biết Cabera xoay xở cách nào mà không ai biết tới. Mục đích của Cabera yểm trợ một lực lượng đứng giữa trong nội chiến, cùng chống phe thân cộng và phe hữu khuynh của tướng Franco. Lulio, ba em là thành phần cấp tiến cuổng nhiệt thế mà Cabera đã lôi kéo được về phía đứng giữa. Cabera chết, những người dính líu đến kho vàng 200 tấn lần lượt chết trận, chết bệnh, chết già, duy ba em còn sống. Suốt mấy chục năm lưu vong ở Pháp rồi hồi hương, ba em vẫn nuôi hoài bão tiếp tục việc làm của Cabera. Do đó, anh đã hiểu tại sao ba em không hợp tác với KGB mặc dầu trên giấy tờ ba em là người của họ và ba em cũng không hợp tác với chinh quyền Franco.

Em kính trọng ba em về nhiều điểm, nhất là điểm không ham tiền. Ông đem bán cho chính quyền thì ít ra được thưởng 10 phần trăm, nghĩa là 20 tấn, ăn xài đế vương đời này sang đời khác chưa hết. Cốt cách của ông là nghệ sĩ. Ông mê Đali vì ông điên tàng như Đali, bút pháp cũng lập dị như bút pháp Đali. Còn một nguyên nhân thầm kín nữa: ông mê Đali vì Đali hoàn toàn tương phản với ông về quan niệm đồng tiền. Đali thèm tiền hơn cả hài nhi thèm sữa mẹ. Còn ông lại ghét tiền thậm tệ[90].

Cách nay một tháng, ba em dẫn em đi coi đấu bò, hai cha con về tòa nhà này lần đầu tiên. Ông nói rằng tấn mèo vờn chuột với KGB không thể kéo dài lâu thêm, họ đã ngờ vực ông, họ sắp sửa làm dữ. Ông đủ sức chịu đựng mọi cuộc tra tấn, nhưng nếu họ dùng hóa chất thì ông khó giữ mãi được bí mật. Ông dự tính trốn khỏi nước nếu mọi việc không êm xuôi. Rồi bất thần Antônin tiếp xúc với em.

- Antônin?

- Lão đàn ông trán hói làm quản lý nhà hàng Botin tên Antônin. Lão am tường gốc gác của em và gia đình em. Lão có liên hệ kín đáo với Phản gián Tây. Theo chỉ thị của Phản gián, Antônin nhờ em làm trung gian điều đình với ba em về vụ vàng. Ba em đáp dứt khoát đó là tin đồn thất thiệt. Cuộc thương lượng được tiếp tục. Phản gián trưng ra một số bằng chứng, ba em không thể phủ nhận. Ba em cương quyết khước từ mọi đề nghị hợp tác. Ba em vốn trọng nguyên tắc, khi đã có định kiến thì không sức mạnh nào, kể cả cái chết, làm ông thay đổi. Sau cùng Phản gián đưa ra một đề nghị dung hòa: số vàng thu hồi được sẽ đài thọ chưong trình khẩn hoang lập ấp của INC[91].

Chương trình này mưu lợi cho nông dân, không mang màu sắc chính trị nên Phản gián hy vọng ba em ghét chính quyền Franco mà vẫn có thể chấp thuận. Ba em đồng ý với điều kiện là Phản gián bản xứ gồm nhiều người ba em không ưa phải "đi chỗ khác chơi". Trước thái độ sắt đá của ba em, Phản gián đành nhượng bộ. Họ bèn chuyển cho CIA Mỹ trong khuôn khổ bảo vệ an ninh của Minh ước Bắc Đại tây dương mà Tây ban nha là hội viên rường cột. Và CIA cử Sanchez đến gặp em, dọn đường cho một đặc phái viên có toàn quyền đảm nhận công tác. Em không dè đặc phái viên này là anh. Anh Văn Bình Z.28 của em.

- Những điều em vừa nói, anh đã biết. Anh muốn trở lại vấn đề bản đồ kho vàng...

- Gớm, tính anh nóng như lửa. chiều thứ sáu, nghĩa là hai hôm trước, ba em mới tiết lộ với em là bản đồ được giấu ở đây, trong nhà này.

- Em Diane ơi, anh không nóng như lửa, nhưng anh sợ rềnh rang địch sẽ xuất hiện, hạ sát cả anh lẫn em. Dĩ nhiên giấu ở đây, giấu trong nhà này. Anh lặp lại câu hỏi: ba em giấu bản đồ ở đâu? Trong nhà hay ngoài vườn? Giấu trong vật nào? Cách lấy ra sao?

- Theo lời ba em, chỉ những người thông minh xuất chúng mới nắm được bí mật của kho vàng. Trong trường hợp ba em gặp đặc phái viên CIA, nghĩa là anh, ba em trao một mảnh giấy. Trong trường hợp ba em lâm nạn, em trao mảnh giấy này cho tòa đại sứ Mỹ. Mảnh giấy do ba em minh họa với một hàng chữ số. Ba em in làm 2 bản, ba em giữ một bản, bản còn lại em giữ. Đây, nhức đầu lắm, anh ơi. Anh đoán thử xem...

Diane mở hộc bàn đêm, rút ra cái hộp dẹt được gián bằng băng keo phía dưới. Hộp dẹt này đựng một mẩu giấy nhỏ bằng hai ngón tay. Trên mẩu giấy được vẽ một con chó tô màu vàng nằm phủ phục bên một người đàn bà đẹp mang tòng teng mỗi vai một khúc cốt lết nướng. Phía dưới, vỏn vẹn mấy chữ sau:

"Đuổi khỏi trường đi Nữu ước".

Văn Bình buông mảnh giấy xuống giường, miệng thốt ra tiếng thở dài đủ mùi vị chua cay đắng sót. Trong đời không thiếu gì người điên, song chưa chuyến nào chàng phải làm việc chung với người điên bất trị như anh chàng Lulio. Con chó vàng, thiếu phụ với hai cục sườn ngon lành. Đuổi khỏi trường, đi Nữu ước! Trời ơi, chàng là điệp viên hành động, đâu phải thầy bói...

Dẫu là thầy bói, chàng cũng không đoán nổi ý nghĩa những hình và chữ hóc búa, dở dở ương ương ấy. Giá Lulio đứng bên, chàng không ngần ngại khiệng một cái nên thân. Đáng tiếc Lulio đã chết.

Chàng giơ mẩu giấy trước mắt nàng:

- Ba em dặn gì nữa?

Nàng đáp, thái độ thản nhiên như thể những việc xảy ra không liên hệ đến nàng:

- Không. Biết tính ba, em chẳng buồn hỏi thêm.

200 tấn vàng mà nàng coi như 200 tấn đất...

Bỗng nàng à một tiếng dài rồi nói:

- Có. Ba nhấn mạnh điều này: phải tìm kiếm bằng kiến thức và trí khôn, cà đừng táy máy mở sai chữ thì hộp đựng họa đồ bốc lửa, tất cả cháy ra than, của thiên trả địa.

Văn Bình choàng dậy:

- Mở sai chữ... hiểu rồi, họa đồ cất trong hộp, cái hộp giấu ở một nơi nào đó được gắn ổ khóa chữ. Thôi được, anh cần ngả lưng một lát để tập trung chân khí và tĩnh dưỡng tâm thần trước khi khám phá bí mật. Em tắt dùm anh ngọn đèn đỏ nhức nhối kia. Để yên anh ngủ, chớ đánh thức.

Văn Bình lăn xuống giường, quay mặt vào tường. Diane rón rén nằm bên. Trong bóng tối, nàng run rẩy chờ đợi. Chờ hoài, đợi mãi, chàng không làm gì hết. Chàng quên bẵng nàng là đàn bà đẹp. Chàng đã ngủ say.

Đây là một trong những giấc ngủ rất đắt của điệp viên Z.28. Rất đắt vì chàng sẽ có thể phải trả bằng tính mạng của chàng.

Vì trong khi chàng ngủ thì bên ngoài, cách đường hẻm 50 mét có một chiếc xe bít bùng rình rập. Với đầy đủ máy móc kiểm thính điện tử và nhân viên võ trang đến tận răng.


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Tây Ban Nha 200 Tấn Vàng Đẫm Máu - Người Thứ Tám Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tây Ban Nha 200 Tấn Vàng Đẫm Máu - Người Thứ Tám   Tây Ban Nha 200 Tấn Vàng Đẫm Máu - Người Thứ Tám Icon_minitimeSun Dec 10, 2017 8:28 am

IX. Họa đồ kho vàng

Năm phút sau khi Văn Bình lái chiếc tắc xi Fasa vào sân nhà trệt thì chiếc xe bít bùng xuất hiện. Nó không theo Văn Bình vào ngõ hẻm. Nơi nó đậu lại dường như được sắp đặt từ trước. Căn cứ trên một bản đồ thành phố trải ngang đùi, tài xế ngừng xe, tắt máy ngay ở nơi được đánh dấu chữ thập bằng bút chì mỡ.

Trên băng trước chỉ có một mình tài xế. Phía sau được che kín như cái hộp. Hai người túc trực bên trong. Một già, một trẻ, phục sức xuềnh xoàng, nét mặt rắn rỏi, lì lợm của kẻ từng lăn lộn trong cảnh dầu sôi lửa bỏng. Cả hai ngồi bệt trên sàn xe, chăm chú theo dõi những bóng đèn màu đỏ và xanh thắp sáng cũng như những cây kim đồng hồ trong cái máy kiểm thính lớn bằng cái va li hạng trung kê dọc bên hông xe.

Chiếc xe bít bùng hòa lẫn đám lá cây thành một khối đen, ở xa mươi thước không ai nhận ra nó. Dẫu nhìn thấy cũng không nghi ngờ: ban đêm xe đậu ngoài đường là thường. Vả lại, đây là đường vắng, những phương tiện ồn ào như xe điện không bao giờ chạy qua.

Thoạt tiên cả hai tỏ ra hả hê. Tên trẻ đeo mũ nghe lên đầu trong khi tên già nhồi thuốc lá đầy ống tẩu, trịnh trọng châm hút. Kể từ lúc Văn Bình mở nước trong buồng tắm, sự khoái trá của tên trẻ vụt biến như bong bóng xà bông. Hắn nhăn mặt nói với tên già:

- Đại ca ơi, nghe toàn tiếng rèn rẹt.

Tên già nhún vai:

- Tiếng nước chảy. Chắc họ đang tắm. Hừ, tắm chung sướng ghê. Chờ một lát, họ tắm xong là hết rèn rẹt.

15 phút trôi qua. 30 phút trôi qua. Tiếng rèn rẹt vẫn y nguyên. Nó chỉ giảm bớt cường độ chứ không ngưng bặt như tên già tiên liệu. Loáng thoáng tiếng người nói, bị âm thanh của nước che lấp. Tên trẻ càu nhàu:

- Tắm gì lâu vậy! Định ngủ luôn trong bồn hả?

Tên già rút ống điếu ra khỏi miệng:

- Hừ, trai gái hẹn hò với nhau mày không cho người ta làm sạch một chút được ư? Mày ăn ở bẩn quen, nên chịu không nổi. Hồi tao trẻ như mày, tao sửa soạn lâu gấp đôi. Người đẹp chờ ở ngoài, mặc, tao kỳ cọ đúng nửa giờ.

- Đại ca ơi, từ nãy đến giờ hơn 60 phút, nghĩa là hơn một giờ!

- Thật hả? Ráng kiên nhẫn thêm 15 phút . Nếu băng ghi âm vẫn rèn rẹt tức là nó nghi ngờ.

- Bại lộ à đại ca?

- Bại lộ thì chưa. Chắc nó gia tăng thận trọng. Trong hoàn cảnh nó, tao cũng thận trọng như nó.

- Đề nghị đại ca, mình trèo tường ập vào bắt gọn.

- Bắt nó chẳng khó gì. Nhưng mục đích của ta không phải vậy. Mình chỉ cần nghe lọt những điều nó nói với nhau. Xong xuôi, mới hoạt động.

- Ha, ha, đại ca... em vừa nghe rõ lại như cũ. Không còn tiếng rèn rẹt ác ôn kia nữa. Quái gở, quái gở!

- Làm gì mà mày kêu quái gở luôn miệng thế này?

- Thằng đàn ông quay ra ngủ, mới đặt lưng xuống nó ngáy vang như sấm.

- Tao không tin.

- Còn cô gái thở dài sườn sượt. Có lẽ chàng ngủ ríu mắt, chàng vứt giai nhân một xó. Nàng đau khổ than thân trách phận im lặng một mình.

- Đưa mũ nghe cho tao.

- Đại ca tưởng em điếc hả? Đây, mời đại ca thưởng thức điệp khúc o o của thằng cha đa tình Z.28.

Tên già giựt mình như bị chảo nước sôi sùng sục hắt vào người. Đàn em của hắn báo cáo đúng. Văn Bình Z.28 không hối hả, sục sạo, chạy đua với kim đồng hồ như hắn và thượng cấp của hắn trù tính. Z.28 vẫn tỉnh bơ. Tên già văng tục rồi lẩm bẩm như kẻ bị ma hành:

- Ngủ, ngủ, quái gở, giờ này mà ngủ! Thằng Z.28 này điên... Nè, mày...

- Đại ca sai em?

- Ừ. Mày ở lại , tiếp tục công tác kiểm thính. Tao về xin thêm chỉ thị.

- Đại ca vắng mặt bao lâu?

- Chừng một giờ, một giờ rưỡi. Đến khi tao quay lại, trời chưa sáng đâu. Cung cách nó ngủ mê ngủ mệt như vầy, mai sớm nó mới chịu thức, mình còn vô khối thời giờ. Mày làm việc cho khéo, nghe.

- Đại ca tin ở em.

- Mày chỉ được cái nhanh nhẩu đoảng. Lớ ngớ bị "hỏi giấy" thì khốn nạn đó con...

- Hết giờ tắc xi chạy, đại ca lấy gì về trụ sở?

- Ra đầu đường tao mượn tạm chiếc xe nào đó. Z.28 và cô gái còn nói gì nữa?

- Vẫn tiếng o o điếc tai và tiếng thở dài não nuột.

- Thôi, tao chuồn.

Tên già mở cửa xe, băng xuống nệm cỏ ướt sương. Bốn bề vắng tanh và tối thui.

Khi tên già rời chiếc xe bít bùng thì trong tòa biệt thự trệt Văn Bình hé mắt, quan sát căn phòng tối om. Chàng chỉ giả vờ ngủ. Bởi vậy chàng tiếp tục ngáy. Nằm bên, Diane còn thức. Hơi thở của nàng không đều đặn chứng tỏ tâm thần chứa đầy phiền muộn. Đột nhiên nàng quay mặt về phía chàng, thút thít khóc.

Đàn bà có khác, giác quan thứ sáu của nàng cực kỳ nhậy cảm. Nàng hỏi dồn:

- Anh đang thức?

Chàng cựa mình ú ớ. Nàng lay chàng:

- Dậy với em đi anh. Em không tài nào nhắm mắt nổi.

Văn Bình không thể chần chừ thêm. Tuy yêu nàng, chàng vẫn phải điểm huyệt cho nàng mê man. Lợi dụng hoàn cảnh ngực nàng cọ sát vai chàng, chàng thọc atémi bằng đầu ngón trỏ dưới nách. Nàng bất tỉnh tức khắc.

Chàng xuống giường, kiểm soát các riềm cửa. Tất cả đều được kéo kín. Chàng ung dung mở đèn. Ánh đèn đỏ làm chàng mệt mỏi. Tuy nhiên trong phòng không có ngọn đèn nào màu vàng hoặc trắng. Chàng lẩm bẩm trong miệng "đuổi khỏi trường đi Nữu ước... con chó vàng... người đàn bà đẹp mang hai khúc cốt lết nường trên vai".

Lulio là môn đệ hội họa của bậc thầy lập dị, điên tàng Đali. Cách trang trí ngôi nhà cho Văn Bình thấy ảnh hưởng sâu đậm của Đali.

- Đali... Đali...

Văn Bình cắn môi, bóp trán, đào tìm trong trí nhớ. Chàng suýt bật tiếng "ồ".Đích thị... người đàn bà đeo cốt lết nuớng chẳng phải ai xa lạ. Trên thế giới chỉ có mỗi một người đàn bà đeo cốt lết nướng trên vai được vẽ thành tranh, bức tranh được toàn thế giới biết tiếng. Đó là họa phẩm của Đali. Thiếu phụ trong tranh là vợ của Đali.

Năm 1934, ông đặt chân xuống bến tàu Nữu ước giữa sự đón tiếp nửa ngạc nhiên nửa tò mò của các nhà báo. Một ký giả hỏi:

- Ông vừa vẽ bà vợ của ông với hai khúc cốt lết nướng trên vai, phải không?

- Phải.

- Tại sao?

- Vì tôi yêu cốt lết.

-?

- Đồng thời tôi yêu vợ tôi. Tôi nhận thấy không có lý do nào ngăn tôi vẽ chung trên một khung vải hai đề tài tôi yêu nhất đời: vợ tôi và thịt cốt lết nướng.

Vợ ông là Gala[92]. Khi lấy nhau, hai người nghèo kiết xác..

Ông nặn óc nghĩ ra hàng trăm sáng kiến mà không ai dám mua. Nào người mẫu thợ may với cái đầu kết bằng hoa hồng, móng tay dài như móng chuột, bồn tắm bọc bằng lông chồn đắt tiền bên trong nổi lềnh bềnh hoa thủy tiên, máy đìện thoại bọc đá vân cẩm thạch cho đàn bà đẹp...

Ông yêu Gala, cho nên hầu hết họa phẩm sau này ông đều ký tên Gala-Đali.

Cặp mắt của Văn Bình tự động hướng lên tường. Trên bốn bức tường gắn vỏ sò chỉ vỏn vẹn 3 bức họa. Và đều là họa chân dung. Chàng nhìn góc dưới: không thấy chữ ký Gala-Đali như thường lệ.

Thất vọng.

Chưa hoàn toàn thất vọng, Văn Bình cố lục lọi phía sau đường nét của 3 tấm chân dung vẽ bằng chì than, không ký tên, bút pháp lập dị theo khuynh hướng siêu thực của Đali, nhưng chưa được già dặn, nếu không muốn nói là non nớt. Chàng đoán đây là công trình của Lulio. Nếu là Diane phải có sự mềm mại cố hữu của nữ giới. Đành rằng bay bướm, song là thứ bay bướm của đàn ông. Chắc là Lulio vẽ những khi nhàn rỗi.

Chi tiết khiến Văn Bình chú ý là người mẫu ở 3 tấm chân dung đều xấu. Hai bà lão cằn cỗi. Một người đàn ông trung niên gầy còm, da mặt răn reo, miệng cười như mếu. Mỗi bức tranh đều ghi tên người mẫu. Văn Bình nhẩm đọc tên. Người đàn ông trung niên mang tên Luis Bunuel...

Luis... Văn Bình cố mường tượng lại những hiểu biết của chàng về họa sư Đali. Chàng điểm lại cuộc đời lên bổng xuống chìm của ông. Những đóa hoa biết nói ông từng gặp. Những người thân. Những người bạn. Và những người giữ vai trò quyềt định trên đường tạo dựng sự nghiệp.

Luis... Luis Bunuel... trời ơi... Lulio thật oái oăm. May chàng có trí nhớ siêu đẳng, nếu là người khác thì những mẩu tên nhòa nhạt này đã chìm lỉm trong sương mù ác ôn của dĩ vãng.

Năm 1929, Đali được 23 tuổi, ông bị đuổi khỏi trường Mỹ Thuật ở Mađờrít về tội vô kỷ luật, tội coi thầy giáo ngang với con số không. Ông lang thang qua thủ đô ánh sáng Ba lê, tại đó định mạng an bài cho ông hợp tác với một nghệ sĩ đồng hương là Luis Bunuel để sản xuất hai cuốn phim nổ to như trái bom. Tựa đề của hai cuốn phim thời thượng ấy là Con Chó và Tuổi Vàng[93].

Hai bộ phim do Đali và Luis Bunuel thực hiện: Tuổi Vàng và Con Chó

Văn Bình tiến sát lại bức họa mang tên Bunuel, kiễng chân ngắm. Bức họa này không được treo theo lối thông thường. Nó được gắn lọt vào tường. Đề phòng bụi bặm, và sự tàn phá của thời gian, người ta lợp ngoài bằng một lớp gương mỏng.

Ngẫm nghĩ một lát, Văn Bình trèo lên ghế, dùng lưỡi dao nhíp nậy bật tấm kiếng khỏi khung tranh. Thì ra bức chân dung Luis Bunuel được đắp nổi bằng than vụn. Nhìn kỹ chàng khám phá ra trong chữ Bunuel được giấu một cái nút nhỏ xíu, đồng màu với than vẽ. Chàng đặt ngón tay lên nút rồi ấn xuống từ từ.

Một tiếng "tách" nổi lên. Vầng trán người đàn ông trong tranh bật ra để lộ một ô cửa vuông. Sau ô cửa là ổ khóa chữ. Ổ khóa mà Lulio nhắc đến.

Ổ khóa gồm 5 vòng. Vòng thứ nhất toàn chữ. Những vòng còn lại toàn con số.

Câu nói của Diane văng vẳng bên tai Văn Bình "phải tìm kiếm bằng kiến thức và trí khôn và đừng táy máy: mở sai chữ thì cái hộp đựng họa đồ bốc lửa, tất cả cháy ra than..." Chàng thần người giờ lâu trước ổ khóa. Nó được đúc bằng thép, một loại thép trui đặc biệt Đông Đức. Nó lớn bằng ba ngón chân chụm lại, thoạt trông ai cũng tưởng nó không an toàn, kỳ thật nó là ổ khóa chữ đạt mức an toàn trăm phần trăm. Nó dựng trong ruột một bộ máy nhỏ xíu cực kỳ tinh vi, gần như khối óc điện tử. Muốn mở cửa tủ không gây tai nạn -một hóa chất bốc cháy trong loáng mắt- thì phải tuần tự mở ổ khóa từ phải sang trái, xin nhớ từ phải sang trái như đọc chữ nho. Mỗi vòng chữ có một cái nút, bấm nút mới quay được. Quay đủ một vòng thì có tiếng "tách". Thanh âm này báo hiệu: bắt đầu để số và mở. Người mở từ từ quay vòng đến số đã định thì ngưng và bấm nút. Nếu để lộn số thì có thể làm lại lần nữa. Và chỉ được phép lộn số một lần. Lộn lần thứ hai, lửa sẽ phựt cháy. Có 5 vòng số và chữ, điều này có nghĩa là trong 5 lần quay tai nạn có thể xảy ra. Lulio, cha đẻ của mật số oái oăm của ổ khóa, đã sang bên kia thế giới.

Trong trường hợp Văn Bình để lộn số, những giấy tờ cất trong két bị thiêu hủy, Điêp vu Muleta sẽ thất bại hoàn toàn...

Bồ hôi vã đầm đìa, Văn Bình càng lau khô nó càng chảy ra như tắm. Chàng đã phăng ra ý nghĩa của hình con chó vàng. Nhưng còn thiếu phụ mang miếng sườn nướng trên vai tức Gala? Nhưng còn hàng chữ bí hiểm "đuổi khỏi trường, đi Nữu ước"?

Đuổi khỏi thường..., à, à, chuyện này đánh dấu chuyến đi Ba lê của sinh viên vô kỷ luật Đali. Đó là năm 1929. 5 năm sau, năm 1934, Đali lên đường qua Nữu ước.

Đuổi khỏi trường, đi Nữu ước, nghĩa là hai mốc thời gian 1929 và 1934. Nghĩa là 2 9 3 4. Chữ đầu của Gala là G. Tóm lại, mật mã để mở khóa có thể là G.2934.

Có thể, vì Văn Bình dựa vào linh tính để đoán tìm. Dầu muốn dầu không, đây là một nước bạc. Chơi bạc, chàng luôn luôn thắng. Chàng tin tưởng lần này thắng nữa.

Chàng nhắm mắt, dựa lưng vào tường trong tư thế nghỉ khỏe. Sau đó chàng vận công. Tim chàng hết đập mạnh, bồ hôi lạnh không nhễu đầy mặt như hồi nãy. Chàng phục hồi được sự điềm tĩnh cố hữu.

G.2934. Bắt đầu là số 4. Chàng bấm nút, quay vòng. Tách. Chàng vặn ngang số 4. Bấm nút. Tiếng tách này cho biết 4 là số đúng. Lần lượt 3, 9, 2 rồi G, bốn lần quay vòng, bốn lần Văn Bình được thưởng công bằng tiếng "tách" kỳ diệu.

Ổ khóa bất khả xâm phạm rung chuyển nhè nhẹ. Văn Bình lắc từ dưới lên trên, nó bung ra nhẹ nhàng đồng thời cánh cửa thép kích thước chữ nhật như cuốn tự điển được tự động mở lùi vào phía trong.

Trong tủ sắt có một cái hộp cạt tông mỏng. Văn Bình mang ra khỏi két, lấy hết giấy tờ trong đó, trải ngay ngắn trên mặt bàn đêm. Chàng mừng rơn: trong xấp giấy tờ có một họa đồ vẽ bằng màu chỉ rõ lộ trình đến kho vàng. Xấp giấy tờ khá dầy, được đánh máy, không có những chi tiết quan trọng. Nó gần như nhật ký của Lulio. Ông thuật lại nguồn gốc của số vàng và những lý do khiến ông bảo vệ nó. Văn Bình đọc lướt qua, đến đâu chàng nhớ đến đấy. Chàng châm lửa đốt, vứt tàn nghiền nhỏ vào ống cống buồng tắm. Riêng họa đồ kho vàng, chàng mất gần 5 phút mới chụp được vào óc. Chàng vẽ nhẩm bằng ngón tay dúng nước trên mặt bàn, đến khi hoàn toàn nắm vững các lộ trình chi chít, chàng vo tròn họa đồ ném vào miệng nhai nát rồi chiêu với ngụm nước.

Diane vẫn ngủ say sưa. Văn Bình ngả mình xuống bên. Lần này chàng ôm nàng thật chặt. Và chàng ngủ thật sự. Không gì sung sướng bằng được ngủ bù một giấc thả cửa, và an toàn... dưới sự canh gác của địch.

Nếu cửa sổ nhìn ra vườn không được mở rộng để những tia nắng ban mai sáng lóe lọt vào, có lẽ Văn Bình còn ngủ mê mệt đến trưa. Chàng choàng dậy, Diane đang ngó chàng, dáng điệu âu yếm:

- Chết, anh ngủ quên. Mấy giờ rồi em?

- 10 giờ rưỡi.

- Em dậy hồi mấy giờ?

- 7. Em ra phố mua đồ ăn vì trong nhà này chẳng có gì hết.

- May ghê. Người ta bắt gặp em thì nguy.

- Anh chỉ lo sợ hão huyền. Em không thấy ai rình rập. Vả lại, em mua mọi thứ ở ngay đầu đường.

Mùi cà phê pha rượu rom thơm ngát. Bữa điểm tâm được nàng lo liệu ê hề và thịnh soạn như đại tiệc. Nàng đưa tờ báo cho chàng. Hớp cà phê bỗng nhiên mắc nghẹn trong cuống họng chàng như thể nó là khúc xương lớn. Cuối trang nhất của tờ báo phát hành buổi sáng có một mẩu tin liên quan đến vụ thanh toán tại chợ trời hồi đêm. Mẩu tin này tiết lộ nội dung cuộc điều tra của nhà chức trách về tên sát nhân trốn thoát miệng hút ống điếu Charatan.

Văn Bình nhíu mày trước những giòng chữ như sau:

"Do sự hợp tác tỉnh táo và chính xác của một nhân chứng có mặt tại phạm trường, nhà chức trách cảnh sát đã biết tướng mạo hung thủ: hung thủ ngậm ống tẩu Charatan. Tại Mađờrít, có 3 người dùng ống tẩu đắt tiền cả chục ngàn mỹ kim này. Tướng mạo, cách phục sức, giọng nói của một trong 3 người này ăn khớp với những lời mô tả của nhân chứng.

"Người này -điều không ai dám ngờ - là một viên chức cao cấp của tòa đại sứ Mỹ ở đây. Sở cảnh sát không cho biết bất cứ chi tiết nào khác. Tuy nhiên, theo nguồn tin riêng được phối kiểm của bản báo thì người ngậm ống điếu kể trên là ông Dôdếp, đệ nhị tham vụ của sứ quán Mỹ. Bề ngoài là tham vụ ngoại giao, bên trong Dôdếp chính là trưởng cơ sở CIA trên toàn cõi Tây ban nha. Dường như nhà chức trách cảnh sát đã chính thức yêu cầu sứ quán Mỹ giải thích. Cho tới giờ báo lên máy, sứ quán Mỹ vẫn giữ im lặng.

"Dầu sao đi nữa thì sự dính líu của CIA vào vụ thanh toán man rợ ngay tại thủ đô nước ta cũng là hành động nguy hiểm khó thể bào chữa. Chúng tôi nghĩ rằng quyền đặc miễn tài phán khó thể được áp dụng vào trường hợp này mặc dầu Tây ban nha là hội viên Minh ước Bắc Đại tây dương, và là đồng minh keo sơn của Hoa kỳ. Hung thủ Dôdếp vẫn phải được xét xử trước tòa án theo luật pháp hiện hành, đồng thời kể từ nay cơ quan gián điệp CIA phải cuốn gói khỏi xứ này..."

Văn Bình thả tờ báo xuống đất. Diane rót thêm cà phê cho chàng:

- Rắc rối quá. Đọc xong, em muốn điên cái đầu. Thế này anh hết hoạt động. Chính phủ sẽ đuổi ông Dôdếp. Không khéo anh cũng bị liên lụy.

Văn Bình hút thuốc lá, không nói nửa lời. Trong khi Diane thu dọn, chàng chọn một đĩa nhạc êm đặt trên máy hát. Chàng lẳng lặng ngồi nghe. Nét mặt trang nghiêm của chàng làm nàng e sợ. Nghe nhạc chán, chàng vặn ra dô. Chàng liếc đồng hồ: 12 giờ trưa. Chàng mở máy thu thanh không phải do sự tình cờ. 12 giờ là giờ các đài bá âm loan tin quan trọng trong ngày. Âu châu gồm hàng chục quốc gia, sát nách xen kẽ lẫn nhau, làn sóng điện hầu như giống nhau. Văn Bình chỉ xê xích nút vặn một milimét là giọng xướng ngôn viên thay đổi. Chàng không nghe đài Bồ đào nha hoặc Ý đại lợi kế cận. Chàng lướt qua đài bá âm Ba lê trước khi dừng lại ở đài BBC Luân đôn.

Chàng đoán đúng: những việc xảy ra hồi hôm ở Mađờrít đã gây tiếng vang trên khắp thế giới. Theo lời xướng ngôn viên đài BBC, bộ Ngoại giao Mỹ tỏ ra bối rối. Bộ này cho biết còn phải đợi sứ quán Mỹ ở Mađờrít gửi phúc trình về nên chưa thể trả lời những câu hỏi của báo chí. Phóng viên của đài tại Hoa thịnh đốn tiết lộ ông Dôdếp, đệ nhị tham vụ sứ quán Mỹ, kiêm trưởng cơ sở CIA Tây ban nha, đã từ giã nhiệm sở, trên đường về nước.

Đài BBC cũng trích dẫn những lời cáo buộc nẩy lửa của phái đoàn Liên sô tại Liên hiệp quốc. Phe cộng sản do Liên sô cầm đầu với sự phụ họa của Hoa lục đòi ghi vào nghị trình khóa họp hiện hành của Đại hội đồng LHQ vấn đề CIA trắng trợn xâm phạm chủ quyền nước Tây ban nha. Vẫn theo phóng viên đài BBC, vụ này hứa hẹn sẽ nổ lớn trong những ngày tới. Trừ phi chính phủ Mỹ trưng được những bằng chứng về sự vô can, bằng không dư luận toàn thế giới sẽ kịch liệt lên án họ.

Diane tắt máy thu thanh, nũng nịu với chàng:

- Anh có vẻ lo lắng.

Chàng nhún vai:

- Còn hơn lo lắng một bậc. Anh cần ra vườn xem xét lại chiếc tắc xi.

- Chúng mình ra đi?

- Ừ. Lát nữa.

- Đi đâu?

- Nơi có kho vàng.

- Anh đã khám phá ra ý nghĩ của mẩu giấy bí mật.

- Rồi.

Chàng lững thững ra cửa. Diane không chịu rời chàng một bước. Chàng ra hiệu cho nàng đừng hỏi, đoạn mở cái vòng cổ bằng hạt trai màu trắng đeo tòng teng trên cổ nàng. Loại hạt trai này phát xuất từ quần đảo Malótca[94] ở ngoài khơi. Nó là hạt trai nhân tạo, gồm hai màu đen và trắng. Nó đẹp không thua hạt trai Nhật. Giá bán không đắt song rất quý. Phụ nữ thường đeo hạt trai Malótca tết thành hai, ba vòng.

Chàng từ tốn đặt cái vòng hạt trai vừa cởi trên nệm giường. Chàng tiếp tục ra hiệu cho nàng ngậm miệng.

Ra khỏi hành lang, chàng mỉm cười rí rỏm:

- Em cần hỏi điều gì, hỏi đi?

- Hỏi tại sao anh không cho em đeo xâu chuỗi hạt trai. Nó là kỷ vật của mẹ em. Anh thấy nó xấu ư?

- Hừ, anh tưởng em có trí khôn, ai ngờ em ngu đần một cách kinh khủng.

- Em hiểu rồi. Trong chuỗi hạt trai của em, có máy ghi âm lén lút của địch?

- Thưa cô, vâng.

- Đừng riễu em tội nghiệp. Em đinh ninh họ giấu trong đồng hồ, trong đế giày, đâu dè... Vả lại, xâu hạt này tự tay em mua, họ làm cách nào để có thể cất dụng cụ điện tuyến trong đó?

- Em ngất đi một lát, họ chỉ cần mấy phút đồng hồ khoan rỗng một hạt, nhét dụng cụ điện tuyến vào rồi trét lại. Kỹ thuật điệp báo ngày nay đã sản xuất được những máy ghi âm nhỏ bằng nửa hạt bắp. Thật ra nó không hẳn là máy ghi âm. Nó chỉ được tiếp vận âm thanh từ phòng ra ngoài đường.

- Nghĩa là địch rình rập bên ngoài?

- Dĩ nhiên. Loại dụng cụ tiếp vận nhét trong hạt trai hoạt động rất yếu. Bắt buộc địch phải đậu xe hơi cách biệt thự này từ 50 đến 100 mét. Hồi sáng ra phố mua đồ ăn, em có gặp chiếc xe hơi bít bùng nào ở đầu hẻm không?

- Có.

- Hình dáng của nó?

- Em không thấy gì khác. Bề ngoài, nó như xe chở hàng thông thường của công ty Melia[95].

- Có cọc vô tuyến điện dài thòng không?

- Chắc không.

- Trên mui nó?

- Trên mui, phía sau... à, em nhớ rõ... nó có cái hộp tròn chứa cây quạt thông hơi...

Mắt Văn Bình sáng rực. Chàng vứt điếu Salem vừa đốt, chưa kịp hút, ra vườn, bàn tay phác một vòng trong không khí, miệng lẩm bẩm:

- Công ty Melia... cây quạt thông hơi. Hừ, anh cám ơn em, Điệp vụ Muleta đã hoàn tất hai phần ba . Nhờ em.

Diane ngơ ngác:

- Anh nói gì? Anh cám ơn em chuyện gì?

- Chuyện kho vàng.

- Công ty chuyển vận Melia và cây quạt thông hơi có dính líu đến vụ 200 tấn vàng? Anh giải thích cho em nghe.

- Sợ không kịp.

- Kịp gì?

- Kịp gặp ông giám đốc sở Phản gián Tây ban nha.

- Anh điên, anh điên... Đang trốn chui trốn nhủi, không dám ló đầu ra. Giờ đây anh lại đòi gặp ông giám đốc Phản gián.

- Muốn biết anh điên hay tỉnh, em hãy đi theo anh. Và đừng hỏi gì hết. Dần dà, em sẽ hiểu.

Văn Bình bước rảo ra cổng.

Diane giữ chàng lại:

- Nếu anh không chịu nói, em sẽ ở lì lại đây. Anh đi một mình.

- Em săng ta anh. Thôi, anh xin đầu hàng vô điều kiện. Tóm tắt, câu chuyện như vầy: ông giám đốc Phản gián Tây nhờ CIA hành động vì lẽ: thứ nhất, ông Lulio, ba em, yêu cầu, thứ hai và đó là nguyên nhân chính, gián điệp địch gài được tai mắt ở cấp cao nhất của Sở. Một công đôi việc, ông giám đốc nhân cơ hội tìm kiếm 200 tấn vàng thúc giục tay sai của địch xuất đầu lộ diện. Cách đây 12 tháng, Hoa kỳ viện trợ cho Phản gián Tây hai chiếc xe hơi kiển thính tối tân, nó không mang cọc vô tuyến dài thòng, nó trông giống xe chở hàng của công ty Melia, trên mui gắn cây quạt thông hơi đựng trong cái hộp tròn. Chiếc xe bít bùng đang đậu ngoài đường là của sở Phản gián, chộp bắt bọn nhân viên trong xe là phăng ra đầu mối. Sau đó, chúng mình đến gặp ông giám đốc. Em còn thắc mắc nữa không?

Diane trả lời bằng cái hôn đền. Phì phèo thuốc lá, Văn Bình mở cửa ra hẻm. Giờ trưa là thời khắc thiêng liêng của người bản xứ. Giờ ăn. Giờ ngủ. Giờ yêu đương. Mọi người đều ngồi nhà. Rất ít ra đường. Bởi vậy Văn Bình không đụng ai.

Chiếc xe kiểm thính sơn đen tốp dưới rặng me xanh ngắt, lấp loáng nắng vàng. Lưu thông hoàn toàn thưa thớt. Thậm chí khách bộ hành cũng hiếm. Văn Bình có cảm tưởng như trưa 30 Tết ở Sàigòn.

Chàng nương theo hàng rào nên tài xế ở băng trước không nhìn thấy chàng. Chàng đến sát xe, hắn vẫn ngủ gà ngủ gật. Chàng chờ hắn nghe động quay mặt lại mới thọc atémi vào cục hầu. Hắn ngã ngửa trên nệm xe, không kêu được nửa tiếng. Chàng lục túi nạn nhân, lấy chùm chìa khóa. Cửa sau xe được khóa từ bên trong, muốn mở phía ngoài phải có chìa khóa.

Cửa xe vừa hé Văn Bình vọt lên. Hai tên nhân viên kiểm thính đang ngồi bệt trên sàn bên đống ruột bánh mì và vỏ chai rượu chát la liệt. Chúng no ứ bụng, biết có biến mà không phản ứng nổi. Tên trẻ toan đặt ngón tay lên nút báo động gắn ở sườn xe thì cùi trỏ của Văn Bình tông trúng cằm. Hắn ngã dập vào giàn máy kiểm thính. Tên già trơ mắt ếch ngó Văn Bình, không dám đương đầu bằng võ lực, cũng không dám mở miệng kêu cứu. Tên trẻ vừa bị đánh bất tỉnh mặc dầu Văn Bình chỉ sử dụng một thế chẩu quyền thật nhẹ. Nghệ thuật cao siêu của chàng làm tên già run rét.

Hắn nói không ra hơi:

- Thưa ông, thưa ông... ông tha cho tôi!

Diane đóng cửa sau xe rồi ra phía trước, choán chỗ ngồi của tài xế. Văn Bình kéo cái chốt nhỏ, mở cửa ăn thông từ phía sau với ca bin tài xế. Chàng dặn nàng:

- Có gì khả nghi, báo ngay cho anh biết.

Đoạn chàng hất hàm với tên già:

- Tuổi anh xấp xỉ 50, cái tuổi có con cháu đầy đàn, cái tuổi cần hưởng thụ, cái tuổi sửa soạn được về hưu, nghỉ ngơi... Cái tuổi rất thèm sống, và rất sợ chết. Anh hiểu ý tôi chưa?

Tên già nuốt nước miếng:

- Dạ, hiểu.

- Ai ra lệnh cho các anh theo dõi tôi bằng xe kiểm thính?

- Dạ, dạ, thượng cấp.

- Thượng cấp nào?

- Dạ, em là... nhân viên kiểm thính của sở Phản gián.

- Biết. Anh khỏi cần chạy vòng quanh. Tôi chỉ hỏi thượng cấp nào ra lệnh. Ông chánh sở Nội vụ hay ông chánh sở Kiểm thính?

- Dạ, ông Nội vụ.

- Tốt. Anh dẫn tôi về Sở.

- Chết. Ông làm thế, chúng em chết mất. Thượg cấp dặn chúng em tuyệt đối thận trọng và kín đáo, không được để ai khám phá. Bại lộ, chúng em sẽ bị đuổi việc, và chắc chắn ngồi nhà đá.

- Hừ, ngồi nhà đá khỏe hơn nằm nhà thương...

- Thưa ông, thưa ông...

Văn Bình không cho phép tên già dứt câu. Chàng phạng atémi ngang sườn. Hắn ngã đè lên khối thịt dài thòng của bạn hắn. Chàng ghé miệng sát ô cửa ăn thông với băng trước, cất tiếng gọi Diane:

- Đến tư thất ông giám đốc.

Nàng hỏi:

- Gần ga xe lửa Atôsa?

Nhà ga này tọa lạc ở phía nam thành phố, không xa vườn bách thảo bao nhiêu. Quấy rầy một yếu nhân Nhà nước giữa trưa nắng gắt là việc phạm thượng hầu như không bao giờ xảy ra ở xứ lừng khừng thèm ngủ trưa Tây ban nha. Diane có vẻ bối rối trước sự giục dã của Văn Bình. Nàng nói:

- Giờ này ông ta đang ngáy o o.

- Chẳng sao. Dựng ông ta dậy.

- Khó lắm, anh ơi... Lính gác sẽ không cho xe vào.

- Đừng ngại. Anh kêu đìện thoại báo trước.

- Buổi trưa, họ cúp đìện thoại.

- Ông ta chờ anh.

- Chờ anh? Trời ơi! Nghĩa là công việc này được bố trí từ trước.

- Dĩ nhiên. Bố trí từng li từng tí. Ông giám đốc Phản gián nghi ngờ một trong hai cộng sự viên thân cận của ông chơi trò hai mang, vừa ăn lương Tây ban nha, vừa trung thành với một tổ chức do thám địch. Rình mãi, ông chưa chộp được bằng cớ. Ông bèn giương bẫy.

- Khiếp. Em cứ tưởng anh hoạt động tùy hứng. Không dè mọi chi tiết đều được sắp xếp tỉ mỉ. Không khéo việc anh gặp em trong nhà hàng Botin được sắp xếp trắng cũng nên.

Văn Bình cười xòa, không đáp. Nàng trề môi:

- Ông giám đốc nghi Antônin?

Chàng vẫn cười:

- Phải. Nghi hắn là tay sai địch.

- Không đúng. Ông giám đốc trông gà hóa cuốc. Nếu đích thật Antônin là tay sai của địch thì không lẽ địch giết hắn?

- Trong nghề này, vắt chanh bỏ vỏ là chuyện thông thường. Địch hạ sát Antônin còn để bảo vệ bí mật. Sau khi chứng kiến vụ Antônin bị hạ sát trên thềm nhà hàng, anh đoán được ngay mưu đồ của địch. Antônin vui vẻ, thản nhiên bước ra ngoài. Sự kiện này cho thấy hắn quen thân hung thủ.

- Địch biết anh đến nhà hàng Botin?

- Vì em bị bắt cóc, anh không thể không đến đó tìm hiểu tin tức về em. Em không khai, địch bèn tạo điều kiện cho em thoát thân cùng đi với anh. Địch chỉ cần theo dõi đường đi nước bước và cuộn băng ghi âm là nắm gọn được kết quả thắng lợi.

- Địch giết cha em, em phải trả thù...

- Họ không chủ trương giết. Họ nhằm bắt cóc Lulio, cũng như bắt cóc em. Kế hoạch của họ bị trục trặc trước lữ quán Lưỡi Dao. Họ bị một tổ chức đối đầu khác phục kích. Và Lulio thiệt mạng trong một trường hợp bất khả kháng.

- Kẻ bắt cóc em và ba em là ai?

- Ông giám đốc Phản gián có thể trả lời câu hỏi này dễ dàng. Hiện nay anh hoàn toàn mù tịt.

- Còn tổ chức đối đầu?

- Cũng hoàn toàn mù tịt. Nhưng chắc chắn một trong hai tổ chức liên hệ là GRU hoặc KGB sô viết. Sắp đến trạm đìện thoại công cộng. Em tấp vào lề đi.

Hai tên mật vụ vẫn nằm thiêm thiếp. Văn Bình thót xuống, cười tình với cô gái bán hoa cạnh ca bin đìện thoại. Báo, lại báo với những tấm hình to tướng của Z.28. Chàng không có thời giờ cải trang. Chân tướng của chàng một lần nữa sắp bị phơi bày. Không hiểu sự thể sẽ ra sao. Đằng nào chàng cũng hết lối lùi. Chàng dọn nụ cười thật quyến rũ hầu che lấp trí nhớ và khả năng quan sát của cô gái bán báo. Chàng mua cái giơ tông đìện thoại với tờ bạc 10 peseta, đoạn chui vào ca bin sau khi tặng thêm nụ cười mời mọc thứ hai.

Cuối đường giây có tiếng ống nghe được nhấc lên. Văn Bình nói oiga, oiga hai tiếng liên tiếp. Oiga giống như tiếng alô của Anh Mỹ. Người đối thoại thở phù đoạn đáp, giọng mệt mỏi, chán chường: điga, điga nghĩa là "tôi nghe đây".Văn Bình nói nhanh và gọn:

- 38 12 46 phải không?

Đó là mật khẩu được đại tá Pít nhắc lại hai ba lần cho chàng nhập tâm. Mặc dầu người đối thoại là đực rựa trăm lẻ một phần trăm. Chàng vẫn phải gọi là cô. Mật khẩu thường vớ vẩn, oái oăm như vậy.

Người đối thoại hơi khựng sau khi nghe rõ lời nói rắn rỏi của Văn Bình. Y lần khân nửa phút đồng hồ rồi hỏi lớn:

- Bà kêu số 37 53 16?

- Hà, hà, đúng ngắc...

- Tôi đây. Ông tìm ra rồi hả?

- Rồi?

- Ai?

- Nội vụ.

- Ông đang ở đâu?

- Cách nhà ông 5 phút xe hơi.

- Mời ông đến ngay. Lính gác sẽ mở cửa rước ông. Chào ông và cám ơn ông.

Văn Bình cười lần thứ ba với cô gái bán báo. May cho chàng, nàng bị nghệ thuật cười của chàng thu hồn. Nàng không còn nhớ tới sự giống như khuôn đúc giữa con người trên nhật báo và thanh niên vạm vỡ, khả ái đứng trước sạp báo. Văn Bình trèo lên xe thì Diane mở cửa nhảy xuống. Mặt nàng đỏ bừng, tròng mắt phụt lửa. Chàng hỏi nàng:

- Em đi đâu?

Nàng vùng vằng:

- Đi đâu mặc tôi.

Nàng đến trước sạp báo, tay chống nạnh, bộ điệu hầm hầm. Nguy rồi, điều chàng không dè đã nổ bùng: nàng ghen. Nàng hất hàm với cô gái bán báo:

- Bao nhiêu tiền một ficha[96]?

Cô gái đáp:

- Gần 2 peseta.

- Hừ, 2 peseta mà cô cầm những 10.

- Tôi thối lại nhưng ông ấy cho luôn.

"Cho luôn, cho luôn hả", vừa nói Diane vừa xấn lên, nắm mái tóc dài của cô gái bán báo. Cô gái kêu cứu vang rân. Một đám người hiếu kỳ lũ lượt kéo tới, phần đông là đàn ông. Tuy nhiên công chúng chỉ giữ vai trò bàng quan, không ai can thiệp. Diane vặn xoắn mái tóc của nạn nhân đoạn xô té xuống đường. Khi ấy nàng có sức khỏe không thua lực sĩ thế vận. Hành hạ cô gái vô tội chưa hả giận, nàng còn hất tung chồng báo bắn vãi tung tóe. Văn Bình phải xuống nước năn nỉ nàng mới chịu buông tha. Đám đông vỗ tay reo mừng như thể sự việc vừa diễn ra là màn biểu diễn hài hước. Nổi sùng Diane chộp cánh tay gã đàn ông đứng gần, dùng một thế quật thần tốc nhu đạo, bắt hắn đo ván một cách thảm hại. Bị xấu hổ nơi nhĩ mục quan chiêm gã đàn ông chồm dậy thoi một cú vào hông làm nàng loạng choạng gục xuống vè xe. Chưa đủ, hắn còn đạp bồi bằng gót chân khiến nàng ngã nhào.

Miễn cưỡng Văn Bình phải lâm trận. Chàng lên gối, ngón đòn ác liệt của chàng làm hắn hộc máu miệng. Chàng đinh ninh bị đánh đau hắn không dám ngo ngoe nữa, không ngờ hắn rút dao. Báo hại chàng phải dứt điểm bằng atêmi tàn nhẫn. Cùng đi với hắn là hai tên bạn. Chúng ùa vào, toan dùng thịt đè người. Khốn nỗi sức lực và tài nghệ của chúng còn quá non yếu. Văn Bình vung cánh tay, cả hai văng tít ra xa. Một tên đút đầu vào gầm chiếc cam nhông chở đầy hàng đang đậu bên lề, tên kia tông nhằm chiếc xe máy dầu phóng như bay từ ngã tư tới.

Không thể chần chừ, Văn Bình kéo Diane lên băng xe, mở đề ma rơ. Giữa tiếng la hét của các nạn nhân và công chúng tò mò, Văn Bình lái chạy phăng phăng.

Qua ga xe lửa Atôsa, đến gần tư thất của ông giám đốc Phản gián, Diane mới tỉnh lại hoàn toàn. Nàng nhìn chàng, dáng dấp ngượng ngùng. Chàng thở dài:

- Buổi trưa, cảnh sát còn mắc ngủ. Nếu họ đến nơi, chẳng hiểu phút này mình ra sao.

- Nhưng anh quen với ông giám đốc Phản gián?

- Cảnh sát và Phản gián không thương nhau. Không riêng Tây ban nha, ở bất cứ nước nào cũng có sự ganh đua, hục hặc giữa hai cơ quan cảnh sát, phản gián.

- Em ngu quá, nông nổi quá. Em thành thật xin lỗi anh.

- Khôn quá. Anh không dại đâu. Em xin lỗi xuông sao đủ?

Diane đấm thùm thụp vào lưng chàng:

- Đàn ông tham lam.

Nàng ngồi xích lại gần chàng, sửa soạn dính cứng lấy chàng. Lại một xen mùi mẫn. Nhưng Văn Bình không hân hoan như thường lệ. Luồng nhỡn tuyến bén nhọn của chàng đang dán vào kiếng chiếu hậu. Mặt chàng bỗng đanh rắn. Chàng đạp mạnh ga xăng, đồng thời xô Diane ngã xuống chân chàng.

Thì ra chàng bị mưu sát.

Hai chiếc xe gắn máy kiểu Nhật từ phía sau vọt tới, kèm sát bên hông xe hơi bít bùng. Mỗi xe gắn máy chở thêm một người. Vị chi địch gồm 4 tên. Chúng không dè Văn Bình chờ chúng đến gần mới đột ngột gia tăng tốc độ. Tên lái chiếc xe gắn máy bên phải bị chàng dùng thủ thuật vô lăng ép kẹt, hắn phải bay vượt lên vỉa hè mới tránh khỏi tai nạn.

Từ chiếc xe gắn máy bên trái một lằn lửa da cam phát ra. Địch bắn bằng súng tiểu liên hãm thanh. Loại tiểu liên ngắn khá lợi hại của lính biệt kích nhảy dù sô viết. Cùng với loạt đạn bụp bụp êm tai là một trái lựu đạn miễng được quăng theo.

Nhờ tốc độ thay đổi bất thần của Văn Bình, sự tính toán của địch bị trật hụt. Trái lựu đạn trượt trên mui xe rồi văng xuống nệm cỏ bên đường. Tiếng nổ điếc tai của nó chỉ làm sỏi đá bắn tung tóe và gây thiệt hại cho một cửa cổng bằng gỗ. Những viên đạn tiểu liên làm kiếng chắn gíó vỡ lốm đốm. Nhưng cả Diane lẫn Văn Bình đều được an toàn.

Văn Bình bẻ quẹo vô lăng, chiếc xe bít bùng chạy vào một biệt thự rộng có lính gác Hai chiếc xe gắn máy và 4 tên địch biến mất ở ngã ba. Nếu trái lựu đạn không nổ lớn có lẽ không ai chú ý đến những việc vừa xảy ra.

Văn Bình được ông giám đốc Phản gián chờ đón nên toán lính gác lố nhố dạt sang bên nhường lối cho xe hơi. Chàng lấy tay áo chùi bồ hôi trên trán.

Trời nắng chang chang mà Văn Bình đổ bồ hôi lạnh. Chàng vừa thoát chết. Địch là ai mà biết chàng đến gặp ông tổng giám đốc Phản gián? Bồ hôi lạnh tiếp tục vã ướt đầy mình. Chàng có linh tính lát nữa, đêm nay, những giờ phút sẽ tới chàng còn phải đương đầu khẩn trương với kế hoạch phá hoại và giết chóc của địch.


Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Tây Ban Nha 200 Tấn Vàng Đẫm Máu - Người Thứ Tám Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tây Ban Nha 200 Tấn Vàng Đẫm Máu - Người Thứ Tám   Tây Ban Nha 200 Tấn Vàng Đẫm Máu - Người Thứ Tám Icon_minitimeSun Dec 10, 2017 8:28 am

X. Trên đường ra biển

Gần như thông lệ, các yếu nhân điệp báo thế giới đều cư ngụ trong những toà nhà mênh mông được biến thành pháo đài bất khả xâm phạm. Tư thất của ông Moreno choán một diên tích kinh khủng, từ 5 đến 6 ngàn mét vuông. Chỉ nhìn những sân cỏ non xanh rờn, những luống hoa quý rực rỡ đủ màu, những hồ nuôi cá vàng, cá bạc, những lối đi trải sỏi trắng tinh làm khách phải xây xẩm mặt mày. Sự lộng lẫy ngàn một đêm lẻ của giới tỉ phú dầu hỏa cũng đến thế này là cùng. Mặt tiền của biệt thự được cẩm đá cẩm thạch Ý đại lợi, nền nhà phủ kín bằng thảm dệt tay Ba tư, hệ thống đèn do Tây Đức chế tạo, mọi bức tường và cửa bên trong gắn lát tích hãm thanh. Nhiệt độ ngoài trời có thể làm nước sôi sùng sục, nhưng khi Văn Bình bước vào phòng đợi thì da thịt chàng mát rợi. Ông tổng giám đốc Phản gián Moreno đã trang bị cho tòa lâu đài tráng lệ của ông một bộ máy điều hòa khí hậu tự động. Thời tiết nóng thì nó phát lạnh, thời tiết lạnh thì nó làm nóng.

Hồi ở Sàigòn, Văn Bình từng được ông Hoàng kể cho nghe nếp sống thần tiên của ông Moreno. Biệt thự này mới là một trong non một chục thiên đường do ông xây cất. Tây ban nha có nhiều bờ biển thơ mộng. Tại mỗi bờ biển thơ mộng, ông đều có một tòa lâu đài thơ mộng. Ông là cộng sự viên thân tính của đại tướng Franco. Đại tướng cầm quyền liên tục suốt một phần ba thế kỷ. Và suốt một phần ba thế kỷ, ông Moreno giữ chức giám đốc Phản gián. Năm nay, ông xấp xỉ lục tuần. Thế mà trên mặt ông, đố ai tìm thấy một nếp răn. Có lẽ vì ông sống trong nhung lụa. Phần nào vì ông ít lo âu. Sinh hoạt chính trị ở Tây ban nha quá bình thường. Phe tả bị đánh gục, ngóc đầu không nổi. Liên sô và các chư hầu cộng sản không đủ khỏe về điệp báo để lấn át màng lưới an ninh của khối Bắc Đại tây dương với Hoa Kỳ cầm chịch. Tình hình chỉ thay đổi từ khi Bắc kinh đặt được căn cứ ở Âu châu, mở màn cho cuộc ganh đua ráo riết và khốc liệt giữa KGB và Quốc tế Tình báo Sở. Ông Moreno không còn được tận hưởng thanh bình như xưa nữa. N những sợi tóc muối tiêu dần dà đã hiện trên đầu ông. Vụ 200 tấn vàng xô đẩy ông vào thề kẹt bi thảm: ông không dám cựa quậy vì một số thủ túc của ông ăn lương của địch. Ông đành mượn tay Z.28 quét dọn nội bộ. Ông chưa hề giáp mặt Z.28, cũng vậy Z.28 chưa hề giáp mặt ông. Tuy nhiên hai người đã quen nhau từ lâu trên hồ sơ, hình ảnh. Ông Moreno biết rõ các tật xấu bất trị của chàng điệp viên hào hoa Việt Nam. Văn Bình cũng biết rõ ông Moreno còn rất "giẻo", rất "dai". Về cái gì thì ông yếu kém chứ còn về khoản tứ khoái ông ít chịu thua ai.

Ông Hoàng dặn chàng như sau:

- Ông Moreno chưa phải là tay điều khiển cừ khôi. Dầu sao, sống lâu lên lão làng, ba, bốn chục năm trong nghề đã mang lại cho ông khá nhiều kinh nghiệm. Đừng thấy dáng dấp ông lè phè mà coi thường. Moreno khôn đáo để. Ông Sì mít và CIA nhờ ta với sự chấp thuận của Moreno. Nếu tổ chức của ông ta không bị địch thâm nhập lũng đoạn thì không bao giờ anh được triệu dụng. Chẳng qua ông ta bị trói cứng chân tay. Nhưng coi chừng,... ngày anh giúp Moreno thanh lọc hàng ngũ cũng là ngày ông ta không cần đến anh nữa. Trong Điệp vụ Muleta này, anh giống như ông thầy dạy võ truyền hết ngón nghề cho học trò, ngoại trừ một bí kíp cực kỳ lợi hại, đề phòng trường hợp môn sinh ngỗ nghịch, bạc bẽo toan hại thầy...

Lời nói của ông tổng giám đốc văng vẳng bên tai nên khi được mời ngồixa lông, chờ cận vệ trình baá, Văn Bình mang một vẻ mặt nghiêm trọng. Diane ngó chàng trân trân:

- Anh mệt?

Chàng lắc đầu:

- Không.

- Dường như anh có điều gì suy nghĩ?

- Anh đang thèm một dĩa gazpacho.

Văn Bình liếm mép. Gazơpasô là món súp lạnh độc đáo của Tây ban nha. Nó gồm cà tô mát nghiền chung với tỏi hành, dưa leo, tiêu ớt, pha dấm chua và dầu ăn thơm phức, ăn với ruột bánh. Những ngày nắng xiên khoai, cây cỏ bốc hơi nóng hừng hực, được húp gazơpasô thì khó tính đến mấy cũng khoan khoái. Tương truyền gazơpasô là món ăn do thượng tiên đặt ra. Ngày xửa ngày xưa, hai vị tiên được Trời cử xuống hạ giới làm việc. Các ngài thương xót người Tây ban nha bị ánh nắng hè thiêu đốt bèn sáng tạo món xúp này và dạy cho họ cách nấu.

Phòng khách rộng như phòng đợi của phi cảng. Nhiều giãy ghế đồ sộ bọc nhung ni lông được kê dọc chân thường. Giữa phòng là bồn hoa lớn. Văn Bình vừa buột miệng tương tư món xúp lạnh thì từ cửa hông uyển chuyển bước ra hai cô gái phục sức hà tiện vải vóc. Hai ả còn rất trẻ. Khoảng 17, 18 là cùng. Về đường cong thì các cô gái chuyên nghề múa bụng Ai cập vị tất ăn đứt. Cả hai ả nghiêng đầu thi lễ với Văn Bình:

- Thưa ông bà, ở đây có sẵn gazơpasô. Nếu ông bà cho phép, chúng em xin bưng ra ngay.

Văn Bình không dám gật đầu. Tấn trò hồi nãy ở ca bin điện thoại đã dạy cho chàng sự thận trọng. Phụ nữ Tây phương khét tiếng về ghen. Chàng không tin, giờ đây chàng đã thấy sự thật. Diane sẽ không ngần ngại hắt đổ mâm gazơpasô, và khiệng cho hai nữ tình địch một trận đòn thù.

Diane xua tay:

- Cám ơn. Chúng tôi cần gặp ông giám đốc.

Hai cô gái le te rút lui trước luồng nhỡn tuyén bực bội của Diane. Một gã cận vệ đeo súng trễ ở thắt lưng, nét mặt lì lợm, hiện ra mời Văn Bình:

- Xin quý khách theo tôi. Ông chủ đang chờ.

Gã cận vệ dẫn hai người loanh quanh qua nhiều căn phòng trần thiết cầu kỳ và đắt tiền đến một cánh cửa lớn bọc nỉ đỏ. Cửa được tự động mở ra bằng điện. Ông tổng giám đốc Phản gián đứng dậy sau bàn giấy, cái bàn giấy lớn bằng bàn họp của đại khách sạn. Thân hình ông đẫy đà phát triển cả bề cao lẫn bề ngang, hoàn toàn trái ngược với ông Hoàng. Một đằng hiện thân cho sự sung mãn. Đằng kia là sự túng thiếu, sự tiết chế tối đa. Tuổi đời trên dưới 60 mà da dẻ còn căng, khòe mắt còn lẳng, miệng cười còn bay bướm, ông giám đốc Moreno trẻ thật. Nhìn ông, Văn Bình bất giác nhớ ông Hoàng. Yêu ông Hoàng. Ông Hoàng gầy ốm. Ông Hoàng luôn luôn ăn ít, ngủ ít. Ông Hoàng bệnh tật quanh năm suốt tháng.

Ông Moreno chìa tay bắt:

- Rồng đến nhà tôm, vinh hạnh được gặp ông Z.28.

Ông chào Diane mà không hỏi nàng là ai. Dường như ông không quan tâm đến sự hiện diện của nàng trong phòng. Ông mời chàng hút Salem rồi nhỏ nhẹ:

- Ông đừng giận tôi nhé. Tôi sử sự quá vụng về. May là ông. Nếu là người non kém thì họ đã thành công. Trách nhiệm tại tôi. Một lần nữa, tôi xin ông giàu lòng tha thứ.

Văn Bình thở một vòng khói xanh thơm vị bạc hà:

- Ông giám đốc muốn nhắc đến vụ địch mưu sát chúng tôi bằng lựu đạn và súng tiểu liên ngoài đường ư? Thú thật với ông, tại họ bắn trật và ném lựu đạn ra ngoài chứ không phải do tài ba của tôi. Nhưng cũng chẳng sao. Nghề của tôi như vậy là thường. Nếu tôi không lầm, ông giám đốc đã tóm được kẻ chủ mưu?

- Ông không lầm. Vâng, tôi đã tìm ra thủ phạm. Hồi nãy, ông gọi dây nói tới có một cộng sự viên của tôi có mặt trong phòng. Nữ tốc ký viên của tôi. Giờ ông hẹn đến chỉ có nàng và tôi biết. Tôi tin nàng nên không phòng bị. Té ra nàng là đồng lõa với tên phụ tá Nội vụ.

Nụ cười của ông Moreno chứa đầy vẻ thành thật. Tuy nhiên, Văn Bình bắt chợt được một thoáng gượng gạo, một chút giả vờ xảo quyệt. Sự xảo quyệt của ông tổng giám đốc Hoàng từng tâm sự với chàng... Chàng muốn lớn giọng mắng át: "Hừ, ông già chơi trống bỏi Moreno ơi, ông đòn phép kẻ hậu sinh khả úy này làm chi. Ông không vụng về như ông nói đâu. Ông khôn như ranh. Ông nghi ngờ cô tốc ký viên cũng như ông nghi ngờ tên phụ tá Nội vụ. Ông cố tình cho nàng nghe cuộc đối thoại để thử lại đáp số của bài toán thâm nhập. Nếu cô tốc ký viên quả là đồng lõa của tên phụ tá Nội vụ, nếu họ đều ăn lương của địch. Thế tất họ phải tím cách bịt miệng Z.28. Bịt miệng bằng cuộc phục kích bất ngờ. Và họ đã làm... Họ thành công thì tốt, ông Moreno khỏi phải chi tiền. Họ thất bại cũng chẳng sao, ông Moreno chỉ cần xin lỗi... "

Văn Bình nhún vai, đổi đề tài ;

- Họ đã bị bắt giữ?

Ông Moreno đáp, giọng hân hoan:

- Rồi. Cô tốc ký viên đang bị tạm giam ở đây. Tôi đã ra lệnh nắm đầu tên phụ tá Nội vụ ngay tại văn phòng. Văn phòng cách nhà riêng của tôi một khu phố, không lấy gì làm xa. Nếu ông muốn, chúng ta có thể đến đó. Đau lòng tôi lắm, ông ơi. Tôi thu dụng nó, dạy bảo nó, dìu dắt nó dòng dã từ 10 năm nay. Tôi đinh ninh nó trung thành triệt để, trung thành vô điều kiện với tôi. Ai ngờ tôi nuôi ong tay áo.

- Họ làm việc với tổ chức nào?

- GRU sô viết.

- Hơi lạ. Nếu GRU thì cần gì phải bắt cóc Lulio cho phiền phức. Vì Lulio đã là nhân viên GRU.

- Tuy là nhân viên GRU, Lulio không hề nói sự thật. Tấn trò mèo vờn chuột ỡm ờ này khó thể kéo dài thêm vì CIA cử ông tới đây. Địch phải kiếm cách ngăn chặn Lulio liên lạc và hợp tác với ông. Đồng thời nhân viên GRU ngậm ống tẩu Charatan để đánh lạc hướng điều tra của chúng tôi và bôi nhọ CIA nhằm loại trừ ra khỏi vụ vàng.

- Tôi có lời mừng ông. Từ nay con rắn gián điệp sô viết bị đánh dập đầu, ông có thể ăn no ngủ kỹ.

- Chưa mừng được đâu, ông Z.28. Con rắn ông vừa nói chỉ mới bị đánh dập đuôi. Đầu nó, thân nó vẫn còn nguyên. Tên phụ tá Nội vụ và cô gái tốc ký viên cùng một số đồng lõa khác là tay sai GRU, chứ không phải KGB. Sau ngày viên trung tá mật vụ sô viết "chọn tự do" ở Hoa Kỳ, hệ thống do thám của GRU ở nước tôi bị bại lộ. Một số bỏ trốn không kịp hoặc không có điều kiện xuất ngoại. Không sớm thì muộn chúng sẽ bị thộp cổ. Nên chúng chơi ván bài tháu cáy. Được ăn cả, ngã về không. Ông cao tay ấn hơn, chúng bị thua đậm. Nhưng ông Z.28 ơi, sự thất bại của chúng đã được điện Cẩm linh tiên liệu. Cái nguy của Sở tôi trong những giờ, những phút căng thẳng sắp tới là phải đương đầu với một tổ chức lợi hại hơn, tàn bạo hơn.

- KGB?

- Vâng. Chúng tôi hoàn toàn chưa biết gì về hệ thống KGB ở Tây ban nha. Chỉ biết phong phanh điện Cẩm linh phái tới một cán bộ ưu tú số một: đại tá Navarô. Ông nghe nói tới Navarô chưa?

- Rồi.

- Hiện hắn có mặt tại Mađờrít.

- Tôi biết.

- Ông gặp hắn chưa?

- Chưa. Nhưng cũng sắp.

- Chúc ông thành công.

- Cám ơn ông tổng giám đốc.

- Tôi phải cám ơn ông mới đúng. Nhờ ông, lát nữa đây chúng tôi mới có thể triệu tập được cuộc họp báo, trưng ra những bằng cớ cụ thể về sự không dính líu của CIA trong vụ ám sát Lulio. Nhờ ông, chiến dịch bôi tro trát trấu của tuyên truyền sô viết phải câm họng.

- Phiền ông giám đốc báo cáo với thượng cấp của tôi về diễn tiến công việc.

- Ô kê. Tôi gửi điện ngay.

- Chào ông. Tôi xin đi.

- Đến nơi giấu vàng?

- Vâng.

- Ông cần sự yểm trợ kín đáo của tôi không?

- Không. Theo chỗ tôi hiểu, ông mới trừ khử được bọn nhị trùng GRU. Đang còn tai mắt của KGB nữa.

Giọng ông Moreno như mếu:

- Ông Hoàng thật tốt phước. Không dám đòi hỏi viển vông, tôi chỉ cần một cộng sự viên tài nghệ bằng nửa ông là đủ lành mạnh và hữu hiệu hóa Tổ chức.

Văn Bình bịn rịn từ giã. Ông Moreno tiễn hai người ra phòng khách. Bước xuống vườn, Văn Bình bỗng nhăn mặt. Chàng phải dựa tường để khỏi té. Diane hốt hoảng chạy lại đỡ chàng. Ông Moreno quát gọi nhân viên y tế. Văn Bình xua tay:

- Khỏi phiền đến họ. Tôi chỉ hơi mệt.

Ông Moreno băn khoăn:

- Ông đau tim?

- Không. Tim tôi khỏe như xe tăng. Tôi hơi mệt vì suốt tuần nay không được chợp mắt.

- Vậy mời ông ở lại đây. Nhà tôi rộng thênh thang, trên dưới hai, ba chục phòng trống giành cho khách. Hẳn ông biết tôi còn độc thân, vợ con không có, chỉ có bạn. Tôi bảo họ dọn căn phòng êm ái nhất dành cho ông.

Nhân viên của ông giám đốc Phản gián toàn là phụ nữ trẻ đẹp, phục sức hở hang. Diane không cho phép người nào đụng tới Văn Bình. Nàng dìu chàng qua một hành lang treo đầy hoa phong lan. Phòng của chàng nhìn ra hướng mát. Ngay dưới cửa sổ là hồ tắm. Trời, hồ tắm lộng lẫy bằng kiếng trong suốt không thua những hồ tắm lộng lẫy nhất của minh tinh điện ảnh Hô li út.

Văn Bình ngả người xuống ghế bành êm ái. Dn ghé tai chàng, hằn học:

- Anh vừa phạm tội nói dối.

Chàng mở mắt:

- Nói dối?

- Phải. Hồi đêm, anh ngủ một giấc dài. Mắt anh không phải là mắt thèm ngủ. Mắt thèm ngủ thì đỏ quạch, nháy lia lịa. Mắt anh trong veo và sáng quắc. Suốt tuần nay, anh được ngủ thả cửa, ngủ mê mệt thì có. Anh Văn Bình, tại sao anh giả vờ kiệt sức để ở lại đây?

- Té ra anh không qua mặt được em.

- Còn lâu. Bảo thật anh biết, anh đừng hòng xơ múi mấy ả hầu cận tròn trịa và thơm tho của lão già 35. Điệp vụ Muleta thất bại thì thôi, em không cần. Ai đụng đến anh thì em phá.

- Mai kia anh không dám hứa, nhưng giờ phút này, anh có thể đoan chắc với em. Anh ở lại đây vì công việc.

- Đàn bà là công việc quan trọng bậc nhất của Z.28.

- Thiên hạ đồn đãi tầm bậy về anh. Mình cần ngủ để tối nay thức. Và lấy sức đối phó với Navarô.

- Tạm thời em tin anh.

- Lý do thứ hai khiến anh hoãn giờ khởi hành: trời nắng, đường xa, Navarô dễ theo dõi mình. Bắt buộc anh phải chờ đêm tối. Thế nào, em còn ghen dữ dội nữa không?

- Hết.

- Vậy em bồi thường cho anh. Đó là lý do thứ ba.

- Lý do thứ ba?

- Và là lý do chính. Em Diane bé bỏng của anh ơi, em ngu quá. Biệt thự của ông Moreno sang trọng hơn cả siêu lữ quán Hilton, lại thêm hồ tắm mát mẻ, trong xanh. Họa là điên mới không ở lại thụ hưởng. Huống hồ thụ hưởng với một giai nhân tuyệt vời.

- Quỷ Sa tăng!

Văn Bình ôm ghì lấy nàng:

- Ô kìa, anh là quỷ Sa tăng, tại sao em không phản đối?

Diane cười rúc rích trong vòng tay rắn chắc của điệp viên Z.28.

.........

Costa Brava, tục gọi là "bờ biển hoang", được coi là ngoạn mục nhất và quyến rũ nhất trong số những bờ biển của Tây ban nha dọc Địa trung hải.

Bờ biển hoang bắt đầu từ cây số 65 phía đông bắc Bátxơlon, thị trấn lớn thứ nhì trong xứ, rồi chạy ngược lên tận biên giới Pháp quốc với rặng núi Pyrênê hùng vĩ. Nó trải rộng trên 150 cây số, không thẳng băng một cách chân phương. Lúc nó xòe ra thành những bãi cát bao la, khi nó thu hình lại trong những mỏm vịnh và hang đá hiểm hóc, bí mật. Mỗi bước trên bờ biển hoang chứa đựng một sự đột ngột nên thơ.

Nó giống cô gái mới lớn. Đang bé tí teo không ai biết tên, bất thần nở nang, lớn nhanh như thổi. Tấm thân thấp thỏi, gầy còm, vô duyên bất thần trở nên pho tượng thần vệ nữ chói lòa đường nét bốc lửa. Thật vậy, sau thế chiến thứ hai, khách tắm biển quốc tế chưa hề nghe nói đến bờ biển hoang. Cho đến năm 1950 nó vẫn còn sống ẩn danh.

Đùng một cái, các lữ quán và tiệm ăn mọc ra. Thoạt tiên là hàng chục. rồi hàng trăm. Ngày nay hơn hai triệu du khách đổ xô tới bờ biển hoang mỗi năm. Điều đáng nói là dấu chân của triệu triệu con người cộng chung với những tiện nghi tân tiến không làm suy giảm vẻ đẹp thiên nhiên kỳ lạ của bờ biển hoang. Giữa trưa, nước biển xanh ngắt một màu tương phản dịu dàng với màu đỏ đất nung của núi. Đâu đâu cũng thấy phi lao và thông. Những rừng thông xanh trên bãi cát trắng xóa. Ban đêm mặt biển dật dờ ánh đèn của những con thuyền đánh cá ngoài khơi... Phong cảnh thần tiên đến nỗi du khách quên ngủ, đi lang thang suốt đêm là thường.

Đêm ấy, Văn Bình cũng quên ngủ. Mặc dầu chàng không phải là du khách bị bờ biển hoang thôi miên. Chàng quên ngủ để lái xe hơi trên con đường lạ trên bờ biển hoang.

Chập tối, chàng rời tòa nhà tráng lệ của ông giám đốc Phản gián Moreno. Chàng không cải trang như Diane dự tính. Chàng chỉ xin ông Moreno một đặc ân: cho chàng mượn một chiếc xe đua. Trên đường phố Mađờrít, chàng biểu diễn tài điều khiển xe đua. Chàng chạy lòng dòng trong thủ đô, luôn luôn đâm vào những ngõ hẻm. Sau cùng chàng vứt xe gần một viện bảo tàng vắng vẻ, đi tắt ra công viên vẫy tắc xi. Chàng thay đổi tắc xi nhiều lần trên lộ trình ra phi trường. Diane và chàng đáp chuyến bay cuối cùng trong ngày đi Bátxơlon[97].

Con gái ở đây nổi tiếng đẹp. Nếu không được tạo hóa phú cho nhan sắc thì họ cũng có dáng đi độc đáo luôn luôn uyển chuyển như đang khiêu vũ. Đàn ông đa tình hết mực, áo quần chải chuốt. Chưng diện nhất là đôi giày. Lúc nào cũng phải bóng lộn. Quên xài xi ra thì hàng trăm chú limpiabota[98] chờ sẵn bên đường với nghệ thuật đánh giày chớp nhoáng.

Đạo binh đánh giày ồ ạt tấn công Văn Bình khi chàng ghé một tiệm ăn gần đường xe điện treo dọc bờ biển. Các chú bé đánh giày ở Sàigòn nổi tdanh về dai và lì, nhưng nếu so sánh với tiểu yêu Bátxơlon thì còn thua xa. Văn Bình lắc đầu và xua tay quầy quậy chúng vẫn xán tới. Chàng cho tiền, chúng lễ phép từ chối. Chúng hành nghề làm đẹp thành phố, chúng không phải ăn xin. Đôi giày của chàng thuộc loại bẩn thỉu, méo mó, không tương xứng với vẻ đẹp quý phái và sự trù phú địa phương. Chàng chưa kịp an tọa thì đôi giày bị tuột khỏi chân. Trong loáng mắt, làn da giày trở nên óng ánh, tưởng soi gương được.

Điều làm chàng kinh ngạc là chàng trả tiền không đứa nào chịu nhận. Tưởng chúng chê ít, chàng tăng gấp đôi. Tên lớn tuổi nhất tiếp tục khước từ. Chàng móc túi lấy thêm tiền. Bọn trẻ đánh giày vẫn khước từ. Tên lớn tuổi líu lo một tràng thổ ngữ. Nó nói tiếng Tây ban nha pha giọng miền nam hơi nặng. Văn Bình chỉ hiểu được lõm bõm. Chàng bèn vấn kế Diane. Ngồi bên, nàng phá lên cười ròn rã:

- Bọn nó đòi xin quần áo của anh.

Chàng trợn mắt:

- Xin quần áo? Vậy lấy gì anh mặc? Không lẽ chúng bắt anh ở truồng giữa đám đông?

Đã nừa đêm mà phố xá còn đông như hội. Nửa đêm là giờ đi ngủ của nhiều thị trấn từ đông sang tây, riêng tại Bátxơlon nó là giờ ăn tối. Tiệm ăn này tọa lạc trên một rambơla xinh xắn. Rambơla là một loại đường phố chỉ có ở Bátxơlon, trước kia nó là sông lạch, người ta xây cất nhà cửa và trồng cây cối xanh mát. Đủ mọi cửa hàng mọc ra, từ sáng tinh sương đến quá nửa đêm trai thanh gái lịch diễu qua như đèn cù. Văn Bình lo ngại là đúng: chàng không thể thoát y trước đám đông phục sức sang trọng.

Nàng thuyết phục chàng:

- Chúng nó đề nghị mua quần áo khác tặng anh.

Chàng nổi sùng:

- Hừ, chúng nó làm như anh là minh tinh điện ánh Mỹ.

- Còn oai hơn minh tinh điện ảnh một bực.

- Đại biến rồi. Chúng nó biết anh là... tráng sĩ đấu bò ở Mađờrít?

- Chưa. Nếu biết thì chúng nó đã bâu cứng lấy anh, xé quần áo anh ra từng mảnh để làm kỷ vật. Chúng nó đọc báo thấy anh giống hình anh matađo cừ khôi kia nên...

- Anh van em. Em điều đình nhanh lên. Chúng khám phá ra sự thật thì anh hết đời.

Dianethao thao bất tuyệt thương lượng với lũ trẻ đánh giày. Thoạt đầu, chúng không chịu. Sau cùng chúng thỏa thuận đổi lấy áo sơ mi và giày của chàng. Chàng khỏi phải đợi lâu. Xế cửa nhà hàng có một tiệm may sang trọng. Chàng được bọn trẻ hộ tống sang. Chúng biếu chàng cái sơ mi đẹp nhất. Chàng tưởng thoát nạn, ai ngờ đâu đám này đi thì đám khác tới. Rốt cuộc, chàng phải cởi bỏ kỳ hết. Chàng rời tiệm may, đổi mới hoàn toàn từ đầu xuống chân. Chàng toan trở lại nhà hàng thì Diane nắm tay chàng kéo lên tắc xi. Nàng cho địa chỉ ở trung tâm thành phố, ra lệnh cho tài xế phóng nhanh, bất chấp sự phản đối của chàng.

Qua nhà hàng Reno, số một của thành phố về mọi mặt -về trang trí tân kỳ, về thực đơn tuyệt diệu cũng như về giá cắt cổ - nàng không cho phép tắc xi đậu lại tuy chàng khẩn khơản yêu cầu. Nàng dẫn chàng đến con đường nhỏ gần bệnh viện Santa Cruz, nghĩa là ở đầu mút thị trấn. Tiệm ăn ở đó chẳng có gì đáng nói. Nó sàn sàn ở mức trung bình, thực khách thưa thớt nên hai người kiếm bàn trống dễ dàng.

Văn Bình nhăn nhó:

- Đây nấu ăn dở ẹt, em ơi!

Nàng đáp:

- Từ lúc rời Mađờrít đến giờ, anh không thèm nói với em một lời về việc tìm vàng. Xuống máy bay, anh lôi em ra bờ biển, chọn nơi có nhiều cặp mắt soi mói nhất để dùng bữa. Em có cảm tưởng anh cố ý chường mặt ra cho mọi người nhìn thấy. Cảm tưởng này lay lứt trong đầu em từ ở Mađờrít. Anh lái xe đua, giả vờ chạy lung tung, kỳ thật theo một lộ trình nhất định. Anh chủ tâm nhử mồi địch?

Văn Bình đành thú nhận:

- Phải. Anh nhử Navarô.

- Anh điên khùng. 200 tấn vàng, một số tiền khổng lồ, đâu phải ít. Hắn rượt theo anh, khám phá ra kho vàng rồi trừ khử anh. Tại sao anh không cải trang, lên phi cơ lén lút và hoạt động kín đáo?

- Em nói có lẽ đúng.

- Dường như anh có điều gì giấu em. Anh thấy nhân viên của Navarô bám sát chúng mình không?

- Không.

- Kỳ quá. Như vậy nghĩa là thế nào?

- Nghĩa là Navarô biết chúng mình đi Bátxơlon. Hắn đã biết thì mình cứ nghênh ngang ăn uống, du hí, việc gì phải lẩn tránh.

- Kho vàng tọa lạc ở đây?

- Bản đồ chỉ vẽ lộ trình từ Mađờrít đi Bátxơlon và từ Bátxơlon ngược theo bờ biển hoang lên phía bắc, giáp giới nước Pháp. Lulio không ghi rõ ở đâu. Tuy nhiên...

- Anh có thể tìm ra?

- Đúng thế. Cùng với lộ trình Mađờrít - Bátxơlon, còn có lộ trình kho vàng. Lulio vẽ tỉ mỉ các lối ra vào, và địa hình địa vật chung quanh kho vàng nhưng không chú dẫn. Mình chỉ biết là kho vàng tọa lạc trên bờ biển hoang. Mình sẽ lái xe dọc bờ biển, thận trọng quan sát rồi đối chiếu với bản đồ của Lulio...

- Anh đưa bản đồ em coi, em sinh trưởng ở trong vùng, may ra em giúp anh được.

- Trong cơn hoảng hốt, anh đã lỡ tay đốt nó ra than.

- Đáng tiếc. Giờ chỉ còn cách vẽ lại.

- Khổ quá, trí nhớ anh bỗng cùn hẳn.

- Quái lạ, từ xưa đến nay anh nổi tiếng có trí nhớ siêu phàm.

Văn Bình nhìn giữa mắt nàng:

- Ai nói với em?

Nàng luống cuống trông thấy:

- Buồn cười ghê, tự dưng em lây bệnh hay quên của anh. Anh chờ em một lát, em cố moi lục trong óc...

Chàng cười xòa:

- Hai đứa mình đều quên... đồng bệnh tương lân...

Văn Bình lảng sang chuyện khác. Chàng ăn uống qua loa rồi kêu đìện thoại cho hãng tắc xi. Có tiền mua tiên cũng được, 3 phút sau khi chàng quay số 250-90-00, một chiếc tắc xi khá xinh xắn đậu xịch trước tiệm ăn. Từ Bátxơlon đi bờ biển hoang, du khách thường dùng tàu đò để dễ thưởng ngoạn vì phong cảnh chỉ đẹp rực rỡ nếu từ ngoài khơi nhìn vào bờ. Người có nhiều tiền thì thuê riêng một chuyến ca nô cho riêng mình. Đáp xe hơi cũng thú vị, nhưng với điều kiện là có xe hơi thật êm và tốt, và đặc biệt có đôi mông kiên cố. Đường xá ngoằn ngoèo, lên xuống bất thường, xẩy tay gặp tai nạn như chơi.

Những rạp xi nê vãn xuất cuối cùng, khán giả túa ra đầy đường thì Văn Bình và Diane rời những khu phố cuối cùng của Bátxơlon. Văn Bình yêu phụ nữ ở đây. Chàng yêu cả món ăn, yêu luôn cây cối hoa lá, song chàng không mấy thiện cảm với cách kiến trúc của thành phố. Phố xá không có vẻ nên thơ, thị trấn được chia thành những ô vuông, từ trên phi cơ ngó xuống người ta có ấn tượng như cái bàn cờ khổng lồ.

Gió đêm hây hẩy, Văn Bình dựa góc xe, bình thản ngủ một giấc ngon lành. Diane ngỡ chàng nhắm mắt cho khỏi mệt vì đèn tiệm ăn quá chói lọi. Nàng không để ý đến chàng. Khi nghe tiếng ngáy đều đặn của chàng, nàng mới giật mình, lay chàng:

- Dậy anh!

Chàng hỏi, giọng khê nặc:

- Đến nơi rồi hả?

- Chưa.

- Thì để anh ngủ.

- Anh không quan sát hai bên đường?

- Có, bắt đầu từ Bờlên[99].

Bờlên, 65 cây số đông bắc Bátxơlon, là thị trấn mở đường cho bờ biển hoang. Dân chúng bản xứ thường đến đó nghỉ mát. Du khách ngoại quốc đi xa hơn về phía bắc. Bãi biển Bờlên nắm khuất sau bình phong núi đá nên sóng không to, nước rất trong, gió thổi dịu hiền, thích hợp với sự hẹn hò kín đáo của nam nữ. Người ta hẹn hò nhau những lúc tảng sáng, mặt trời ló dạng ở chân trời phía đông, nền biển xánh ngắt nổi bật hàng trăm đốm màu rực rỡ của những con thuyền. Ban đêm, trai gái tản bộ trên cát trắng phủ kín rừng thông, mê man với trời nước đến sáng.

Diane hậm hực hút thuốc lá một mình. Nàng không nghiện thuốc. Nàng lại ghét thuốc Salem của Văn Bình. Thỉnh thoảng nổi hứng, nàng muốn rít một hơi khói bạc hà thì chàng chực sẵn với cái quẹt máy. Giờ đây phép lịch sự tối thiểu với phái yếu này đã bị chàng quên phứt. Khiếp, ngủ gì lắm thế. Nàng có ý nghĩ chàng cố tình phô diễn sự lãnh đạm. Tại sao?

Tức tối, nàng xô chàng:

- Dậy đi, em bảo.

Chàng chép miệng chán ngán:

- Chắc em giận anh?

- Còn hơn giận một bực.

- Lý do?

- Chẳng lý do nào hết.

Tươi cười, Văn Bình dặn tài xế giảm tốc độ. Trong kiếng chắn gió, một ngọn đồi cao nhọn hoắt hiện ra, với tòa lâu đài cổ xưa ngất ngưởng trên đỉnh. Bờlên. Trận nội chiến khốc liệt đã tàn phá hàng trăm giáo đường, riêng tòa lâu đài tôn nghiêm này còn đứng vững, súng đạn chỉ phớt qua. Du khách ghé Bờlên đều viếng tòa lâu đài hùng vĩ được xây cất từ ngàn năm trước. Từ xa nhìn lên, người mang nặng ưu tư đến đâu cũng cảm thấy tâm thần nhẹ nhõm lâng lâng...

Diane ngắt cánh tay chàng đau điếng:

- Anh phải giải thích thái độ lờ mờ, lạnh lùng, khó chịu của anh. Em nhận thấy anh thay đổi hẳn từ khi ghé nhà ông giám đốc Phản gián.

- Vì Manê.

- Manê...Manê... à Manêlitô. Anh ghen.

- Em nghĩ sao thì nghĩ.

- Anh ghen cả với người chết?

- Hiện giờ thì không, nhưng tuần trước...

- Tuần trước?

- Em bám sát Manê như bóng với hình. Không đêm nào ở Mađờrít em không khiêu vũ với hắn. Suốt sáng. Khiêu vũ liên tiếp trong một tuần. Hừ, chỉ khiêu vũ xuông anh còn ghen, huống hồ...

- Huống hồ... ra sao?

- Em tự hiểu lấy. Trai gái trong phòng kín không lẽ ngồi ngắm nhau từ 3 giờ đêm đến 10 giờ sáng?

Diane ôm chặt Văn Bình. Nàng hôn chàng rồi xin lỗi rối rít:

- Anh ghen, anh ghen. Chúa ơi, anh ghen. Ghen, nghĩa là thương em, yêu em. Thú thật với anh, em chỉ khiêu vũ thôi. Rồi về. Chẳng làm gì hết.

- Thật?

- Thật trăm phần trăm. Em xin thề. Thề độc. Em nói dối thì trời hãy...

Văn Bình bịt miệng nàng:

- Thôi, anh rõ lòng em rồi. Từ phút này, chúng mình làm lành với nhau.

Xe hơi chạy qua thị trấn tưng bừng dạ lạc Lữ quán Hoa viên[100], lữ quán tráng lệ bậc nhất, chói lòa ánh sáng.

Ba vũ trường đông khách của thị trấn rộn ràng điệu nhạc flamencô giựt gân. Giựt gân hơn điệu nhạc giựt gân này là từng cặp, từng cặp mặc đồ tắm hai mảnh bé tí như mù soa hỉ mũi uốn éo khiêu vũ. Lòng Văn Bình cũng rộn ràng vì trong số dạ nữ khách có nhiều giai nhân tốp lét. Té ra mốt áo ngực trần cuồng loạn này đã xâm nhập vào bờ biển hoang. Điệp vụ Muleta ác ôn... 200 tấn vàng ác ôn... Nếu chàng không bị công việc trói buộc, chàng đã thót xuống Bờlên.

- Cấm nhìn!

Nàng xòe bàn tay che mắt chàng. Chàng cười ròn tan:

- Thì anh nhìn em vậy.

Tài xế, một gã trung niên tóc lấm tấm muối tiêu, gương mặt lạnh như tiền, nhổm lên, ngồi xuống cử chỉ nôn nóng, bứt rứt. Tấn tuồng thân mật ở băng sau làm hắn thấp thỏm, nhiều lần suýt lạc tay lái.

Phía bắc Bờlên 3 cây số ngắn ngủn là một bãi thừa lương hữu danh: Lorê[101].

Bên phải, về hướng biển, thấp thoáng một con đường nhỏ khiêm tốn trèo lên sườn ngọn đồi đầy thông và cây nho. Ngọn đồi này che giấu đầy thông và cây nho. Ngọn đồi này che giấu những khu tắm mát kín đáo. Những ai ưa tự do, và ghét tò mò đều rủ nhau đến đó. Nhiều năm trước, chàng dừng chân lãng du khá lâu ở Lorê. Cũng vào dịp hè trời nắng thiêu đốt. Dân chài dự lễ hoa đăng trên biển. Hàng trăm con thuyền đủ cỡ, đủ kiểu, chăng đèn kết hoa lộng lẫy, đua lượn. Nam nữ tiệc tùng linh đình. Cả vùng vang ngân tiếng hát. Họ chuốc rượu cho nhau, ôm nhau nhảy suốt đêm dưới rặng thông. Điệu nhảy của họ mềm mại và hấp dẫn khác thường. Người không biết rung động mà nhìn ngắm những cô gái trẻ măng, nẩy nở, múa bụng theo lối Ai cập ấy cũng xốn xang.

Tuy Lorê là thị trấn nấm mới mọc, con số lữ quán lên đến một trăm. Theo lời đồn đãi, sở dĩ có nhiều nhà ngủ vì ai qua đó cũng thèm ngủ. Văn Bình thèm ngủ kinh khủng khi đến Lorê. Tuy nhiên hồi ấy chàng thèm ngủ mà vẫn chong mặt suốt sáng. Chàng thèm ngủ vì cùng đi với chàng có một người đẹp tóc vàng êm như tấm nệm mút của các khách sạn sở tại.

10 phút sau, tắc xi đến Tốtsa[102]. Nơi đây có ba ngàn dân song số khách sạn trên một trăm nhà và luôn luôn đầy nghẹt.

Diane tỏ vẻ sốt ruột:

- Vẫn chưa thấy gì ư?

Văn Bình đáp:

- Chưa. Bản đồ gồm những con đường ngoằn ngoèo và hiểm trở. Hy vọng từ San Fêliu[103] trở đi mới thấy.

- Từ Lorê lên Fêliu những 20 cây số. Nó là thị trấn lớn nhất của bờ biển hoang.

Văn Bình bâng khuâng ngắm con đường gập ghềnh và rừng thông đầy trăng, lấp lánh ánh bạc của biển. Đặc điểm của Fêliu là nhiều hộp đêm lộ thiên. Nó còn có cả sân đấu bò rừng. Du khách ăn, nghỉ ở đây, nhưng đi nơi khác tắm. Bờ biển Fêliu lồi lõm bất thường như răng cưa. Tôm hùm rất ngon chuyên ẩn núp trong hốc đá. Văn Bình không thể quên được một cuộc săn dưới biển: một nữ hướng dẫn viên cùng lặn với chàng để bắt tôm hùm. Ở đây việc dùng bình dưỡng khí cá nhân để thở bị cấm đoán vì sợ thợ săn bắt được quá nhiều tôm hùm khiền nguồn hải sản mau hết. Do lệnh cấm đoán này, người dân địa phương lặn giỏi như rái cá. Cô gái hướng dẫn du lịch là tay bơi có hạng, thấy Văn Bình khôi ngô, khả ái, nàng giả vờ đuối sức hầu có cơ hội gần gũi chàng. Được người đẹp tự động ngả vào lòng, chàng dại gì xua đuổi. Phiền một mỗi nàng là gái có chồng "như gông mang cổ "; và gông này là một đấng phu quân phá kỷ lục toàn quốc về ghen tuông. Chàng "du dương" với cô gái đa tình trên một tảng đá nhẵn bóng dưới ánh trăng huyền diệu. Anh chồng xuất hiện, ngọn mác bén bằng thép tô lét cầm tay. Suýt nữa chàng bị phân thây. Chàng nhảy xuống biển đào tẩu. Anh chồng quen nghề chài lưới rượt đuổi chàng suốt đêm. Nhờ cơn mưa đột ngột, trời biển đen sì như mực tàu, chàng thoát nạn. Chàng nhủ thầm không bao giờ quay lại Fêliu nữa...

Không dè đêm nay, chàng lại có mặt ở Fêliu. Rồi Agaro, được coi là hòn ngọc quý của bờ biển hoang, nơi tổ chức hàng năm những cuộc đua thuyền và khiêu vũ quốc tế.

Bờ biển không lồi lõm theo hình răng cưa nữa. Nó uốn cong như cây cung với những rừng thông ngay ngắn chạy dài đến tận chân trời, tưởng như không bao giờ hết.

Bỗng Diane hốt hoảng:

- Palamốt[104]... đường đi hết ngoằn ngoèo và hiểm trở... Anh ráng nhớ lại coi. Trong nội chiến, Palamốt bị oanh tạc dữ dội. Em ngờ kho vàng được chôn dấu tại đây.

- Chắc phải đi lên phía bắc.

- Bên trên Palamốt là Fốtca, và Calena[105]. Lulio không thể chọn hai nơi đó. Trên suốt quãng đường dài hơn hai chục cây số toàn là biệt thự tư nhân. Nhà cửa nối đuôi nhau san sát, không phải là khung cảnh thích hợp cho việc tàng ẩn 200 tấn vàng.

- Vậy mình tiếp tục đi lên nữa.

- Hay là...hay là ở mũi Sêbátchiên[106]. Ở đó có một hang đá đục sâu vào lòng núi 270 mét. Nhưng thạch động này mọi người đều biết... Thân phụ em tất phải tìm một nơi bí mật. Anh Văn Bình ơi, anh nhớ lại chưa? Thêm một vài chi tiết nữa là em giúp anh đoán định được vị trí.

- Óc anh mỗi lúc một đặc sệt. Mình cứ tiếp tục. Giác quan thứ sáu ngầm báo với anh gần tới kho vàng.

Lại một thị trấn khác tràn ngập ánh đèn nê ông. Nam nữ ôm nhau nhảy trong một vũ trường lộ thiên sát vệ đường. Vũ trường không có tường hoặc hàng rào, xuống xe là bước vào tận nơi. Nhiều cặp say sưa theo điệu nhạc kéo nhau ra giữa đường, tài xế nháy đèn pha bóp kèn loạn xạ họ vẫn không buồn để ý.

Kế cận vũ trường là tiệm ăn. Mùi cơm pha củ nghệ tiêu ớt trộn lẫn tôm cá chiên xào thơm tho bay vào mũi Văn Bình. Chàng hít hà:

- Tuyệt vời. Bao tử của anh đang la réo đình công.

- Món paela đấy. Mình vừa ăn no ở Bátxơlon mà anh.

- Anh cũng chẳng hiểu anh nữa. Chỉ biết là phút này anh đói meo.

Gã tài xế lại chõ miệng:

- Khí hậu bờ biển dễ làm đói, ông à... Nhiều đêm chở khách trên quãng đường này, tôi ăn ba bữa còn thòm thèm Dẫu dạ dầy đầy ứ, mỗi khi qua đây tôi vẫn đói như thường.

- Nghe chú nói, tôi tưởng chú làm nghề quảng cáo viên du lịch.

Trước lời phê bình của Diane, gã tài xế rí rỏm:

- Thưa cô, khỏi cần tôi ca ngợi, món paela ở đây lừng danh khắp Âu châu.

Gã tài xế tắc xi không loạn ngôn. Đây là Lafơran[107]. Du khách đổ dồn tới đây vì biển cát trắng, nước xanh lơ, thông rạt rào thì ít mà vì của ngon vật lạ paela thì nhiều.

Cùng với gazơpasô, món paela là linh hồn của nền gia chính Tây ban nha. Paela là gạo nấu chung với củ nghệ và đủ thứ hải sản. Không đổ gạo vào nước mà là đun dầu ăn sôi sùng sục, chiên thật vàng rồi bỏ nghêu sò, tôm cá, thịt gà, thịt thỏ chặt thành miếng, kèm theo tỏi, ớt, cà tô mát. Nghĩa là món tả pí lù.

Mặc dầu Diane chưa cho phép và có vẻ không hài lòng, gã tài xế vẫn tắt máy xe. Diane đành theo Văn Bình vào tiệm ăn. Trong khi nàng thờ thẫn bên chai nước suối, chàng uống gọn một bình rượu chát đỏ trong loáng mắt. Rượu chát được ép cất trong vùng. Chàng kêu panađét[108], thứ nặng nhất. Uống rồi ăn paella. Văn Bình có cái tác phong nhàn tản của ông trọc phú đi biển với hầu non.

Nàng can ngăn:

- Anh đã uống chai thứ hai. Rượu panađét rất say, bợm nhậu cũng phải pha nước suối. Từ nãy đến giờ, anh toàn uống xếch (sec). Mắt anh lờ đờ, anh bắt đầu say. Anh nên nghe em, đừng uống nữa.

Nàng gọi bồi lại dọn. Văn Bình nốc thêm một ly cối. Bình thường rượu mạnh, chàng còn tiêu thụ cả chai, huống hồ rượu vang cà mèng. Khi ấy chàng lại lảo đảo. Chàng say thật hay giả, chỉ có Trời biết. Chỉ biết rằng chàng trèo lên tắc xi một cách khó khăn rồi nằm bẹp trong góc.

Diane phàn nàn với tài xế:

- Chung quy tại chú. Giờ biết làm sao?

Gã tài xế nói:

- Ông chủ nói thuê xe chạy dọc bờ biển hoang ban đêm ngắm cảnh cho vui. Có công việc làm ăn quan trọng nào đâu, thưa cô? Ông chủ uống nhiều, hơi chếnh choáng, xe chạy một lát có gió lộng là tỉnh.

Diane nói:

- Không được. Chú phun nước lạnh cho ông chủ thức dậy.

Gã tài xế chối phắt:

- Tôi không dám.

Nàng cằn nhằn:

- Chú khuyên nhủ, súi giục, năn nỉ ông ấy uống rượu say mèm rồi chú bỏ mặc cho tôi.

Gã tài xế sửng sốt:

- Có gì đáng sợ đâu, thưa cô? Say rồi tỉnh, không ai say hoài, say mãi. Đàn ông say là thường. Những ngày nằm khàn ở nhà, tôi đều say. Say từ sáng đến tối. Say liền tù tì từ tối đến sáng.

- Chú khác, ông ấy khác. Đêm qua, hoặc đêm mai ông ấy say thì được, đêm nay thì không. Chú chịu khó đỡ ông chủ dậy.

Tắc xi đến một nơi nước biển thật trong, ban ngày những khi đẹp trời có thể nhìn thấy san hô và vỏ sò dưới đáy. Hai mỏm núi từ đất liền nhô ra khơi, uốn khép với nhau thành hình cánh cung, ngăn chặn gió lộng từ xa thổi vào, khiến mặt nước quanh năm phẳng lặng, hiền hậu như hồ bơi nhân tạo. Vòi vọi trên đỉnh đồi cao là đại lữ quán Cápsasan[109] gồm ba trăm phòng, một trong những khách sạn thượng đẳng ở Âu châu.

Diane tưởng Văn Bình chỉ say qua loa, chỉ cần kéo tóc mai và cho uống nước suối là khỏe. Nước suối catalan có đặc tính làm giã rượu. Nàng không dè chàng uống được một ngụm thì húng hắng ho. Cả nàng lẫn gã tài xế đều cuống quýt vì Văn Bình nôn mửa đúng hệt người say rượu. Kỳ thật chàng đã thọc ngón tay vào cuống họng. Trong xe tối om, không ai nhìn thấy. Cũng như vấn đề say thật hay giả, vấn đề giả đò nôn mửa chỉ có Trời biết và chàng biết lý do.

Diane tru tréo:

- Chết em rồi, chết em rồi!

Vẻ mặt đang nghiêm trọng, gã tài xế bỗng phì cười:

- Việc gì mà cô kêu chết? Cô không thể nào chết. Ông ấy cũng không thể nào chết. Uống rượu và ăn nhiều thường làm nặng bao tử. Oẹ ra được là điều tốt. Cô nghe tôi đi, chỉ một lát là ông ấy lại trò chuyện như pháo nổ.

- Thật không chú?

- Sao lại không thật? Tuần nào tôi cũng nôn mửa như ông ấy. Từ ba chục năm rồi, cô ơi!

Văn Bình khỏe lại thì tắc xi vượt qua gần hết chặng cuối của bờ biển hoang. Cách thị trấn Bagua[110] hơn 10 cây số, phong cảnh thay đổi hoàn toàn. Không còn núi non hiểm trở. Không còn bờ biển lồi lõm, nhiều hang đá đục ngầm, nghĩa là không còn địa thế thích hợp với việc giấu cất 200 tấn vàng.

Đột ngột, con đường đang lượn quanh như con rắn trở nên thẳng băng. Những cánh rừng thông và sồi hùng vĩ đột ngột biến dạng khỏi hai bên. Giờ này là hàng trăm, hàng ngàn cây ngô đồng sắp xếp ngay ngắn, nghiêm chỉnh có hàng, có giẫy đàng hoàng như thể được người tự tay trồng. Chung quanh là ruộng nương, vườn tược xanh um, trù phú. Dân ở đây cũng là bợm nhậu. Nhậu với món lươn bất hủ. Giống lươn này dài cả thước. Tìm đâu cũng thấy. Thịt nó rất bùi và ngọt.

Văn Bình đang tơ lơ mơ với mùi vị khoái khẩu của con lươn Bagua thì giọng nói không bùi cũng không ngọt của Diane cất bên tai:

- Anh bình phục hẳn chưa?

Chàng đáp:

- Chẳng đau ốm gì hết. Vẫn khỏe như núi Pyrênê.

Núi Pyrênê là hàng rào thiên nhiên giữa hai nước Pháp và Tây ban nha.

- Hừ, gần đến Pyrênê rồi đó... Không khéo chúng mình thất bại.

- Em đừng lo. Qua khỏi cánh đồng bằng phẳng này lại đến núi.

- Rôsát?

- Ừ, thị trấn Rôsát ở chân rặng Pyrênê[111]. Anh bắt đầu thấy vài điểm tương đồng với bản đồ.

Nàng ngồi khít vào hông chàng. Những tia trăng soi mói chiếu vào xe. Tài xế rạp mình trên vô lăng, không nhìn thấy hai người khách ôm nhau hôn hít mùi mẫn phía sau. Đuôi mắt hắn nhìn thấy mà tảng lờ. Trông mắt sáng và bén của hắn cho thấy hắn khó thể là tài xế đường trường chân chỉ hạt bột. Cái nhìn, cái giơ tay, cái cười của hắn chứa chất một cái gì không đứng đắn. Một cái gì gian giảo. Một cái gì đầy nghi ngại.

Vùng Rôsát thu hút một số du khách ưa mạo hiểm nhờ những bãi tắm kỳ cục. Từng bãi, từng bãi đầy cát và cây lọt thỏm giữa vách núi bao quanh. Tắm khỏa thân giữa ban ngày cũng không sợ bị người lạ nhòm trộm. Nước khá sâu, dễ bị chết đuối. Chẳng may gặp tai nạn thì xác có thể nằm yên dưới đáy cả năm không được vớt lên.

Diane chỉ một bãi tắm bên phải, thấp thoáng sau rừng cây hạnh nhân và ô liu:

- Ở đây?

Văn Bình lắc đầu. Nàng nói:

- Vị trí nơi này hiểm trở bậc nhất. Nò có một tòa lâu đài hoang phế từ nhiều thế kỷ. Sâu vào bên trong là nhiều thạch động ngoài giới khảo cổ không ai đặt chân tới. Anh so sánh kỹ lưỡng chưa?

Văn Bình không đáp. Chàng bảo tài xế:

- Thẳng tới Cađakết[112].

Cađakết là tiểu trấn buổn thiu buồn chảy, co ro sau một hòn núi cheo leo với con đường đèo cao 500 mét, những ngôi nhà quét vôi đồng màu, với bãi cát không phải cát mà là một thứ đất sét pha phiến nham màu xanh lẫn đỏ. Đất này dùng trát tường thì tuyệt. Trời nắng, đạp chân không trên bãi cát đất sét là một cực hình. Vừa rát. Vừa bỏng. Chẳng du khách nào thèm đến Cađakết. Ngoại trừ vợ chồng nhà danh họa Đali. Ông là hòn đá nam châm. Sự hiện diện của ông lôi hút thiên hạ từ mười phương tám hướng tới.

- Đi đâu nữa anh?

Diane nêu câu hỏi với chàng. Nàng lặp lại lần thứ ba chàng mới nghe tiếng.

- Đến nhà mát của Đali.

- Mình vừa qua khách sạn Ligát đối diện nhà Đali. Anh không thấy ư?

- Nghĩa là xe đã qua Cađakết?

- Dĩ nhiên. Qua Cađakết mới đến Ligát. Và nhà của Đali tọa lạc ở ngoại ô. Té ra anh chưa tỉnh.

- Hơ, hơ, anh đâu có mê.

- Không mê nhưng không tỉnh hẳn. Em không ngờ anh bê bối đến mực ấy. Giá em cấm anh uống rượu thì sự thể đã đổi khác. Biên giới Pháp gần tới. Không lẽ ba em giấu ở cảng Bu.

- Biết đâu đấy.

- Theo em thì không. Không khi nào. Từ đây bắt đầu lên giốc. Muốn đi tìm đồ cổ, tìm những tảng đá thiên tạo giống hình người từ nhiều ngàn năm trước, tìm những thạch động bí mật chứa đầy ma quỷ hoặc những ông thầy tu khổ hạnh gầy đét như cá mắm thì mình mới lên giốc. Anh nghĩ xem, ba em không thể khuân chở hàng chục, hàng trăm cái thùng lên giốc. 200 tấn vàng, mỗi tấn là một ngàn kí lô. Tổng cộng những hai trăm ngàn kí lô, đâu phải chiếc tắc xi nhẹ tâng với mấy người ngồi trên!

Cách Ligát một quãng, trong khi tắc xi ì ạch trèo đèo, Văn Bình đập vai tài xế, ra lệnh đậu lại. Diane ngỡ ngàng trước cử chỉ bất thần của chàng. Giọng nàng khản đặc vì xúc động:

- Ở đây?

Chàng kéo nàng xuống xe. Gã tài xế lon ton chạy theo hai người. Văn Bình mỉm cười vẫy hắn. Chàng chờ hắn bên bụi cây rậm rạp. Hắn thở phì phò:

- Ông gọi tôi?

Văn Bình vẫn mỉm cười.

Bàn tay thép của chàng phóng ra.

Một đòn atêmi.
Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Tây Ban Nha 200 Tấn Vàng Đẫm Máu - Người Thứ Tám Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tây Ban Nha 200 Tấn Vàng Đẫm Máu - Người Thứ Tám   Tây Ban Nha 200 Tấn Vàng Đẫm Máu - Người Thứ Tám Icon_minitimeSun Dec 10, 2017 8:29 am

XI. Kho vàng quỷ quái

Văn Bình canh đòn chính xác không kém nhà y sĩ giải phẫu lành nghề. Diện tích tấn công của chàng là một vị trí nhỏ xíu bằng lỗ tròn đồng xu giữa xương sườn thứ mười một và mười hai trên thân thể gã tài xế. Theo y học, vị trí này là đầu mút của dây thần kinh bụng số 5. Nó bị tê liệt thì một phần cẳng chân bị tê liệt. Nó tọa lạc dưới sâu, dùng kim nhọn đâm xuyên da thịt mới thấu. các vị thiền sư của Thiếu lâm tự vận kình lực vào đầu ngón tay để thay mũi kim. Văn Bình đánh ngất gã tài xế bằng một đòn chỉ công Thiếu lâm tuyệt vời: nạn nhân bị hôn mê tức khắc, và nửa giờ sau hắn tỉnh dậy, hắn sẽ không thể nào đứng vững.

Tuy sửng sốt, Diane không cất tiếng kêu như thường lệ. Nàng lẳng lặng nhìn Văn Bình đặt gã tài xế nằm ngửa trên vệ đường và lục soát các túi. Chàng rút ra một tấm thẻ lát tích vuông soi dưới ánh trăng.

Nàng hỏi chàng:

- Nhân viên địch?

Chàng trả tấm thẻ vào bót phơi của nạn nhân:

- Không. Của ông Moreno.

- Giám đốc Phản gián Tây ban nha?

- Phải. Ông già tiếc hùi hụi nên sai em út bám chân mình.

- Bí hiểm ghê. Em suy nghĩ mãi chưa ra. Gã tài xế có cái gì khả nghi mà anh biết là nhân viên của Moreno? Tại sao hắn không phải là nhân viên của Navarô? A, em hiểu. Tấm thẻ lát tích.

- Tấm thẻ lát tích chỉ ghi tên. Ai cũng có. Không phải chứng minh thư mật vụ. Anh đoán được do sự tình cờ.

- Lại tình cờ … Em không tin. Anh là người đa mưu túc trí số một hiện nay trên thế giới.

- Anh nói thật, không hề thêm bớt. Khi còn ở Bátxơlon, anh kêu điện thoại cho hãng tắc xi, số tổng đài của hị là 250-90-00, anh quay trật sống 5 thành số 4. Nghĩa là hãng tắc xi không thể nói chuyện được với anh. Thế mà …

- Vẫn có tắc xi đến đón …

- Đúng. Vẫn có tắc xi đến đón. Điện thoại của tiệm ăn được nối liền với trụ sở Phản gián. Họ chờ anh nhấc máy là trả lời. Cho một nhân viên đội lốt tài xế tắc xi đi theo, vừa kín đáo vừa tiện lợi. Họ không dè anh khôn như ranh.

- Gọi anh là quỷ mới đúng.

- Chính em cũng rủa anh là quỷ Sa tăng.

- Bậy nè … em đâu dám rủa. Em mắng yêu anh đấy. Để em đền cho.

Văn Bình không để yên cho nàng hôn như mọi lần. Chàng gạt nhẹ và nắm tay nàng:

- Sáng đến nơi rồi.

Thật ra đồng hồ mới chỉ 4 giờ. Trời trăng ở đây quá sáng nên dễ gây cảm tưởng vầng đông ló dạng. Bên phải, thấp thoáng trong sương mù là làng Senva[113], chặng nghỉ trước khi trèo núi Pyrênê sang bên kia biên giới. Phong cảnh ở đây hùng vĩ mà êm đềm. Những ngôi nhà mát xinh xắn e lệ núp sau núi đá cây cối bao phủ kín mít.

Văn Bình chỉ tòa biệt thự ba tầng sơn trắng cách nơi tắc xi đậu 50 mét. Diane đưa ngón tay lên miệng cắn:

- Trong đó?

Văn Bình đáp:

- Kho vàng hả? Không, mình phải quay lại đường cũ. Anh cần mượn tạm xe hơi của chủ nhà.

- Tắc xi còn đầy xăng.

- Nó có máy ghi âm và phát tuyến bí mật. Mình đậu xe lại lừa họ.

- Em hiểu. Biệt thự không có xe thì nguy.

- Cái gì chứ xe hơi thì anh bảo đảm không thiếu. Phải là dân bạc tỉ mới đủ sức tậu nhà ở quãng này. Đối với nhà giầu thì xe hơi rẻ mạt như xe đạp. Nè, em thấy rõ chưa?

Hai người đang bước trên con đường nhỏ trải nhựa dẫn từ bờ biển vào biệt thự. Đứng ngoài quan sát biệt thư không lớn mấy. Càng lại gần càng thấy sự bề thế, sự cầu kỳ tốn tiền của nó. Nó ăn ngầm trong lòng núi, chỉ một phần nhỏ lộ ra ngoài. Trước mặt biệt thự chạy dài một khu vườn. Gọi là vườn thật ra là sân đá bằng phẳng, do cốt mìn phá sạt một góc núi tạo nên. Chỉ riêng tiền thuê kỹ sư, nhân công giựt sập núi đá, và bào nhẵn đủ cất một đại khách sạn 10 tầng có hồ bơi, gắn hệ thống điều hòa khí hậu. Văn Bình nói đúng: chủ nhân biệt thự này là tỉ phú coi tiền như rác.

Ga ra được xây ở bên ngoài. Nó chỉ gồm cái mái bê tông hơi nghiêng, che nắng che mưa. Ga ra không vách tường. Dĩ nhiên không cửa. Không khoá. Xe hơi đậu hai hàng. Cả thảy 10 chiếc. Đủ loại. Đủ kiểu. Chiếc nào cũng mới toanh.

Diane chặn Văn Bình:

- Có người gác.

Chàng cười ròn:

- Chắc chắn là có. Song anh đoan chắc với em người gác chỉ đứng ngó mình leo lên xe.

- Tại sao?

- Người gác tưởng mình là khách quý của chủ nhân. Giới tỉ phú thường có nhiều khách. Đến hoặc đi bất kể giờ giấc, tắm đêm, khiêu vũ đêm, ăn đêm, chẳng hạn…

- Nghe anh nói, em có ấn tượng anh đã đến đây nhiều lần.

- Nhiều thì không đúng. Khoảng ba, bốn lần gì đó. Chủ nhân của biệt thự này là bà hoàng xăng uých.

- Chức tước bà hoàng xăng uých hơi lạ.

- Có gì đâu. Nàng là con gái độc đinh của ông vua xăng uých Hoa Kỳ. Ông làm chủ hầu hết các tiệm bán xăng uých ở Mỹ. Hàng năm, cô con gái đến bờ biển hoang để xài tiền. Khỏi cần quen, ai ghé nàng cũng mời mọc, đãi đằng. Nàng rất hiếu khách, nhất là đối với nam giới.

- Nàng còn trẻ?

- Em dư biết nàng không còn trẻ. Và dĩ nhiên không đẹp. Xuân xanh nàng trạc lục tuần. Chưa chồng. Khoái được kêu bằng cô.

- Bảnh trai, khỏe mạnh như anh, thảo nào được người đẹp 60 tuổi cưng chiều.

.

- Nói nhảm. Mình chọn chiếc Malótca này nhé[114].

Loại xe mui trần 2 chỗ ngồi thấp lè tè, tốc độ 170 cây số giờ, vỏ bằng lát tích nhẹ tâng này được sản xuất tại Tân ban nha giành cho phái trẻ ưa nắng gió và sự bay bướm. Trông nó đơn giản, mảnh mai mà giá đắt kinh hoàng. Văn Bình điềm nhiên trèo lên, mở máy rầm rầm như thể xe riêng, biệt thự riêng của chàng. Một người đàn ông vạm vỡ mặc đồng phục trắng không biết từ đâu tiến lại. Chàng hất cằm chào hắn. Hắn cung kính vòng tay. Chàng hỏi:

- Chưa ngủ?

Người gác đáp:

- Bẩm chưa. Lâu lắm mới được gặp ngài.

Văn Bình xỉa vào bàn tay xòe sẵn của hắn một cuộn giấy bạc. Toàn là đô la Mỹ. Bốn tờ 5 đô la. Vị chi 20 đôn. Món tiền buộc boa khá hậu hĩ.

Về khoản buộc hoa, Tây ban nha là một nước kỳ cục. Trên nguyên tắc, nhận buộc boa là quốc nhục. Tặng điếu xì gà, tặng ly rượu quý hơn buộc boa. Nhưng trên thực tế bất cứ ở đâu khách cũng phải rút ví. Đi tắc xi, vào cầu tiêu, đánh giày, vân vân và vân vân. Lắm lúc trả tiền méo mặt. Còn méo mặt hơn mỗi khi gặp hành khất. Ăn mày ở đây là ông bà ăn mày. Theo phong tục, hành khất là con của Thượng đế. Mình cho tiền vì mình có bổn phận. Chỉ có thế thôi. Họ không cám ơn mình. Trời ơi!

Chiếc Malótca vèo ra đường cái, quay đầu về làng Cađakết. Diane ghé tai Văn Bình:

- Người gác quen anh quá!

Chàng cười rộ:

- Quen đâu mà quen. Anh đã nghe hắn lặp lại câu nói đưa đẩy này nhiều lần, với rất nhiều người.

- Anh cho hắn hơi nhiều tiền.

- Ai cũng buộc boa nhiều như vậy. Vả lại, tiền … chùa, mà em. Thiếu tiền, bà hoàng xăng uých sẵn sàng cung cấp. Bao nhiêu cũng có.

- Có ai xách xe hơi đi luôn không?

- Mỗi mùa hè mất chừng 50 chiếc. Theo lời bà hoàng thì nhờ mất xe, quan khách mới có cơ hội xử dụng xe mới ra lò.

- Em hỏi anh một câu hơi … thiếu kín đáo. Anh, anh… đã gì … gì bao nhiêu lần với bà hoàng xăng uých?

Nhờ một chiếc xe đua ngược chiều phóng nhanh như điên, suýt đâm sầm, Văn Bình khỏi phải giải đáp thắc mắc hóc búa của nàng. Chàng lạng vô lăng thoát hiểm một cách tài tình. Nàng suýt soa:

- Cái gì anh cũng giỏi. Anh lái xe giỏi không thua đấu bò. Tại sao… tại sao …?

Nàng ngậm thinh. Liếc nàng bằng đuôi mắt, chàng nhận thấy nàng hơi bối rối. Chàng không muốn gây thêm khó khăn cho nàng nên phớt lờ lảng qua chuyện khác. Câu chuyện quan trọng bậc nhất: vị trí kho vàng.

Xe về đến Cađakết (Cadaques). Ngôi nhà độc đáo của vợ chồng danh họa lập dị Đali sừng sững dọc bờ biển, trắng toát, ngổ ngáo, đối diện một đại lữ quán có hồ bơi tối tân.

Cho đến bây giờ người ta vẫn chưa hiểu lý do nào lôi cuốn gần một ngàn du khách quen mặt, quen tên đến nghỉ ngơi ở đó hàng năm. Vì ở đó chẳng có gì đẹp. Nước ngọt luôn luôn khan hiếm. Hệ thống điện thắp bị hư hỏng hầu như thường xuyên. Dân làng chỉ bán ve lát, nghĩa là đèn cầy không thôi cho du khách cũng kiếm được khối tiền. Trồng trọt, chài lưới, tất cả đều chán phèo: các vườn nho và ô liu nặng chĩu trái ờ khắp bờ biển hoang, riêng ở đây lại còm cõi. Biển không có tôm cá, kết quả là dân số Cađakết chỉ gồm trên dưới một ngàn. Ấy thế, khách sạn lại đầy nhóc tiện nghi, tiệm ăn ngon vô số kể, hộp đêm cũng xôm tụ ra phết. Phải chăng vì tiếng tăm của Đali?

Diane có vẻ thấp thỏm khi Văn Bình rời đường cái dấn vào một lối sỏi ngoằn ngoèo. Màu sỏi trắng tương phản màu xanh đen của rừng thông. Cuối rừng là núi. Một hòn núi khổng lồ chắn ngang biển. Nàng hỏi chàng:

- Tại Cađakết?

Chàng gật đầu. Nàng chỉ hòn núi:

- Phía sau?

Chàng lại gật đầu.

- Chắc không?

Chàng đáp gọn:

- Chắc.

Trên đỉnh núi có cái miễu thờ hoang phế. Đường xe hơi đứt ở lưng chừng giốc. Muốn lên đến miễu thờ phải lội bộ. Văn Bình tốp xe. Gió thổi mạnh như muốn lôi vật xuống biển. Diane nắm chặt tay để khỏi mất thăng bằng. Tuy vậy nhiều lúc nàng bị kéo văng ra xa. Chàng xuống tấn mới níu giữ được nàng trước sức hút giựt mạnh mẽ của trận cuồng phong.

Chàng không trèo giốc như nàng nghĩ. Chàng men theo kẽ đá tiến sát những mỏm nhọn nhô ra biển. Dưới chân nước réo ầm ầm. Diane ôm cứng Văn Bình:

-Đi về, đi về, anh ơi!

Chàng nựng má nàng:

- Em lạnh?

-Không. Em sợ. Em sợ lắm!

- Việc gì em sợ? Nói đi, anh giúp cho.

-Không, không có gì hết. Em sợ lắm. Anh đi về … Chúng mình nên đi về…Em yêu anh, anh biết chứ?

Văn Bình trượt chân, suýt ngã xuống cái hố sâu giữa hai phiến đá sù sì. Nàng bóp ngón tay chàng đau nhói:

-Anh ơi, anh yêu em không?

- Yêu. Em đừng hỏi vớ vẩn. Nói đi, anh giúp cho.

- Không, không có gì hết.

- Vậy em im lặng. Nín thở để anh kéo xuống hang.

Hai người ép bụng sát đất bò như rắn qua kẹt núi. Sau lưng là cái hồ nhỏ đường kính 2 mét, khô cạn tứ phía, vách đá bao bọc. Chỉ có một lối đi vừa một người chui lọt. Diane băn khoăn:

- Anh nhớ vanh vách từng li từ tí, anh đâu có quên. Thế mà anh nói óc anh đặc sệt, anh giả vờ chạy thẳng đến gần biên giới. Anh không tin em phải không? Thôi, để em quay lại.

Chẳng nói chẳng rằng, Văn Bình ấn Diane vào một lối đi chật ních. Ở đây, tường đá hai bên còn ướt nước. Chàng nhìn đồng hồ lân tinh:

- Hơn 5 giờ. Mình chỉ còn một giờ đồng hồ nữa.

- Nước biển sẽ dâng ngập hết?

- Phải. Ba em và các đồng chí hồi ấy quen thuộc địa hình địa vật Cađakết nên lựa chọn được một vị trí an toàn tuyệt vời. 200 tấn vàng được cất trong hang, một hang núi rộng mênh mông. Hang Đờrắc[115] chưa chắc rộng bằng. Quanh năm đường dẫn vào hang bị nước thủy triều che lấp. Riêng trong mùa hè, mỗi đêm nước rút xuống từ 4 đến 6 giờ sáng.

- Nước biển vào đến nơi chất thùng vàng?

- Theo di bút của ba em thì không.

Hai người mò mẫm loanh quanh một hồi đến một cửa động đen ngòm. Ánh trăng không chiếu tới. Trong bóng đêm lờ mờ óng ánh những phiến thạch nhũ. Hàng trăm con đom dóm lập lòe tạo cho cảnh vật một vẻ huyền bí hấp dẫn.

Quả như Văn Bình nói, hang núi này rộng thật. Cách sắp xếp của tạo hóa cũng giống hang Đờrắc nghĩa là giữa hang có cái hồ ngầm, nước trong veo. Tại hang Đờrắc, người ta bầy quanh hồ nhiều giẫy ghế đủ chỗ ngồi cho một ngàn du khách, để rồi đèn đuốc tắt phụt, một con thuyền dật dờ lướt trên mặt nước êm ru, mái chèo được bọc cao su hãm thanh. Một ban đàn giây gồm toàn phụ nữ ngồi trên thuyền. Nhã nhạc cất lên, ví von, thánh thót, du dương. Tường da vang dội tiếng ngân kỳ lạ…

Đi bên chàng, Diane run lẩy bẩy. Chàng dặn nàng ngồi chờ trên một bục đá ngay ngắn như cái ghế!

- Kho vàng ở hang kế bên. Anh phải lặn xuống hồ.

Nàng hổn hển như vừa chạy bộ trên một quãng đường dài không nghỉ:

-Em sợ lắm. Cho em theo với.

Chàng an ủi nàng:

- Anh chỉ vắng mặt chừng 5 phút. Em lặn không quen, dễ bị ngộp thở. Đừng sợ. Anh hiểu rồi.

Nàng nói như khóc:

-Hiểu? Anh chẳng chịu hiểu gì cả.

Văn Bình nhảy ùm xuống nước. Chàng có nghe rõ câu nói đầy ý nghĩa của nàng hay không, chàng không cho biết. Dường như chàng nghe rõ. Vì trên môi chàng thấp thoáng nụ cười tự tin.

Văn Bình từ đáy hồ ngoi lên sớm hơn dự liệu. Một tay vuốt nước ròng ròng trên mặt, tay kia bám mép hồ, chàng reo mừng với nàng:

- Tìm thấy rồi, em ơi …

Diane ngồi ủ rũ không đáp. Từ một lõm núi bên trái có tiếng đàn ông vẳng ra, chắc nịch:

- Cám ơn anh Z.28.

Văn Bình khựng người. Bên phải cũng có tiếng động. Mặt sau cũng có tiếng động. Phe lạ gồm ít nhất ba tên. Chàng đứng dậy, giữ bộ mặt thản nhiên. Từ bóng tối của thạch động, bước ra một thanh niên trạc 30, dong dỏng cao, rắn rỏi, khôi ngô, da trắng, tròng mắt xanh tím. Cùng xuất hiện với hắn là hai thanh niên khác, thân hình vạm vỡ hơn song kém nhanh nhẹn. Cả ba phục sức đồ chẽn, màu sám, theo lối dân chài địa phương. Thoạt nhìn Văn Bình biết họ là người Nga chính cống. Thanh niên khôi ngô và sáng sủa nhất trong bọn là Navarô, đại tá Navarô, hòn ngọc quý của mật vụ hành động sô viết KGB.

Navarô cười nửa miệng ;

- Cám ơn anh Z.28 đã dẫn chúng tôi đến đây.

Văn Bình quay nhìn Diane:

- Té ra em là nhân viên của Navarô.

Diane cúi gằm đầu không nói nữa lời. Navarô lắc tròn khẩu súng trái khế lắp ống cao su ngăn tiếng động trên bàn tay ngón dài tháp bút, ngón tay của nhạc sĩ dương cầm:

- Không phải là nhân viên của Navarô. Nàng là đồng nghiệp của tôi, nữ thiếu tá KGB phân bộ hải ngoại. Tên nàng là Kikiranxôva. Bạn bè thường gọi tắt là Kiki.

- Nghĩa là đội lốt Diane?

- Cô bé Diane anh gặp trong tiệm ăn gần công trường Thị sảnh là thứ thật.

- Anh đã giết nàng?

- Giết e không đúng. Chúng tôi chỉ muốn nàng cung cấp một số tin tức. Rủi ro nghề nghiệp. Đàn em của tôi hơi nặng tay. Cho nên tôi phải thay thế nàng bằng thiếu tá Kiki. Dầu Diane còn sống thì sự đội lốt vẫn cần thiết như thường. Tôi tưởng anh khôn, chẳng ngờ đầu óc anh tối om. Anh nhắm mắt lao vào cạm bẫy. Anh Z.28 ơi, cuộc đời ngang dọc của anh sắp chấm dứt tại đây. Anh cần ân huệ nào không? Anh đừng lo, tôi không bắt anh hấp hối lâu. Hang đá có nhiều tiếng ngân, bên ngoài nghe rõ, nên tôi cẩn thận dùng ống hãm thanh. Loại thượng hạng của hãng AIC[116], loại thông dụng của CIA chỉ kêu rẹt một tiếng êm ái.

- Ân huệ cuối cùng là được biết rõ khuyết điểm của mình để nhắm mắt khỏi ân hận. Tại sao các anh hạ sát Lulio?

- Rủi ro nghề nghiệp như đối với Diane. Bản tâm của tôi chỉ ngăn chặn Lulio tiếp xúc với anh. Như anh đã rõ, giám đốc Phản gián Moreno phong phanh ra một bộ phận của chúng tôi, tôi phải đánh lạc hướng bằng cách trộn quậy lung tung. Thành thật khen anh đạt được thắng lợi ở Mađờrít. Tuy nhiên, bộ phận bị bại lộ chỉ quy tụ một số nhân viên trung cấp. Bộ phận chìm do tôi đích thân chỉ huy mới quan trọng. Anh Z.28 ơi, chết như anh cũng sướng lắm rồi. Thiếu tá Kiki từng được ân thưởng huy chương "nữ điệp viên thép". Huy chương cao quý này của KGB chỉ giành cho nữ điệp viên có trái tim và khối óc bằng thép, không hề rung động trước đối phương đẹp trai. Sợ điệp viên thiếu kinh nghiệm bị anh mồi chài dễ dàng, tôi phải triệu thỉnh huy chương thép Kiki. Hà, hà … nữ thiếu tá thép đã thua anh. Thành thử kế hoạch của tôi phải thay đổi vào giờ chót. Kiki trổ mòi mềm yếu, tôi đành ập vào thạch động sớm hơn dự định. Nào, nhắm mắt lại, anh Z.28.

Diane tức nữ thiếu tá thép Kikiranxôva của KGB sô viết mở choàng mắt:

- Anh Navarô, tôi van anh, anh nên nể tình tôi.

Navarô ưỡn ngực, ngạo nghễ:

- Đồng chí mềm yếu vẫn chưa đủ sao? Đồng chí lại còn muốn xin tha cho địch nữa! Cho đến phút này, tôi sẵn sàng bỏ qua cho đồng chí . Dầu sao, chúng mình đã hoạt động chung với nhau nhiều chuyến. Nhưng tôi không thể tiếp tục bỏ qua. Như vậy là phản bội.

- Anh Navarô, mình và anh Z.28 chẳng hề thù oán nhau, tôi năn nỉ anh…

- Đồng chí quên khẩu lệnh của thượng cấp rồi ư? Gặp Z.28 ở bất cứ đâu là giết. Giết, giết. Giết được Z.28 thì được thưởng.

- Tôi biết rồi. Nhưng anh ơi, sự đời có nhiều cái éo le… Công tác này thành công, phần lớn do tôi. Tôi xin nhượng lại tất cả cho anh.

- Đổi lấy sự sống của địch. Hừ, cô là thiếu tá thép Kiki … Giá là người khác, tôi đã không ngần ngại chĩa mũi súng vào ngực cô, bắn ngay một phát.

Bất lực, nữ thiếu tá Kiki bưng mặt khóc rưng rức. Navarô trề môi, khinh miệt:

- Thiếu tá thép khóc … ha, ha …

Văn Bình cất tiếng, dịu dàng mà chua chát:

- Anh Navarô, anh riếc tôi ngu, té ra anh ngu hơn tôi nhiều.

Navarô quắc mắt:

- Câm miệng, anh không được phép nhục mạ tôi.

- Anh là thằng ngu nhất trong làng điệp báo thế giới. Anh giết tôi, ai sẽ dẫn anh đến kho vàng?

- Đừng tìm kế kéo dài thời giờ. Cứ nhảy xuống hồ, lặn qua một cửa ngầm là đến.

- Thì nhảy đi, lặn đi.

Lối nói của Văn Bình làm Navarô giựt mình. Hắn ra lệnh cho một thuộc viên:

- Hồi nãy mày thấy hắn lội dưới hồ. Mày thử tìm xem cửa ngầm ở phía nào?

Văn Bình giơ một ngón tay cái lên không:

- Anh không nhờ tôi giúp ư?

Navarô bĩu môi:

- Nose pre ocupe[117]. Nhân viên của tôi có cặp mắt sáng, không mù.

- Thì thôi. Lát nữa, đừng trách tôi ích kỷ.

Navarô ngó Văn Bình, bộ điệu hầm hầm. Gã thuộc viên của hắn nhanh nhẹn lao xuống hồ, và trong khoảnh khắc mất tăm như con cá dưới nước. Không khí thạch động ngột ngạt khó thở mặc dầu gió biển mang vào tận đây mùi vị mằn mặn thoái mái quen thuộc.

Mặt hồ xao động dữ dội, gã thuộc viên rẽ nước chui lên, rồi hối hả nằm lăn trên bờ. Navarô hỏi lớn:

- Mày bị thương?

Gã thuộc viên chỉ xuống hai chân. Bàn chân nạn nhân bầm tím và sưng húp. Hơi thở của nạn nhân yếu hẳn. Navarô bàng hoàng:

- Anh Z.28, thằng em út của tôi bị con gì cắn thế này?

Văn Bình nhún vai:

- Một giống vỏ sò. Nó nằm thành lớp dưới đáy. Loại vỏ này chứa chất độc.

- Chữa được không?

- Chịu. Dẫm nhằm là chết. Trừ phi luyện được phép vận công tống độc.

- Anh là đồ sát nhân.

- Tôi đã long trọng cảnh cáo, anh không thèm nghe. Anh khăng khăng nói là nhân viên của anh có cặp mắt sáng, không mù. Nếu anh bớt ghen tuông, nếu anh điềm tĩnh hơn nữa thì em út của anh chưa chết.

- Ai bảo với anh là tôi ghen tuông?

- Tròng mắt. Cái nhìn. Đứa trẻ thơ cũng biết anh yêư thiếu tá Kiki. Quá yêu nên ghen tuông.

- Anh mê hoặc nàng. Tôi quyết giết anh.

- Từ từ, anh Navarô. Nói cho cùng, ghen tuông chỉ là chuyện phụ. Mạng sống của tôi cũng là chuyện phụ. Chủ yếu là 200 tấn vàng. Bảo thẳng anh, anh không giết nổi tôi đâu.

- Đồ khốn nạn. sang động chứa vàng bằng lối nào?

- Anh thô bỉ như vậy, thiếu tá Kiki yêu anh sao được …Tôi sẵn sàng dẫn lối cho anh. Với một điều kiện.

- Tha chết?

- Không phải « tha chết". Đây là sự đổi chác.

Navarô ngoắc gã thuộc viên còn lại:

- Vỏ sò cứa đứt chân và gây độc vì nó cởi giày. Mày lấy đôi giày của tao. Giày trận, gai sắt nhọn cũng không đâm thủng.

Gã thuộc viên rụt rè:

- Thưa …em lặn?

- Ừ. Hễ thấy cánh cửa thì lên ngay, trình tao biết.

Văn Bình nghiêm nét mặt:

- Bảo không nghe … xuống hồ là chết đấy.

Gã thuộc viên chần chừ không chịu buộc dây giày. Navarô quát:

- Đế giày bằng cao su cứng, mày còn e ngại nỗi gì? Nhanh lên, tinh thần chiến đấu của mày để đâu?

Gã thuộc viên chưa kịp tỏ thái độ đã bị Navarô xô mạnh. Văn Bình khoanh tay ngắm những vòng tròn lăn tăn trên mặt hồ. Mọi người khỏi cần chờ lâu. Hai phút sau, nạn nhân trồi lên. Hắn không còn đủ sức bám lấy mép hồ. Bàn tay hắn rớm máu. Hắn ngã ngửa, nổi lềnh bềnh một lát rồi chìm nghỉm.

Đại tá mật vụ sô viết Navarô lẩm bẩm một cách tức tối:

- Kỳ quái, kỳ quái. Nó lặn hồi lâu thì không sao. Mình mới xuống đã dẫm vỏ sò độc mà chết …

Văn Bình cười khẩy:

- Chẳng có gì kỳ quái, anh ơi. Đáy hồ được chia làm hai phần. Một nửa có vỏ sò giết người. Nửa kia là cát, hoàn toàn vô hại.

- Nghĩa là anh giả vờ lặn?

- Đúng. Tôi nhảy xuống, nhịn thở, nép vào góc.

- Anh biết tôi rượt theo?

- Biết chứ. Kiki để tóc dài, và giấu nơi lỗ tai một ống nghe walkie -talkie cực nhỏ. Anh liên lạc với nàng bằng hệ thống vô tuyến tí hon này.

- Đồ khốn nạn. Anh ôm nàng hôn.

- Còn thân mật hơn thế nữa. Nhưng ghen tuông làm gì, Navarô? Anh đã bị tôi lừa, Navarô. Thế cờ lật ngược, anh bị bao vây tứ phía, vứt súng, đầu hàng thì còn sống…

Navarô, con cọp gấm bách chiến bách thắng KGB đã phạm một lỗi lầm căn bản vào lúc thế thượng phong còn nằm trong tay hắn. Nghe Văn Bình nói hắn bị bao vây, hắn lặng người, lấm lét nhìn hai bên. Hắn đinh ninh phe nhóm của Văn Bình rình rập đông đảo sau lưng.

Điều hắn không dè là trong hang đá rộng bát ngát, ngoài Văn Bình, Kiki và hắn ra, không còn ai hết. Văn Bình chỉ áp dụng một mánh lới xưa như trái đất. Mánh lới rất tầm thường mà hữu hiệu. Chàng gây nơi địch một sự sơ ý. Và chàng cũng triệt để khai thác sự sơ ý này của địch.

Chàng đứng cách Navarô khoảng 3 mét. Kỹ thuật tác xạ của Navarô gần đạt tới toàn mỹ nên dầu đứng gần, Văn Bình cũng khó hy vọng đoạt súng. Phương chi ở xa những 3 mét. Ngoài nước liều mạng.

Chàng co chân phóng một ngọn đảo sơn cước ác liệt và thần tốc. Kiểu đá vòng cầu bằng một chân này rất lợi hại. Nhưng rất khó trúng đích. Lại rất dễ bị đối phương hóa giải. Bàn tay cầm súng của Navarô như được điều khiển bằng rôbô điện tử, Văn Bình vừa nâng người lên khỏi mặt đất, họng thép xanh biếc đã chĩa thẳng vào ngực chàng. Trong vi ti thời khắc ấy, Văn Bình muốn thu cước về cũng không kịp nữa. Chàng chỉ biết trông chờ vào may rủi.

Rẹt … viên đạn bay ra khỏi nòng, khói bốc khét lẹt. Mặc dầu Navarô nhắm giữa tim Văn Bình, viên đạn bay trệch ra ngoài. Từ nhiều năm nay, chưa bao giờ đại tá Navarô bắn hụt. Lần này bắn hụt là do sự can thiệp của người đàn bà được hắn yêu tha thiết mà không hề yêu lại. Nữ thiếu tá thép Kikiranxôva nhoài mình đụng nhẹ vào cùi tay của Navarô. Miệng súng bị hất lên cao, Navarô đang loạng choạng thì ngọn cước thứ hai bằng chân trái của Văn Bình đã giựt phăng khẩu súng trái khế gắn ống hãm thanh rớt tõm xuống hồ.

Navarô nhảy lùi, giọng tê tái:

- Kiki, đồng chí tiến quá xa … đồng chí ngang nhiên yểm trợ cho địch.

Kiki thở dài:

- Anh muốn kết tội ra sao tùy ý, tôi không thích để mọi người chê anh hèn, anh hiểu chưa?

- Hừ, tôi mà hèn …Hèn mà được tặng huân chương "anh hùng điệp báo" sô viết.

- Về điệp báo, anh là anh hùng. Song tình yêu mù quáng đã biến anh thành con người hèn. Võ nghệ của anh chưa hề thua ai, tại sao anh không tỉ thí với Văn Bình mà lại ỷ vào súng đạn? Tôi không yêu anh, điều đó quá hiển nhiên, và cho dẫu việc gì xảy ra, tôi vẫn không thay đổi. Nhưng anh đừng tưởng lầm tôi yêu Văn Bình. Đồng ý là có sự rung động. Và có sự mặn nồng của thể xác, song le tôi là thiếu tá KGB. Kikiranxôva có thể yêu Văn Bình, thiếu tá thép không thể yêu Z.28 của cơ quan do thám thù nghịch. Các anh giao đấu với nhau, các anh giết nhau, tôi không can dự tới, miễn hồ có sự công bằng.

Đại tá Navarô khuỳnh khuỳnh cánh tay, mắt phóng tia lửa:

- Tiến lên, đồ khốn nạn.

Văn Bình thản nhiên bước tới. Chàng không ngán hắn, tuy biết hắn là một trong số ít võ sư xuất sắc của KGB. Am tường và biết cách vận dụng nhiều thế võ bí hiểm chưa đủ. Vấn đề bảo tồn chân khí quan trọng không kém. Trong các cuộc đấu ở cấp thượng đẳng, nó thường là yếu tố định đoạt sự thắng bại. Văn Bình không ngán đối thủ cao cường Navarô vì máu ghen lồng lộn đã làm da mặt hắn đổi sắc nhiều lần, từ trắng ra đỏ rồi từ đỏ chuyển qua xanh tím. Chân khí của Navarô bị phân tán, do đó quyền cước giảm bớt mực độ bén nhọn.

Navarô chộp cổ áo còn sũng nước hồ của Văn Bình, vặn tréo bằng một tay trong một thế võ lạ hoắc. Lạ hoắc đối với nhiều người. Đối với Văn Bình, nó là võ sambô, môn võ cổ truyền Nga la tư. Sambô thiên về đòn gần, ngắn, chuyên bóp nghẽn khí và huyết quản, và bóp bẻ các khớp xương. Trên nhiều góc cạnh, nó giống nhu đạo Nhật bản. Nó khác nhu đạo ở chỗ nó không quăng ném. Nó cũng không tinh vi bằng nhu đạo. Ngược lại nó có một số bí kíp từng làm nhiều võ sĩ ưu tú nhu đạo thất điên bát đảo. Ban hành động KGB sô viết giành một ngân khoản khổng lồ trong nhiều năm vào chương trình phục hồi, và hiện đại hóa võ sambô bằng cách bồi bổ nó với những đòn cực hiểm của nhu đạo Nhật bản, karatê Xung thằng và Thiếu lâm quyền.

Văn Bình suýt bị dập nát thực quản vì thái độ khinh thường tự mãn. Chàng tưởng gân cốt Navarô bị cơn nóng giận làm chùng giãn, không dè nó vẫn cứng như thép. Chàng khám phá ra sự thật thì bàn tay địch đã khép chặt quanh yết hầu. Chàng phải vận dụng nội kình, và đối phó thật vất vả mới gỡ thoát được gọng kềm ác ôn của Navarô.

Ngay sau đó, chàng bị lọt vào một thế kẹp nách sambô. Lối tấn công sambô khá độc đáo, bàn tay của Navarô xòe rộng, chụp xuống bả vai Văn Bình, hao hao đòn ngũ trảo trong Thiếu lâm quyền. Chàng có cảm giác như 5 mũi dùi nướng đỏ đang đâm suốt vai chàng, từ ngực thấu ra sau lưng. Chàng phải tăng bội kình lực để chịu đau và gạt đòn.

Bùa phép sambô của Navarô không còn linh nghiệm nữa khi Văn Bình chuyển sang phương pháp viễn chiến, ráo riết tấn công bằng ngón đá song phi. Chàng bay hai chân, đá cùng một lượt, đòn song phi hồ điệp bất hủ của La hán quyền đã giúp chàng vô hiệu hóa bí kíp sambô. Navarô trúng liên tiếp hai đá vào bụng và ngực.

Hắn lảo đảo phải vịn vách để khỏi ngã.

Văn Bình vút theo, chuẩn bị dứt điểm bằng thiết tiêu cước, môn đá thẳng bằng gót chân. Té ra Navarô giấu sẵn khí giới trong mình. Thừa cơ dựa vách, hắn luồn tay vào áo rút ra cặp kama.

Hắn mặc bộ đồ dân chài với dụng ý rõ rệt. Thứ nhất, đó là cách cải trang an toàn, dọc bờ biển mọi người đều phục sức tương tự. Thứ hai, hắn có thể mang theo một số dụng cụ bằng sắt, bề ngoài tưởng là đồ làm ruộng hoặc đi biển, kỳ thật là khí giới khủng khiếp.

Kama trong tiếng Xung thằng là lưỡi liềm. Võ karatê phát xuất từ đảo Xung thằng. Đảo này còn đẻ ra một số khí giới đặc biệt như lưỡi liềm có cán dài. Lưỡi liềm kama được buộc cùng sợi dây dài dùng làm phi tiễn hoặc để đánh xa tầm được gọi là kusari-gama.

Phép đánh lưỡi liềm Xung thằng không phải là điều mới lạ đối với điệp viên giang hồ Z.28. Chàng từng đến tận nơi nghiên cứu và học hỏi. Trước kia, đảo Xung thằng bị Nhật chiếm giữ, sự bành trướng karatê địa phương bị cấm chỉ, tất cả những gì là khí giới chiến trận đều bị tịch thu. Do đó, giới võ lâm Xung thằng phải nghĩ ra võ khí mới và kỹ thuật mới.

Đánh kama không giống đánh doản côn hoặc đoản kiếm. Nó gần như sự phối hợp giữa kenđô Nhật bản và thương pháp Trung hoa. Dưới sự điều khiển kém điêu luyện, nó không mấy nguy hiểm. Được đặt vào tay võ sĩ bậc thầy, nó trở thành khí giới vô địch.

Kama thường được đánh đơn, vì đánh cặp -cũng như đánh song kiếm- đòi hỏi nhiều thời gian luyện tập. Biết mình, biết người, Văn Bình sợ toát bồ hôi khi thấy đại tá sô viết Navarô múa tròn cặp lưỡi liềm sắc lẻm tiến về phía chàng.

Nếu có gậy sắt, chàng có thể đương đầu với cặp kama của địch. Khốn nỗi chàng chỉ có hai tay không. Chàng từng học đánh kama, học đỡ kama bằng một khí giới tương đương. Chàng chưa từng học đối phó bằng tay không.

Bởi vậy, thượng sách trong hoàn cảnh này là lùi. Lùi để nghĩ phương cầm cự.

Hơn ai hết, Kiki thấy rõ thế yếu của Văn Bình. Nàng đứng phắt kêu lớn:

- Navarô, anh bỏ ngay cặp kama.

Lời thuyết phục của Kiki chỉ như tiếng kèn trên bãi sa mạc mông mênh. Say máu, Navarô không còn nghe, còn thấy gì nữa. Hắn lừ lừ xấn lên, Văn Bình tiếp tục thoái bước.

Nền động bắt đầu rìn rịn, nước thủy triều từ bên ngoài từ từ chảy vào. Trong khoảnh khắc, mực nước dâng lên ngang mắt cá chân. Kiki báo động:

- Nước, nước … Ra khỏi hang ngay, nếu không bị chết đuối hết!

Kiki nói chỉ để mình nàng nghe vì hai người đàn ông đang bận rình rập nhau trong cuộc đấu một còn một mất. Navarô nhào tới, hai lưỡi kama bổ tréo từ trên xuống với chủ đích chẻ óc Văn Bình làm đôi. Lưng chạm vách đá, Văn Bình không thể lùi thêm nữa. Chàng thụp người, đảo nhanh sang bên, móc nhọn của lưỡi liềm chém vào thạch nhũ nghe choang một tiếng lớn. Bụi đá bay lả tả.

Navarô gầm lớn, chân xoạc rộng theo trảo mã tấn, một tay chém dứ, tay kia điều khiển lưỡi kama thọc hông trái của Văn Bình. Bắt buộc chàng phải nhào xuống đất, cuộn tròn để tránh. Sau lưng, giọng Kiki vẫn lanh lảnh:

- Navarô, cất khí giới đi!

Đại tá Navarô trả lời bằng một đòn xẹt ngang. Văn Bình né thật lẹ làng mà vạt áo sơ mi của chàng vẫn bị rách toạc. Mũi kama xướt da ngực chàng, lưu lại một lằn đỏ rướm máu. Nếu chuyển thế chậm một phần trăm tích tắc, chắc chắn chàng đã lãnh vết thương chí tử. Cười ha hả ra vẻ thỏa mãn, Navarô chập hai kama làm một để tấn công giữa lúc Văn Bình, bị lúng túng giữa hai mô đá ngập nước đến nửa bắp vế.

Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 17784
Points : 24761
Reputation : 0
Join date : 16/10/2016

Tây Ban Nha 200 Tấn Vàng Đẫm Máu - Người Thứ Tám Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tây Ban Nha 200 Tấn Vàng Đẫm Máu - Người Thứ Tám   Tây Ban Nha 200 Tấn Vàng Đẫm Máu - Người Thứ Tám Icon_minitimeSun Dec 10, 2017 8:30 am

May cho Văn Bình, Navarô trượt chân, cả hai lưỡi liềm thép đâm hụt xuống vũng nước. Văn Bình quẫy mình chộp bả vai địch. Ngón tay chàng chạm vùng ngoài của huyệt kiên tuấn trên cổ trái. Trúng giữa huyệt này thì nửa thân phải của địch bại liệt tức thời. Atêmi của Văn Bình chạm vùng ngoài nên đại tá Navarô chỉ bủn rủn cánh tay, làm rớt lưỡi kama. Về phương diện võ khí, địch đã mất 50 phần trăm lợi thế. Cảm thấy phấn khởi, Văn Bình giả vờ bước hụt, thụp chân xuống hố dụ khị Navarô sử dụng tối đa sức lực. Giỏi võ, can đảm, nhanh nhẹn, khỏe mạnh, Navarô đáng là anh cả của các nhân viên hành động KGB sô viết. Khốn nỗi, Văn Bình Z.28 lại là bậc thầy. Chưa nói tới ngón nghề, chỉ riêng kinh nghiệm chiến trận, Văn Bình đã vượt hắn quá xa. Do đó, Navarô bị Văn Bình đưa vào xiếc một cách dễ ợt. Hụt đòn, Navarô mất thế quân bình. Mực nước mấp mé đầu gối, gia tăng sự khó khăn trong khi di chuyển. Văn Bình lừa hắn sơ hở để giựt nốt lưỡi kama thứ hai. Hắn cố gắng trì giữ, Văn Bình buông ra và xô mạnh. Navarô té ngửa, dập đầu vào tường đá.

Navarô đến ngày mạt vận khiến cho lưỡi liềm nhọn quay ngược vào bụng. Tự hắn đâm lủng ruột non của hắn. Văn Bình không hề đụng vào lưỡi kama ác ôn. Bị rách ruột non thì mất mạng là cái chắc. Văn Bình nhìn thoáng biết ngay thương tích của địch khá trầm trọng. Chàng mặc hắn quằn quại trên nền động ngập nước.

Chàng nói với Kiki:

- Còn 10 phút nữa. Từ đây ra ngoài mất khoảng 7, 8 phút. Em đưa tay anh nắm. Nước tới đùi, lại chảy xiết, em không bước nổi đâu.

Kiki đáp:

- Đa tạ hảo ý của anh. Em không thể theo anh. Dầu sao, em là sĩ quan cao cấp sô viết. Vả lại, đồng nghiệp của em bị thương nặng, em không nỡ thoát hiểm một mình.

Văn Bình thúc giục:

- Em nhìn coi, Navarô đang thở hắt. Giỏi lắm, hắn hấp hối được 60 giây đồng hồ nữa. Em chứng kiến cuộc đấu, em dư biết anh không cố ý hạ sát bạn em. Mỗi người trong chúng ta phục vụ một chiến tuyến, nhưng về tình riêng, chúng ta không hề thù oán nhau...

- Vì anh xử trí cao thượng với Navarô, em mới đứng ngoài vòng chiến.

- Chưa đủ. Em phải đưa tay cho anh. Tay em đâu, Kiki, nước lên đến bụng, đừng trì hoãn nữa kẻo hai đứa mình cùng chết.

- Anh lừa em... hang đá này có vỏ sò giết người, anh nói là chứa vàng. Thôi cả hai cùng chết...

Thiếu tá Kiki chĩa khẩu súng nhỏ xíu vào tim Văn Bình. Giọng nàng dõng dạc:

- Anh Z.28, anh cử động là em bắn.

Văn Bình nói:

- Đàn bà thật kỳ cục. Hồi nãy không bắn. Giờ đây dọa bắn. Anh đâu có lừa em. Kho vàng ở tại đây. Như anh nói, lặn xuống hồ, luồn qua cánh cửa ngầm là đến. Chẳng qua nhân viên của Navarô đạp chân nhằm vào phía có vỏ sò độc. Kiki, thà anh chết vì viên đạn của em hơn là chết đuối. Bắn đi... em còn trù trừ gì nữa...

- Anh cựa quậy thì em mới bắn.

Văn Bình nhún vai, rẽ nước tiến về phía nàng. Kiki nâng họng súng, ngón tay nàng đặt lên cò. Nhưng nàng không bắn. Nàng bật khóc, thả khẩu súng xuống nước. Văn Bình ôm ngang lưng nàng. Chàng dìu nàng lội bì bõm một cách vất vả ra cửa hang. Phía sau, Navarô đã chìm dưới nước.

Văn Bình liếc đồng hồ tay ;

- Nước thủy triều lên xuống rất đúng giờ. Trong vòng 5 phút, thạch động mới bị ngập hẳn. Em bám sát vai anh để anh bơi sải.

- Không; em không đi nữa.

- Kiki, em điên hả?

- Em không điên. Em không đi vì em cảm thấy xấu hổ, nhục nhã. Anh chưa hề yêu em, anh chỉ lợi dụng em để qua mặt giám đốc Phản gián Morenô rồi sau đó triệt hạ đại tá Navarô.

- Cũng như em vậy, dùng chữ yêu e không đúng lắm. Nhưng chắc chắn là có cảm tình đặc biệt. Đời điệp viên hành động như em và anh, nói yêu là đạo đức giả. Anh không thích đạo đức giả. Kiki, em lầm. Nếu không yêu em, anh đã bắt em từ ở Mađờrít, theo lời yêu cầu của Morenô.

- Trời, anh hợp tác chặt chẽ với Morenô, chứ không phải...

- Dĩ nhiên, Anh giả vờ mỏi mệt để có thời giờ liên lạc với thượng cấp xin chỉ thị mới. Em đội lốt Diane khá giỏi, song mỗi người đàn bà có một hơi hướng riêng. Anh chỉ ôm em hôn một lần là phân biệt được liền. Em lại phạm nhiều khuyết điểm về cử chỉ, và ngôn ngữ. Em quên điều tra cặn kẽ về hoạt động của Diane. Tuần rồi, Diane về quê ở miền nam. Khi anh hỏi em lại đáp là tuần rồi, em sống ở Mađờrít với gã đấu bò Manêlitô... Chiều hôm ấy, anh chuốc rượu rồi điểm huyệt cho em ngủ say để anh được thảnh thơi bàn luận với giám đốc Morenô. Ông ta lấy dấu tay của em, đối chiếu với thư khố căn cước của trung ương Phản gián và phăng ra em. Theo lời Morenô, em là phần tử khá quan trọng trong KGB. Em là cháu ruột của ông tổng bí thư đảng Cộng sản Liên sô. Bắt được em, lợi không kém kho vàng 200 tấn vàng.

- Gã tài xế bị anh đánh ngất là nhân viên của Morenô?

- Không. Hắn là tài xế chuyên nghiệp trăm phần trăm, không dính dấp vào chuyện kho vàng. Người gác tòa biệt thự của bà hoàng xăng uých mới lãnh lương Phản gián. Khi chúng mình tạt vào mượn xe thì ông giám đốc Morenô đang ở trong biệt thự. Hiện Morenô chờ anh ngoài cửa động...

- Để còng tay em?

- Đó là ý muốn của ông ta, ý muốn của ban An ninh Minh ước Bắc Đại tây dương, ý muốn của CIA Mỹ. Nhưng không phải ý muốn của anh. Kiki đừng cật vấn anh nữa, mực nước đến ngực rồi. Nắm chặt lấy anh.

Dưỡng khí trong hang đá đột nhiên thiếu hụt. Kiki há miệng thở, dáng điệu nhọc mệt. Không biết từ đâu tới, hàng chục, hàng trăm con giơi đen sì vỗ cánh oàm oạp chung quanh hai người. Nhiều con lạc đường đâm sầm vào mặt Văn Bình và Kiki. Chàng bơi một tay, tay kia làm lá chắn bảo vệ nàng khỏi sự xung kích của dạo quân giơi hoảng hốt.

Tiếng thủy triều mỗi lúc một lớn. Mới đầu nó kêu rì rầm êm tai. Dần dà nó réo như nước sôi trên bếp. Sau cùng Văn Bình có cảm tưởng như tứ phía là thác nước khổng lồ như thác Khôn[118] ở Lào, đang vùng vẫy, gầm thét bên tai chàng. Chỉ nghe những âm thanh ầm ỹ loạn xạ này, người yếu bóng vía cũng ngất xỉu.

Thác này chỉ cao hơn 10 mét nhưng rộng những 10 km và phát tiếng kêu rất lớn. Nó được liệt vào hàng thác lớn nhất, ồn nhất thế giới.

Trên đường bơi thoát hiểm, đáng sợ nhất là chặng luồn dưới kẹt đá. Tối thiểu phải nhịn thở một phút. Đối với Kiki đó là việc khó khăn. Nàng không quen lặn. Nàng lại bị đuối sức.

Vai Văn Bình bỗng nhẹ tâng. Kiki vừa buông tay. Nàng thả chàng ra vì không muốn làm phiền chàng hay nàng kiệt lực? Chàng kêu thất thanh:

- Kiki, Kiki?

Chàng la hét vô ích. Tiếng sóng dữ dằn kèm theo tiếng dội dữ dằn gấp nhiều lần của núi đã khỏa lấp tất cả. Cho dẫu chàng kêu lớn hơn tiếng thủy triều, nàng cũng chẳng nghe được. Hoảng hồn, Văn Bình lặn xuống. Hông chàng chạm thạch nhũ sắc như lưỡi dao khiến chàng rách toạc áo quần, kéo theo nhiều mảng da thịt. Chàng bị thương lung tung, từ đầu xuống chân. Qua lằn sáng lờ mờ, chàng thoáng thấy một bóng đen nổi lềnh bềnh. Chàng ào tới. Đúng là nàng. Chàng vội nắm tay nàng kéo nhanh khỏi thạch động.

Một khoảng trời hiện ra bên trên. Văn Bình dìu nàng nằm ngửa trên mặt nước. Nàng còn tỉnh. Nàng nói, giọng yếu ớt:

- Anh để em chết. Anh còn cứu em làm gì?

Văn Bình quát:

- Ráng lên. Sắp ra đến chỗ an toàn. Nín thở. Chúng mình lặn.

Chàng dìm nàng xuống, và cặp nàng vào nách. Nàng uống nước, phát ho sặc sụa. Mặc, Văn Bình cứ tiếp tục kéo nàng phăng phăng dưới nước. Lúc chàng ngoi lên thì thấy trên bờ người đứng lố nhố.

Giám đốc Phản gián Morenô mừng húm chạy lại:

- May quá. Tưởng anh mắc kẹt, tôi phải cho người nhái xuống cứu.

Văn Bình chỉ Kiki thiêm thiếp trên phiến đá:

- Về phần tôi thì không sao. Nàng bị uống khá nhiều nước.

- Được. Anh để tôi lo.

Mọi người ùa tới, chia nhau làm phương pháp hô hấp nhân tạo cho Kiki.

Morenô lại hỏi:

- Còn đại tá Navarô?

Văn Bình đáp gọn:

- Chết.

- Kho vàng?

- Đúng theo họa đồ của Lulio. Diện tích đáy hồ là 150 mét vuông thì hai phần ba có vỏ sò độc. Cửa ngầm ở bờ phía đông, vừa hai người chui lọt. Qua khỏi ống cống 4 mét thì đến nơi. Nước hồ không tràn sang nơi giấu vàng vì nền kho cao hơn. Dường như trước kia, các thùng vàng được chở bằng cam nhông lên lưng chừng núi, qua một lỗ thông hơi thòng dây thả xuống. Sau đó người ta dùng xi măng bít kín lỗ này lại, chỉ còn một lối ra vào duy nhất ở đáy hồ nước.

- Cám ơn anh. Đợi thủy triều rút, tôi sẽ cho người vào khuân vàng ra. Như chương trình dự liệu, tôi để sẵn trực thăng cho anh dưới đường. Bình xăng đầy, giấy tờ đầy đủ. Chào anh, và hẹn gặp nhau lại trong một tương lai gần.

- Tôi xin phép thay đổi đôi chút. Thay vì trực thăng, tôi dùng xe hơi. Chở Kiki lên gần biên giới Pháp.

- Không được. Ông Hoàng, ông Sì mít, tôi và các đồng nghiệp chỉ huy điệp báo trong khối Bắc Đại tây dương đã đồng ý với nhau về số phận của nữ thiếu tá Kiki. Anh không thể bất tuân thượng lệnh.

- Dĩ nhiên. Đây không phải vấn đề bất tuân thượng lệnh. Sở dĩ tôi chở nàng lên biên giới vì muốn moi móc thêm một tin tức tối quan hệ …

- Tin tức gì?

- Về một tiểu tổ KGB nằm lì trong sở Phản gián do ông điều khiển. Họ đang tìm cách ám sát các yếu nhân chính phủ, trong số có tên ông.

- Vậy hả, vậy hả? Vậy anh lấy xe lái lên biên giới. Anh nên thận trọng. Nữ thiếu tá Kiki là người đàn bà thép. Nàng chưa hề rung động vì ai. Đàn ông xớ rớ đến nàng đều chết tan xác. Nàng nguy hiểm như trái bom nguyên tử.

Ngừng một phút, ông Morenô nói tiếp:

- Tin tức này liên hệ quá mật thiết đến tôi, và sự tồn tại của chính phủ nên tôi mới dám cho phép anh cùng đi với nữ thiếu tá thép. Anh biết không, ông tổng giám đốc Hoàng vừa gọi đìện thoại dặn đi dặn lại đừng bao giờ cho Z.28 gần gũi Kiki. Nàng rất hấp dẫn. Lời nói, hơi hướng, thân hình … món nào cũng tuyệt vời. Giờ chót, Kiki có thể lừa anh, rồi giết anh như chơi.

- Ông yên tâm. Con quỷ cái ấy không quyến rũ được tôi đâu.

Giám đốc Morenô hỏi đám thuộc viên:

- Nàng tỉnh chưa?

Có tiếng đáp:

- Thưa chưa.

Văn Bình nói:

- Các bạn nhường cho tôi. Tôi từng làm huấn luyện viên về môn cứu thủy nạn.

Chàng quan sát kỹ lưỡng tiến trình của cuộc cứu cấp. Áp dụng phương pháp Holger-Nielsen, họ đặt Kiki nằm sấp, cằm gối trên hai bàn tay rồi ấn lưng nàng tạo điều kiện cho phổi nàng hô hấp trở lại. Sau đó, họ dùng phương pháp miệng kề miệng, mỗi phút thổi 12 hơi dài vào miệng nàng. Tóm lại, các thuộc viên của Morenô đã làm những gì có thể làm được để người chết đuối hồi sinh.

Chàng mỉm cười, quỳ xuống. Trời hơi tối, tối sầm trước giờ rạng đông, không ai thấy nụ cười rí rỏm trên môi chàng. Một phút sau, khi chàng áp miệng chàng vào miệng nàng thì nàng thở mạnh, đổi thế nằm, và cất tiếng ứ hự.

Như có phép màu nhiệm, nàng khỏe lại ngay. Văn Bình đỡ nàng, bước chầm chậm đến nơi đậu xe. Trong giây lát, hai người ra đến đường cái. Sương mù dầy đặc. Văn Bình bật hết đèn vẫn không xuyên thấu được bức màn trắng bất khả xâm phạm. Gió biển lạnh như nước đá. Chàng đặt một bàn tay lên đùi nàng.

Nàng hất ra:

- Anh còn vuốt ve em làm gì? Em là con quỷ cái mà...

Văn Bình véo nàng:

- Nêú không gọi em là con quỷ cái thì đừng hòng lão giám đốc Morenô cho phép anh chở em lên biên giới. Hừm … con quỷ cái đáng yêu của anh ơi … Em không mê man, em vẫn tỉnh, em đã nghe hết câu chuyện.

- Vì em cần biết anh đối xử với em ra sao.

- Phước cho em. Trong đám nhân viên Phản gián làm hô hấp nhân tạo cho em không có anh chàng nào am tường kỹ thuật atêmi. Nhất là kỹ thuật hồi sinh kuatsu của nhu đạo. Nếu họ giỏi kuatsu, họ phải phăng ra sự bất tỉnh giả mạo. Anh đã bắt mạch ở cườm tay em, mạch chạy rất đều và mạnh. Em ơi, em chờ anh dùng phương pháp miệng kề miệng để hôn anh, phải không?

- Đồ quỷ.

- Cả hai đứa mình đều là quỷ. Nhưng là quỷ dễ thương.

- Phía sau dường như có xe hơi.

- Đàn em của Morenô. Họ sợ em sổng mất.

- Tại sao anh lái lên cảng Bu?

- Hồi khuya, khi xe đến gần cảng Bu, anh nhận thấy em rất bối rối. Em liếc trộm anh rồi nhìn ra biển. Rồi ngó đồng hồ tay. Khi xuống tắc xi cũng vậy. Em tỏ ra bối rối hơn nữa. Anh suy luận em có hẹn với ai ở đó. Em bối rối vì nửa muốn đi, nửa muốn ở. Cử chỉ của em chứng tỏ em không muốn xa anh. Em sợ thời gian trôi qua mau...

Kiki bật khóc:

- Vâng, vâng, em sợ thời gian trôi qua mau, hai đứa mình mỗi người một ngả. Em sợ anh đụng độ với đại tá Navarô, anh sẽ thiệt mạng. Trời ơi, em bấn loạn quá chừng. Nhưng kìa, anh Z.28... em khó giấu anh được gì. Anh có thiên tài đọc thấu gan ruột của em. Vâng, em có hẹn. Hẹn với tàu ngầm. Tiềm thủy đĩnh bò túi KGB nằm đợi em ngay bờ biển. Gần đến địa điểm hẹn, anh ơi... Thôi, anh giảm ga xăng đi.

- Tàu đợi em ở đâu?

- Trên bản đồ, từ Lansa[119] đến cảng Bu kẻ một vạch thẳng, giữa vạch thẳng này là địa điểm hẹn. Kia kìa, nó ở bên phải...

- Anh thấy một tòa biệt thự 3 tầng, xây trên mỏm đá nhọn.

- Tàu ngầm đậu ngay dưới mỏn đá nhọn. Núi ở đây vươn thẳng ra biển nên tàu ngầm có thể ngoi lên ban ngày không sợ bị lộ diện. Vả lại, nó là tàu ngầm tí hon, thủy thủ đoàn gồm 3 người, chở được tối đa 3 hành khách. Nó chạy bằng ắc quy điện. Ra đến hải phận quốc tế có tiềm thủy đĩnh nguyên tử của hải quân Liên sô chờ sẵn. Nó chui tọt vào bụng là xong. Anh ơi, không thấy chiếc xe theo sau chúng mình đâu nữa.

- Họ tắt đèn pha. Ông giám đốc Morenô tin lời anh. Nếu ông ta muốn can thiệp thì cũng phải chờ sáng. Có thể nào em lỡ hẹn với tàu ngầm không?

- Không. Họ túc trực tại biệt thự 3 tầng từ nửa đêm. Chủ nhân biệt thự là một viên chức KGB. Anh đậu lại đi.

Kiki lấy trong xắc ra một thỏi son môi. Té ra chỉ một đầu đựng son, đầu kia được lắp một bóng đèn đặc biệt. Nàng bước xuống bãi cát, chĩa ống son về phía biệt thự. Bóng đèn phát ra những tia sáng li ti mắt người không sao nhìn thấy. Trong khoảnh khắc, ống son kêu o o. Tiếng động này cho biết những người trong biệt thự đã nhận được mật hiệu liên lạc của Kiki.

Nàng xây mặt lại. Sóng vỗ rì rầm dưới chân hai người. Ánh trăng lạc lõng của buổi rạng đông không biết từ đâu tới chiếu vào cặp mắt xanh biêng biếc của nàng. Lòng Văn Bình xốn xang. Chàng chưa hề nói với nàng tại sao chàng yêu nàng. Nguyên nhân của tiếng sét ái tình éo le nằm trong tròng mắt xanh biêng biếc kỳ lạ ấy.

Tròng mắt của Diane xanh thật đẹp mặc dầu nó là màu xanh thông thường của đa số phụ nữ tây phương. Màu xanh của da trời mùa hạ, màu xanh ngọc bích hợp lại. Những lúc đầu gối tay ấp -ban đêm trong ngôi nhà trưng bày họa phẩm và kỷ niệm của Đali, buổi trưa và chiều tại tư thất của ông giám đốc Phản gián, Văn Bình còn có dịp nhìn thấy màu xanh êm mát, màu xanh dịu hiền mà Kiki mặc lót trên người.

Màu xanh, chao ôi màu xanh, tiêu biểu cho hy vọng tràn đầy. Người đàn bà gần với sự toàn mỹ thường yêu màu xanh. Con người luôn luôn cô đơn. Luôn luôn kín miệng. Nhưng trong tình yêu lại cuồng loạn như bão biển, như hỏa diệm sơn phun lửa, như cơn động đất làm địa cầu tan vỡ[120]…

Nàng ôm chàng hôn. Cái hôn dài tưởng như không bao giờ dứt. Chàng thè lưỡi liếm những giọt mằn mặn nóng hổi đọng trên mũi và môi chàng. Những giọt mằn mặn nóng hổi này là nước mắt của nữ thiếu tá thép Kiki. Nàng lại mở ví da, tháo cái đáy giả rồi rút ra một hộp phấn hồng dèn dẹt bằng vàng khối. Bên trong có cái gương soi và 3 cục phấn. Nàng đặt hộp phấn vào lòng bàn tay của Văn Bình:

- Tặng anh khẩu súng.

Văn Bình giựt mình, giựt mình thật sự, không phải giựt mình giả vờ như hàng trăm lần trong quá khứ -bàn tay bất thần nắm chặt, suýt bóp bẹp cái hộp phấn bằng vàng khối:

- Súng? Hộp này giấu súng thuốc độc xi a nuya …

- Thưa anh, không. Đây không phải súng xi a nuya. Mà là súng bắn thuốc mê. Một thứ thuốc mê đặc biệt. Khẩu súng nhỏ bằng nửa hột bắp, nó được nhét trong cán rỗng của cái bàn chải tí hon dùng chải phết lông mi. Khẩu súng chứa một viên đạn duy nhất. Cả khẩu súng lẫn viên đạn này được các kỹ sư Liên sô chế tạo riêng cho em để …

- Để bắn anh?

- Vâng.

- Tại sao em không bắn?

- Em xin hỏi ngược lại anh. Tại sao anh không giải giao em cho sở Phản gián Bắc Đại tây dương?

- Anh khác.

- Khác ở chỗ nào?

Văn Bình cứng họng, không thể biện minh được hành động của chàng. Kiki thở dài:

- Tình yêu, tình yêu, anh ơi. Cương quyết khinh thường tất cả như đại tá Z.28 mà yêu kẻ thù, kể cũng lạ.

- Nữ thiếu tá thép Kiki mà yêu kẻ thù kể cũng lạ.

- Chính vì điều đó nên lương tâm em cắn rứt từ Cađakết tới đây. Thoạt đầu, em định bắn anh. Bổn phận khi ấy mạnh hơn tình yêu. Sau đó em nẩy sinh tư tưởng tự sử. Tình yêu mạnh hơn, nhưng bổn phận vẫn còn đậm nét. Lúc anh đậu xe là lúc em quyết định dứt khoát. Anh phải sống. Chúng mình phải sống. Sống cho tình yêu. Dầu là tình yêu trái khoáy. Tình yêu vô vọng của kẻ chân trời, người góc biển. Anh Văn Bình của em ơi, em tặng khẩu súng thuốc mê cho anh là tặng luôn những bí mật ghê gớm của KGB, những bí mật em không bao giờ được phép tiết lộ với ai. Mục đích sự có mặt của em tại Tây ban nha là giúp Navarô thắng lợi trong vụ 200 tấn vàng, đồng thời -và đó là điều chủ yếu - bắt giữ anh, mang xuống tàu ngầm, chở về Liên sô, nộp anh cho phòng Thử nghiệm Nhiễm thể.

- Anh chưa hề nghe nói tới cơ sở khoa học này.

- Nó là một bộ phận bí mật trưc thuộc ban chấp hành Trung ương đảng Cộng sản sô viết và Hàn lâm viện Khoa học. Điện Cẩm linh đích thân điều khiển nó với sự phối hợp chặt chẽ của ông tổng giám đốc mật vụ KGB. Từ mấy năm nay, nó giành hầu hết nỗ lực vào công cuộc nghiên cứu những hiện tương độc đáo về di truyền học. Theo kế hoạch, anh sẽ bị nhốt trong la bô của phòng Thử nghiệm Nhiễm thể và các nhà bác học sẽ coi anh như con chuột bạch, nghĩa là nếu cần sẽ mổ xẻ thân thể anh ra tìm hiểu.

- Trời ơi, tìm hiểu cái gì ở anh?

- Theo các nhà bác hoc sô viết, anh thuộc cái thiểu số đàn ông đa tình được tạo hóa phú cho những khả năng kỳ lạ để chinh phục nữ giới. Trong số một triệu người đàn ông gồm có đủ lứa tuổi thì có 33.000 người có khả năng kỳ lạ này.

Nhưng trong số 33.000 người như vầy chỉ có tối đa một người giống anh. Thế giới gồm hơn hai ngàn triệu người, vị chi khoảng một ngàn triệu nam nhân. Trừ con nít, ông già, xêm xêm còn lại chừng 4, 5 trăm người đàn ông giống anh. Đại khái cho đến nay, người ta mới biết thiểu số 4, 5 trăm người đàn ông kỳ lạ này được sinh ra với một nam nhiễm thể phụ, nghĩa là 47 thay vì 46 nhiễm thể...

- XYY thay vì XY?

- Dạ. Trường hợp của anh là trường hợp có một không hai. Đành rằng đàn ông XYY có khả năng xuất sắc trong tình trường, họ thường to gan lớn mật, coi cái chết như trò đùa. Song họ hơi điên, họ ưa giết người, ưa cưỡng dâm, ưa làm chuyện tồi bại hoặc phi pháp. Ngược lại, anh là mẫu mực của sự đàng hoàng. Mẫu mực đáng kính, đáng yêu của sự hào hoa quân tử tuy anh là XYY.

Kiki ngưng nói. Từ ống son môi lại phát ra những tiếng o o. Kiki ôm ghì Văn Bình:

- Em đi, em đi. Chào anh. Vĩnh biệt anh. Nhân viên của em đang giục.

Văn Bình ngơ ngẩn nuối theo Kiki biến nhòa trong màn sương trắng. Chàng cứ đứng như trời trồng giữa đường. Sương muối thấm ướt áo quần chàng. Mặt chàng đầy nước.

Nếu đoàn xe của Phản gián không rầm rộ chạy tới, đèn pha sáng rực, có lẽ Văn Bình vẫn tiếp tục đứng như trời trồng giữa đường. Ông tổng giám đốc Morenô, mặt tái nhợt, dáng điệu hoảng hốt:

- Anh, anh Z.28, Kiki biến đâu rồi?

Văn Bình vẫn nín lặng. Morenô dậm chân, bứt tóc kêu trời:

- Khổ tôi, khổ tôi... tôi biết mà... tôi bảo anh không thèm nghe... Con hồ ly tinh đã mê hoặc được anh... Phen này tôi ăn nói làm sao với ông Hoàng, ông Sì mít, với các đồng nghiệp Bắc Đại tây dương...

Tình cờ ngón tay của Văn Bình chạm nút mở ra dô. Giọng đàn thánh thót cất lên. Bản nhạc Love is Blue. Tình xanh. Màu xanh tuyệt diệu trong mắt, trên áo quần của Nàng.

Chàng lẩm bẩm:

- Màu xanh … Màu xanh …

Trơì bắt đầu sáng. Mặt biển bắt đầu xanh. Mây bắt đầu xanh. Cây cối ven đường bắt đầu xanh. Lòng Z.28 cũng xanh như vạn vật của buổi bình minh xanh kỳ diệu trên bờ biển xanh Tây ban nha.

NGƯỜI THỨ TÁM



[1] những điều này đã được các y sĩ nhãn khoa công nhận. Đại đa số con người đều có nhỡn lực đầy đủ từ 8 tuổi trở đi. Con nít mới đẻ chỉ nhìn được ánh sáng và bóng dâm, chưa thấy được mọi vật.

[2] năm 15 tuổi, Diane de Poitiers lên xe hoa. Lớn tuổi, nàng trở thành tình nhân của vua Henri đệ nhị, kém nàng 20 tuổi. Nàng từng là tình nhân của vua François đệ nhất, cha của Henri đệ nhị. Bí quyết giữ nhan sắc của nàng là dậy sớm mỗi ngày, cưỡi ngựa từ 2 đến 3 tiếng đồng hồ. Bức tranh Diane de Poitiers do danh họa François Clouet (1510 - 1572) vẽ.

[3] piropos. Theo tâm lý học gia Albert Mehrabian thì piropos không lợi. Công thức thành công có thể được viết như sau: 7% nội dung của lời nói, 38% âm điệu của giọng nói, và 55% do những động tác thầm lặng của mắt và miệng.

[4] những nhận xét này đã được giới khoa học tình hiệu (kinesics) công nhận. Tác giả đã giải thích về kinesics trong các bộ truyện vừa xuất bản.

[5] theo bác sĩ kinesics hữu danh Ray L. Birdwhistell, có 23 cách nhướng mày khác nhau để biểu lộ ý muốn của nội tâm.

[6] khi xin lỗi thì mở đầu bằng "haga".

[7] cái anh Z.28 dại gái hết chỗ nói.

[8] tức matador. Con bò rừng là toro. Trận đấu, côriđa (corida). Tất cả những người tham dự cuộc đấu bò đều là toreto, riêng tráng sĩ giữ phần hạ thủ con toro được gọi là matador. Tráng sĩ matador được một số người phụ tá, gọi là cuadrilla.

[9] apoderado là ông bầu của các torero.

[10] El Cordobès (tức Manolo Montero) và Luis Michel Dominguin, 2 matador siêu đẳng Tây ban nha.

[11] đơn vị tiền tệ Tây là đồng peseta chia ra 100 centimos. Hối suất chính thức (năm 1971) là 70 peseta ăn một đô Mỹ.

[12] thời cực thịnh, El Cordobès lãnh mỗi corida khoảng 5 triệu pêseta.

[13] Madrid có 2 đấu trường chính, Plaza Monumental (30.000 khán giả) ở đầu đường Callo Alcala. Đấu trường nhỏ hơn là Plaza Vista Allegre ở Carabanchel Bajo. Luôn luôn có corida ngày chủ nhật và thứ năm. Mùa corida từ tháng 4 đến tháng 10 dương lịch.

[14] vé sol, chỗ ngồi nắng, rẻ nhất, rồi đến sol y sombra, đầu bị nắng sau thì mát, hơi đắt ; đắt hơn là sombra, mát, vé khán đài lớn đắt hơn nhiều.

[15] Lễ Phục sinh luôn luôn nhằm chủ nhật, nhưng vì căn cứ theo tuần trăng nên không có ngày nhất định, thường thường được cử hành trong khoảng thời gian từ 22/03 đến 25/04 dương lịch.

[16] gọi là lễ hành hương Đức Mẹ El Rocio, trong nhà thờ của làng Almonte, tỉnh Huelva, nam bộ Tây ban nha.

[17] tức Manuel Laureano Rodriguez Sanchez, người xứ Cordone. Năm 1947, Manolete muốn giải nghệ nhưng sợ bị công chúng chê hèn, phần lại bị ngôi sao Dominguin thách đố nên cố đấu.

[18] novillero là người tập sự đấu bò. Charlotada là ban xiệc nhỏ lưu động, nhái những trận đấu bò mà bò được thay bằng con bê hiền lành và matađo là mấy chú hề sạc lô Mozo de estoques là phụ tá của matađo chuyên cầm gươm để trao cho matađo khi cần giết bò rừng.

[19] tantadero là cuộc đấu thử tại trại nuôi bò rừng còn non tuổi để xem con nào dữ, con nào hiền.

[20] espontaneos, người không phải là tráng sĩ đấu bò chính cống, tự động nhảy vào đấu trường để được công chúng chú ý. Espontaneos thường bị bắt giam và phạt vạ. Đôi khi các matađo nổi danh nhường cho espontaneos biểu diễn màn cuối, màn giết bò, để họ có dịp lập thành tích.

[21] torerillo errante là tráng sĩ lang thang, chuyên bất thần dự đấu chứ không báo trước.

[22] đường Cuchilleros.

[23] Ernest Hemingway.

[24] Plaza Mayor. Ba tiệm ăn kể ở đây, ngoài El Bôtin đã tả đầy đủ, còn có El Pulpito (tiệm nghêu sò) và Las Cuevas de Luis Candelas (tiệm... kẻ cướp. Tác giả xin lỗi bạn đọc đã sống ở Madrid, vì trên thực tế các tiệm này mở cửa muộn (từ 7 giờ chiều) và các tráng sĩ đấu bò không diễu qua đó.

[25] viết tắt của Scrambler Instantaneous Telephone System (Hệ thống điện thoại nói chuyện tức thời gian và không bị người ngoài nghe trộm).

[26] thiếu tướng Alexander Orlov là nhân vật điệp báo cao cấp nhất của Nga đã "chọn tự do", hiện ông sống ở Hoa Kỳ. Năm 1953, ông xuất bản cuốn "Lịch sử bí mật những tội ác của Síttalin".

[27] Nicolai Yezhov.

[28] NKVD là tiền thân của KGB hiện tại.

[29] Largo Caballero, thủ tướng của phe thân cộng, cũng như hai ông Arana và Negrin ở đoạn dưới.

[30] Ivan Vasilyevich là mật danh của Síttalin trên các bức điện ra lệnh cho phép điệp viên hoạt động ở hải ngoại.

[31] những chi tiết về danh sách và về số lượng vàng đều hoàn toàn có thật. Sự tiểu thuyết hóa chỉ bắt đầu từ đoạn dưới, và được xen lẫn với thực tại lịch sử.

[32] đảo Gibraltar, một phần đất của Tây, lại là thuộc địa Anh từ năm 1704. Nó dài 4km5, rộng 1km, dân số 30.000 người, được dính vào lãnh thổ Tây bằng một giẻo đất cát bằng phẳng dài 15km, rộng 1km.

[33] thánh Isidro, San Isidro, thánh bổn mạng của thành phố Madrid, ngày 15-05 hàng năm.

[34] tại Lido, dạ khách phải uống sâm banh.

[35] thoạt đầu là doblando, sau đó đến cảnh của các picador đâm bướu bò, rồi cảnh quites, tráng sĩ dụ con bà ra khỏi đám picador. Hồi nhì là banderillas. Hồi ba, faena (giết chết). Khi giết là La Hora de la Verdad (giờ sự thật).

[36] tráng sĩ El Cordobes có lần được thưởng cả con. Riêng năm 1960, tham dự 33 trận, ông hạ 32 con, và được thưởng 64 tai, 31 đuôi và 13 chân.

[37] tức Casa de Vacas, một nơi nhốt bò, bên trong một công viên rộng 1.747 mẫu gọi là Casa de Campo, bên kia bờ sông Manzanarès (gần công trường Thị sảnh). Trước hôm đó, các matađo họp nhau tại đó để lựa bò.

[38] veronica, véronique: kiểu vờn của Manê là demi-véronique.

[39] thương sĩ là picador. Tác giả đã giải thích về picador ở một đoạn trên. Về danh từ banderilla mà đọc sắp gặp, tác giả xin dịch là chùy sĩ.

[40] petô là một loại giáp trụ.

[41] bãi Plaza ở Mexico City, thủ đô Mễ, chứa được 48.000 khán giả, còn bãi đấu Plaza Momumental (Madrid) nơi Z.28 có mặt, chỉ chứa được 23.663 khán giả.

[42] tổng số matađo hành nghề tại Tây ban nha là 190 người. Từ năm 1700 đến nay, 42 tráng sĩ hữu danh đã bị thiệt mạng.

[43] tỉ lệ chính thức.

[44] Juan Belmento (1862 - 1932). Rafael Molina, tức Lagartijo (1841 - 1900).

[45] bộ trưởng Bồ Pombal (thế kỷ 18) ban luật cấm sự giết bò viện lẽ mạng người rất quý, không thể lấy việc đổ máu người làm vui, do đó cuộc đấu bò ở Bồ mang nặng ý nghĩa hòa bình.

[46] Carlos Arruza đấu ở Malaga từng được thưởng toàn con bò. Tráng sĩ lãnh nhiều tiền nhất lại không phải Arruza mà là El Cordobes: ngày 15-5-1988 lãnh 25.000 mỹ kim một trận ở Madrid.

[47] đúng. Xin bạn đọc đừng mặc sọt (nhất là quý bà, quý cô) như ở Sàigòn. Thế mới biết xứ mình còn tự do hơn họ về khoản ăn mặc và phô trương đùi vế.

[48] thể thức nộp phạt tại chỗ này hiện được áp dụng tại Tây. Đi bộ ẩu, không tuân lệnh đèn giao thông là 5 peseta. Hoảng chưa!

[49] tức chiếc Sierra Crazy (crazy là điên tàng), chế tạo tại Tây, cốt máy của chiếc MG-1300, mui trần.

[50] gracias: cám ơn.

[51] chính phủ Tây rất khôn ngoan về điểm này. Du khách được giúp đỡ tối đa, mọi thủ đoạn cắt cổ khách đều bị ngăn chặn và nghiêm trị. Kết quả là Tây trở thành thiên đường du lịch, và số du khách hàng năm tăng lên gần bằng tổng số dân chúng trong xứ.

[52] sardana.

[53] El Rastro, đường Robino de Curtidores.

[54] từ năm 1740, chợ trời Rastro mới được thành lập. Hiện nay, khu chợ này có thể bị san bằng trong khuôn khổ của kế hoạch chỉnh trang đô thị.

[55] companero nghĩa là "đồng chí".

[56] Nicolai Kuznetsov, sau lên tướng, và là bộ trưởng hải quân Liên sô trong thế chiến thứ hai.

[57] mật vụ sô viết NKVD, sau đổi thành MVD, rồi KGB, tác giả xin gọi chung là KGB cho tiện.

[58] tức Broken Arrows. Hoa Kỳ từng báo động Broken Arrow 11 lần cho đến 1966, lần rớt bom ở nam bộ Tây là lần Broken Arrow đầu tiên ở hải ngoại.

[59] tức William S. Guest, tư lệnh hải quân Mỹ, nam bộ châu Âu hồi ấy.

[60] tàu Alvin là vật sở hữu của viện Hải học Mỹ (Oceanographic Institute) ở Woods Hole, tiểu bang Massachusetts. Gọi Alvin để nhắc nhở tiến sĩ Allyn Vine, người đã nghĩ ra nó.

[61] tàu Aluminaut của công ty Reynolds Tnternational, Mỹ.

[62] borzhom, một thứ nước suối nổi tiếng ở Nga.

[63] insalus, một thứ nước suối Tây ban nha, có đặc tính sủi bọt như Perrier của Pháp.

[64] quán cà phê Léon trên đường Alcalà, tổ ấm của ký giả và y sĩ. Còn họa sĩ và diễn viên thì tụ họp ở tiệm Gijon (đọc là Riron) ở Paseo de Castellana.

[65] Tolède, Toledo, một thị trấn ở gần Mađờrít.

[66] bộ ống điếu 7 cái này mang tên là Crown Achievement, bán cả bộ trên 10 ngàn mỹ kim của hãng Charatan ở Luân đôn. Ống điếu Charatan được làm bằng rễ của một thứ gỗ tên là Erica arborea rất hiếm, mọc dọc bờ biển Địa trung hải ở Hy lạp. Mỗi năm hãng này chỉ làm được 3, 4 bộ. Làm đến đâu bán hết đến đó.

[67] chủ nhân của viện bảo tàng này là ông Grassay, người Pháp, chuyên viên kỹ thuật đồng hồ.

[68] chủ nhân là Perico Chicote. Khách chỉ được ngắm không được nếm. Nếu khách quá thèm thì chủ nhân biếu một ly xérès.

[69] đường Embajadores.

[70] ki ốt bán báo ở vỉa hè.

[71] bản fờlamencô - Flamenco.

[72] Khẩu HR.922 -tức súng Harrington anh Richardson 922, Bantamweight do Hoa Kỳ chế tạo, giá bán khoảng 30 đô la.

[73] Buenas noches - tiếng chào buổi tối, như tiếng bonsoir của Pháp.

[74] nữ thần Xiben - Cibeles (tiếng Tây ban nha), Cybèle (tiếng Pháp).

[75] họa sư Francisco de Goya (1748 - 1828) có hai bức tranh đặc biệt tại Prađô vẽ bà quận công Alba, một mặc đồ, một trần truồng. Thoạt tiên Goya vẽ khỏa thân, ông quận công nghe tin nổi giận đòi xem tranh, Goya phải cấp tốc vẽ thêm bức có quần áo và do đó thoát chết (rất giống Z.28 của chúng ta).

[76] viện bảo tàng Prađô có những bức họa lõa thể phi thường của Rubens (1577 - 1640) và Titien (1490 - 1576). Cuối thế kỷ 18 nhiều người thấy chướng mắt bèn đặt kế hoạch tiêu hủy, may mà một số người mộ điệu lén giấu đi chỗ khác trong 30 năm.

[77] El Retiro, tác giả tạm dịch là Dật viên (vườn của Người sống ẩn dật).

[78] cuatro là số 4, uno (hoặc una) là số 1, cero là số không, cinco là số 5. Điện thoại ở Madrid gồm 6 số (Sàigòn gồm 5 số).

[79] Pexebê - percebe.

[80] fiambờrét - fiambres, thịt lạnh.

[81] Pofavo - por favor, xin lỗi, không dám, tương tự tiếng s'il vous plaît của Pháp.

[82] Hóckê- tiệm Jockey (đọc là Hóckê), số 6 đường Amador de Rios, chuyên món ăn Pháp, ngon nhất món cá thu nướng, được coi là nhà hàng sang nhất Tây ban nha.

[83] Gátxê - José Ortega y Gasset (1883 - 1955).

[84] tức kinesics hoặc body language.

[85] công trường Tây ban nha - Plaza de Espana. Đường Công chúa: Calle de la Princesa.

[86] Ma Oét - Mae West, nữ tài tử Mỹ, hiện còn sống, khoảng 80 tuổi. Thân hình Mae West nẩy nở đến nỗi người ta dùng tên bà để đặt cho cái áo phao.

[87] Salvador Dali, sinh năm 1908, hiện còn sống. Họa sư lừng lẫy khác người Tây ban nha là Pablo Picasso (1881 - 1973).

[88] rocơfo - tức roquefort, một loại phó mát Pháp, chế bằng sữa con cừu cái trộn với một thứ meo mốc đặc biệt. Phó mát roquefort ngon có tiếng.

[89] đây là sự thật. Bức họa đầu tay của Đali, một mỹ nhân lịch sử, được vẽ trong bồn nước ngập đến bụng, và họa sĩ... trần truồng.

[90] Salvador Dali thèm tiền đến nỗi đại thi sĩ Aragon gọi là Avida Dollars (thèm đô la). Chữ Salvador Dali, xào xáo lại thành Avida Dollars.

[91] INC là Instituto National de Colonizacion (viện Quốc gia Khẩn hoang). Kế hoạch Badajor của viện này đã khẩn hoang miền tây nam Tây ban nha với kết quả khích lệ.

[92] Gala - Gala là vợ cũ của đại thi sĩ Paul Eluard.

[93] Con Chó và Tuổi Vàng - hai bộ phim ảnh này hiện được coi là những sản phẩm giá trị của nghệ thuật thứ 7 tiền thế chiến.

[94] hạt trai Malótca - Mallorca, Majorque.

[95] công ty Melia . - Viajes Melia, một công ty chuyển vận tư nhân ở Madrid.

[96] ficha - ficha, tiếng Tây ban nha là cái giơ tông bỏ vào điện thoại công cộng.

[97] Bátxơlon - Barcelone, Barcelona, hai triệu dân.

[98] limpiabota - limpiabota là những kẻ đánh giày rong.

[99] Bờlên - Blanes.

[100] Lữ quán Hoa viên -Park Hotel.

[101] Lorê - Lloret de Mar.

[102] Tốtsa -Tossa.

[103] San Fêliu - San Feliu de Guixols.

[104] Palamốt - Palamos.

[105] Fốtca, và Calena - La Fosca, Calella.

[106] Sêbátchiên - San Sebastian.

[107] Lafơran - Llafransh.

[108] panađét - panadès.

[109] Cápsasan - Cap Sa San.

[110] Bagua - Bagur.

[111] Pyrênê - Pyrénées Rosas.

[112] Cađakết -Cadauquès.

[113] Senva - Puerto de la Selva.

[114] Malótca - Hispano Aleman Mallorcar, 1.438 phân khối

[115] Hang Đờrắc - hang Drach ở Porto Cristo trên đảo Baléares (Balearic Islands), ngoài khơi Tây ban nha, được coi là rộng nhất thế giới.

[116] hãng AIC - tức công ty Arms Ingenuity Corporation, tiểu bang Connecticut, Hoa Kỳ.

[117] Nose pre ocupe - No se preocpe, tiếng Tây ban nha, có nghĩa là khỏi phiền đến anh.

[118] thác Khôn - thác Khône.

[119] Lansa - Puerta de Lansa.

[120] theo chuyên viên màu sắc Mỹ Edwin L. Myers thì đàn bà yêu màu xanh là típ đàn bà tuyệt vời. Màu đỏ thua màu xanh. Đàn bà ưa áo quần đỏ thường dễ dãi, sống động nhưng thiều bề sâu. Đàn bà ưa màu nâu, không có nhiều tham vọng về chọn lựa yêu đương.

Về Đầu Trang Go down
https://nhanbkvn-2022.forumvi.com
Sponsored content





Tây Ban Nha 200 Tấn Vàng Đẫm Máu - Người Thứ Tám Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tây Ban Nha 200 Tấn Vàng Đẫm Máu - Người Thứ Tám   Tây Ban Nha 200 Tấn Vàng Đẫm Máu - Người Thứ Tám Icon_minitime

Về Đầu Trang Go down
 
Tây Ban Nha 200 Tấn Vàng Đẫm Máu - Người Thứ Tám
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
Nhanbkvn 2024 :: THƯ VIỆN SÁCH TRUYỆN :: Truyện Z 28-
Chuyển đến